You are on page 1of 22

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐH VĂN HÓA TPHCM


KHOA VĂN HÓA HỌC


Đề tài: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 VÀ MỘT SỐ KINH


NGHIỆM ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Họ và tên:Đàm Thị Thu Hà


Lớp:20DVH
Mssv:20VH027
GVHD: Th.s Hoàng Hải Đông

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4, năm 2022


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................
NỘI DUNG................................................................................................................

CHƯƠNG I.CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945-SỰ KIỆN VĨ ĐẠI


TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC...............................................................................

1.Bối cảnh lịch sử...............................................................................................

2.Tiến trình chuẩn bị cách mạng.

2.1.Chuẩn bị về chủ trương,đường lối.

2.2.Chuẩn bị về lực lượng chính trị,vũ trang.

3.Diễn biến

4.Nguyên nhân thắng lợi

5.Bài học kinh nghiệm..........................................................................................

CHƯƠNG II.Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM..............

1.Ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng Việt Nam..................................................

2.Ý nghĩa thời đại đối với cách mạng Việt Nam................................................

KẾT LUẬN.............................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................


MỞ ĐẦU
Lịch sử Đảng ta như Bác Hồ khẳng định là một pho lịch sử bằng vàng .
Việc nghiên cứu và học tập lịch sử Đảng có hệ thống và sâu sắc cũng góp
phần làm sáng tỏ kho tàng quý báu đó,đồng thời có giá trị về lí luận và chính
trị- thực tiễn cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi người dân trong giai đoạn
cánh mạng hiện nay. Lịch sử chính là sự gắn kết giữa quá khứ với hiện
tại.Muốn hiểu về một dân tộc thì ta phải tìm hiểu về lịch sử , đi về cội nguồn
của dân tộc đó.

Lịch sử Việt Nam la lịch sử của hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước. Từ
thời Lạc Long Quân-Âu Cơ khai sinh lập địa , vua Hùng có công dựng nước
và giữ nước đến thời bà Trưng, bà Triệu cưỡi voi giết giặc. Những trang sử
hào hùng cứ nối tiếp nhau :

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.

(Bình ngô đại cáo - Nguyễn Trãi )

Dân tộc ta đã viết những trang sử hào hùng,chói lọi của Bạch Đằng ,Chi
Lăng, Xương Giang....gắn liền với tên tuổi những anh hùng dân tộc như Ngô
Quyền , Quang Trung Nguyễn Huệ… Những trang sử đó đã soi đường,dẫn lối
cho dân tộc ta trong quá khứ,hiện tại và tương lai.

Nói đến những trang sử vàng của dân Việt Nam hôm nay thì thắng lợi của
cuộc Cách mạng tháng Tám-1945 quả là một chiến thắng lịch sử.Nó đã đánh
dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch dân tộc ta, mở ra một thời đại mới và
cũng là một thách thức mới với chính quyền non trẻ nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà trước ba kẻ thù "Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". Mở ra một
thời đại đấu tranh cho hoà bình , giải phóng dân tộc,đấu tranh vì " Tự do,bình
đẳng,bác ái ". Một thời đại mà tên đất nước gắn liền với tên vị lãnh tụ tài ba
kiệt suất thời đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh . Có thể nói rằng lịch sử thăng hoa

1
của đất nước ta gắn liền với lịch sử thăng trầm của Đảng. Từ khi thành lập
Đảng đến nay, Đảng luôn lấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lê – nin soi
đường, phát triển và vận dụng sáng suốt vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam,
đem lại nhiều thắng lợi to lớn trong đó có thắng lợi của cuộc cách mạng tháng
Tám năm 1945 . Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra cho dân tộc
Việt Nam một trang sử mới- trang sử của những người xóa bỏ xiềng xích nô
lệ trở thành người làm chủ đất nước. Cũng từ đây nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Cái tên Việt Nam xuất hiện trên bản đồ thế giới và được thế
giới công nhận như một quốc gia độc lập. Đó cũng là bước đệm quan trọng
để sau này chúng ta thực hiện cuộc chiến tranh chính nghĩa, bảo vệ độc lập
dân tộc khi có giặc ngoại xâm. Qua thắng lợi vang dội ấy ta mới thấy được
rằng: dấu ấn của Đảng trong vai trò lãnh đạo, khắc sâu trong lịch sử dân tộc
Việt Nam . Chiến thắng năm ấy đã đi vào lịch sử dân tộc hơn 70 năm nhưng
những bài học quý báu trong đường lối lãnh đạo của Đảng vẫn còn mang giá
trị đến ngày hôm nay, vẫn luôn được Đảng vận dụng và phát huy trên mọi
lĩnh vực góp phần xây dựng Việt Nam ngày một giàu mạnh, tươi đẹp hơn.

2
CHƯƠNG I.CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 - SỰ KIỆN VĨ ĐẠI
TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC.
1. Bối cảnh lịch sử.
Trên thế giới: Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến
tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 08/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như
vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều
kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước
Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào
Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp dựa
vào Đồng minh lăm le khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng
sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương. Những phần tử
phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay đổi
chủ, chống lại cách mạng.
Ở Việt Nam: Mâu thuẫn Nhật - Pháp gay gắt đến cực độ “hai con chó đế
quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương”(1). Trước
tình hình sớm muộn quân Đồng minh sẽ tiến vào Đông Dương, phát xít Nhật
càng xúc tiến âm mưu diệt Pháp để trừ mối lo về sau. Đêm 09/3/1945 phát xít
Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm Đông Dương, đúng như nhận
định của Đảng ta.
Tình hình cách mạng nước ta lúc này đang tiến dần tới cao trào tổng khởi
nghĩa. Từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, tịa làng Liễu Ngạn, tổng Hoàng Vân
(Hiệp Hòa), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị quân sự cách
mạng Bắc Kỳ do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng chủ trì,
nhằm giải quyết cụ thể những vấn đề quân sự, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền. Hội nghị đã đặt ra nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các
nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này.
Sau khi lật đổ Pháp, phát xít Nhật bắt tay ngay vào việc dựng lên một bộ
máy chính quyền bù nhìn mới. Chúng đưa Vũ Văn Roãn, nguyên là đốc học
làm Tỉnh trưởng; Nguyễn Văn Thành làm Phó Tỉnh trưởng, Thân Trọng Hậu
là Tuần phủ bỏ trốn hôm Nhật đảo chính Pháp được mời về làm cố vấn cho
3
Vũ Văn Roãn. Ở các công sở, chúng thay đổi tên gọi và đưa những tên tay sai
đắc lực nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Bộ máy bù nhìn cấp tỉnh của Nhật ra
mắt trong buổi lễ trao trả độc lập tổ chức ở làng Thành (Lạng Giang, nay
thuộc Thị xã Bắc Giang) có mặt đầy đủ bọn quan lại bù nhìn tỉnh, huyện và
một số chánh tổng, lý trưởng của các địa phương. Ở thị các Phủ Lạng Thương
và một số nơi, các khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, “Khối đại Đông Á”, “Hợp
tác Nhật - Việt” được kẻ vẽ la liệt. Một số lớp học tiếng Nhật được mở. Các
cửa hiệu, công sở được đặt tên bằng tiếng Việt... Tất cả những việc làm trên
đây của Phát xít Nhật và bọn tay sai hòng quét lên một lớp sơn độc lập giả
hiệu để đánh lừa dân ta.
Lợi dụng tình hình Nhật đảo chính Pháp, bọn Quốc dân đảng cũng nổi lên
ở Hoàng Mai, Mật Minh, Đạo Ngạn (Việt Yên), Húi (Lục Ngạn, nay thuộc
Lục Nam), thị xã Phủ Lạng Thương... tranh giành ảnh hưởng, cản trở hoạt
động của ta.Nội dung nghị quyết Hội nghị được trình bày trong chỉ thị lịch sử
ngày 12/3/1945: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị
đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng bộ và nhân dân Bắc
Giang trong suốt cao trào chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
2. Tiến trình chuẩn bị cách mạng.
2.1. Chuẩn bị về chủ trương,đường lối.

4
Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng đã nêu chủ trương kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
và quan điểm này đã thể hiện được sức mạnh của nó ngay ở cao trào cách
mạng 1930- 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh.
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, căn cứ vào sự thay đổi
tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược. Sự chuyển hướng được thể hiện đầy đủ qua Hội nghị Trung Ương
6 (11/1939), Hội nghị Trung Ương 7 (11/1940), Hội nghị Trung Ương 8
(5/1941) với nội dung cốt lõi đó là:Đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên nhiệm
vụ hàng đầu và cấp bách của nhân dân Đông Dương, tạm gác khẩu hiệu ruộng
đất dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản
động, chia lại đất công, giảm tô, đặt vấn đề khởi nghĩa vũ trang, xúc tiến
chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có điều kiện là
nhiệm vụ trọng tâm; tập hợp mọi lực lượng tiêu biểu để thành lập mặt trận
chung lấy tên là: “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương”
( 11/1939) sau là Việt Nam độc lập Đồng Minh (5/1941); phát động quần
chúng nổi dậy đấu tranh dưới những hình thức phù hợp với tình hình mới;
Cách mạng Việt Nam phải đoàn kết và quan hệ mật thiết với Cách mạng thế
giới. Chủ trương chỉ đạo chiến lược Cách mạng của Đảng qua các Hội nghị 6,
7, 8 là kim chỉ nam cho mọi hoạt động và có ý nghĩa quyết định cho sự thành
công của Cách mạng tháng Tám.
2.2. Chuẩn bị về lực lượng chính trị,vũ trang.
Về lực lượng chính trị quần chúng đóng một vai trò rất quan trọng cho sự
thành công của cách mạng tháng Tám. Để xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng ngày càng đông đảo, mạnh mẽ thì cần phải có một đội ngũ cán bộ trung
kiên, có lý luận nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo để liên kết
các phong trào đấu tranh. Đây là những hạt giống đầu tiên tạo nên một hệ
thống tổ chức cơ sở Đảng ở khắp các địa phương trên cả nước. Chính vì thế,

5
trong mọi giai đoạn, Đảng ta luôn chú trọng đến công tác cán bộ để xây dựng
lực lượng chính trị quần chúng vững mạnh.
Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chú
trọng xây dựng lực lượng chính trị. Rất nhiều những thanh niên ưu tú được
đưa đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế cộng sản. Nhiều người sau
này nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng như đồng chí Trần Phú,
Trường Chinh... Họ có nhiệm vụ rất quan trọng là truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào trong nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân.
Trong thời kỳ 1930-1931, Đảng tập trung xây dựng khối liên minh công-
nông. Lực lượng này ngày càng đông đảo và có đóng góp to lớn vào phong
trào cách mạng làm xuất hiện các Xô viết ở Nghệ Tĩnh. Do còn có những hạn
chế nhất định cho nên trong thời kỳ này ta chưa liên kết được khối liên minh
công- nông với các tầng lớp khác trong xã hội như: tiểu thương, địa chủ, tiểu
tư sản…Tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng Xôviết Nghệ- Tĩnh đã
thể hiện sức mạnh của khối liên minh công - nông, giúp cho nhân dân hiểu
được mô hình nhà nước tiên tiến trong tương lai, động viên họ tích cực tham
gia vào cuộc đấu tranh giành chính quyền.
Ở giai đoạn 1932-1935, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Trong
hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng Đảng ta vẫn kiên trì giữ vững đường lối
cách mạng. Trong nhà tù, các chiến sĩ cộng sản vẫn tiếp tục đấu tranh, khơi
dậy lòng tự hào dân tộc. Nhà tù trở thành trường học, nơi để rèn luyện thử
thách cán bộ đảng. Bên ngoài nhà tù, các đảng viên vẫn tích cực tuyên truyền
vận động nhân dân ủng hộ cách mạng nhằm phát triển, khôi phục lực lượng
và phong trào cách mạng.
Đến những năm 1936 - 1939, cuộc vận động dân chủ diễn ra mạnh mẽ.
Đảng ra hoạt động công khai nên đã tập hợp được rộng rãi mọi tầng lớp nhân
dân, giai cấp ở mọi miền Tổ quốc. Phong trào cách mạng diễn ra rộng khắp,
dưới nhiều hình thức như: bãi công, biểu tình, bãi thị, bãi khoá… Tiêu biểu
như cuộc bãi công của công nhân công ty than Hòn Gai, xe lửa Trường Thi

6
(7- 1937)... và đặc biệt là cuộc mít tinh của hơn 2 vạn người tại nhà Đấu Xảo
- Hà Nội.

(Ảnh minh họa: Phong trào dân chủ 1936-1939)


- Năm 1941, để có lực lượng chính trị quần chúng hùng mạnh đủ sức chiến
thắng kẻ thù, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh bao gồm các tổ
chức quần chúng có tên chung là “Hội cứu quốc”. Việt Minh đã công bố
tuyên ngôn, chương trình và điều lệ chính thức gồm 44 điều sau được đúc kết
thành 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh vừa ích nước vừa lợi dân. Việt
Minh đã nhanh chóng trở thành nơi tập trung khối đại đoàn kết toàn dân đứng
lên cứu nước, cứu nhà.
- Về lực lượng vũ trang, để giành được chính quyền cách mạng, Đảng luôn có
chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang và coi đây là lực lượng nòng cốt, trực
tiếp tham gia chiến đấu, có vị trí vô cùng quan trọng và quyết định trong sự
thành công của cách mạng tháng Tám.
- Đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang phát triển còn rất tự do, nhỏ lẻ,
chưa có tổ chức. Từ năm 1940, đội du kích Bắc Sơn ra đời là hình mẫu cho sự
ra đời của các đội du kích, lực lượng vũ trang sau này như: đội du kích Ba Tơ,
du kích Ngọc Trạo, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí

7
Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Hình thức hoạt động của Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân là vũ trang tuyên truyền, nghĩa là kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, coi trọng công tác tuyên truyền là chính để
hướng tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Bên cạnh đó, Đảng ta đã
biên soạn nhiều tài liệu quân sự như: cách đánh du kích; cách huấn luyện cán
bộ quân sự, mười điều kỷ luật.Kết quả là đến đầu năm 1945 ta đã có đựợc một
đội quân chính quy bên cạnh các cơ sở, lực lượng dân quân ở các địa phương.
Quần chúng nhân dân ra sức ủng hộ lực lượng vũ trang cách mạng, họ không
chỉ trực tiếp tham gia kháng chiến mà còn nuôi giấu bộ đội, góp phần vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến.
3.Diễn biến.

Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng
về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và
chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được
thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ
địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại

8
Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã
tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba
nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất,
kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu
triệu toàn dân tổng khởi nghĩa.
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính
sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc
kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ
Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày
14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở
các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-
8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa
thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình,
9
Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu..Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở
Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa,
Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các
chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành
thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít
tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân
và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

(Ảnh minh họa)


3. Nguyên nhân thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên
nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc
lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách
mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và
10
kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước.
Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý
chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ
của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua
các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua
15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã
có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt
vì mục tiêu độc lập dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những
thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong
trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến
bộ trên thế giới phát triển mạnh.
5.Bài học kinh nghiệm.
Đạt được những thành tựu vĩ đại từ cuộc Cách mang Tháng Tám 1945 là
do Đảng ta vô cùng sáng suốt, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã
biết rút ra bài học kinh nghiệm, vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực
tiễn cách mạng nên đã phát huy sức mạnh trí tuệ của Đảng; động viên tinh
thần, vật chất của nhân dân cho sự nghiệp chung của dân tộc.
Trong rất nhiều bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng, những bài
học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng và Bác trong Cách mạng Tháng
Tám là vô cùng quý báu. Những bài học đó mãi mãi còn nguyên giá trị lịch sử
cho hôm nay và mai sau đối với sự lãnh đạo của Đảng ta.
Bài học kinh nghiệm hàng đầu mà Cách mạng Tháng Tám đã để lại đó là
trên cơ sở nắm chắc và phân tích đúng tình hình thực tiễn, cần phải đề ra
đường lối chiến lược đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng cụ thể.
Đặc biệt, tại Hội nghị
Trung ương 8 (5-1941), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tư
cách là đại diện Quốc tế Cộng sản, trên cơ sở phân tích tình hình, Đảng ta đã
hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược cách mạng từ mục tiêu đánh đổ thực
11
dân, phong kiến; chống tư sản, địa chủ sang mục tiêu của cách mạng lúc bấy
giờ là giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân Pháp và Phát xít Nhật, chống Việt
gian. Trên cơ sở chiến lược cách mạng, Đảng ta đã xác định lực lượng cách
mạng và đề ra phương pháp đầu tranh, tiến hành chuẩn bị đầy đủ mọi điều
kiện, chờ đợi và thúc đẩy thời cơ cách mạng chín mùi, lãnh đạo nhân đứng lên
đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, tiến đề Tổng khởi nghĩa 1945. Đây
là bài học đầu tiên có tính quyết định để Đảng ta lãnh đạo nhân dân đứng lên
làm cách mạng thành công, giành lại độc lập tự do cho đất nước.

(Ảnh minh họa)

Bài học kinh nghiệm thứ hai mà cuộc Cách mạng Tháng Tám để lại cho
chúng ta, đó là: Đảng đã biết tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào mục tiêu chung của cách mạng. Tại Hội
nghị Trung ương 8 (5-1945) Đảng đã đề ra chủ trương thành lập Việt Nam
độc lập đồng minh hội (tức Mặt trận Việt Minh) để tập hợp, đoàn kết mọi giai
cấp, thành phần xã hội vào Mặt trận Việt Minh (với các tổ chức trực thuộc là
Hội Cứu quốc như: Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ
cứu quốc…). Tháng 6-1941 Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư cho toàn quốc nhằm

12
kêu gọi nhân dân đoàn kết tham gia cách mạng. Người viết: “Trong lúc quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại để đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa
nóng…Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai
gánh vác một phần trách nhiệm…”. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh
chính thức ra đời và không ngừng lớn mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho cách
mạng. Hoạt động của Mặt trận Việt Minh đã khơi dậy tinh thần yêu nước của
nhân dân, góp phần thúc đẩy thời cơ cách mạng mau chín mùi.
Song, trước sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng, sự chuyển biến mau lẹ
của tình hình, hoạt động của Mặt trận Việt Minh vẫn chưa đủ sức để đoàn kết
rộng rãi hơn mọi thành phần đảng phái chính trị người Việt Nam trong và
ngoài nước vào cuộc đấu tranh giành độc lập. Nhận thấy điều này, năm 1943,
Đảng ta đã quyết định mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với chủ trương
liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước trong và ngoài nước
chưa gia nhập Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động các giai tầng xã hội
(công nhân, nông dân, trí thức, tư sản, đại chủ yêu nước) tham gia. Chính vì
vậy, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong cao
trào kháng Nhật cứu nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.Bên cạnh
việc đề ra chiến lược cách mạng phù hợp với tình hình (chuyển hướng chiến
lược kịp thời) và tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tham
gia vào mục tiêu chung thì việc chớp thời cơ cách mạng, lãnh đạo nhân dân
đứng lên làm cuộc cách mạng “long trời, lở đất” cũng là bài học kinh nghiệm
lớn Cách mạng Tháng Tám để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Những hoạt động lãnh đạo dồn dập, quyết liệt của Đảng trước những diễn
biến của tình hình lúc bấy giờ đã nói lên Đảng ta coi thời cơ cách mạng là hết
sức quan trọng và kịp thời chớp lấy khi thời cơ đến, lãnh đạo nhân dân đứng
lên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
69 năm đã trôi qua, song thời khắc hào hùng đó đã in sâu trong trái tim,
khối óc của mọi người Việt Nam. Và, những bài học kinh nghiệm của Cách
mạng Tháng Tám mãi mãi ngời sáng trong kho tàng giá trị quý báu của Đảng
13
ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng với mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” .

CHƯƠNG II.Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT


NAM.
1. Ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn
của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ
đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại
của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ
đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đánh giá
về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng
Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích
thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng
cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một
cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Tiếp tục nhấn mạnh
giá trị đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao Liên Xô nhân kỷ
niệm 40 năm Cách mạng tháng Mười, ngày 6-11-1957 đăng trên báo Nhân
dân, số 1341, ngày 10-11-1957, Người lại khẳng định: “Năm 1945, nhân dân
Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất
nước và xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử
của dân tộc chúng tôi”. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn
80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở kỷ nguyên độc lập, lần đầu
tiên tên nước Việt Nam có tên bản đồ thế giới; đồng thời đã mở ra mối quan
hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị thế của một quốc
gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền: “Lịch sử dân tộc ta đã có nhiều thời kỳ
14
rất vẻ vang. Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự
làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lẫy lừng khắp năm
châu, bốn biển”.

(Ảnh minh họa: Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà
hát lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan
đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ.)

Đối với tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, một mặt, đã góp phần đánh bại tàn dư của
chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Về
vấn đề này, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm Cách mạng
tháng Tám, ngày 19 tháng 8 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách
mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên
chế và xiềng xích thực dân”. Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế
độ xã hội mới, khác hẳn về chất so với chế độ cũ : “Cách mạng Tháng Tám đã
xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc
lập”.

15
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ
thắng lợi to lớn đó, đã cổ vũ nhân dân ta kiên cường đấu tranh giành độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước, bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 lịch
sử. Đất nước hoàn toàn độc lập, người dân được hoàn toàn tự do, hạnh phúc.
2. Ý nghĩa thời đại đối với cách mạng Việt nam.
Đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thắng lợi là tấm gương, là nguồn cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc
đang mất độc lập tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh, nhất là các nước
láng giềng noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của thắng lợi này, Chủ
tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta
trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng
Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi
lên chống đế quốc và đòi độc lập”.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã chứng minh một chân lý của
thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường
lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do,đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân và biết tranh thủ sức mạnh của thời đại
thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta được
hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái
chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Từ đó dân ta làm chủ nước ta”.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.Thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào
phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại; giáng một đòn chí
mạng vào nền móng của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất; cùng
với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ trên thế giới và quân đồng minh đánh đổ
chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Tinh
16
thần của chiến thắng lịch sử. Do đó, cũng là chiến thắng chung của các nước
trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế
giới. Về vấn đề này, Người dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia:
“Chúng ta chỉ có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất đối với
nhân dân Việt Nam anh hùng.Với sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân
Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ vang nhất trên thế giới”).
Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm
của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng. Đó
là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu
mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào,
mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa
và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công,
đã nắm chính quyền toàn quốc”.

17
III.KẾT LUẬN.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,Cách mạng Tháng
Tám là một trong những trang sử vẻ vang,chói lói nhất,là một trong những
bước ngoặc vĩ đại nhất.Cách mạng Tháng 8 đập tan ách thống trị của phát xít
Nhật trong 5 năm,đập tan ách thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm,lật đổ
chế đổ phong kiến đã tồn tại dai dẳng mấy nghìn năm,đưa dân tộc Việt Nam
bước vào kỷ nguyên mới,kỷ nguyên độc lập tự do do dân làm chủ đất
nước.Lần đầu tiên trong lịch sử,Nhân dân ta từ chỗ người nô lệ,trở thành
người làm chủ đất nước,làm chủ vận mệnh của chính mình.Đảng ta từ một
Đảng hoạt động trong bóng tối,không hợp pháp trở thành một Đảng lãnh đạo
chính quyền trong cả nước.Đây là cuộc nổi dậy của nhân dân ta trong lịch sử.
Cách mạng Tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu,đóng
góp vào vai trò kho tàng lý luận cách mạng ở một nước thuộc địa phong
kiến.,tạo ra thế và lực mới cho hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và
chống Mỹ của dân tộc ta sau này.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ rằng,trong thời đại ngày
nay cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa do toàn
dân nổi dậy,dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác-Leenin chân chính,có đường
lối cách mạng đúng đắn có thể hoàn toàn dành thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng
Tám:”Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào
mà giai cấp lao động và giai cấp bị áp bức khác cũng có thể tự hào rằng lần
này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công đã nắm
chính quyền toàn quốc”.
18
IV.TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Giáo trình Lịch sử Đảng
2.Cách mạng Tháng Tám-sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Namhttp://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?
tabid=1292&Group=219&NID=4395&cach-mang-thang-tam-nam-1945--su-
kien-vi-dai-trong-lich-su-dan-toc-viet-nam .
3.Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn Kiện Toàn Tập,Nxb Chính trị quốc gia,Hà
Nội,2000.
4.Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà
Nội, 2011.

19

You might also like