You are on page 1of 24

HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN

KHOA TRIẾT HỌC – CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ

BỘ MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Tiến Hùng

Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Minh Ngọc

Msv: 7123403047

Khoa: Kế toán – Kiểm toán

Hà Nội, ngày 18 tháng 03 năm 2023


MỤC LỤC

Lời mở đầu................................................................................................................3

A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................4

1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................4

2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................5

3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................5

4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................5

B. NỘI DUNG..........................................................................................................6

I. Bối cảnh lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945..............................6

1. Trên thế giới......................................................................................................6

2. Trong nước.......................................................................................................6

II. Ba bước ngoặt lịch sử thể hiện sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn 1930-1945 cho cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945....................9

1. Các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển
hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc.................................................9

a) Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI (11/1939)..........................9

b) Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VII (11/1940).......................10

c) Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941)......................................11

2. Những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên
cao trào kháng Nhật cứu nước..............................................................................13

3. Quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Đảng toàn quốc tháng 8/1945.....16
III. Bài học của cuộc Cách mạng tháng Tám đối với công cuộc đổi mới đất nước.
Liên hệ với thực tế hiện nay.....................................................................................17

C. Kết luận..............................................................................................................18

D. Tài liệu tham khảo.............................................................................................20


Lời mở đầu
Cách mạng Tháng Tám 1945 đã trôi qua được hơn 75 năm nhưng ảnh hưởng
của nó tới sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc chưa bao giờ là điều bàn cãi và
vẫn còn nguyên giá trị. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là sự hội tụ của
nhiều nhân tố, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng và đánh giá đúng tình hình để
nắm bắt thời cơ cách mạng là nhân tố quyết định. Thắng lợi của Cách mạng đã tạo
nên một cú huých mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, trải dài từ chính trị, văn hoá,
kinh tế cho tới xã hội. Xây dựng nên một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với
dân tộc Việt Nam, sở hữu đầy đủ bản chất dân chủ và nhân văn, với mục đích
hướng tới con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc, đất nước
Việt Nam bất khuất, kiên cường tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày
hôm nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã định ra đường lối đúng đắn và tập hợp các
lực lượng xã hội tham gia cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng ta ra đời đã xác
định đúng đắn đường lối lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam theo
con đường cách mạng vô sản, xác định đúng đối tượng của cách mạng là vừa phản
đế và vừa phản phong; làm cách mạng tư sản dân quyền tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ
Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại. Đảng chính là nhân tố tất yếu trong
mọi chiến thắng của dân tộc ta. Đảng ra đời đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo của cuộc
đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Trong những thời gian đầu mới thành lập
cơ sở Đảng tuy chưa nhiều, song đã trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng.
Những tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Đường lối của
Đảng đã phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng, được tuyên truyền rộng rãi,
làm cho ý thức giác ngộ của quần chúng ngày càng được nâng cao.

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đảng ta lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra bước
ngoặt vĩ đại của dân tộc Việt Nam và cho các dân tộc thuộc địa. Đây là thắng lợi có
ý nghĩa dân tộc và thời đại lớn lao, đã đưa dân tộc ta từ thân phận nô lệ trở thành
chủ nhân, đưa Việt Nam gia nhập đại gia đình vô sản quốc tế sánh vai với các
cường quốc văn minh trên thế giới. Ngày 2-9-1945, trong cuộc mít tinh của gần
một triệu người tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố trước Nhân dân Việt Nam và thế giới
sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Với thắng lợi đó,
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao
động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân
tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Để đạt được kết quả này toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã đổ rất nhiều mồ
hôi, xương máu và nước mắt. Nhìn lại từng dòng sự kiện lịch sử, những dấu mốc
đánh dấu sự thắng lợi của dân tộc Việt Nam chúng ta có thể thấy đường lối lãnh
đạo của Đảng là yếu tố không thể thiếu để ta giành được thắng lợi trong các cuộc
đấu tranh đó. Chính vì thế, là một người dân Việt Nam được sinh ra trong thời bình
chúng ta phải thấy tự hào vì những trang sử vẻ vang của dân tộc, cần phải hiểu biết
rõ về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta như Bác Hồ đã từng
nói: “ Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”.

Và để tìm hiểu sâu hơn về lịch sử nước nhà cũng như hiểu biết rõ hơn về vai trò
chỉ đạo của Đảng trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, tôi xin được nghiên
cứu đề tài: “Những bước ngoặt lịch sử nào thể hiện sự chuyển hướng chỉ đạo cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945 cho thắng lợi của Cách mạng tháng 8
năm 1945. Phân tích và liên hệ với thực tế hiện nay”.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích giúp cho tôi hiểu biết hơn về lịch sử dân
tộc, biết thêm được tầm quan trọng về đường lối chỉ đạo của Đảng giúp cho đất
nước ta giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến đặc biệt trong giai đoạn 1930-
1945 cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung làm rõ những bước ngoặt lịch sử thể hiện sự chuyển hướng chỉ
đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945 cho thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945, đánh giá thành quả của việc thực hiện của các chủ trương
đường lối của Đảng, nhằm rút ra được bài học cách mạng đúng trong sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng đất nước. Đồng thời phân tích và liên hệ với ngày nay trong
thời kì đất nước hòa bình và phát triển.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này tôi dựa vào các tài liệu trên sách, báo và internet,
ngoài ra trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôi sử dụng
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp để trình bày
những bước ngoặt lịch sử thể hiện sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn 1930-1945 cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

B. NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
1. Trên thế giới

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng
quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải
phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-
5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.

Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.
Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ
hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu
hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật.
Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị
thống trị của mình; đế quốc Mỹ đúng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp
vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai
Nhật đang âm mưu thay đổi chủ, chống lại cách mạng.

2. Trong nước

Sự đầu hàng của Chính phủ Nhật đã đẩy quân Nhật ở Đông Dương vào tình thế
tuyệt vọng như rắn mất đầu, hoang mang dao động đến cực độ. Chính Phủ Trần
Trọng Kim rệu rã, tin Nhật đầu hàng nhanh chóng lan truyền trong nhân dân. Khắp
nơi trên đất nước ta, Việt Minh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ
trang, có tới hàng ngàn quân tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên
giành chính quyền.
Trước tính hình đó, mặc dù đang ốm nặng Hồ Chí Minh đã sáng suốt nhận thức
rằng: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc” (1)

Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong
đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một
cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên
truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương
Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945,
2 Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn
đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải
phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức
Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm
căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945,
Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy
lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8- 1945, Hội nghị đại biểu toàn
quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta
giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính
quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương;
đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: Tập trung, thống
nhất, kịp thời. Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của
Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành
lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đêm 13/8/1945, Lệnh khởi nghĩa (quân lệnh số 1 của
Uỷ ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta phải hành động cho nhanh, với tinh
thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn sẽ thuộc về
ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó, Hồ Chí Minh có thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu
rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” (2)

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng
loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15
ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính
quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945), Đảng đã lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với ba cao trào cách
mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó
là:

- Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản
động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo
hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 tuy chỉ tồn tại trong thời gian
ngắn nhưng đã khẳng định được đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là
đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công - nông, về
xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu
tranh giành và bảo vệ chính quyền.

- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Do tinh thần yêu
nước, thiết tha với độc lập, tự do của Nhân dân ta và lòng trung thành, ý chí đấu
tranh kiên cường của cán bộ, đảng viên, cách mạng đã nhanh chóng ra khỏi thời kỳ
thoái trào, tiến lên một cao trào mới, cao trào vận động dân chủ 1936 - 1939. Cao
trào này thật sự là phong trào cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong
việc đề ra mục tiêu và phương pháp đấu tranh thích hợp, mang lại những quyền lợi
thiết thực cho quần chúng, qua đó mà tập hợp, giác ngộ quần chúng cách mạng tiến
tới hình thành đạo quân chính trị rộng lớn, phát huy được sức mạnh của quần
chúng. Cao trào có ý nghĩa như cuộc tổng diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho cuộc Tổng
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, để lại nhiều bài học quý báu, trong đó có bài học
về công tác mặt trận, về sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức và phương pháp
đấu tranh.

- Cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945): dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên
quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng
hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản,
chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh
của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới:
Nước 3 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

II. Ba bước ngoặt lịch sử thể hiện sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn 1930-1945 cho cuộc Cách mạng tháng Tám năm
1945.
1. Các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển
hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc.
a) Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI (11/1939)
Tháng 11/1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm
( Hóc Môn ) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã xác định nội dung của Hội
nghị là:

- Nhận định được kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đến quốc phát xít Pháp –
Nhật. Xác định nhiệm vụ, mục tiêu là đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho
Đông Dương độc lập.
- Chủ trương: Tạm gác khẩu hiệu “ cách mạng ruộng đất ”, đề ra khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và địa chủ phản bội; chống tô cao, lãi
nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết bằng khẩu hiệu lập Chính phủ
dân chủ cộng hòa.
- Phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu
tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp
pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Dùng bạo lực cách
mạng tức là đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
- Mặt trận: Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp, giai cấp, các dân tộc Đông
Dương chỉ mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ
nghĩa đế quốc phát xít.

Hội nghị Trung ương Đảng lần VI đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược của Đảng. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn. Đảng ta đã
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết được rộng rãi mọi tầng lớp giai
cấp, dân tộc Đông Dương trong một mặt trận dân tộc thống nhất để đấu tranh
chống kẻ thù chung. Sự chuyển hướng này đã mở ra một thời kỳ đấu tranh mới,
thời kỳ trực tiếp mở đường tiến tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám sau này. (3)

b) Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VII (11/1940)
Từ ngày 6-9/11/1940, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 do đồng
chí Trường Chinh chủ trì đã được tổ chức tại làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, Bắc
Ninh). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hạ Bá Cang, Hoàng Văn
Thụ, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh.Hội nghị khẳng định: “Tình thế hiện tại
không thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông
Dương”, chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tháng11-1939 là đúng. Hội nghị cũng khẳng định sự
chuyển hướng đề ra trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 là
hoàn toàn đúng đắn. Hội nghị xác định tính chất của cách mạng Đông Dương là
cách mạng giải phóng dân tộc với hai nhiệm vụ phản đế và thổ địa. Cách mạng
phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm
sau. Hội nghị chỉ ra rõ, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc
chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ. Kẻ thù nguy hiểm nhất là
“đội quân thứ nǎm” của bọn phát xít Nhật và bọn Việt gian thân Pháp.

Phương pháp cách mạng được hội nghị đề ra đó là phương pháp khởi nghĩa vũ
trang. Chủ trương đi liền với việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế,
phải tổ chức các đội tự vệ trực tiếp, vũ trang cho quần chúng, tiến lên vũ trang bạo
động.(4)

Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt:

Vấn đề thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du
kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì
chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du kích, lấy vùng Bắc
Sơn, Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí Hoàng
Văn Thụ chịu trách nhiệm thực hiện Nghị quyết này.
Vấn đề thứ hai, sau khi nghe báo cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị chỉ thị cho
Xứ uỷ Nam Kỳ đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Bộ vì chưa có đủ điều kiện
chủ quan và khách quan bảo đảm giành thắng lợi. Đồng chí Phan Đăng Lưu, ủy
viên Trung ương Đảng được giao nhiệm vụ truyền đạt chủ trương này của Trung
ương đến Đảng bộ Nam Kỳ.(5)

c) Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941)

Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 ở Pắc Pó (Cao Bằng) từ ngày
10-19/5/1941.

Hội nghị chỉ rõ: Nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của
cuộc chiến tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá
lớn. Mâu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa
các dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị tán thành
Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy về chuyển hướng chiến
lược và sách lược. Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh
tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu
muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn
kết hết sức rộng rãi “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội nghị
quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (19/5/1941) thay cho
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay tên các hội Phản đế thành
hội Cứu quốc và giúp đỡ Lào, Campuchia thành lập mặt trận.
Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội
nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.

Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương
kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến
công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có
thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể
giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn". (6)

Hội nghị VIII đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh được đề ra từ
Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách
mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu
ấy.

 Các Hội nghị Trung ương Đảng (11/1939), (11/1940) và nhất là Hội nghị Trung
ương VIII (5/1941) đều đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo
cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Các hội nghị Trung ương và chủ tịch
Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của
thực dân Pháp, phát xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về
mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Đảng để có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh
đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc, đóng vai trò quan trọng cho thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên
cao trào kháng Nhật cứu nước.

Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách
mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ
trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm vũ khí đuổi kẻ thù chung. Tháng 9-1944,
chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước trong khi phong trào cách mạng đang diễn ra sôi
nổi. Với nhãn quan chính trị sắc bén, trù liệu trước những thuận lợi và khó khăn
của phong trào cách mạng, để tập trung cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân, đặt cơ sở pháp lý cho chính quyền cách mạng sắp ra đời, đồng chí Hồ
Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước thông báo chủ trương của Đảng triệu tập
Đại hội đại biểu toàn quốc. Trong thư, người phân tích ngắn gọn nhưng sâu sắc
tình hình thế giới: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc
sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng” và nhấn mạnh “Cơ hội cho dân tộc ta giải
phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa”. Từ sự phân tích đó, Người khẳng
định muốn đón cơ hội giải phóng dân tộc thì phải có một “cơ cấu đại biểu”, một tổ
chức đại diện cho toàn thể dân tộc, “Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai
tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các
hữu bang”. Muốn vậy, cơ cấu ấy phải do cuộc "toàn quốc đại biểu đại hội gồm tất
cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra". Người
thiết tha kêu gọi các đảng phái và các đoàn thể ra sức chuẩn bị, cùng nhau thảo
luận để tổ chức cuộc toàn quốc đại hội ngay trong năm 1944. Thời gian rất gấp,
Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944).

Từ tháng 9-1944, trong bài "Các nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ” (Cờ giải phóng, số 7,
ngày 28-9-1944), Trung ương Đảng dự đoán mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa hai
tên đế quốc phát xít Pháp - Nhật sẽ dẫn đến chỗ “tao sống mày chết, quyết liệt
cùng nhau”. Đúng như dự đoán của Đảng, đến đầu tháng 3-1945, những mâu thuẫn
gay gắt giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương và tình thế khốn quẫn của quân đội Nhật
ở Thái Bình Dương đã buộc Nhật phải quyết định lật đổ Pháp, độc chiếm Đông
Dương hòng cứu vãn tình thế. Trước tình hình phát triển đột biến, Hội nghị làm
việc khẩn trương, nhận định tình hình Hội nghị khẳng định những điều kiện tổng
khởi nghĩa chưa thật chín muồi, dự kiến những cơ hội tốt giúp cho cao trào cách
mạng phát triển và thúc đẩy những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín
muồi. Hội nghị xác định kẻ thù của nhân dân ta lúc này là phát xít Nhật và bọn tay
sai của chúng, xác định nhiệm vụ và khẩu hiệu cách mạng của nhân dân Đông
Dương trong tình thế mới.

Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ và mục tiêu cách mạng, ngày 10-3-1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động và lãnh đạo cao trào chống
Nhật, cứu nước, nhằm tập dượt quần chúng, cán bộ, đảng viên sẵn sàng để tiến lên
tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện. Hội nghị chủ trương phát triển mạnh mẽ Mặt
trận Việt Minh, lập Mặt trận Dân chủ chống Nhật ở Đông Dương và sẵn sàng
hưởng ứng quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật. Bản chỉ thị còn chủ
trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và
xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách
mạng).

Đến tháng 4-1945, cuộc kháng Nhật, cứu nước của nhân dân ta đã giành được
những thắng lợi lớn nhưng phát triển không đồng đều. Trong khi chú ý đẩy nhanh
tập hợp lực lượng chính trị, Đảng ta thấy rằng cần phải xúc tiến mạnh hơn những
hoạt động vũ trang hỗ trợ. Trung ương Đảng quyết định triệu tập Hội nghị Quân sự
cách mạng Bắc Kỳ nhằm giải quyết thêm những vấn đề quân sự, đẩy cao trào lên
cao và lan rộng ra cả nước. Hội nghị quyết định phát triển lực lượng vũ trang, nửa
vũ trang và thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng
quân; xây dựng bảy chiến khu chống Nhật trong cả nước. Hội nghị cử ra Uỷ ban
Quân sự cách mạng, ngoài ra còn bàn những nhiệm vụ quan trọng khác như phát
triển cao trào Kháng Nhật, cứu nước, công tác tuyên truyền nhằm mục đích kháng
Nhật, vấn đề đào tạo huấn luyện cán bộ, vấn đề liên hiệp kháng Nhật với Pháp Đờ
Gôn và Hoa kiều... Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã cụ thể hoá Chỉ thị
ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, góp phần thúc đẩy cao trào
Kháng Nhật, cứu nước đi tới. Hội nghị đánh dấu một bước phát triển mới về tư
tưởng quân sự của Đảng ta.(7)

Đầu tháng 5-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Chiến khu Hoàng
Hoa Thám chọn Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) làm đại bản doanh chỉ đạo
phong trào cả nước, chuẩn bị gấp một số công việc cho Tổng khởi nghĩa. Tại Tân
trào đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng họp vào ngày 14-15/8/1945. Đảng ta
nhận định “cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Mục đích cuộc chiến
đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa theo ba
nguyên tắc: Tập trung, thống nhất và kịp thời.

3. Quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Đảng toàn quốc tháng 8/1945.

Ngày 13/8, nhận được tin phát xít Nhật bại trận và sắp đầu hàng Đồng minh,
Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn
quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số I, hạ lệnh Tổng khởi
nghĩa: “...Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam
vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà. Mang nhiệm vụ lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa toàn quốc cho đến toàn thắng, Ủy ban khởi nghĩa đã thành lập”. Quân
lệnh kêu gọi nhân dân toàn quốc phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô
cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta.

Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa kết thúc, Đại hội Quốc dân cũng được tổ chức
tại Tân Trào (Tuyên Quang) vào ngày 16/8. Trước các đại biểu của nhân dân, Đảng
nêu lên chủ trương lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít
Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, Đại hội nhiệt liệt tán
thành và ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua 10 chính sách
của Mặt trận Việt Minh, Đại hội quyết định thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc
Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ban Thường trực gồm năm người: chủ
tịch Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương
Đức Hiền. Uỷ ban Giải phóng dân tộc được trao sứ mệnh: "thay mặt quốc dân mà
giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước". Nghị quyết
của Đại hội nhấn mạnh mục tiêu: “Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”.(8)

Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc dân Đại hội, chỉ trong vòng hai tuần
từ 14-28/8/1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách
mạng tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung ương
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng.

III. Bài học của cuộc Cách mạng tháng Tám đối với công cuộc đổi mới đất
nước. Liên hệ với thực tế hiện nay.

Quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam
thời kỳ 1930 - 1945 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, có giá trị to lớn
cho hôm nay và mai sau. Đó là bài học xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn
Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối; bài học về việc giương cao ngọn cờ dân
tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; phát huy tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình là chính; tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, bình
đẳng, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương; tập hợp, phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong
những bài học đó, bài học xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để
đề ra chủ trương, đường lối có ý nghĩa, vai trò đặc biệt quan trọng.

Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với
mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, để đưa đất nước đi lên, sánh vai với các
cường quốc năm châu, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, Việt Nam cần phát huy những bài học của lịch sử, trong đó bài học lớn
nhất là xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương,
đường lối.

Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện
nay, một trong 5 bài học kinh nghiệm được rút ra xuyên suốt trong tiến trình lịch
sử cách mạng Việt Nam, đó là: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những kinh nghiệm của Đảng
trong công tác lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập từ cuộc cách mạng tháng
Tám năm 1945 tiếp tục phát huy giá trị và được vận dụng sáng tạo trong công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thông qua
việc hoàn thiện, bổ sung Cương lĩnh, đường lối và bảo vệ giá trị khoa học, tính
hiện thực của đường lối. Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa 12 định hướng chiến
lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021-2030. Để thực hiện được các định
hướng đó cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định,
đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các
quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

C. Kết luận

Trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bằng thực tiễn hoạt động
phong phú, bằng sự gắn bó mật thiết với nhân dân, kể từ sau Đại hội VII của Quốc
tế Cộng sản năm 1935, Đảng đã nhận thức ngày càng đúng đắn việc giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất cũng như vấn đề dân
tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Theo đó, vấn đề độc lập
dân tộc và cách mạng ruộng đất không thể được giải quyết song song, đồng thời
mà phải xem vấn đề nào quan trọng hơn để tập trung giải quyết. Đây là những
nhận thức mới hết sức quan trọng, mở đầu cho quá trình thay đổi chiến lược của
Đảng ở giai đoạn sau.

Quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ 1930 - 1945 đã
phản ánh sự trưởng thành, bản lĩnh của Đảng qua mỗi giai đoạn cách mạng. Sự
trưởng thành, bản lĩnh đó không phải là ngẫu nhiên, mà là một quá trình đấu tranh,
tôi luyện gian khổ, bằng sự gắn bó mật thiết với nhân dân, với những hy sinh, mất
mát to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, kể từ sau năm 1935, Đảng hết
sức nhạy bén, kịp thời trong việc đề ra chủ trương, đường lối, trong việc tập hợp,
đoàn kết các tầng lớp nhân dân. Qua đó, vai trò, uy tín của Đảng ngày càng tăng
cao. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng được củng cố.

Cách mạng tháng Tám là kết quả của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc trong cách
mạng Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá,
có giá trị to lớn cho hôm nay và mai sau. Đó là bài học xuất phát từ thực tiễn, trên
cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối; bài học về việc giương
cao ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; phát huy
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình là chính; tôn trọng quyền dân
tộc tự quyết, bình đẳng, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương; tập
hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc
thống nhất. Trong những bài học đó, bài học xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực
tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối có ý nghĩa, vai trò đặc biệt quan
trọng.
D. Tài liệu tham khảo
1. (Võ Nguyên Giáp những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H trang 196).
2. ( ĐCSVN, văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000 tập 7 trang 418)
3. https://123docz.net/document/3130701-hoi-nghi-ban-chap-hanh-trung-uong-lan-
thu-vi-11-1939.htm
4. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-
trung-uong/khoa-i/nghi-quyet-cua-hoi-nghi-trung-uong-ngay-6-7-8-9-11-1940-
666
5. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-
dang/lich-su-bien-nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-2-175
6. https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-
nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/hoi-nghi-lan-
thu-tam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-535807.html
7. https://lamdong.gov.vn/sites/tinhuy/dangcsvn/SitePages/lich-su-bien-nien-dang-
cong-san-viet-nam-tap-2.aspx
8. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-
dang/lich-su-bien-nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-2-175

You might also like