You are on page 1of 17

MẬ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN


KHOA KHXH&NV

BÀI TIỂU LUẬN

Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Đề tài: Bối cảnh, chủ trương phát động Tổng khởi


nghĩa giành chính quyền, kết quả, nguyên nhân thắng lợi và
bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng Tháng Tám.

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Mậu Minh


Lớp: HIS362 SG
Sinh viên thực hiện:
1. Ngô Thanh Phương - 27202201914
2. Nguyễn Thị Vân Anh - 28201154542
3. Đào Khánh Ly - 27202741859
4. Nguyễn Phan Nhật Uyên - 27202242335
5. Ngô Uyên Nhi - 27202240541

1
MỤC LỤC............................................................................................................2

MỞ ĐẦU...............................................................................................................3

PHẦN THỨ NHẤT: CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939-1945


I. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng...............3
1. Tình hình thế giới và trong nước.......................................................................3
2. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược...................................3
3. Ý nghĩa sự chuyển hướng..................................................................................4
II. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.............................4
1. Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần.4
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa............................................................6
3. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám......7

PHẦN THỨ HAI: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM; LIÊN HỆ VẬN DỤNG VÀO NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
I. Bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng Tháng Tám.....................................8
1. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến. ..............................................................................................8
2. Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông.............................9
3. Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.....................................................10
4. Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một
cách thích hợp......................................................................................................11
5. Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ...................11
6. Xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính
quyền...................................................................................................................11
II. Vận dụng vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.....12
1. Nhiệm vụ xây dựng........................................................................................ 12
2. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc................................................................................13
3. Vận dụng.........................................................................................................13
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào dân
+ Xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ thời kỳ mới
4. Liên hệ trách nhiệm sinh viên.........................................................................15

KẾT LUẬN........................................................................................................16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................17

2
MỞ ĐẦU

Ngày 19/8/1945, khi Đảng ta mới tròn 15 tuổi, chưa có đến 5.000 đảng viên
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền làm nên cuộc
cách mạng tháng Tám long trời lở đất. Cách mạng tháng Tám còn gọi là Tổng
khởi nghĩa tháng Tám là phong trào Việt Minh tiến hành khởi nghĩa chống Đế
quốc Nhật Bản, buộc Đế quốc Việt Nam bàn giao chính quyền trung ương và
các địa phương , buộc Bảo Đại phải thoái vị trong tháng 8 năm 1945. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân
ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

PHẦN THỨ NHẤT: CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939-1945

I. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
1. Tình hình thế giới và trong nước
 Thế giới:
Đầu tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
Tháng 6 - 1940, quân đội phát xít Đức kéo vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu
hàng phát xít Đức. Ở Viễn Đông, quân phiệt Nhật cũng đẩy mạnh xâm lược
Trung Quốc và cho quân tiến sát biên giới Việt - Trung.
Vào tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tiến hành tấn công gần như cùng lúc các lãnh
thổ của Hoa Kỳ và Anh tại Đông Nam Á và Trung Thái Bình Dương
Năm 1943, phe Trục đánh mất thế chủ động và buộc phải rút lui chiến lược trên
mọi mặt trận
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Ngày
9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.
Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần
thứ hai kết thúc.
 Trong nước
Đặt dưới ách thống trị của Nhật - Pháp. Nhật và tay sai ra sức tuyên truyền văn
minh Nhật Bản, thuyết Đại Đông Á, dọn đường cho việc hất cẳng Pháp sau này.
Năm 1945, phát xít Đức thất bại nặng nề (châu Âu), Nhật bị thua to ở nhiều nơi
(Châu Á - Thái Binh Dương).
Ở Đông Dương, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, lợi dụng cơ hội đó, các
đảng phái chính trị ở Việt Nam tăng cường hoạt động; quần chúng nhân dân sục
sôi khí thế, sẵn sàng vùng lên khởi nghĩa.
2. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

3
Kể từ khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, ban chấp hành trung ương đảng đã
họp hội nghị lần thứ 6 (11/1939), hội nghị lần thứ 7 (11/1940), hội nghị lần thứ 8
(5/1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của chiến tranh thế giới thứ 2
và tình hình trong nước cụ thể ban chấp hành đã quyết định chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ban chấp hành trung
ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn với bọn đế quốc, phát xít Pháp-Nhật. Để tập trung cho nhiệm
vụ hàng đầu của cách mạng, ban chấp hành trung ương quyết định tạm gác lại
khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng khẩu hiệu "
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian cho dân nghèo"...
Hai là, quyết định thành lập mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng
cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm
của đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.
3. Ý nghĩa sự chuyển hướng
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân
Pháp trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và
ách thống trị của phát xít Nhật, đưa nhân dân Việt Nam từ nô lệ trở thành người
dân của nước độc lập tự do.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc
lập tự do và Chủ nghĩa Xã hội. Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác Lê-nin, kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc. Cách mạng tháng Tám thắng lợi cổ vũ mạnh mẽ cho nhân dân
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
II. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
1. Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng
phần
Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai
đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch phátxít Đức ra khỏi lãnh thổ của
mình và tiến như vũ bão về phía Béclin. Phátxít Nhật lâm vào tình trạng nguy
khốn. Mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính
Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng quân
Nhật.
Ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng
ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Với
những nội dung cơ bản là:
Nhận định tình hình: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho
những điều kiện Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.

4
Xác định kẻ thù: Sau cuộc đảo chính, phátxít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ
thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu
"đánh đuổi phátxít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi Phátxít Nhật".
Với chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước manh mẽ, làm
tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức
và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như
tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá
kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây đựng các đội tự vệ cứu
quốc,v.v...
Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng
từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Dự kiến những thời cơ thuận lợi để thực hiện
Tổng khởi nghĩa như quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân
Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh phía sau sơ hở. Cũng có thể là
cách mạng; Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được
thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh
Nhật mất tinh thần.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
Từ giữa tháng 3-1945 trở đi; Cao trào kháng Nhật, cứu nước đã diễn ra rất sôi
nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung cũng như hình thức.
Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi
ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng
hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang.
Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều
làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ
ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập.
Trong lúc Cao trào kháng Nhật, cứu nước đang dâng lên mạnh mẽ, ngày 15-4-
1945, Ban Thường vụ Trung tromg Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng
Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị nhận định: Tình thế đã đặt nhiệm vụ
quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng
ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật
để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị đã quyết định thống
nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết định
xây dựng bảy chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực
lượng vũ trang và nửa vũ trang, V. V...
Trong hai tháng 5 và 6-1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra,
nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền, ở Khu giải phóng và một số địa
phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền
tay sai của phátxít Nhật.
Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các
tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang, và
một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.

5
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở cả
nông thôn và thành thị thì nạn đói diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ do Nhật, Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Hơn
hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của
quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói".
Chủ trương đó đã đáp ứng trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng
triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-5-1945, Hồng
quân Liên Xô chiếm Béclin tiêu diệt phátxít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày 9-
5-1945 phátxít Đức đầu hàng không điều kiện, ở châu Á, phátxít Nhật đang đi
gần đến thất bại hoàn toàn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định
họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến
ngày 15-8-1945. Hội nghị nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền
độc lập đã tới và quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính
quyền từ tay phátxít Nhật và tay sai, trước khi quân Đồng minh vào Đông
Dương.
Hội nghị chi rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: "Phản đối xâm lược"; "Hoàn
toàn độc lập"; "Chính quyền nhân dân". Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi
nghĩa là tập trung, thống nhất kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc
thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp;
phải làm tan rã tinh thần quân địch, v.v...
Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối
ngoại trong tình hình mới. Về đối nội, sẽ lấy Mười chính sách lớn của Việt Minh
làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng, về đối ngoại, thực hiện
nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn
giữa Pháp - Anh vả Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối
phó nhiều kẻ thù trong cùng một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của
nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc.
Hội nghị quyết định của ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ
trách và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương. Ngay đêm 13-8-1945, ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa.Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại
hội họp tại Tân Trào đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và
Mười chính sách của Việt Minh, quyết định đặt tên nước là Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, xác định quốc kỳ, quốc ca và thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng
Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến
sĩ cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi
nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14- 8-1945, các đơn vị giải phóng quân đã
liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,

6
Tuyên Quang, Yên Bái và hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền. Ngày
18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc yên, Thái Bình,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa dành chính quyền ở tỉnh lỵ.
Ngày 19-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn quần
chúng sau khi dự míttinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần hành và mau
chóng tỏa đi các hướng chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại lính bảo an,
Sở Cảnh sát và các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế áp đảo của
quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám
chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 có ý nghĩa quyết định đối
với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ manh
mẽ nhân dân các tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế, ngày 25-8-1945, khởi nghĩa
thắng lợi ở Sài Gòn. Ch trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945)
cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại cuộc míttinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt
Chính Phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời.
3. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám
3.1 Nguyên nhân thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi: Kẻ thù trực
tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ thế
giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai tan rã. Đảng ta đã chớp thời
cơ đó phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành thắng lại nhanh chóng.
Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của
toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua ba cao trào cách
mạng rộng lớn: Cao trào 1930-1931, Cao trào 1936-1939 và Cao trào giải phóng
dân tộc 1939-1945. Quần chúng cách mạng được Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn
luyện bằng thực tiễn đấu tranh đã trờ thành lực lượng chính trị hùng hậu, có lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
Cách mạng Tháng Tám thành công là do Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng
vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh
công - nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo
cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn
kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên
quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm
lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
3.2 Kết quả và ý nghĩa
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân
Pháp trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ và ách thống trị của phátxít

7
Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc
ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do. Đảng và nhân dân ta
đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc và giành quyền dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập,
tự do.Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chi
rõ: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc”.
3.3 Bài học kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công — nông.
Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của
nhân dân.
Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Sáu là, xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức mạnh lãnh đạo Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.

PHẦN THỨ HAI: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM; LIÊN HỆ VẬN DỤNG VÀO NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

A. Bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng Tháng Tám
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân
Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm hệ thống lý
luận của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Bài học về giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
Ngay từ khi Đảng ta mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định phương hướng phát triển của cách
mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Chính từ phương hướng đó, trong quá trình lãnh đạo Nhân
dân đấu tranh giành chính quyền, xuất phát từ thực tế nước ta là một nước thuộc
địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng đầu,
8
Đảng đã linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân
chủ, giữa chống đế quốc và phong kiến, trong đó xác định đặt nhiệm vụ giành
độc lập dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp thực hiện từng bước
thích hợp ở từng giai đoạn, tùy thuộc vào tiến trình giải phóng dân tộc. Chính sự
linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chống đế quốc và phong
kiến trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã đáp
ứng đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách của toàn dân tộc và đã giúp cho
Đảng huy động được sức mạnh của toàn dân tộc cùng quyết tâm chống thực dân
Pháp và phát xít Nhật, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2. Bài học về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức toàn dân nổi
dậy trên nền tảng liên minh công – nông
Thấm nhuần và phát triển sáng tạo luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của
Nhân dân và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành
lập và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc xây
dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Từ năm 1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng
đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc biệt với sự ra đời
của mặt trận Việt Minh (năm 1941) đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc
được tạo dựng vững chắc và sâu rộng. Với chủ trương đúng đắn là “liên hiệp hết
thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nào,
giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”.
Cùng phương thức tổ chức đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã trở thành
hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp Nhân dân đứng vào hàng ngũ của
mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát
xít Nhật, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước của hàng chục
triệu người dân Việt Nam. Thành công của Đảng là đã tổ chức nên mặt trận yêu
nước rộng rãi với chủ trương thu phục đại bộ phận công nhân, nông dân đồng
thời tranh thủ đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức, lôi kéo trung tiểu địa chủ, tư sản
vừa và nhỏ đi với cách mạng. Với chủ trương này, chẳng những Đảng ta đã
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, tập hợp hết thảy các lực lượng yêu
nước, chống đế quốc mà còn xác lập quan điểm đúng đắn là xây dựng lực lượng
cách mạng lấy hạt nhân là khối liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Giá trị của bài học này có thể quán triệt mấy điểm sau đây:
Thứ nhất, xây dựng lực lượng cách mạng to lớn xoay xung quanh hồng tâm là
liên minh công – nông, tức là dựa vào đạo quân vô sản đã được tôi luyện và lực
lượng quần chúng đông đảo nhất là nông dân. Đồng thời tranh thủ được sự ủng
hộ của các giai tầng yêu nước khác, trong đó có lực lượng rất quan trọng là trí
thức, tiểu tư sản.
Thứ hai, khắc phục những khác biệt về lập trường và lợi ích của các giai cấp,
bộ phận trong Mặt trận dân tộc thống nhất bằng chủ trương nêu cao hơn hết mục
tiêu độc lập dân tộc. Nghiên cứu diễn tiến cách mạng từ khi Mặt trận Việt Minh
ra đời đến khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, thấy rõ Đảng ta và Chủ tịch Hồ

9
Chí Minh đã giải quyết vấn đề này một cách rất đúng đắn. Đây không chỉ là
thành công của chiến lược xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng khối đoàn
kết toàn dân trong Cách mạng tháng Tám mà còn chính là logic cho việc giải
quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và mục tiêu CNXH, điều chỉnh những
khác biệt, xung đột giữa các nhóm lợi ích trong xã hội ta hôm nay để tạo ra
những điểm chung, tương đồng, khắc chế những dị biệt trong các mối quan hệ,
thúc đẩy đồng thuận xã hội.
Thứ ba, lãnh đạo phát huy vai trò Mặt trận dân tộc thống nhất.
Lịch sử của Đảng gắn liền với quá trình phát triển của các hình thức mặt trận.
Đảng đã phát huy rất tốt vai trò của mặt trận, thông qua mặt trận để giác ngộ, tập
hợp các tầng lớp nhân dân tạo thành lực lượng hùng hậu. Thành công rực rỡ của
cách mạng tháng Tám gắn liền với vai trò của Mặt trận Việt Minh, là một bài
học quý báu về chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng
liên minh công- nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Bài học về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đánh giá đúng kẻ thù, kết hợp với những dự báo, tiên liệu chính xác những
chuyển biến cũng như những mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám là kết quả của việc chúng ta đã khai thác mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ
phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai
của Pháp và Nhật, từ đó cô lập cao độ kẻ thù chính là đế quốc-phát xít và bọn
tay sai phản động, tranh thủ được hoặc trung lập những phần tử lừng chừng để
tạo thêm lực lượng ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa
giành chính quyền được tiến hành nhanh, gọn, ít đổ máu và giành thắng lợi to
lớn.
Bài học này được vận dụng linh hoạt trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
nhất là việc nắm bắt thông tin phát xít Nhật nổ súng lật đổ thực dân Pháp ở
Đông Dương (ngày 9-3-1945), với chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” (ngày 12-3-1945) từ đó tạo điều kiện quan trọng để khởi nghĩa
từng phần ở nhiều nơi.
Bài học này cần tiếp tục được quán triệt, vận dụng trong điều kiện hiện nay khi
đất nước ta đang hội nhập sâu rộng vào các mối quan hệ quốc tế, đất nước đang
đứng trước nhiều vận hội phát triển mới đồng thời cũng đối mặt với nhiều nguy
cơ, thách thức khó lường. Nắm vững những nguyên lý lý luận về cách mạng
không ngừng và cách mạng phải biết tự bảo vệ, phát triển tư duy biện chứng,
khoa học về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhận thức
sâu sắc những dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới mà
Đảng ta đã xác định tại Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, phân tích thấu đáo thực tiễn
đất nước và những chuyển biến mới của tình hình khu vực, thế giới để nhận diện
đúng xu thế vận động phát triển từ đó chủ động thực hiện chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới một cách phù hợp.
4. Bài học về kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực
cách mạng một cách thích hợp để giành và giữ chính quyền

10
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ: Phải thực hiện mục tiêu của
cách mạng bằng con đường cách mạng chứ không thể bằng “con đường cải
lương thỏa hiệp”. Trong những trường hợp cần thiết, Đảng chủ động chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, điều chỉnh sách lược, phương pháp phù hợp, trong đó
lập trường sử dụng bạo lực cách mạng vẫn được thực hiện một cách nhất quán.
Cách mạng tháng Tám là bài học kinh điển về sử dụng bạo lực cách mạng trên
cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh có vũ trang; kết
hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang ở cả nông thôn
và thành thị.
Kiên trì chuẩn bị lực lượng và khi thời cơ chín muồi thì biết sử dụng lực lượng
để giành thắng lợi quyết định, đó là một trong những điểm khác biệt mà cách
mạng tháng Tám tạo ra. Đó là mẫu mực của sử dụng bạo lực cách mạng để đánh
bại bạo lực phản cách mạng mà sau này Đảng ta đã áp dụng thành công trong
trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và chống chiến tranh xâm lược,
bảo vệ Tổ quốc vào cuối thập niên 70 của thế kỷ XX.
5. Bài học về nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời
cơ.
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, kinh nghiệm của các cuộc cách mạng thế giới để tổng kết kinh nghiệm
khởi nghĩa của nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám. Từ năm
1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện để tổng khởi
nghĩa thắng lợi trong nhiều văn kiện.Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Hồ Chí
Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa
đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng
03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh
số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945.Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là thời điểm vô
cùng hoang mang đối với giới cầm quyền phát xít Đông Dương sau khi Nhật
đầu hàng. Nhân dân ta không còn phải sống cảnh đói nghèo như trước (hơn hai
triệu người chết đói rồi...). Đảng đã chuẩn bị chủ trương, lực lượng và cao trào
kháng Nhật cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước. Và, nhờ chớp đúng thời cơ, nhân dân ta đã được nhân lên
sức mạnh trong Cách mạng Tháng Tám và tổng khởi nghĩa trong cả nước chỉ
trong một thời gian ngắn đã thành công.
6. Bài học về xây dựng Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã khắc ghi vào lịch sử dân tộc như một
bài học sáng ngời vai trò mang tính quyết định về sự lãnh đạo của Đảng đối với
mọi thắng lợi của cách mạng.
Đảng ta ngay từ đầu đã hoạch định đường lối chiến lược và sách lược đúng
đắn, vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn để bổ sung và phát
triển lý luận lãnh đạo. Coi trọng việc quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng
trong đảng viên và quần chúng, không ngừng đấu tranh khắc phục, sửa chữa

11
khuyết điểm, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ
chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên ý chí, bản lĩnh, phẩm chất
chính trị và đạo đức cách mạng. Với những phẩm chất nói trên và được tôi luyện
trong thực tiễn 15 năm đấu tranh kiên cường, với chỉ 5000 đảng viên, Đảng đã
lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công.
Được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện để trở thành một Đảng cộng
sản chân chính, tiến bộ, Đảng là tác giả của những kỳ tích vĩ đại trong thời đại
cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, Đảng đã tạo nên những đổi thay chưa
từng có đối với vận mệnh Tổ quốc và dân tộc ta, vì thế Đảng luôn được nhân
dân tin yêu, kính trọng. Giá trị to lớn của bài học này được Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo,
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không
ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.”
Có thể nói, gần bảy thập niên trôi qua, những bài học kinh nghiệm mà cách
mạng tạo ra cần tiếp tục được phổ biến, quán triệt, vận dụng trong thực tiễn, coi
đó như những mẫu mực của chiến lược, sách lược lãnh đạo cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
II Liên hệ vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hiện nay
1. Nhiệm vụ xây dựng Tổ Quốc
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật phát triển của dân tộc, của đất nước
hôm qua, hôm nay và mai sau; là hai nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của cách
mạng Việt Nam. Xây dựng Tổ quốc hùng mạnh sẽ là điều kiện hết sức cơ bản để
bảo vệ Tổ quốc. Đến lượt mình, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện trọn
vẹn sẽ bảo đảm cho đất nước bình yên, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân yên tâm
chung lòng, chung sức xây dựng, phát triển đất nước.
Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi và khó khăn, thách thức đan
xen đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó là những chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ngày càng hoàn thiện tạo tiền đề quan
trọng cho môi trường chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về nội dung của nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ tổng thể của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta
trong tất cả các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, nhằm đưa nước ta thành một nước
tiên tiến với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ to lớn, trọng đại, là một quá trình lâu
dài, phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, là cuộc đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ, giữa cái tiến bộ và những cái còn lạc hậu.

12
2. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc
Tư tưởng chủ động giữ nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy
được hình thành trong suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng chiến lược, mang tính chủ động rất cao, trở
thành quy luật trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc ta. Xuyên suốt dòng chảy
lịch sử dân tộc cho thấy, ông cha ta đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa dựng nước đi
đôi với giữ nước; xây dựng đất nước gắn liền với bảo vệ Tổ quốc, lo giữ nước từ
khi chưa có giặc xâm lăng bằng các biện pháp tổng thể ở cả lĩnh vực đối nội và
đối ngoại; trong đó, lấy đối nội là cốt lõi, chăm lo sức dân, chiêu hiền đãi sĩ,
quốc kế dân sinh để ổn định bên trong tạo thành khối đại đoàn kết “chúng chí
thành thành”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng giữ nước từ sớm, từ xa; giữ
nước từ khi nước chưa nguy đã được Đảng ta phát triển lên tầm cao mới, trở
thành di sản quý báu, một nét văn hóa giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện cả trên
phương diện lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất, “bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích
quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành
mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bảo đảm quốc
phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường
xuyên” của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân. Phát huy vai trò xây
dựng để bảo vệ Tổ quốc, nêu cao trách nhiệm mọi lực lượng trong bảo vệ trong
xây dựng đất nước; khắc phục tụt hậu về kinh tế là một trong những phương
thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa quan trọng nhất; đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" trong nội bộ và
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng là ngăn
chặn, đẩy lùi, đi đến triệt tiêu những “nhân tố tự huỷ” ngay trong lòng chế độ là
một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc có hiệu quả nhất để giữ bản chất
chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng các yếu tố của chủ nghĩa xã hội, làm cho nó
phát triển vững chắc, thể hiện rõ tính ưu việt và tiến bộ của chủ nghĩa xã hội, không
để đất nước đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa chính là một mục tiêu quan trọng
của bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3. Vận dụng
Về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin cho rằng: “Một
cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” (1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
từng căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước” (2). Đây là triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển
đất nước theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt Nam.
Nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với quá trình
đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức, tư duy, lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ

13
quốc đã không ngừng phát triển, đổi mới, phù hợp với tình hình thực tiễn của
từng giai đoạn cách mạng.
Thống nhất với các đại biểu tại Hội thảo về quan điểm cơ bản trong lý luận và
thực tiễn, Chủ tịch nước nhấn mạnh 6 nhiệm vụ trọng tâm để bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới.
Đó là, phải luôn giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước quyết
định phẩm chất cách mạng, quyết định sự thắng lợi toàn diện của sự nghiệp quốc
phòng an ninh và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ 2, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cần nâng
cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị với
nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nâng cao tinh thần cảnh giác và có ý
thức giữ gìn đất nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển kinh
tế-xã hội.
Thứ 3, cần phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới, cần phát huy mạnh mẽ sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ cao nhất sự
đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực,
tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài ra, cần tăng cường sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, triển khai đồng bộ nhóm giải pháp có tính chất
chuyên sâu, trong đó xây dựng "thế trận lòng dân" để bảo vệ Tổ quốc được coi
là giải pháp nền tảng, một trong những nhiệm vụ thường xuyên, là vấn đề hệ
trọng, cấp thiết để bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ 4, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và
cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt, không lơ là,
mất cảnh giác trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Thứ 5, cần kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đây là 2 nhiệm vụ xuyên suốt của cách mạng nước ta, là quan hệ có tính
quy luật trong truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Vì thế,
nhận thức được việc này trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay làm
cơ sở cho những chỉ đạo thực tiến là vấn đề quan trọng, cấp thiết. Trong đó,
nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt,
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên.
Thứ 6, cần xây dựng Đảng ngang tầm thời kỳ nhiệm vụ mới. Tổ chức quán
triệt và thực hiện nhất quán đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, giữ nước từ sớm, từ xa.
Bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa; tranh thủ tối đa các nguồn lực bên

14
ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự biểu hiện
sâu sắc quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội. Đó là mối quan hệ chiến lược, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhận thức sâu
sắc và giải quyết thành công mối quan hệ ấy. Nhờ đó, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự đồng lòng ủng hộ và nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử, khẳng định con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; lấy phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên. Theo đó, khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì không một lúc nào được lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Điều đó phù hợp
với thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong xu thế phát triển của thế giới đương
đại.
4. Liên hệ
Lòng yêu nước là tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng đem hết
khả năng của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Lòng yêu nước bắt nguồn từ
những tình cảm bình dị nhất, gần gũi nhất; là sự phát triển từ tình cảm gắn bó
với hàng xóm, quê hương và được nâng lên thành lòng yêu nước. Bản thân mỗi
người luôn có lòng tự hào về con người, quê nhà, quốc gia, anh hùng hào kiệt,
danh nhân văn hóa,...; luôn có tình thương yêu đối với đồng bào, giống nòi, dân
tộc, phải cảm thông sâu sắc nỗi đau của đồng bào, dân tộc, mong muốn đồng
bào mình được sống ấm no, hạnh phúc; cần cù và phát minh sáng tạo trong lao
động để kiến thiết xây dựng quốc gia ngày càng giàu đẹp.
Trách nhiệm của người sinh viên, là tầng lớp trí thức, có sự hiểu biết, năng
động và sáng tạo, lại đang được tiếp thu những kiến thức khoa học của nhân
loại, là nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước trong thực tiễn hội nhập
toàn cầu. Tuy nhiên, mỗi sinh viên cũng cần được sự hỗ trợ, định hướng và dìu
dắt của Đảng, Nhà nước, nhà trường và toàn xã hội, do đó mỗi người học không
những chấp hành đúng và đủ các quy định của Nhà trường về đảm bảo an ninh
trật tự mà còn phải tham gia tích cực vào các phong trào bảo vệ an ninh - trật tự
của địa phương như: Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư; phong trào Toàn dân phòng chống ma túy, tự phòng, tự quản, tự bảo
vệ; phong trào Toàn dân tham gia cảm hóa giáo dục người lầm lỗi cũng như các
phong trào bảo vệ an ninh trật tự khác,....
Để thực hiện được các nội dung trên sinh viên thông qua các hoạt động của
Đoàn thanh niên, các hoạt động khác của nhà trường để lồng ghép các nội dung
của phong trào xây dựng, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Việc góp sức mình vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là điều mỗi công dân cần thiết phải thực hiện.
Tuy nhiên, để tránh bị kẻ xấu lợi dụng, trục lợi, chúng ta nên yêu nước một cách
văn minh và có hiểu biết; tuyệt đối tránh xa các nguồn thông tin không có tính

15
xác thực để tránh rủi ro bị các thế lực thù địch qua mắt bằng các luận điệu phản
động.

KẾT LUẬN

Đất nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn trong quá trình
phát triển, từ năm 19, khó khăn, thách thức sẽ gia tang, đà tăng trưởng -2020, do
tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID là vật chất, công việc... đều gặp rất
nhiều dân dù kinh tế của nước ta bị chặn lại, đời sống của người khó khăn. Thế
giới đang đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế lớn và nhiều ảnh hưởng khác,
tình hình an ninh khu vực và thế giới vẫn diễn biến phức tạp,...Trong trường hợp
này, những bài học của Cách Mạng Tháng Tám vẫn còn giá trị và có ý nghĩa
tích cực đối với công cuộc chấn hưng nước Việt Nam hiện nay. Bài học nắm
thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám phải được vận dụng có hiệu quả trong suốt
của mình để vượt qua khó tình hình hiện nay, khi Đảng cần tỏ rõ bản lĩnh chính
trị và trí tuệ sáng khăn, đưa đất nước phát triển bền vững. Muốn thế, bản thân
Đảng phải luôn chú trọng tự chỉnh đốn, tiêu cực trong Đảng, nhất là tham
nhũng, lãng phí, khắc phục cho được tình hình ác phòng và chống đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Những bài một bộ phận không nhỏ
cán bộ, học của Cách mạng Tháng Tám vận dụng vào giai đoạn hiện nay, đồng
thời đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đã xung cán bộ, đảng viên đã xung cán bộ, nhất là
cán bộ lãnh đạo phải luôn có bản lĩnh.Cách mạng Tháng Tám, cán bộ đã xung
phong sẵn sàng hy sinh tính mạng cho cách mạng. Giờ đây, điều kiện hy sinh ấy
không còn nữa, nhưng có sự đòi hỏi những hy sinh lớn về nhiều mặt. Rất cần đội
ngũ cán bộ như Cách mạng Tháng Tám, những người đặt lợi ích cá nhân của
mình dưới lợi ích của Đảng, cách mạng và nhân dân. Luôn luôn gương mẫu về
mọi mặt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng tốt, nhân cách cao
thượng đã lãnh đạo toàn dân phong trào cách mạng tiến lên. Giai đoạn hiện nay,
cần củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn giành thắng lợi của cách mạng.
kết toàn dân tộc để đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến bộ hơn, bền vững hơn.
Trải qua những thử qua thách đã chứng tỏ sức mạnh của tập thể, sức mạnh chính
trị, sức mạnh đồng tâm hiệp lực vượt qua hiện nay. Đoàn kết dựa theo bài học
của Cách mạng tháng tám, hiện nay cần tích cực thực hiện giáo dục về chính trị,
nâng cao tinh thần yêu nước, phản bác và chống lại các quan điểm, hành động
dân tộc phải luôn kết hợp với đấu tranh phòng, sai trái của các thế lực thù địch.
Đại đoàn kết phải luôn kết hợp với đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình,
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống mọi hành vi phá hoại và làm tổn
hại đến sự đoàn kết đại dân tộc, chống lại kích động hận thù dân tộc.

NGUỒN THAM KHẢO:

16
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t. 37, tr. 29
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9,
tr. 59
- Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương: https://hdll.vn/
- http://mod.gov.vn/
- Tạp chí Cộng Sản: https://tapchicongsan.org.vn/

https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_th%E1%BA%BF_gi
%E1%BB%9Bi_th%E1%BB%A9_hai#Ch%C3%A2u_%C3%81

https://duongloicachmangcuadcsvn.wordpress.com/2013/10/22/su-chuyen-
huong-chi-dao-chien-luoc-cua-dang-giai-doan-1939-1941/

17

You might also like