You are on page 1of 53

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA



BÀI TẬP LỚN

MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN

ĐỀ TÀI: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG


LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TỪ NĂM
1930 ĐẾN NĂM 1945

Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Bích Hồng

LỚP DT08--- NHÓM 4 --- HK 213


Thành Phồ Hồ Chí Minh 7/2022
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 4

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký

1. Nguyễn Hoàng Hữu 1913607 Phần mở đầu; Kết Luận; Tổng


hợp bài làm 100%
Hùng

2. Lương Ngọc Nam Huy 1913523 Chương 3: Mục 3.2; Tiểu kết
100%
chương 3

3. Đặng Tiến Huy 2013280 Chương 2: Mục 2.1.2 +2.2; Tiểu


100%
kết chương 2
4. Nguyễn Thị Thanh 2013349 Chương 1, tiểu kết chương 1,
100%
Chương 2: Mục2.1.1
Huyền
5. Cao Trần Gia Khang 2013417 Chương 3 : mục 3.1
100%

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

Lương Ngọc Nam Huy


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................3
Chương 1 VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ, KHAI THÁC THUỘC
ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA
ĐẢNG................................................................................................................................ 3
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước khi Đảng ra đời...................................................3
1.1.1. Tình hình thế giới, Việt Nam..................................................................................3
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ cuối
thế thể XIX đến đầu năm 1930.........................................................................................6
1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và Hội nghị thành lập Đảng...9
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên.................................................................................12
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1................................................................................................15
Chương 2 LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG (1930 -
1939)................................................................................................................................ 17
2.1. Luận cương chính trị..............................................................................................17
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị.................................................................17
2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị.....................................................................17
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2................................................................................................30
Chương 3 CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945 VÀ SỰ
HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC................32
3.1. Bối cảnh lịch sử mới và chủ trương của Đảng (1939-1945)..................................32
3.1.1. Bối cảnh lịch sử mới và những yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam........................32
3.1.2. Chủ trương của Đảng...........................................................................................33
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.......................40
3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh.............................................................................40
3.2.2. Giá trị việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945) đối
với sự phát triển của cách mạng Việt Nam....................................................................42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3................................................................................................44
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................48
PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt việc khủng hoảng đó và trở
thành đảng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng quyết định đến thành công trong cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách
mạng Việt Nam giai đoạn đó. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh
giá là sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan
trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám
năm 1945 là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thành công đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó việc Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang và đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của
Đảng Cộng sản và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Để khẳng định định đường
lối đó, Đảng Cộng sản đã trải qua một quá trình nhận thức thực tiễn và vận dụng, phát
triển lý luận cách mạng. Đó là một quá trình đấu tranh nội bộ, có lúc rất gay gắt, xung
quanh hai quan điểm về chiến lược đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, đi tới khẳng
định đường lối chiến lược giải phóng dân tộc và đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến
thành công.

Để nhận thức sâu sắc hơn về quá trình Đảng lãnh đạo và phát triển đường lối Cách
mạng giải phóng dân tộc.Vì vậy, nhóm em đã quyết định trọn đề tài “Quá trình hình
thành và phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của đảng từ năm 1930
đến năm 1945 ” làm bài tập lớn để kết thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

1
Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng;
Hai là, phân tích được nội dung của Luận cương chính trị, làm rõ ưu điểm, hạn chế
của Luận cương và chủ trương của Đảng từ năm 1930 đến năm 1939;
Ba là, làm rõ những chủ trương của Đảng từ năm 1939 đến năm 1945 và sự hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng.
Bốn là, làm rõ giá trị của việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đối
với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

2
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ, KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA
THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước khi Đảng ra đời
1.1.1. Tình hình thế giới, Việt Nam
Tình hình thế giới

Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản trên thế giới có những chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống kinh tế-xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa
phát triển mạnh, yêu cầu về thị trường tăng cao. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính
sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài đẩy mạnh các hoạt động
xâm lược các quốc gia ở các khu vực: châu Á, châu Phi và Mĩ-Latinh, biến họ trở thành
thuộc địa của mình và ra sức áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.

Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở
nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt. Trong bối cảnh đó, các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng
khỏi sự thống trị của các nước đế quốc thực dân, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc
mạnh mẽ, nhất là ở châu Á. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành
một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tư bản, thực dân, bên cạnh phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.

Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã làm biến đổi sâu sắc tình hình
thế giới lúc bấy giờ, có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ
nghĩa; chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới
trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
3
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản, trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới
được thành lập, thúc đẩy sự ra đời các đảng cộng sản và dẫn đến cao trào cách mạng thế
giới (1919 - 1923).

Tình hình Việt Nam

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Đó cũng là thời
điểm chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, triều đình nhà
Nguyễn từng bước thỏa hiệp với Pháp.

Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực của
chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu
nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương,
chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế
độ cai trị riêng. Đồng thời chúng còn gây chia rẽ dân tộc thù hận giữa ba miền, giữa các
tôn giáo, các dân tộc, các đảng phái…

Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929), trong đó lấy Việt Nam là
trọng điểm. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột
tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình
thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đầu tư vào ngành khai
mỏ, xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc
địa. Thực dân Pháp du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam làm
quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành lên nhiều đô thị mới, những trung tâm
kinh tế và tụ điểm cư dân mới.

Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng xây dựng nhà tù nhiều
hơn trường học. Trong các trường học chúng mở dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo một đội
ngũ tay sai ở thuộc địa. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế

4
giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu. Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ.

Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Giai cấp địa chủ
câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân; tuy nhiên, trong nội bộ
địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá, một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ
khác nhau. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực
dân Pháp và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề; tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai
cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai,
tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống
tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với
giai cấp nông dân, bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị
tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính
trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu
tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm các ngành nghề tự do…
đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế
quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước
và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt
Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và
phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong
đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược.

Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội; đặc biệt là sự ra đời của giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam. Các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất
nước, ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Tính chất xã hội

5
Việt Nam đã thay đổi, chuyển từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến; từ đó dẫn đến sự ra đời phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy, nhiệm vụ Việt Nam đặt ra cần phải giải quyết đó
chính là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho dân tộc và xóa bỏ chế độ
phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là vấn đề ruộng đất. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ cuối
thế thể XIX đến đầu năm 1930
Những chính sách cai trị và khai thác của thực dân Pháp, khiến cho mâu thuẫn trong
xã hội ngày càng trở nên gay gắt đặc biệt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp. Từ đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta từ cuối thế kỷ XIX
đến đầu năm 1930 chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản nhằm giải quyết nhiệm vụ chống đế quốc, giải phòng dân tộc. Tuy
nhiên, các phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đều không mang lại kết quả.
Hệ tư tưởng phong kiến:

Phong trào Cần Vương – phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến dưới sự
lãnh đạo của giai cấp phong kiến, do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng.
Hướng ứng lời kêu gọi của phong trào Cần Vương, nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra sôi nổi
và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên,
ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp toàn thể các tầng
lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng chiến chống Pháp trên
toàn quốc nữa. Phong trào Cần Vương đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi
nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896); cũng là chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp
phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam.
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa
Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường
chống thực dân Pháp. Khởi nghĩa kéo dài mấy chục năm, bị Pháp đàn áp và thất bại vào

6
năm 1913 bởi vẫn còn mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả năng mở rộng
hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Hệ tư tưởng tư sản:
Giai đoạn trước chiến tranh Thế giới thứ nhất:
Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu lãnh đạo với chủ trường tập hợp lực lượng với
phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như Nhật Bản. Ông chủ
trương tổ chức lực lượng ở trong nước và tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài, trước hết là
Nhật Bản. Phan Bội Châu cùng với Nguyễn Hàm và một số người khác thành lập Hội
Duy Tân nhằm đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập thành lập chính thể quân chủ lập
hiến ở Việt Nam. Ông đã sang Nhật Bản cầu viện, tổ chức phong trào Đông du đưa thanh
thiếu niên sang học tập ở Nhật Bản để chuẩn bị lực lượng chống Pháp. Phong trào Đông
du ban đầu diễn ra thuận lợi nhưng từ tháng 8–1908 trở đi thực dân Pháp cấu kết với
Chính phủ Nhật đàn áp phong trào. Sau đó, dưới sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi
(1911) tại Trung Quốc; 6–1912, Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội
với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thànhh lập nước
cộng hòa dân quốc Việt Nam. Tuy nhiên, kế hoạch của Hội lại thiếu rõ ràng. Ngày 24-12-
1913, Phan Bội Châu bị bắt và bị giam ở nhà tù Quảng Đông cho tới đầu năm 1917 và bị
quản chế tại Huế cho đến khi ông mất vào năm 1940. Từ đó chấm dứt sự ảnh hưởng của
xu hướng bạo động của tổ chức Việt Nam Quang Phục hội đối với phong trào yêu nước
Việt Nam.
Phan Châu Trinh là người tiêu biểu cho xu hướng canh tân cứu nước ở Việt Nam đầu
thế kỷ 20. Ông hoan nghênh việc Phan Bội Châu đưa thanh niên ra nước ngoài học tập và
phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục trong nước nhưng ông phản đối chủ trương bạo
động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua của Phan Bội Châu mà chủ trường cải
cách đất nước. Phan Châu Trình cho rằng “bất bạo động, bạo động tắc tử”1; phải “khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”2, bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện quyền, khai
thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện được chủ trương ấy, Phan Châu Trinh

1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội 9-2019, tr. 19
2
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội 9-2019, tr. 19

7
đã đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Đó chính là hạn chế trong xu
hướng cải cách để cứu nước của Phan Châu Trinh “đặt vào lòng độ lượng của Pháp cái
hy vọng cải tử hoàn sinh cho nước Nam,… Cụ không rõ bản chất của đế quốc thực dân”1.
Do vậy khi phong trào Duy Tân lan rộng khắp cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, chính quyền
thực dân thẳng tay đàn áp phong trào đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn,
chém giết những người cầm đầu. Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Huân và
hàng trăm người khác bị bắt đầu đi Côn Đảo, Lao Bảo. Phong trào đồ giảm thuế, chống
đi phu tan trả dần vào cuối tháng 5–1908. Tháng 12–1907 thực dân Pháp ra lệnh đóng
cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục phản ảnh sự kết thúc xu hướng cải cách trong phong
trào cứu nước của Việt Nam.
Sau chiến tranh Thế giới thứ nhất:
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực
kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt
đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với
những hình thức khác nhau:
Năm 1919–1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp
trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá (1919); chống
độc quyền thương cảng Sài Gòn (1923); chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ;
đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản
và địa chủ lớp trên; đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng;
nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi
vào con đường thỏa hiệp.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản
thành thị và tư sản lớp dưới.
Dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của Pháp, Việt Nam đã đặt ra yêu cầu
cần phải chống thực dân Pháp giải phóng dân tộc và xóa bỏ chế độ phong kiến. Các
phong trào yêu nước ở Việt Nam theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản đã
1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội 9-2019, tr. 19

8
diễn ra; tuy nhiên, do thiếu đường lối đúng đắn để giải quyết triệt để những mẫu thuẫn cơ
bản, chủ yếu là xã hội; thiếu tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo dân tộc;
chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù; thiếu lực lượng
cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX đều
thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phòng trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX có ý nghĩa quan trọng là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc
ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử; chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư
tưởng phong kiến và tư sản đã bế tắc, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ
nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh; nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra
cho những người yêu nước Việt Nam là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong,
có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc bởi đất nước Việt Nam đang rơi
vào cảnh khủng hoảng về đường lối cứu nước.
1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và Hội nghị thành lập Đảng
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà
yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn Tất
Thành đã ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc năm 1911. Gần mười nǎm bôn ba
khắp các châu lục (1911-1920), Người đã nhận thức một cách rạch ròi: “dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột”1; từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp
bức. Trong suốt những năm hai mươi của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ năm 1911 – 1916, qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, Người đánh giá
cao tư tưởng tự do, bình đẳng bác ái về quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản:
Cách mạng Mỹ (1776) và Cách mạng Pháp (1789). Bên cạnh đó, Người cũng nhận ra hạn
chế của các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp “chưa đến nơi” vì quần chúng nhân dân
vẫn còn đói khổ. Từ năm 1917 – 1920, Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tác
1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội 9-2019, tr. 21

9
động mạnh mẽ tới nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Người từ nước Anh trở lại nước
Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiều con đường cách mạng Tháng
Mười Nga, về V.I.Lênin. Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin. Những luận điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Từ đó, Người xác định con đường giải
phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai cấp vô sản mới thực sự giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị: Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Những quan điểm về
cách mạng giải phóng dân tộc của Người được thể hiện qua các sách báo, tài liệu gửi về
Việt Nam như: Báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, Bản án chế độ thực
dân Pháp, Đường cách mệnh…
Hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
Lực lượng cách mạng bao gồm “sỹ, nông, công, thương”, trong đó công – nông là
“chủ cách mệnh”, “là gốc cách mệnh”…
Lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản.
Quan hệ với cách mạng thế giới: Cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong quỹ đạo
của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có quan hệ mật
thiết với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng phải chủ động và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Phương pháp cách mạng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy phải động
viên, tổ chức và lãnh đạo đông đảo quần chúng… Quần chúng một khi được giác ngộ, có
tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch.
Tháng 6 – 1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc). Với sự ra đời, hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh

10
niên; cùng với hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, đã
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh của công nhân, phong trào yêu nước ở Việt Nam
phát triển theo khuynh hướng vô sản.
Hội nghị thành lập Đảng
Năm 1928-1929 là giai đoạn đỉnh cao của các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng vô sản. Với hơn 40 cuộc đấu tranh có quy mô và chất lượng đã đem đến một kết
quả là ba tổ chức cộng sản đầu tiên của Việt nam ra đời trong năm 1929: Đông Dương
Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929), Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn (9/1929).
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trong vòng nửa cuối năm 1929, chứng tỏ: lý luận cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thấm sâu trong phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam; làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn; tuy nhiên cũng làm
cho lực lượng và sức mạnh của cách mạng bị phân tán. Vì thế, yêu cầu bức thiết lúc bấy
giờ là cần phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong
trào cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm về Hương Cảng, chủ động triệu tập,
chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng. Thành phần tham gia: một đại biểu của Quốc tế Cộng
sản, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, hai đại biểu của An Nam Cộng sản
Đảng.
Nội dung của Hội nghị:
Thứ nhất, bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản ở Đông Dương; thứ hai, định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam; thứ ba,
thảo luận Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng; thứ tư, định kế hoạch thực hiện việc
thống nhất trong nước; thứ năm, cử một Ban chấp hành Trung ương lâm thời.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đến ngày 24 – 02 – 1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng
duy nhất được hoàn thành với sự gia nhập của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.

11
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Hội nghị đã giải quyết được vấn đề cần phải có
một Đảng Cộng sản thống nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là
sản phẩm của sự kết hơp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo
cách mạng. Đồng thời, Hội nghị cũng đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng và
Sách lược vắn tắt của Đảng; hai văn kiện đã phản ánh về hướng phát triển và những vấn
đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiên trên
là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên bao gồm các tài liệu: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, đều do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam
thông qua phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam – một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc ngày càng gay gắt cần
phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chiến lược
được nêu ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách
mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Chống đế quốc
và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho
dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu.
Về phương diện xã hội là làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền
và phổ thông giáo dục theo công nông hóa; về phương diện chính trị: đánh đổ chủ nghĩa
đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập ra

12
chính phủ công nông binh và quân đội công nông; về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái,
bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân
dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày
nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thi hành luật ngày làm tám giờ. Những nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam vừa thể hiện tính cách mạng toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc
ách thống trị, giải phóng dân tộc, đặc biệt là giải phóng cho giai cấp công nhân và nông
dân.

Lực lượng cách mạng: Tập hợp đại bộ phân giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
phải dựa vào dân cày nghèo, lãnh đạo nông đân làm cách mạng ruộng đất. Hết sức liên
lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt… để kéo họ vào phe vô
sản. Phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập…

Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục đại bộ phận và làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng, phải rất cẩn thận trong khi liên lạc với các giai cấp không
khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: phải đi bằng con đường bạo
lực cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được thỏa hiệp.
Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về
phía giai cấp vô sản, nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải
đánh đổ”.

Quan hệ cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất
là giai cấp vô sản Pháp.

Tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh được thể hiện ở những vấn đề sau:

Cương lĩnh dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Cương lĩnh khẳng
định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và

13
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Qua đó, ta thấy được rằng Đảng đã nhận thức rõ con đường
phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ đọc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tư sản dân quyền là giải quyết vấn đề quyền độc
lập của dân tộc, quyền tự quyết của dân tộc, quyền dân chủ cho người dân, bởi mâu thuẫn
giữa nông dân và địa chủ không gay gắt. Theo Hồ Chí Minh, ở một nước thuộc địa với
những tàn tích phong kiến nặng nề, nông dân dường như không có gì cả thì địa chủ tài
sản cũng không lớn và vì vậy mâu thuân không gay gắt, mà các giai cấp tầng lớp có
chung mâu thuẫn là thực dân Pháp; do vậy, mâu thuẫn không gay gắt và vấn đề dân chủ
quan trọng hơn nên Người đã đặt thổ địa cách mạng ra khỏi cách mạng tư sản dân quyền.
Đánh đuổi Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến (chống phong kiến về chính trị); sau đó
mới giải quyết vấn đề chống phong kiến vể kinh tế.

Về lực lượng cách mạng: Ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của
cách mạng thì phải tranh thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa
chủ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công
nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yiêu nước do đó phải tranh
thủ kéo họ về phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ
giải phóng dân tộc của Cương lĩnh.

Về lãnh đạo cách mạng: Cương lĩnh xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với cách mạng, bởi Đảng là một chính đảng của giai cấp công nhân.

Về quan hệ với cách mạng thế giới: khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới. Vì giai cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết với nhau
để đàn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhận ở chính quốc và phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên cách mạng ở cách nước thuộc địa muốn
thắng lợi thì phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới.

Tóm lại, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ảnh một cách súc tích các
luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội Việt nam trong những năm 20 của
thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam; đánh giá
14
đúng đắn thái độ các giai cấp tầng lớp trong xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Từ đó xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; đồng thời, xác định
phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng để thực hiện đường lối chiến
lược đã đặt ra.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1


Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang
thân phận người dân mất nước; đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Tính chất xã hội
Việt Nam đã thay đổi, chuyển từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến; từ đó dẫn đến sự ra đời phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, nhiệm vụ Việt Nam đặt ra hai yêu cầu cần phải giải
quyết: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ
yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam theo khuynh hướng chính trị phong kiến
và tư sản đã diễn ra để giải quyết nhiệm vụ trên nhưng đều không thành công. Mặc dù
thất bại nhưng những phòng trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý nghĩa
quan trọng chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế
tắc, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách
mạng Hồ Chí Minh. Từ đó, đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho những người yêu nước Việt
Nam là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn
để giải phóng dân tộc. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng
khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặc lịch
sử vĩ đại: Cách mạng Việt nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản
thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất
của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo bản lĩnh của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết nhất trí của những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì lợi
ích của giai cấp và dân tộc; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong

15
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng; là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo
theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh; xác định đúng đường lối cho cách mạng Việt
Nam; từ đó, đi đến xác định phương hướng cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng
cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra; phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan
điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.

16
Chương 2
LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG (1930 - 1939)
2.1. Luận cương chính trị
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị
Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng xác định
nhiều nội dung quan trọng, phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Cương lĩnh khẳng định
Đảng đóng vai trò lãnh đạo quần chúng nhân dân, liên lạc với các giai cấp tầng lớp khác
nhau, đoàn kết các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới để hình thành mặt
trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, thực hiện xóa bỏ chế độ phong kiến.

Tuy nhiên, Cương lĩnh lại không phù hợp với quan điểm của Quốc tế Cộng sản về vấn
đề giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa nên bị loại bỏ. Trong tình hình đó, nhiệm
vụ bức thiết là phải có một đường lối mới cho vấn đề giải phóng dân tộc ở Đông Dương.

Tháng 4-1930, Trần Phú từ Liên Xô về nước. Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung
vào Ban chấp hành trung ương Đảng. Ngày 14 đến 30-10-1930, hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị thông qua
nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ của Đảng, Điều lệ Đảng và điều lệ các tổ chức quần
chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng
Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, cử Trần Phú là Tổng bí thư.

2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị


Luận cương chính trị xác định mâu thuẫn thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn
giai cấp gay gắt ở Đông Dương giữa “một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao
khổ với một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa” 1. Chỉ ra mâu thuẫn
về giai cấp và kinh tế ở xã hội Việt Nam. Phân chia mâu thuẫn giữa người giàu và người
nghèo. Đặt tư sản Việt Nam và địa chủ Việt Nam cùng một phe với đế quốc thực dân
Pháp.
Từ đây thấy được Ban chấp hành Đảng khi đó đã áp dụng một cách máy móc máy
móc lí luận Mác-Lê nin, không đánh giá đúng tình hình thực tiễn tại Đông Dương nói
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 94.

17
chung và Việt Nam nói riêng. Mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam là có song không gay gắt
như đánh giá của Luận cương Chính trị.
Giữa nông dân và địa chủ mâu thuẫn không gay gắt bởi lẽ trong tình cảnh là nước
thuộc địa thì nông dân dường như chẳng có gì thì tài sản địa chủ cũng không lớn, đồng
thời minh chứng rằng mâu thuẫn ấy tồn tại trong suốt lịch sử dân tộc, tuy vậy khi có giặc
ngoại xâm thì nông dân bắt tay với thế lực địa chủ, phong kiến cùng nhau bảo vệ độc lập
dân tộc.
Bên cạnh đó giữa công nhân và tư sản Việt Nam mâu thuẫn cũng không gay gắt. Giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời từ rất sớm do chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897) còn tư sản bản xứ ra đời sau chiến tranh Thế giới lần I (1919) và vừa khi ra đời họ
đã bị thực dân Pháp thống trị. Vì vậy tiềm lực và sự chênh lệch kinh tế giữa tư sản và
công nhân là không nhiều. Theo Hồ Chí Minh trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ gửi quốc tế cộng sản năm 1924, Người đã nêu lên những nhận xét của mình: “đời
sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa”, còn tư sản Việt Nam thì “chỉ là những kẻ
trục lợi khá giả”.
Chính vì vậy cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không diễn ra quyết liệt như ở
phương Tây. Trái lại toàn bộ dân tộc Việt Nam, từ nông dân, công nhân cho đến địa chủ,
tư sản, tiểu tư sản, trí thức đều mâu thuẫn với chính sách cai trị của thực dân Pháp. Rõ
ràng việc xác định mâu thuẫn cơ bản trong xã hội lúc bấy giờ của Luận cương Chính trị
là không khách quan, không phù hợp với thực tiễn.
Luận cương chính trị vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương:
nêu rõ cách mạng Đông Dương là “cách mạng tư sản dân quyền” mang tính chất “thổ địa
và phản đế”; sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa”.
Về cơ bản, phương hướng chiến lược được đề cập trong Luân cương Chính trị thống
nhất với Cương lĩnh Chính trị đầu tiên ở chỗ đều làm cách mạng tư sản dân quyền, xem
đây là giai đoạn dự bị để làm xã hội cách mạng, bỏ qua thời kì chủ nghĩa tư bản. Tuy vậy
Luận cương chính trị do Trần Phú khởi thảo lại cho rằng khái niệm “tư sản dân quyền” đã
bao gồm chống đế quốc và phong kiến. Hay nói cách khác, theo Trần Phú Cương lĩnh

18
chính trị đặt giai đoạn “thổ địa cách mạng” ra ngoài cuộc cách mạng tư sản dân quyền là
chưa hợp lí, chưa chặt chẽ. Trần Phú quan niệm mối quan hệ giữa chống phong kiến và
đế quốc rằng: “Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa thì mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa; mà có phá tan
chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa” 1. Thừa nhận rằng Việt Nam
bấy giờ vừa tồn tại sự bốc lột giai cấp mà theo lí thuyết lí luận Mác-Lê nin phải đánh đổ,
vừa có sự hiện diện của bọn đế quốc xâm lăng, nhiệm vụ của cách mạng là phải giải
quyết hai vấn đề trên. Nhưng việc đưa nhiệm vụ đánh đổ phong kiến lồng vào nhiệm vụ
chống đế quốc là chưa hợp lí, bởi tuy phong kiến có phản quốc nhưng không phải là tất
cả, vẫn có nhiều địa chủ yêu nước, câm phẫn với chính sách cai trị của thực dân. Việc đề
ra phương hướng chiến lươc như thế sẽ đẩy địa chủ thành đối tượng phải đánh đổ, điều
này không có lợi cho ta cũng như vô tình làm mất tinh thần đoàn kết dân tộc. Dễ đi vào
vết xe đổ của các cuộc cách mạng thời trước.
Nhiệm vụ cách mạng,
Luận cương Chính trị nêu rõ: “Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất
triệt để” và “Đánh đổ để quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”,
hai nhiệm vụ này có liên hệ khăng khít, tạo tiền đề cho nhau. Luận cương cũng nhấn
mạnh “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”. Từ thiếu sót trong xác
định mâu thuẫn cơ bản và phương hướng chiến lược đã dẫn đến sự bất hợp lí trong nhiệm
vụ cách mạng.
Thứ nhất, như đã phân tích ở trên việc đưa địa chủ là đối tượng cần đánh đổ là không
hợp lí.
Thứ hai, thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ là quá sức đối với cách mạng, tuy có sự
giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản nhưng Đảng ta vẫn còn non trẻ, chưa đủ sức mạnh, lực
lượng, rất dễ dẫn đến việc nhiệm vụ này làm không xong, nhiệm vụ kia cũng làm chưa
tới.
Thứ ba, Luận cương không hợp lí ở chỗ làm cho ba nước Đông Dương hoàn toàn độc
lập. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự quyết của mỗi quốc gia dân tộc,
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 98.

19
Campuchia, Lào hay Việt Nam đều có tình trạng xã hội khác nhau, không thể áp dụng
chung một phương hướng, nhiệm vụ. Đồng thời phạm vi nhiệm vụ quá rộng dẫn đến
không khai thác triệt để tinh thần dân tộc, hơn nữa có thể nói đây là nhiệm vụ quá sức đối
với nhân dân Việt Nam.
Lực lượng cách mạng
Luận cương chính trị xem “giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của
cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh”. Xem
tư sản thương nghiệp, tư sản công nghiệp ở phe đế quốc; xem giai cấp tiểu tư sản: bộ
phận thủ công nghiệp có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách
mạng; tiểu tư sản trí thức có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái trong
thời kỳ đầu. Rõ ràng, Trần Phú đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội VI Quốc tế
Cộng sản (1/9/1928), đem tư tưởng mang nặng tính tả khuynh này áp dụng vào Việt
Nam. Thực hành một cách nóng vội, chủ quan các lí luận Mác-Lê nin, đánh giá không
đúng thái độ của các giai cấp đối với cách mạng, đề cao giá trị cách mạng của vô sản mà
không thấy được vai trò to lớn của các giai cấp còn lại. Điều này là thiếu sót nghiêm
trọng trong việc tập hợp lực lượng cách mạng, không tập hợp sự hưởng ứng của toàn dân
tộc.
Phương pháp cách mạng
Cần phải dựa vào tình hình thực tế trong nước và ngoài thế giới, lúc thường thì đặt
khẩu hiệu “phần ít” bênh vực quyền lợi cho quần chúng như: tăng tiền lương, bớt giờ
làm, giảm thuế,… đem khẩu hiểu “phần ít” ấy phụ thuộc vào khẩu hiệu chính của Đảng
như: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, địa chủ và phong kiến, xứ Đông Dương hoàn toàn độc
lập,… Đồng thời ra sức chuẩn bị cho con đường “võ trang bạo động” đến khi thời cơ chín
muồi thì tiến hành cách mạng giành chính quyền. Phương pháp này hợp lý với thực tiễn,
lực lượng còn yếu trong khi các thế lực thù địch còn đang rất mạnh, cần phải bảo toàn,
tích lũy lực lượng chờ thời cơ có lợi cho ta. Hướng cách mạng đi theo con đường “bạo
động cách mạng” để chống “bạo động phản cách mạng” của đế quốc thực dân Pháp là
hoàn toàn hợp lí vì rõ ràng kẻ thù không lí do gì phải ngồi vào bàn thương lượng với
chúng ta. Luận cương nêu rõ võ trang bạo động “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.

20
Tức là khi không có tình huống có khả năng trực tiếp cách mạng thì cũng hết sức kịch liệt
tranh đấu, mà tranh đấu ở đây không phải là manh động, võ trang bạo động quá sớm mà
cốt là để thị oai, biểu tình bãi công,… kích động quần chúng, kéo họ về cuộc bạo động võ
trang sau này.
Lãnh đạo cách mạng
Luận cương khẳng định: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông
Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng có kỷ luật tập
trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành” 1. Điều
này là hoàn toàn phù hợp với phương hướng chiến lược đề ra và với thực tiễn xã hội Việt
Nam, vì mục tiêu cuối cùng chính là xây dựng Cộng sản Chủ nghĩa mà trước đó là Xã hội
Chủ nghĩa.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Như đã phân tích ở phần nhiệm vụ cách mạng, Đảng xác định phạm vi giải quyết vấn
đề dân tộc ở toàn bộ Đông Dương.
Quan hệ với cách mạng thế giới
Luận cương Chính trị xem cách mạng Đông Dương là bộ phận của Cách mạng Thế
giới: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhứt là vô sản Pháp
để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho sức tranh đấu cách mạng được mạnh
lên”2. Luận cương Chính trị cho rằng phải liên lạc mật thiết với quần chúng cách mạng
thuộc địa và bán thuộc địa nhất là ở Trung Quốc, Ấn Độ,… Đây là điều hợp lí của Luận
cương Chính trị, làm đúng theo tinh thần của Lê nin “Vô sản các nước đoàn kết lại”, các
dân tộc bị áp bứt cần cùng chung chiến tuyến, thành lập mặt trận đấu tranh chung, giúp
đỡ và làm động lực cho nhau trong quá trình giải phóng dân tộc.
2.1.3. Nhận xét Luận cương Chính trị tháng 10/1930.
Ưu điểm
Về tổng thể, Luận cương chính trị trình bày những vấn đề chiến lược, sách lược của
cách mạng Việt, khẳng định lại những vấn đề quan trọng đã được về cập trong Cương

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 104.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 109.

21
lĩnh Chính trị. Điều quan trọng nhất là nhiều nội dung cơ bản giữa Luận cương Chính trị
và Chính cương vắn, Sách lược vắn tắt hoàn toàn thống nhất với nhau như phương hướng
chiến lược của cách mạng; xác định hai nhiệm vụ chống đế quốc - phong kiến; lực lượng
cách mạng là giai cấp công, nông dân; phương pháp cách mạng; quan hệ với cách mạng
thế giới; lãnh đạo cách mạng.
Hạn chế
Ngay khi Đảng bước lên vũ đài chính trị, lãnh đạo phong trào đấu tranh, Cương lĩnh
đi vào thực tiễn đã thổi bùng phong trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết
Nghệ - Tĩnh. Tuy nhiên, trong thực tiễn đấu tranh, do cả những nhân tố chủ quan và
khách quan, đã xuất hiện xu hướng tả khuynh. Tư tưởng nóng vội, nặng về đấu tranh giai
cấp đã xuất hiện. Luận cương Chính trị đã áp dụng một cách máy móc chủ nghĩa Mác –
Lênin nhưng không tìm hiểu rõ tình hình thực tiễn Việt Nam. Mâu thuẫn gay gắt cần giải
quyết trước hết là mâu thuẫn dân tộc với đế quốc không được xem là ưu tiên hàng đầu
trong nhiệm vụ cách mạng. Hội nghị Trung ương tháng 10/1930 đã ra nghị quyết trong
đó phản ánh thực tế chưa đúng đắn, chưa đầy đủ tình hình các lực lượng trong xã hội Việt
Nam khi tất cả giai cấp đều có nhu cầu chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Hội nghị
chưa đánh giá đúng khả năng của giai cấp tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, tiểu tư sản,
trí thức trong việc cùng với công nông giành lấy độc lập dân tộc; do đó chưa có những
quyết sách phù hợp, trong việc lập mặt trận chống đế quốc Pháp. Đánh giá không đúng
tình hình thực tế tất yếu dẫn đến nhận định sai và đề ra chủ trương sai. Do đó Đảng cần
có thời gian hòa mình vào thực tiễn, phân tích đúng tình hình để từng bước khắc phục
hạn chế, chuyển hướng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi.
2.2. Quá trình Đảng từng bước khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị
2.2.1. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3/1935)
2.2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Đại hội được tiến hành trong bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước có nhiều chuyển
biến quan trọng.
Tình hình thế giới

22
Đảng nhận định sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã chia thế giới thành hai
hệ thống đối chọi nhau: hệ thống xã hội chủ nghĩa đang phát triển ở Liên bang Xôviết và
hệ thống tư bản chủ nghĩa đang lâm vào khủng hoảng.
Ở Liên bang Xôviết, sự kiến thiết xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng lợi. Không còn
khủng hoảng kinh tế, không có nạn thất nghiệp, đời sống quần chúng lao đồng được cải
thiện trên mọi phương diện. Các tầng lớp công, nông đều đủ ăn, đủ mặc, trình độ văn hóa
tăng lên rất cao, không người nào là không biết chữ. Những thắng lợi đó làm cho vị thế
Liên bang Xô viết trên trường quốc tế ngày càng lớn mạnh, làm nền tảng, động lực cho
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, do sự gia tăng bóc lột quần chúng lao động quá mức
đồng thời các đế quốc đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh giành thuộc địa lẫn nhau đã dẫn
đến cuộc khủng hoảng kinh tế. Đời sống quần chúng lao động lâm vào tình cảnh thống
khổ, tình trạng thất nghiệp, đồng lương ít ỏi, sưu cao, thuế nặng ngày càng gia tăng.
Nhiều cuộc nổi dậy đấu tranh diễn ra khắp nơi trên thế giới. Có thể nói rằng hệ thống tư
bản chủ nghĩa đang đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Tình hình Đông Dương
Nền kinh tế Đông Dương bị cuốn vào cuộc khủng hoảng kinh tế, hàng trăm nhà máy,
công ty bị đóng cửa, nhiều sản nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Là xứ thuộc địa, nên
quần chúng lao động bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng còn thê thảm hơn xứ tư bản. Số
công nhân bị đuổi việc ngày càng tăng, ruộng đất bị tịch thu ngày một nhiều, thuế má cao
làm tư sản, tiểu tư sản bị phá sản,… Mâu thuẫn giữa nhân dân và đế quốc thực dân ngày
càng sâu sắc. Trước tình cảnh đó bọn thực dân đã ra những chính sách mới nhằm xoa dịu
dân chúng để dân chúng xao nhãng đấu tranh hòng dễ bề đàn áp, chống phá cách mạng.
Chúng cho lập Hội đồng lao tư hòa giải ở Sài Gòn để ngăn ngừa bãi công; lập hàng loạt
ngân hàng cho vay để dụ dỗ tư sản, tiểu chủ; lập ra các hội chẩn bần, cứu tế giả tạo nhằm
che đậy bộ mặt tàn ác hòng lợi dụng, bóc lột quần chúng về sau. Chúng còn cho cải cách
giáo dục, đào tạo tư tưởng phong kiến, trao quyền lại cho Bảo Đại, lập lại chế độ phong
kiến Nam triều làm tay sai cho đế quốc. Chúng muốn đem những giáo điều lạc hậu của
phong kiến áp đặt vào quần chúng, để nhân dân xem toàn quyền Đông Dương là vua còn

23
bộ máy của chúng là triều đình hòng dễ bề cai trị. Chúng còn đê hèn chia rẻ quần chúng
bằng cách cho phản động ở Lào và Campuchia hô hào “đế quốc chủ nghĩa An Nam”.
Những chính sách này cho thấy chính quyền thực dân đã có phần mỏi mệt, suy yếu trong
việc cai trị Đông Dương. Nắm bắt cơ hội đó, Đảng đã từng bước khôi phục, củng cố lại tổ
chức Đảng và đi đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất tháng 3/1935.
2.2.1.2. Nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ Nhất
Nhiệm vụ cách mạng chiến lược
Thứ nhất, củng cố và phát triển Đảng. Sau khi bị đế quốc đàn áp, khủng bố dã man
Đảng hầu như tan rã, việc tập hợp các chiến sĩ cách mạng, khôi phục lại Đảng được hội
nghị đánh giá là sự thắng lợi rất lớn. Đa số các đảng viên trong Đảng đều là cán bộ trẻ,
được đào tạo kịp thời nhằm thay thế các đảng viên bị địch bắt thời kì 1930-1931. Chính
vì vậy cần phải quán triệt lí luận Mác-Lê nin đấu tranh chống hai mặt tả khuynh, hữu
khuynh, làm cho Đảng thống nhất về tư tưởng và hành động. Một điểm mới so với Hội
nghị tháng 10/1930 là mở rộng công tác phê bình và tự phê bình, tốt nhất là tự phê bình
trước quảng đại quần chúng. Trong công tác Đảng, các cán bộ trẻ còn gặp nhiều hạn chế,
khuyết điểm, cần thẳng thắn nhìn nhận và rút kinh nghiệm. Điều này tăng cường tính kỉ
luật nghiêm minh của Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, tăng cường niềm tin
của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điều cần thiết và đúng đắn
nhất là khi chúng ta vừa mới kiến thiết, xây dựng lại Đảng.
Thứ hai, thâu phục quảng đại quần chúng. Rõ ràng trong thời kì bị thực dân khủng bố
trắng, Đảng gần như tan rã, mất liên lạc với quần chúng vì vậy khi Đảng đã khôi phục,
cần tiếp tục gia tăng niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng. Để làm được điều đó
Hội nghị cho rằng Đảng cần ra sức: 1) bênh vực quyền lợi của quần chúng nhân dân, lãnh
đạo các tầng lớp đấu tranh giành quyền lợi bằng các hình thức biểu tình, bãi công. 2)
Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, “mỗi sản nghiệp phải là một thành trì của
công hội vận động”. 3) Thống nhất mặt trận tranh đấu, bị thực dân khủng bố, Đảng bị
chia rẻ thành nhiều tổ chức khác nhau, cần quy tụ lôi kéo quần chúng ra khỏi ảnh hưởng
của quốc gia cải lương. Đây là nhiệm vụ phải thực hiện trong thời gian này, bởi lẽ hiện
đang tồn tại rất nhiều tổ chức đoàn thể phản động, quốc gia cải lương và cách mạng tiểu

24
tư sản. Đảng Cộng sản vừa mới khôi phục, cần phải gây dựng niềm tin trong quần chúng
nhân dân, tập hợp lại lực lượng, thống nhất tinh thần cách mạng.
Thứ ba, chống đế quốc chiến tranh, ủng hộ Xô viết Liên bang và cách mạng Trung
Quốc.
Nhiệm vụ này phù hợp với bối cảnh lịch sử hiện thời, cuộc khủng hoảng kinh tế ở các
nước tư bản đã dẫn đến mâu thuẫn lẫn nhau giữa chúng, các nước đế quốc đang gấp rút
chuẩn bị khí tài nhằm cho cuộc chiến giữa chúng và can thiệp vào cách mạng Liên xô và
Trung Quốc. Hội nghị chỉ ra rằng: “Xô viết Liên bang là Tổ quốc của vô sản và áp bứt
trên toàn thế giới” và “cách mạng Tàu là đội tiên phong cách mạng phản đế và địa điền ở
các xứ thuộc địa và bán thuộc địa”. Nhận định này hoàn toàn hợp lí, Đảng cần tuyên
truyền cho quần chúng nhân dân hiểu rõ sự thành công của cách mạng Liên Xô là niềm
tin và cuộc cách mạng Trung Quốc là động lực cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Nhiệm vụ cách mạng cụ thể
Tại Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền
và khi thành công sẽ thành lập nhà nước công nông binh Xô viết Đông Dương. Tiến hành
cách mạng tư sản dân quyền với hai nhiệm vụ rõ rệt, mật thiết với nhau là cách mạng
phản đế và cách mạng địa điền. Đảng cho rằng nhân dân bản xứ đã chia làm hai phe
chống chọi nhau: đồng minh của đế quốc Pháp – tay sai phong kiến, một phe là động lực
chống đế quốc Pháp và chống các giai cấp bóc lột bản xứ. Đại hội vẫn chưa xác định
đúng nhiệm vụ hàng đầu, cấp thiết với bối cảnh hiện giờ là giải phóng dân tộc. Đại hội
Đảng vẫn cho rằng “người ta không làm cách mạng phản đế, sau đó mới làm cách mạng
điền địa. Cách mạng chỉ thắng lợi với điều kiện hai cuộc cách mạng ấy gắn bó chặt chẽ
với nhau”1. Nhìn chung, trong việc xác định nhiệm vụ cách mạng cụ thể, Nghị quyết Đại
hội lần thứ Nhất giống với Luận cương Chính trị.
Lực lương cách mạng
Hội nghị vẫn nhất quán với Luận cương Chính trị ở chỗ động lực chính của cách
mạng trong thời kì này chỉ là thợ thuyền, nhân dân lao động (cố nông tức công nhân có
xuất thân là nông dân, bần nông, trung nông) và dân nghèo thành thị. Hội nghị vẫn cho
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, trang 113-132.

25
rằng phong kiến là lực lượng cần phải đánh đổ, tư sản bản xứ thì chưa chủ trương thủ tiêu
ngay nhưng vẫn không là lực lượng cách mạng mà là lực lượng chống cách mạng. Đối
với phú nông thì Đảng xem như là lực lượng tư sản ở thôn quê, vẫn là lực lượng chưa chủ
trương tiêu diệt. Đảng cho rằng phú nông tuy chưa ra mặt chống phá cách mạng phản đế
nhưng khi tiến hành cách mạng địa điền thì cũng ra sức chống phá. Những thành phần
bóc lột trong tiểu tư sản và đại trí thức đều là đồng minh của đế quốc.
Nhìn chung lực lượng cách mạng và thái độ với các tầng lớp vẫn giống với Luận
cương Chính trị, tuy nhiên Hội nghị lần thứ Nhất có cách nhìn thực tiễn hơn, Đảng đã
thấy được sự mâu thuẫn của hầu hết các giai cấp với đế quốc Pháp, thấy được sự phân
hóa trong một số tầng lớp. Nếu như lực lượng nông dân trong Luận cương Chính trị là chỉ
dân cày nghèo khổ thì tại Hội nghị tháng 3/1939 là cố nông, bần nông, trung nông (nông
dân có sự phân hóa, cố, bần nông không có ruộng đất và bị bóc lột, trung nông có ruộng
đất vừa đủ nhưng không bóc lột còn phú nông có dư ruộng đất và bóc lột nông dân lao
động). Đối với tư sản, tiểu tư sản, trí thức, Đảng đã nhận thấy các giai cấp ấy đều mâu
thuẫn với chính sách cai trị của thực dân Pháp đồng thời thấy được tiểu tư sản, trí thức
cũng có sự chia phe bóc lột và không bóc lột giai cấp yếu hơn, tuy nhiên Đảng đã đưa tư
sản về phe của đế quốc, là lực lượng chưa chủ trương đánh đổ. Điều này có thể hiểu, bởi
chính sách xoa dịu của đế quốc đã một bộ phận trong giai cấp tư sản bị lung lay, nhưng
vẫn không khẳng định rằng cả tầng lớp ấy đều đứng về phe chống phá cách mạng. Tuy
Đảng đã có cách nhìn thực tiễn hơn song vẫn còn thiếu sót trong tập hợp lực lượng cách
mạng. Thật ra, trong Đại hội Đảng có lập ra Hội Đông Dương phản đế liên minh, cho
phép cả thảy mọi người, miễn là chấp hành điều lệ và nghị quyết thì được nhận vào liên
minh. Nhưng Đảng đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có quan hệ mật
thiết với nhau, nên tuy nói mọi người đều có thể tham gia liên minh phản đế song vẫn có
sự chọn lọc lực lượng cho phù hợp với nhiệm vụ địa điền.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Hội nghị nêu rõ tôn chỉ Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo vô sản làm cách mạng
phản đế và địa điền, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Bên cạnh đó có điểm mới,
chính là Đảng công nhận khẩu hiệu “Cho các dân tộc được quyền tự quyết” đã được đề

26
xướng năm 1932 trong Chương trình hành động của Đảng và đã được Quốc tế Cộng sản
hoàn toàn đồng ý. Đảng thừa nhận sau khi đánh đổ đế quốc Pháp ra khỏi Đông Dương,
các dân tộc có quyền tự quyết, nghĩa là họ muốn theo Liên Bang Xô viết Đông Dương
hoặc muốn lập ra nhà nước độc lập, theo chính thể nào cũng được, chính phủ Xô viết
công nông binh Đông Dương quyết không cản trở. Điều này tuy không giảm bớt gánh
nặng cho nhân dân Việt Nam so với Luận cương Chính trị, tuy nhiên tạo động lực cho
các dân tộc Đông Dương chung sức nhau đánh đuổi đế quốc.
2.2.1.3. Nhận xét Nghị quyết Đại hội lần thứ Nhất
Nhìn chung nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ Nhất phần nào tương đồng với
Luận cương chính trị tháng 10/1930. Tuy có nhiều điểm mới như ban hành hàng loạt các
nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ,
binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc thiểu số… nhưng Đảng vẫn
chưa khắc phục được những hạn chế trong việc xác định nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng
dân tộc, thiếu sót trong việc tập hợp lực lượng cũng như khai thác triệt để tinh thần dân
tộc ở Đông Dương.
2.2.2. Chủ trương đấu tranh đòi quần dân chủ, dân sinh (1936-1939)
2.2.2.1. Nội dung Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh (7/1936)
Nhiệm vụ cách mạng
Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền -
phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị
điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”1. Như vậy, về nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta
không có sự đổi mới so với Luận cương Chính trị. Song, xét thấy những nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức đều chưa đạt
tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề
điền địa. Bởi vì, Đảng ta chỉ vừa mới phục hồi hệ thống tổ chức sau khoảng thời gian đấu
tranh gian khổ, vậy nên rất cần thêm thời gian để phát triển cơ sở và tập hợp phong trào
quần chúng.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 139.

27
Thứ hai, mọi tầng lớp xã hội lúc bấy giờ đều mong muốn có được những cải cách dân
chủ nhằm thoát khỏi tình trạng bị vơ vét, bóc lột và khủng bố của bọn cầm quyền phản
động.
Thứ ba, trong khoảng thời gian này, bởi vì Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp do
Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo đã áp dụng các chính sách cai trị ôn hòa hơn đối với các
nước thuộc địa nên đã ban bố một số quyền lợi cơ bản cho Việt Nam, khiến nước ta được
tự do và dân chủ hơn. Điều này đã tạo ra không khí chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta.
Chính vì vậy, Đảng đã nắm bắt được tình tình thực tế để thực hiện những yêu cầu cấp
thiết của nhân dân ta lúc bấy giờ là tự do, dân chủ và cải thiện đời sống. Do đó, nhiệm vụ
chiến lược tạm thời được gác lại để thực hiện nhiệm vụ trước mắt, đó là: chống phát xít,
chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ,
cơm áo và hòa bình.
Lực lượng cách mạng
Nhằm thực hiện những nhiệm vụ trước mắt Ban chấp hành Trung ương quyết định
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, với nòng cốt là liên minh công – nông, bao gồm tất
cả các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau, kể cả những người Pháp có mặt tại Đông Dương. Không phụ thuộc vào dân tộc
nào, dù là người Pháp, người Việt hay các dân tộc thiểu số khác, miễn là họ nhất trí đấu
tranh để thực hiện những yêu sách mà Đảng ta đã nêu ra.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Từ những nội dung về nhiệm vụ và lực lượng cách mạng, có thể kết luận phạm vi
giải quyết vấn đề dân tộc của chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh là trên
toàn Đông Dương.
2.2.2.2. Nhận xét Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)
Chủ trương này chưa khắc phục được các hạn chế của Luận cương chính trị, song, nó
thực sự phù hợp với khả năng và tình hình của Việt Nam lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện
được sự nhạy bén của Đảng khi đã quyết định lựa chọn việc gác lại nhiệm vụ chiến lược
để tập trung cho nhiệm vụ trước mắt là tự do, dân chủ và cải thiện đời sống. Có thể cho

28
rằng, chủ trương này như một bước đệm hỗ trợ cho giai đoạn sau có thể phát triển thuận
lợi hơn.
2.2.3. Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936)
2.2.3.1 Nội dung văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936)
Nhiệm vụ cách mạng
Văn kiện có nêu điểm mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
chống đế quốc và phong kiến. Đảng nhận định “Cách mạng giải phóng dân tộc không
nhất thiết phải gắn kết chặt chẽ với cuộc cách mạng đồn điền. Nghĩa là không thể nói
rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng đồn điền, muốn giải quyết
vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng” 1. Vì vậy,
tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần thiết cho lúc hiện
thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì
có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Chọn địch
nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng dân tộc mà đánh cho toàn thắng.
Lực lượng cách mạng
Đảng xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn bộ nhân dân yêu nước, tất cả các
tầng lớp, giai cấp, dân tộc có mặt tại Đông Dương, có mâu thuẫn dân tộc với các thế lực
đế quốc, tay sai. Đồng thời, Đảng chỉ đạo xây dựng lực lượng cách mạng trong điều kiện
tình thế cách mạng chưa xuất hiện, xây dựng củng cố liên minh công – nông cùng với
phát triển thêm lực lượng từ mọi tầng lớp, giai cấp trong mặt trận dân chủ.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Từ những nội dung về nhiệm vụ và lực lượng cách mạng, có thể kết luận phạm vi
giải quyết vấn đề dân tộc của văn kiện Chung quanh vấn đề về chiến sách mới là trên
toàn Đông Dương.
2.2.3.2. Nhận xét Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936)
Chủ trương này đã thể hiện nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc với cuộc cách mạng đồn điền, rằng chúng không nhất thiết phải
gắn liền với nhau và tùy từng hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, ta phải lựa chọn vấn đề nào
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 152.

29
quan trọng hơn mà giải quyết trước. Điều đó hoàn toàn có nghĩa là nước ta có thể tập hợp
lực lượng toàn dân tộc để chống để quốc trước cho toàn thắng. Việc đặt ra vấn đề này đã
thể hiện được Đảng đã có bước đầu trong việc khắc phục hạn chế của Luận cương chính
trị. Bên cạnh đó, lực lượng cách mạng giờ đây đã có sự tham gia của đông đảo các giai
cấp và tầng lớp xã hội khác của Việt Nam, nêu cao được tinh thần yêu nước của dân tộc.
Đến đây, Đảng đã có thể tập trung đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân đấu tranh
chống đế quốc khi cần thiết. Tuy nhiên, chủ trương này vẫn còn tồn đọng hạn chế chưa
khắc phục được ở Luận cương chính trị, đó là vấn đề về dân tộc vẫn được đặt chung cho
toàn Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc thì phải giải quyết chung cho cả ba nước
Đông Dương, làm ba nước chưa phát huy được quyền dân tộc tự quyết.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua lần họp thứ hai của BCH TW Đảng, có thể nhận định quan điểm của Đảng đã
từng bước phát triển và dần nhận ra sai lầm trong quan điểm của Luận cương chính trị
(10/1930) và hội nghị lần 1 năm 1935. Đảng đã nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về
mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa,
về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối
quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. So với
tình hình trong giai đoạn 1930-1935, Đảng đã có nhiều tiến bộ và đổi mới trong suy nghĩ
về đường lối cách mạng trong giai đoạn này, đó là:
Đảng đã vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo đường lối của Quốc tế Cộng sản
vào điều kiện cụ thể của các dân tộc Đông Dương trong bối cảnh lúc bấy giờ, phù hợp
với tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước, biết lợi dụng một cách khéo léo tranh thủ
những điều kiện cụ thể của tình hình thế giới để thúc đẩy cách mạng Đông Dương phát
triển, biết gác lại nhiệm vụ chiến lược để tập trung cho nhiệm vụ trước mắt bức thiết hơn.
Đảng đã có nhìn nhận lại về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, thể
hiện bước đầu trong việc khắc phục hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10-1930.
Nếu giai đoạn trước đánh đổ đế quốc và phong kiến song hành thì đến nay đã xác định
được việc giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc và đế quốc cần phải được
xem là ưu tiên hàng đầu so với mâu thuẫn giai cấp, tức là có thể ưu tiên, tập trung lực

30
lượng chống đế quốc trước. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa không từ bỏ đấu tranh
giai cấp, Đảng không bảo thợ thuyền dừng đấu tranh giai cấp với tư bản bản xứ, không
bảo nông dân dừng đấu tranh chống địa tô cao và nợ cao lãi mà trái lại, Đảng ra sức tổ
chức quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi hằng ngày, liên kết với những quyền lợi dân
chủ đơn sơ để làm cơ sở cho dân tộc Đông Dương chống nạn phát xít, chống chính sách
thuộc địa phản động. Nhìn chung, những chủ trương trong giai đoạn này đã đánh dấu
bước trưởng thành mới của Đảng trong việc chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng.

Chương 3
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945 VÀ
SỰ HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
3.1. Bối cảnh lịch sử mới và chủ trương của Đảng (1939-1945)
3.1.1. Bối cảnh lịch sử mới và những yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam
Tình hình thế giới

31
Ngày 1/9/1939, quân Đức tấn công Ba Lan mà không tuyên chiến, mở đầu cho chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Daladier thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực
lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp, Chính phủ Pháp đã đầu hàng.
Đức sau khi chiếm được phần lớn các nước ở Châu Âu, đến tháng 6/1941, Đức tấn
công Liên Xô
Nửa cuối năm 1940 quân Nhật mở rộng xuống phía nam Trung Quốc và bắt đầu thôn
tính Đông Dương.
Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển. Tháng
12/1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm
nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và trong đất liền.
Tình hình trong nước
Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố.
Ngày 28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt
Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội, đoàn, đóng cửa
các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người....
Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay
đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính sách tăng cường vơ vét sức người, sức của
để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc.
Tháng 9/1940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đã đầu hàng và câu
kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương. Nhân dân Đông Dương phải
chịu cảnh “một cổ hai tròng” phải chịu sự đô hộ của cả Pháp và Nhật.
Nhiệm vụ thực tiễn Việt Nam đặt ra cần giải quyết
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động
bí mật, chuyển trọng công tác về các vùng nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị.
Ngày 29/9/1939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một thông báo quan trọng chỉ rõ:
“Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề giải phóng dân tộc” 1.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.756.

32
Nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho Đông Dương
độc lập
3.1.2. Chủ trương của Đảng
3.1.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939
Nhiệm vụ cách mạng
Trước bối cảnh đang nóng lên ở quốc tế cũng như trong nước và những biến chuyển
mới trong phong trào cách mạng thế giới cũng như toàn Đông Dương, Đảng ta có những
quyết sách để thay đổi chiến lược giải phóng dân tộc. Với hai cấp độ nhiệm vụ cần phải
thực hiện
Nhiệm vụ cách mạng: Thực hiện cách mạng tư sản độc quyền, sau khi cách mạng tư
sản dân quyền thắng lợi, tiếp tục bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa và tiến lên xã hội chủ
nghĩa.
Nhiệm vụ cụ thể:
Nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền là đánh đuổi đế quốc và bọn
tay sai giành lại độc lập dân tộc.
Hội nghị xác định kẻ thù nguy hiểm và tính chất cụ thể của cách mạng Đông Dương
là đế quốc và bọn tay sai của chúng, xác định tính chất của cuộc cách mạng hiện tại là đế
quốc và bọn tay sai của chúng, xác định tính chất của cuộc cách mạng hiện tại là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị còn nhấn mạnh: “Bước đường sinh tồn của các
dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải
phóng độc lập”1
Mục tiêu chiến lược là cuộc cách mạng tư sản dân quyền không thay đổi, tuy nhiên
nhiệm vụ chống đế quốc được đặt lên hàng đầu.
Lực lượng cách mạng
Để gia tăng và tập trung đông đảo lực lượng cách mạng, Hội nghị quyết định thay đổi
một số khẩu hiệu, điển hình như việc thay khẩu hiệu cách mạng ruộng đất bằng các khẩu

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.536.

33
hiệu chống địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày.
Ngoài ra còn quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Như vậy, với các thay đổi trong khẩu hiệu tuyên truyền và các mặt trận dân tộc, cách
mạng đã liên hiệp các lực lượng dân chủ và tiến bộ đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh. Lực
lượng cách mạng có sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp công nhân, nông dân, tiểu địa
chủ, tiểu trí thức, tiểu tư sản. Dù vậy, Đảng vẫn đề phòng một bộ phận tiểu tư sản có thể
vì lợi ích mà phản cách mạng.
Đảng còn cố gắng kêu gọi sự ủng hộ của quốc tế, đặc biệt là lực lượng vô sản thế giới.
Trong Hội nghị, Đảng đã nêu rõ: “Cuộc cách mệnh còn cần đến những lực lượng dự trữ
gián tiếp như vô sản Pháp, vô sản thế giới, Liên Xô, dân chúng thuộc địa và bán thuộc
địa”1.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Từ những nội dung về nhiệm vụ và lực lượng cách mạng, có thể kết luận phạm vi giải
quyết vấn đề dân tộc của chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh là trên toàn
Đông Dương.
Nhận xét văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần VI tháng 11/1939
So với Hội nghị 10/1930 và chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh (1936
-1939)
Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VI đánh dấu sự trưởng thành trong nhận
thức của Đảng, làm rõ được mối quan hệ giữa phản đế và phản phong. Hơn nữa cụ thể
hóa đường lối cứu nước dựa trên cương lĩnh đầu tiên của Đảng về giải phóng dân tộc
ngay từ khi thành lập Đảng. Đây là bước chuyển đổi từ đấu tranh hòa bình sang đấu tranh
vũ trang – bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để giành chính quyền. Tuy hai
nhiệm vụ phản đế và phản phong vẫn chưa tiến hành nhất loạt ngang nhau, nhưng Hội
cho thấy sự thay đổi trong nhiệm vụ hàng đầu của mình là chống đế quốc.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34
Ngoài ra còn có thêm đông đảo lực lượng tham gia cách mạng, gia tăng không chỉ về
số lượng mà còn chất lượng lực lượng tham gia khi có thêm các tầng lớp tiểu trí thức và
tiến bộ, đồng thời ra sức kêu gọi sự ủng hộ bên ngoài, đặc biệt là tầng lớp vô sản.
3.1.2.2. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940
Tình hình thế giới
Quân Đức và đồng minh gần như đã làm chủ toàn bộ Châu Âu ngoại trừ Liên Xô và
một số nước trung lập.
Quân Nhật tiến vào Đông Dương chiếm lại thuộc địa của các nước Anh, Pháp, Hà
Lan, Mỹ.
Tình hình trong nước
Tháng 6/1940, sau khi đầu hàng phát xít Đức thì Pháp ra sức khủng bố, cướp bóc, bóc
lột và đàn áp quần chúng nhân dân ở Đông Dương. Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào
nổi dậy của nhân dân Đông Dương.
Ngày 22/9/1940, quân Nhật xâm lược đến, Pháp nhượng bộ và cùng với Nhật bóc lột
nước ta.
Các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ liên tiếp nổ ra, nổi bật trong số đó là khởi nghĩa Bắc Sơn
(Ngày 27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (Ngày 23/11/1940) và binh biến Đô Lương (Ngày
13/1/1941) là “những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu
đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”1.
Lãnh thổ Pháp gần như bị Đức chiếm đóng kể cả thủ đô Paris.
Nhiệm vụ cách mạng
Hội nghị lúc này vạch rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp – đế quốc Nhật. Mặt trận dân
tộc phản đế lúc này thực chất là Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp – Nhật ở Đông
Dương. Hội Nghị khẳng định tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất lần trước là đúng.
Tuy nhiên Hội nghị cũng nhấn mạnh: “Mặc dù lúc này khẩu hiệu cách mạng phản đế -
các mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn. Song, nếu không làm được cách
mạng thổ địa thì cách mạng phản đế khó thành công. Tình thế hiện tại không thay đổi gì
tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương”. Qua đó cho thấy,
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.109.

35
dù nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ giải phóng dân tộc nhưng Trung ương
Đảng vẫn chưa thực sự dứt khoát để khẳng định yếu tố tiên quyết của nhiệm vụ phản đế
so với phản phong. Cách mạng trong giai đoạn hiện tại bao gồm tính phản đế và thổ địa.
Lực lượng cách mạng
Hội nghị tiếp tục khẳng định vai trò của liên minh công nông trong cuộc kháng chiến
cần phải được duy trì. Lợi dụng sự mâu thuẫn của Nhật và Trung Hoa, Đảng muốn thống
nhất mặt trận phản đế Đông Dương và Mặt trận kháng Nhật của Trung Hoa để tăng thêm
đồng minh trong việc chống Nhật.
Như vậy, lực lượng tham gia không quá khác biệt so với lần trước.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Từ những nội dung về nhiệm vụ và lực lượng cách mạng, có thể kết luận phạm vi giải
quyết vấn đề dân tộc của chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh là trên toàn
Đông Dương.
Nhận xét văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần VII tháng 11/1940
So với Hội nghị 11/1939
“Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh
phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện
thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động
đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng
phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng” 1. Đây là
quan niệm của Hội nghị về Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế.
Hội nghị nhận định rằng cao trào cách mạng sẽ nổ ra, Đảng phải chuẩn bị giành lấy sứ
mệnh thiêng liêng là lãnh đạo cuộc cách mạng vũ trang giành lấy chính quyền.
Hội nghị đã có những nhận xét đúng đắn về tình hình thế giới và Đông Dương cũng
như Việt Nam lúc bấy giờ. Tháng 11/1940, Hội nghị cán bộ Trung ương đã họp và đưa ra
quyết định duy trì và củng cố lực lượng vũ trang ở Bắc Sơn và đình chỉ chủ trương phát
động khởi nghĩa ở Nam Kỳ chờ đợi thời cơ.

1
Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7.

36
Nhiệm vụ mà cách mạng Đông Dương đặt ra lúc này là phản đế và thổ địa cách mạng
phù hợp với bối cảnh bấy giờ.
Mặc dù đã giải quyết được những hạn chế của Hội nghị lần trước, nhưng Trung Ương
Đảng vẫn chưa thật sự dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, lật đổ
đế quốc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng 11/1939 dẫn tới hạn chế về nhìn nhận
tầng lớp khác vẫn chưa được khắc phục khi vẫn còn quá đề cao vai trò của công nhân,
nông dân.
Tình hình Đảng còn nhiều hạn chế cần hoàn thiện, số lượng, chất lượng đảng viên bị
thiếu hụt do sự đàn áp dã man của đế quốc, công tác tuyên truyền gặp nhiều khó khăn.
Cũng vì vậy mà tình hình các hội quần chúng trở nên thiếu nhất quán, các phong trào bãi
công đòi tăng lương cũng như các phong trào vũ trang diễn ra nhỏ lẻ, không đều, nhanh
chóng bị dập tắt. Đảng cần tiếp tục chuyển hướng chiến lược, xác định lại nhiệm vụ cấp
bách hàng đầu là giải phóng dân tộc ở các nước Đông Dương, tuy nhiên nhiệm vụ đấy
cần phải do chính quốc gia, dân tộc ấy thực hiện.
3.1.2.3. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 05/1941
Tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức ráo riết chuẩn bị đánh Liên Xô, phát xít
Nhật sắp gây ra chiến tranh Thái Bình Dương.
Chính sách phản động của Pháp – Nhật càng làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc
Đông Dương với chủ nghĩa đế quốc xâm lược thêm sâu sắc.
Tình hình thế giới có nhiều chuyển biến mới.Thế giới hình thành hai trân tuyến: Một bên
là các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu; một bên là khối phát-xít do Đức đứng đầu
làm cho tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi.
Tình hình trong nước
Nhân dân ta đều rên xiết dưới hai tầng áp bức bóc lột Pháp- Nhật. Mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc ta với đế quốc phát xít Pháp Nhật vô cùng sâu sắc.
Nhân dân ta ngày càng được cách mạng hóa với nhiều cuộc đấu tranh như khởi nghĩa
Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ…

37
Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương, ngày 28-1-1941
Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần VIII họp từ ngày 10
đến 19-5-1941 tại Pác Bó (Cao Bằng).
Nhiệm vụ cách mạng
Trung ương Đảng xác định kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất của cách mạng Đông
Dương không phải là đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến nói chung, mà là chủ nghĩa
đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc. Xác định nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng
là giải phóng dân tộc, giải quyết cấp bách mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
phát xít Pháp- Nhật vì "quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật; vận mệnh dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng".
Hội nghị khẳng định dứt khoát phải thay đổi chiến lược ,chưa chủ trương làm cách
mạng tư sản dân quyền (giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa ), mà là cuộc cách
mạng chỉ phải giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc. Để thực hiện được nhiệm vụ này, ta
chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng
khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia
lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.
Sau khi giành độc lập, các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương muốn lập ra một
chính phủ liên bang hay đứng riêng thành một quốc gia độc lập tuỳ ý. Đối với nước ta,
sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân, Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hoà, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của toàn quốc, Chính phủ
do Quốc hội bầu ra.
Liên hiệp tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng
chính trị, đảng phái vào một mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc thật rộng rãi, lấy
liên minh công nông làm cơ sở. Muốn vậy cần phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu
hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân.
Trung ương quyết định thành lập “Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt
Minh. Đối với các dân tộc Campuchia và Lào, Đảng chủ trương lập “Mặt trận Ai Lao độc
lập đồng minh”, và “Cao Miên độc lập đồng minh”, để sau đó lập ra Đông Dương độc lập

38
đồng minh. Còn các tổ chức quần chúng thì lập thành các hội cứu quốc như: công nhân
cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, v.v..
Chuyển hướng hình thức đấu tranh, từ đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp
đòi quyền lợi dân chủ, dân sinh, sang đấu tranh chính trị bí mật, bất hợp pháp, chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là trung tâm của
Đảng và nhân dân ta, phải ra sức chuẩn bị lực lượng trong toàn quốc và nhằm đúng vào
những điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành
chính quyền ở địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước…
Lực lượng cách mạng
Hội nghị tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, tất cả các giai cấp, những người Việt
Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh để giải phóng dân tộc. “Không phân biệt thợ
thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ
cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành độc lập dân tộc, tự do
cho dân tộc”.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc không phải chung trên toàn Đông
Dương mà trong phạm vi từng nước ở Đông Dương, để "làm sao đánh thức được tinh
thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)". Đây là cơ sở cho sự
đổi mới hình thức tên gọi Mặt trận dân tộc thống nhất để "có tính dân tộc hơn, cho có một
mãnh lực dễ hiệu triệu hơn". Hội nghị cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân
tộc ở Đông Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp - Nhật và tay sai,
giành độc lập ở từng dân tộc, coi đó là vấn đề sống còn của ba dân tộc. "Những dân tộc
sống ở Đông Dương đều chịu dưới ách thống trị của giặc Pháp - Nhật, cho nên muốn
đánh đuổi chúng nó không chỉ dân tộc này hay dân tộc kia mà đủ, mà phải có một lực
lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại". Sau khi hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, "ta phải thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết" cho dân
tộc Đông Dương". 
Nhận xét văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần VIII (5-1941)

39
So với Hội nghị lần thứ VII, Hội nghị lần này đã xác định rõ ràng, dứt khoát nhiệm vụ
cách mạng rằng không phải là đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến nói chung, mà là
chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc. Lực lượng cách mạng đã mở rộng
thành tất cả các giai cấp, những người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh để
giải phóng dân tộc. Cuối cùng thì đến Hội nghị lần VIII, phạm vị cách mạng đã được thu
hẹp lại, không còn là chung trên toàn Đông Dương mà trong phạm vi từng nước ở Đông
Dương.
Tóm lại, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ VIII có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Nghị quyết của Hội nghị lần VIII đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 6 (11-1939). Nó có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn đảng, toàn dân
chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám năm 1945.
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh
Một là, về chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phóng kiến.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhiệm vụ mà Cương lĩnh vạch ra là “đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, nhưng vẫn tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc.

Luận cương chính trị năm 1930, hai mặt tranh đấu đánh đổ các di tích phong kiến để
thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để và tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và phong kiến, trong đó nhấn mạnh vấn đề thổ địa hơn.

Đại hội lần thứ nhất khẳng định luận cương chính trị cho nên từ luận cương chính trị
cho đến Đại hội lần thứ nhất không có gì mới, vẫn chưa đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên
hang đầu.

Chủ trương 1936-1939, Đảng tạm gác cách mạng ruộng đất lại và tạm gác cả chống
đế quốc và phong kiến, chỉ tập trung vào đòi quyền dân chủ dân sinh

40
11/1939, trước bối cảnh đang nóng lên ở quốc tế cũng như trong nước và những diễn
biến mới trong phong trào cách mạng thế giới cũng như toàn Đông Dương. Đảng ta có
những quyết định để thay đổi chiến lược giải phóng dân tộc. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất.

11/1940, Hội nghị lúc này vạch rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp – đế quốc Nhật. Mặt
trận dân tộc phản đế lúc này thực chất là Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp – Nhật
ở Đông Dương. Hội Nghị khẳng định tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất lần trước là
đúng.

5/1941, Hội nghị phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng của nghị quyết hội nghị
11/1939 và 11/1940, khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp
bách của cách mạng Việt Nam

So với Luận cương chính trị, Đảng đã khắc phục triệt để những hạn chế của Luận
cương chính trị, hoàn thành được đường lối chính trị, xác định mục tiêu cốt lõi lúc bấy
giờ là đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc; tập trung lực lượng dân tộc để đấu
tranh giành độc lập, tự do; giải quyết vấn đề theo phạm vi quốc gia, áp dụng tình hình
thức tiễn cũng như phong tục, tập quán của từng quốc gia để đưa ra đường lối, phương
pháp cách mạng phù hợp cho quốc gia, dân tộc.

Hai là, về tập hợp lực lượng cách mạng

Hội nghị tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, tất cả các giai cấp, những người Việt
Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh để giải phóng dân tộc. “Không phân biệt thợ
thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ
cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành độc lập dân tộc, tự do
cho dân tộc”.

Ba là, về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

41
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc không phải chung trên toàn Đông
Dương mà trong phạm vi từng nước ở Đông Dương, để "làm sao đánh thức được tinh
thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)".

Đây là cơ sở cho sự đổi mới hình thức tên gọi Mặt trận dân tộc thống nhất để "có tính
dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn". Hội nghị cũng đặc biệt nhấn mạnh
đến sự đoàn kết ba dân tộc ở Đông Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp
- Nhật và tay sai, giành độc lập ở từng dân tộc, coi đó là vấn đề sống còn của ba dân tộc.
"Những dân tộc sống ở Đông Dương đều chịu dưới ách thống trị của giặc Pháp - Nhật,
cho nên muốn đánh đuổi chúng nó không chỉ dân tộc này hay dân tộc kia mà đủ, mà phải
có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại". Sau khi hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, "ta phải thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết"
cho dân tộc Đông Dương".

Bốn là, về mô hình Nhà nước

Thực hiện Cương lĩnh, Đảng và nhân dân ta một mặt kiên trì mục tiêu và các nguyên
tắc của CNXH, mặt khác chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước từ mô hình cũ với Nhà
nước “chuyên chính vô sản”, “kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp” sang mô
hình mới về CNXH. Về chế độ chính trị, đó là chế độ do “nhân dân lao động làm chủ”;
về kinh tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”

3.2.2. Giá trị việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945) đối
với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc thực chất là đề cao quyền tự quyết của
dân tộc, tức là phát huy nội lực của dân tộc. sự nghiệp của dân tộc đó, giải phóng dân tộc
là trách nhiệm của từng dân tộc, từng quốc gia dân tộc.

Một là, đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc (1930-1975)

Cách mạng tháng Tám:

42
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khẳng định trên thực tế
hoạch định đường lối đúng đắn, đồng thời từng bước bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc là sự chuẩn bị tất yếu. Rút ra được nhiều kinh nghiêm quý báu
như:

Việc chỉ đạo chiến lược: phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong cách
mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất phải tạm gác lại.

Về xây dựng lực lượng: cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tần lớp nhân dân.

Kháng chiến chống Pháp:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân,
toàn dân ta đã bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám.
Đường lối của cuộc kháng chiến chống Pháp được thể hiện trong nhiều văn kiện của
Đảng: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và
dựa vào sức mình là chính.

Kháng chiến chống Mỹ

Đại hội lần thứ 3 của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng lời và kết hợp chặt chẽ chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mang xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả
nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ thể hiện Đảng phát huy và bảo vệ thành quả và kinh
nghiệm của những thắng lợi trước, nâng cao quyền tự quyết và giải phóng và đoàn kết
dân tộc lên hang đầu.

Hai là, đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay

Qua việc tập hợp lực lương cách mạng đã cho ta thấy được việc bảo vệ Tổ quốc, đất
nước không chỉ nhiệm vụ của một cá nhân hay giai cấp, đó là nhiệm vụ của toàn dân tộc
43
trong một nước. Từ đó phát huy mang lại cho đất nước ta một dân tộc có tính đoàn kết và
yêu nước.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cho cả nước Việt Nam thể
hiện ý chí đoàn kết dân tộc, là cơ sở để thống nhất nước nhà, là điều kiện để đưa cả nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ tinh thần đoàn kết và sự tin tưởng của nhân dân dành, Đảng đã nhìn nhận sai lầm
và đưa đất nước đổi mới toàn diện, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội 1986-1996 và
tiếp tục công cuộc đổi mới , đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
1996-2022.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3


Từ Luận cương chính trị tháng 10/1939 cho đến Hội nghị ban chấp hành Trung ương
5/1941 là cả một quá trình sửa đổi, sai lầm, thành công và phát triển. Qua đó, việc hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân dân mang lại giá trị vô cùng to lớn đối với đất
nước Việt Nam.

Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn
chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách
mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây
dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ
địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do
cho nhân dân.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam
mà còn là chiến công chugn của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do. Vì
thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trao giải phóng dân tộc

44
Thắng lợi kháng chiến chống Pháp, lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ
bé đã đánh thắng một cường cuốc thực dân từ đó tạo tiền đề để can thiệp Mỹ.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc
21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lượn, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm
chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.

Qua thắng lợi của các cuộc kháng chiến đã tạo tiền đề để đất nước Việt Nam phát
triển bền vững cho tới hiện nay, tiến tới xã hội chủ nghĩa, là những kinh nghiệm qúy có
thể tham khảo, phát huy trong giai đoạn hiện nay, là nhờ tinh thần đoàn kết dân tộc dành
cho Đảng và Đảng dành cho nhân dân.

45
PHẦN KẾT LUẬN
Dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm ảnh hưởng
đến Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Nhiệm vụ của Việt Nam đặt ra là phải chống thực
dân Pháp, giải phóng cho dân tộc và lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc Việt
Nam. Đứng trước yêu cầu đặt ra của dân tộc Việt Nam, nhiều phong trào yêu nước diễn
ra với nhiều khuynh hướng đấu tranh khác nhau đều không thành công.
Sau 10 năm lựa chọn con đường cánh mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc tích cực tập
trung chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng ở Việt Nam. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn đã đã đề
cao quyền tự quyết của dân tộc, tập hợp lực lượng toàn dân tộc cho cuộc đấu tranh chống
đế quốc, giải phóng cho dân tộc Việt Nam).
Đảng đã có nhìn nhận lại về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, thể
hiện bước đầu trong việc khắc phục hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10-1930.
Nếu giai đoạn trước đánh đổ đế quốc và phong kiến song hành thì đến nay đã xác định
được việc giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc và đế quốc cần phải được
xem là ưu tiên hàng đầu so với mâu thuẫn giai cấp, tức là có thể ưu tiên, tập trung lực
lượng chống đế quốc trước. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa không từ bỏ đấu tranh
giai cấp, Đảng không bảo thợ thuyền dừng đấu tranh giai cấp với tư bản bản xứ, không
bảo nông dân dừng đấu tranh chống địa tô cao và nợ cao lãi mà trái lại, Đảng ra sức tổ
chức quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi hằng ngày, liên kết với những quyền lợi dân
chủ đơn sơ để làm cơ sở cho dân tộc Đông Dương chống nạn phát xít, chống chính sách
thuộc địa phản động. Nhìn chung, những chủ trương trong giai đoạn này đã đánh dấu
bước trưởng thành mới của Đảng trong việc chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng.
Trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được
một cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa tư
tưởng với các hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ
rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng,
chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi
tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng.
46
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ VIII có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Nghị quyết của Hội nghị lần VIII đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược và sách lược cách mạng đã đề ra ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6
(11-1939). Nó có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn đảng, toàn dân chuẩn bị
tiến tới Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VI đánh dấu sự trưởng thành trong nhận
thức của Đảng, làm rõ được mối quan hệ giữa phản đế và phản phong. Hơn nữa cụ thể
hóa đường lối cứu nước dựa trên cương lĩnh đầu tiên của Đảng về giải phóng dân tộc
ngay từ khi thành lập Đảng. Đây là bước chuyển đổi từ đấu tranh hòa bình sang đấu tranh
vũ trang – bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để giành chính quyền. Tuy hai
nhiệm vụ phản đế và phản phong vẫn chưa tiến hành nhất loạt ngang nhau, nhưng Hội
cho thấy sự thay đổi trong nhiệm vụ hàng đầu của mình là chống đế quốc. Ngoài ra còn
có thêm đông đảo lực lượng tham gia cách mạng, gia tăng không chỉ về số lượng mà còn
chất lượng lực lượng tham gia khi có thêm các tầng lớp tiểu trí thức và tiến bộ, đồng thời
ra sức kêu gọi sự ủng hộ bên ngoài, đặc biệt là tầng lớp vô sản.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây
dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ
địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do
cho nhân dân. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã
kết thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lượn, 30 năm chiến tranh cách mạng,
117 năm chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước. Qua thắng lợi của các cuộc kháng chiến đã tạo tiền
đề để đất nước Việt Nam phát triển bền vững cho tới hiện nay, tiến tới xã hội chủ nghĩa,
là những kinh nghiệm qúy có thể tham khảo, phát huy trong giai đoạn hiện nay, là nhờ
tinh thần đoàn kết dân tộc dành cho Đảng và Đảng dành cho nhân dân.

47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ
cuối thế thể XIX đến đầu thế kỉ XX.
Truy cập (20/06/2022): https://123docz.net/document/6555584-cac-phong-
trao-yeu-nuoc-theo-khuynh-huong-phong-kien-va-tu-san-tu-cuoi-the-ky-
xix-den-dau-the-ky-xx.htm
4. Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng
dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945: https://dangcongsan.vn/tieu-diem/su-hinh-
thanh-phat-trien-hoan-thien-duong-loi-chien-luoc-cach-mang-giai-phong-dan-
toc-cua-dang-thoi-ky-1930-1945-589546.html

5. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong tiến trình
cách mạng Việt Nam: https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202001/vai-tro-
lanh-dao-cua-dang-la-nhan-to-quyet-dinh-moi-thang-loi-trong-tien-trinh-cach-
mang-viet-nam-307494/

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

48

You might also like