You are on page 1of 32

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN


MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM QUA 34 NĂM ĐỔI MỚI
LỚP L13 --- NHÓM 02 --- HK 211
NGÀY NỘP: 18/10/2021
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Kiều Diễm

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Phan Trung Đạt 1910115
Nguyễn Văn Hiếu 1913351
Nguyễn Minh Mẫn 1910336
Đặng Hoàng Nhật 1911768
Vi Thị Anh Thư 1910600

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL

Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)

Nhóm/Lớp: L13 Tên nhóm: 02 HK 211 Năm học: 2021-2022

Đề tài:

THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM QUA 34 NĂM ĐỔI MỚI

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký


1. Phan Trung Đạt 1910115 Phần 2.1 100%
2. Nguyễn Văn Hiếu 1913351 Phần 2.2 100%
3. Nguyễn Minh Mẫn 1910336 Phần mở đầu, kết luận 100%
4. Đặng Hoàng Nhật 1911768 Phần 2.3 100%
5. Vi Thị Anh Thư 1910600 Chương 1 100%

Họ và tên nhóm trưởng: Vi Thị Anh Thư, Số ĐT: 0899985900,

Email: thu.vi2561@hcmut.edu.vn

Nhận xét của GV: ...........................................................................................................

...........................................................................................................................................

GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG

(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

Vi Thị Anh Thư


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 1

PHẦN NỘI DUNG 3

Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI KỲ 3


QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 3
hội

1.1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 3

1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 4

1.2. Đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 7

1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế 9

1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị 9

1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá 10

1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội 11

Chương 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA 12
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA 34 NĂM ĐỔI MỚI

2.1. Đặc điểm công cuộc đổi mới ở Việt Nam 12

2.1.1. Nguyên nhân của cuộc đổi mới 12

2.1.2. Nội dung đổi mới 13

2.2. Những đóng góp lý luận chính trị - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam 16
qua 34 năm đổi mới
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân 16

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 21

2.3. Giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong 23
công cuộc đổi mới đất nước thời gian tới

KẾT LUẬN 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO 27


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, bên cạnh những cơ hội là không ít thách thức, khó khăn cần giải
quyết. Cơ hội và thách thức đan xen tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Việc nhận rõ cơ
hội và thách thức trong quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự
biến đổi và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác khẳng định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ bị thay thế
bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đó là một quy luật khách quan của
lịch sự và thời đại ngày này chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác, Đảng ta khẳng định: "Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".

Trong di sản quý báu của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ
quá độ có rất nhiều nội dung phong phú và đa dạng, cũng có những nội dung các ông
đề xuất khi đó đến nay không còn phù hợp, nhưng nhìn chung về cơ bản tư tưởng của
các ông về thời kỳ quá độ cũng như đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ của nó hầu như
vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại.

Thực tiễn 34 năm đổi mới đất nước, những thành tựu đạt được trên các lĩnh
vực, có thể nói, “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các
điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải
quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng mức phát
triển kinh tế”.

Nhìn tổng thể, qua 34 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu

1
kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh, bền
vững.

Chính vì thế, nhóm chọn đề tài này với mong muốn góp phần làm rõ vấn đề liên
quan đến thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, cũng như những đóng góp lý luận lý
luận chính trị - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam trong 34 năm đổi mới.

2. Nhiệm vụ của đề tài

Tìm hiểu khái niệm và tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, cũng như đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nêu đặc điểm công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Nêu những đóng góp lý luận chính trị - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam qua
34 năm đổi mới.

Giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong công
cuộc đổi mới đất nước.

2
Chương 1

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Theo Karl Marx và Friedrich Engels, trong quá trình hình thành và phát triển,
xã hội loài người đã, đang và sẽ trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao.
Trong quá trình vận động và phát triển ấy, các yếu tố như lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến sự thay đổi về chất
trong nội tại của xã hội đó và dẫn đến sự chuyển tiếp giữa các hình thái kinh tế - xã
hội. Đó là thời kỳ quá độ. Khi xã hội loài người phát triển đến cực đại, tiến bộ nhất,
phát triển nhất, thì cũng là lúc xã hội diễn ra quá trình chuyển tiếp từ các hình thái kinh
tế - xã hội tư bản hoặc tiền tư bản sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đây là một hình thái kinh tế - xã hội mang nhiều tính ưu việt, có sự khác biệt lớn về
chất mà ở đó không còn áp bức bóc lột, con người được tạo điều kiện để phát triển
toàn diện, nền kinh tế phát triển cao, quyền dân chủ của người dân được đảm bảo và
phát huy,…. Và để xây dựng hình thái kinh tế - xã hội với những đặc điểm ưu việt đấy,
tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

1.1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất hiện giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và
xã hội xã hội chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện từ
xã hội nọ sang xã hội kia, và Karl Marx gọi thời kỳ quá độ này bằng hình tượng:
“những cơn đau đẻ kéo dài” để cho chủ nghĩa xã hội lọt lòng từ xã hội cũ mà ra. Nó
diễn ra trong toàn bộ nền các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra các tiền đề vật chất,
tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mới mà trong đó những nguyên tắc căn
bản của xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi
giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
và kết thúc khi đã xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội.1

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2006). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng trong các trường đại học, cao
đẳng). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.139.
3
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự
thay đổi, chuyển tiếp và thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao. Chủ nghĩa Mác – Lênin với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra tính
tất yếu khách quan của sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó là một quy luật khách quan của lịch
sử, là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự chuyển tiếp giữa hai hình thái kinh tế - xã
hội này được thực hiện thông qua “thời kỳ quá độ” – một cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa xuất phát từ hai tiền đề quan trọng là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự
trưởng thành của giai cấp công nhân. Thế nên, theo lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, để đi lên chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa tư bản tất yếu yếu phải trải qua thời kỳ
quá độ chính trị. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta” (1875), Karl Marx đã viết: “Giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ
chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản.”2. Sau này, từ thực tiễn nước Nga, để khẳng định tính
tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ này, Vladimir Ilyich Lenin cho rằng, “Về lý
luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có
một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm
hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào
lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ
nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị
đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn
còn rất non yếu.”3.

Nhìn chung, theo lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, có hai
hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một là quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản. Hai là quá độ gián tiếp bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa và đi lên chủ nghĩa cộng sản.

2
Karl Marx, & Friedrich Engels. (1995). Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 47.
3
Vladimir Ilyich Lenin. (1977). Toàn tập. Mátxcơva: Nhà xuất bản Tiến bộ, tr.309 – 310.
4
Theo Karl Marx và Friedrich Engels, quá trình hình thành và phát triển chủ
nghĩa xã hội gồm có hai giai đoạn chính từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao. Giai đoạn
thấp tương ứng với chủ nghĩa xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa, còn giai đoạn cao là
chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản chủ nghĩa. Karl Marx và Friedrich Engels cho
rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia... một thời kỳ quá độ chính trị..., chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản”4. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ
nghĩa cộng sản thực chất là sự quá độ trực tiếp. Quá trình quá độ trực tiếp theo quan
điểm của các ông sẽ xuất hiện đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản và đã
phát triển đến cực đại trong khuôn khổ hình thái kinh tế - xã hội của nó. Để thực hiện
bước quá độ này tất yếu phải thực hiện cuộc cách mạng vô sản và thiết lập chuyên
chính vô sản. Cho đến thời điểm hiện tại, thời kỳ quá độ trực tiếp này vẫn chưa từng
diễn ra. Tuy nhiên, một số nước Bắc Âu, dưới sự cầm quyền của các Đảng dân chủ xã
hội cánh tả, đã và đang thực hiện hóa một số tiêu chí của chủ nghĩa xã hội. Các tiêu chí
này được biểu hiện thông qua những điểm sáng trong các mô hình các nước Bắc Âu –
một mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ mang những giá trị tiến bộ về dân chủ, nhân
quyền và phúc lợi xã hội phục vụ người dân. Về mặt dân chủ và nhân quyền, ở các
nước này, người dân có khả năng tham gia vào chính trị ngày càng tích cực hơn.
Không những thế, người dân còn được biết một cách tương đối về những đường lối
phát triển của nhà nước, chính phủ, và những đóng góp ý kiến, sáng kiến chính trị của
người dân được tôn trọng, lắng nghe từ các cấp lãnh đạo. Còn về mặt phúc lợi xã hội,
“mạng lưới an sinh xã hội” với các chính sách bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội về các
mảng giáo dục, y tế,… rất tốt và được bảo đảm, góp phần nâng cao cuộc sống của
người dân, đồng thời là công cụ điều tiết quan trọng nhất để đạt tới bình đẳng xã hội.
Mặc dù, chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn là một thực tại hiện hữu trong các nước này,
nhưng ta không thể phủ nhận những nhân tố, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.5

Sau này, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, sau Cách
mạng Tháng Mười (1917), Vladimir Ilyich Lenin đã vận dụng lý luận của Karl Marx

3
Karl Marx, & Friedrich Engels. (1995). Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.47.
5
Nguyễn Thắng Lợi. (25/03/2019). Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu hiện nay và những gợi mở, tham
chiếu cho Việt Nam. Truy cập từ lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2791-mo-hinh-chu-nghia-
xa-hoi-dan-chu-o-bac-au-hien-nay-va-nhung-goi-mo-tham-chieu-cho-viet-nam.html
5
và Friedrich Engels để tiếp tục phát triển lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Theo ông, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách
quan đối với mọi nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song đối với những nước đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao
cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì,
các nước này cần có thời gian để cải tạo và phát triển đất nước, phát triển kinh tế - kỹ
thuật cũng như đáp ứng các điều kiện cơ bản cho sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Khác với Karl Marx và Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin
chia hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản thành ba giai đoạn: (1) Giai đoạn
“những cơn đau đẻ kéo dài”, tức “thời kỳ quá độ” từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa
xã hội; (2) Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, hay còn gọi là giai đoạn thấp,
tương ứng là xã hội xã hội chủ nghĩa; (3) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa,
chính là xã hội cộng sản chủ nghĩa (hay chủ nghĩa cộng sản) đã ở mức độ hoàn toàn
đúng bản chất của nó. Từ lý luận của Vladimir Ilyich Lenin, ta có thể thấy thời kỳ quá
độ được tách ra thành một giai đoạn độc lập, có vị trí riêng biệt. Nó là một giai đoạn
nằm giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, không nằm ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản.

Thời kỳ quá độ có tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp và được Vladimir Ilyich
Lenin chỉ rõ. Ông cho rằng, nó phụ thuộc vào xuất phát điểm của từng quốc gia, phụ
thuộc vào những tiền đề về kinh tế, văn hóa, xã hội khi bước vào thời kỳ quá độ. Ông
viết: “... tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ
nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài)... tiến lên xã hội cộng sản
chủ nghĩa”6. Như vậy, với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển thì
thời kỳ quá độ diễn ra lại càng khó khăn, lâu dài và phức tạp hơn nhiều lần so với
những nước tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển và trình độ khoa học – kỹ thuật
cao. Việc quá độ bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản để đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
này về bản chất là quá độ gián tiếp. Hay nói cách khác là không phải theo phương thức
trực tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian, phải bắc những “chiếc cầu nhỏ” để đến
bến bờ chủ nghĩa xã hội. Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cơ bản chính là “bỏ qua

6
Vladimir Ilyich Lenin. (1977). Toàn tập. Mátxcơva: Nhà xuất bản Tiến Bộ, tr.197.
6
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”7. Karl Marx, Friedrich Engels đã nhận định trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào năm 1848, với thời gian tồn tại rất ngắn, chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ bằng tất cả các xã hội trước
cộng lại. Từ đó cho thấy, bỏ qua chủ nghĩa tư bản không nhất thiết phải là loại bỏ tất
cả những gì thuộc về nó, mà phải là loại bỏ những hạn chế, khuyết tật và giữ lại
những gì tinh túy, tốt đẹp về kinh tế, khoa học – kỹ thuật,…. Từ thế kỷ XX đến nay,
trên thế giới, kể cả liên bang Xô viết và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc,
Cu Ba, Lào và Việt Nam, đều được công nhận là nước xã hội chủ nghĩa do các Đảng
Cộng sản lãnh đạo, theo đúng lý luận Mác – Lênin và đều đang trải qua thời kỳ quá độ
gián tiếp với sự điều chỉnh cho phù hợp với từng quốc gia.

Sau này, xuất phát từ lý luận của Karl Marx rằng: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa
cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng
mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện
thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của
những tiền đề hiện đang tồn tại.”8, V.I.Lê-nin cho rằng, do tính chất của thời đại, một
nước tư bản chủ nghĩa trung bình, hoặc chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa thậm chí lạc hậu và kém phát triển, sau khi cách mạng thắng lợi, có thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội thông qua một thời kỳ quá độ với một loạt các bước
quá độ nhỏ. V.I.Lê-nin viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến,
các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết và qua những giai đoạn phát triển nhất
định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”9. Khi tìm hiểu về nước Nga, Karl Marx cũng chỉ rõ: “Nước Nga… có thể
không cần trải qua đau khổ của chế độ (chế độ tư bản chủ nghĩa – TG) mà vẫn chiếm
đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy”10.

7
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội: Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, tr.84.
8
Karl Marx, & Friedrich Engels. (1995). Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.646.
9
Vladimir Ilyich Lenin. (1977). Toàn tập. Mátxcơva: Nhà xuất bản Tiến bộ, tr.295.
10
Karl Marx, & Friedrich Engels. (1983). Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.636.
7
Ngày nay, trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đang
diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong bối cảnh mà xu thế tự do hóa, toàn cầu hóa các
quan hệ kinh tế - thương mại và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát
triển mạnh, bằng việc quán triệt, vận dụng, phát triển sáng tạo những lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, các nước lạc hậu, sau khi khôi phục lại nền độc lập và giành lại
chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến tới chủ nghĩa cộng sản
mà không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

1.2. Đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thực chất là thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội trong thời kỳ này là xã
hội mà ở đó những tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ
nghĩa tư bản đan xen với những yếu tố mới, những tiền đề mang tính chất xã hội chủ
nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới được hình thành và chưa ở mức độ hoàn toàn đúng với
bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Theo Karl Marx, thời kỳ này có ba đặc điểm chính11. Thứ nhất, do xã hội vừa
thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, nên mọi mặt của nó, về kinh tế, đạo đức và tinh
thần,... vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ- xã hội tư bản chủ nghĩa. Thứ hai,
đây là thời kỳ cải biến sâu sắc và triệt để từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội
chủ nghĩa, nên công cụ để thực hiện điều này là nhà nước chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản. Thứ ba, do tính khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ, nên đây là thời
kỳ của “sau những cơn đau đẻ kéo dài”. Dựa trên cơ sở quan điểm của Karl Marx,
Vladimir Ilyich Lenin cho rằng, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội có bốn đặc điểm chính. Thứ nhất, xét về mọi mặt của đời sống xã hội, đều do nhiều
thành phần không thuần nhất tạo nên. Đó là thời kỳ có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, sự phát triển của cái cũ, của những
trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới, những trật tự mới. Thứ ba, xét
về mọi phương diện, đều có sự phát triển của trình tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ chứa
đựng mâu thuẫn không thể dung hòa giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản

11
Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, & Hồ Sỹ Quý. (1997). Những quan điểm cơ bản của C.Mác -
Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.162 –
163.
8
và tính vô chính phủ, vô kỷ luật của các tầng lớp tiểu tư sản. Đây là một trong những
điểm nổi bật của giai đoạn quá độ. Cuối cùng, đây là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó
khăn, phức tạp, phải trải qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, hướng
đi đúng đắn,tuy nhiên, trong quá trình thử nghiệm có thể phải trả giá cho những sai
lầm nghiêm trọng.

Có thể nói rằng, thời kỳ quá độ là một thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột vùng lên đấu tranh, giành
được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Không những thế, phải khẳng định rằng, đây là thời kỳ cải tạo cách mạng mang
tính chất sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội tiền tư bản chủ nghĩa trên
tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từng bước xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống tinh thân của nhân dân trong
nước. Từ đó, có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội12 như sau:

1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế

Về phương diện kinh tế, tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đây là quan điểm được Vladimir Ilyich Lenin đưa ra trong Chính sách kinh tế mới, để
thay thế cho Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu và kìm hãm sự phát triển kinh
tế. Trong thời kỳ này, có sự tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt giữa các
thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Đề cập đến đặc trưng này, Vladimir Ilyich Lenin cho rằng: “Danh từ quá độ có nghĩa
là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những
thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội
không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy
đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau ở Nga, chính
là như thế nào? Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó”13. Đồng thời,
Vladimir Ilyich Lenin đưa ra năm thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ:

12
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng cho bậc đại học-không chuyên
lý luận chính trị). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.58 – 59.
13
Vladimir Ilyich Lenin. (1977). Toàn tập. Mátxcơva: Nhà xuất bản Tiến bộ, tr.362.
9
Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân;
chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Trong đó, ông luôn đánh giá cao vị trí
và vai trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước. Việc sử dụng chủ nghĩa
tư bản nhà nước dưới hình thức hợp tác xã, tô nhượng, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê
nhà máy, thiết bị, cơ sở sản xuất,… được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua”
chủ nghĩa tư bản để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, việc thiết lập quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa đồng thời xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phải được thực hiện
từng bước qua một quá trình lâu dài, có lộ trình với những bước đi phù hợp và thường
xuyên cho thích hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc
gia.

1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị

Trên phương diện chính trị, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là việc thiết lập,
tăng cường chuyên chính vô sản. Hay nói cách khác, nó là quá trình giai cấp công
nhân, sau khi nắm chính quyền, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung
ương đến cơ sở, song song với đó là dùng quyền lực nhà nước để trấn áp và hạn chế
quyền lực, vai trò của giai cấp giai cấp vô sản để từ đó tiến hành xây dựng một xã hội
mà ở đó không còn áp bức, bóc lột, một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về
mặt chính trị của giai cấp công nhân. Với sự thống trị này, giai cấp công nhân từng
bước xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế
độ mới, chuyên chính và trấn áp với những phần tử thù địch chống lại nhân dân và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp
công nhân còn thực hiện chức năng là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô
sản với giai cấp tư sản, bởi vì giai cấp tư sản dù cho đã thất bại nhưng chưa phải thất
bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới - điều kiện mà ở xã hội đó
giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo đất nước, với nội dung mới – cải tạo
và xây dựng xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức
mới – cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.

1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá

Thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc tiền tư bản chủ nghĩa sang
xã hội xã hội chủ nghĩa là thời kỳ còn tồn tại nhiều tư tưởng đan xen lẫn nhau giữa xã
10
hội cũ và xã hội mới, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công
nhân với vai trò lãnh đạo của mình, thực hiện tuyên truyền và phổ biến những tư tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội, đồng thời khắc phục
và loại bỏ những tư tưởng xấu, tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Song song với đó, giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng cộng
sản từng bước xây dựng nền văn hóa tiên tiến, nền văn hóa vô sản, nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa, hòa nhập nền văn hóa thế giới, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành
tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong
lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống,
từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục,…. Chính
vì thế, việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa riêng biệt, độc
đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia cũng là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của giai cấp giai cấp thống trị trong thời kỳ quá độ để thích ứng bối cảnh và
đặc điểm mới của thế giới hiện đại.

1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội

Do bản chất của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành
phần, nên trong thời kỳ này tất yếu tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa
các giai cấp tầng lớp xã hội. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ở thời kỳ này vừa hợp
tác cùng phát triển, vừa đấu tranh với nhau. Hơn nữa, xã hội của thời kỳ quá độ vẫn
còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động
chân tay do trình độ phát triển khác nhau. Chính vì vậy, xét về lĩnh vực xã hội, thời kỳ
quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đấu tranh giai
cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư, hạn chế của xã hội
cũ để lại, đồng thời thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên
tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.

11
CHƯƠNG 2

NHỮNG ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM QUA 34 NĂM ĐỔI MỚI

2.1. Đặc điểm công cuộc đổi mới ở Việt Nam

2.1.1. Nguyên nhân của cuộc đổi mới

Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đã diễn ra
những biến đổi to lớn, sâu sắc. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng. Các nước tư bản chủ nghĩa, do điều chỉnh, thích ứng và sử
dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nên đã vượt
qua được những khó khăn, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể. Để thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng, cải tổ, cải cách và đổi mới đã trở thành xu thế khách quan ở nhiều
nước xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh
thuận lợi và những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước,
chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới, Việt Nam đi vào giữa một
thế giới biến động chưa từng thấy. Tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nóng vội
muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu
kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu,
bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng
hoảng: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt
được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa
có việc làm; hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở thiếu thốn,…. Cuộc khủng hoảng kinh tế-
xã hội nghiêm trọng này có thể đẩy nước ta vào đáy sâu của nghèo đói và lạc hậu.
Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và
biên giới phía Bắc gây ra… Để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa
quyết định là phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Cuối những năm 70,
ở một số địa phương bước đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra
những lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước
đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó, Đảng và nhân dân ta càng nhận
thấy sự cần thiết đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây
12
dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn, phải phá bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường mới.

Đại hội VI (1986) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa
quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ,
phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính
trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội VI khẳng định: Đối với nước ta,
đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Đại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa
đất nước tiến lên. Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn trong toàn bộ hoạt động
của mình: (1) Đảng phải quán triệt tư tưởng dân là gốc, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; (2) Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan; (3) Phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới; (4) Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị
của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2.1.2. Nội dung của cuộc đổi mới

Trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan niệm của
các nhà kinh điển mácxit về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới
toàn diện và triệt để tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt Đảng đã xác định
đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị.

Đổi mới kinh tế:

Về đối nội, Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế-
xã hội và đề ra các giải pháp để thực hiện mục tiêu:

Bố trị lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư

Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế, coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng

13
của thời kỳ quá độ, bao gồm kinh tế nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân,
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Phát huy động lực của khoa học – kỹ thuật, xây dựng nền kinh tế quốc dân với
cơ cấu nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, trình độ công nghệ.

Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nền kinh tế chuyển từ khép
kín, đóng cửa sang mở cửa, hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Trong hệ thống các giải pháp, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực vào
việc thực hiện được ba chương trình, mục tiêu: Lương thực – thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Đây là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện khẩu lệnh “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo
đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng.

Đổi mới chính trị:

Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội
đã nêu rõ Đảnh phải đổi mới về nhiều mặt:

Đảng chủ trương nâng cao tầm trí tuệ của Đảng. Để nâng cao tầm trí tuệ, Đảng
đã nhấn mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng. Trong thực tiễn đổi mới, bên
cạnh những thành tựu to lớn, Đảng ta cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, có những
hạn chế đang trở thành nguy cơ không thể xem thường. Vì vậy, đòi hỏi Đảng Cộng sản
Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh đốn, thực hiện xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức, đồng thời tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.

14
Tập trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước, xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tự
giác đổi mới bộ máy nhà nước từ cơ chế hành chính, tập trung quan liêu sang bộ máy
quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Theo đó, đổi mới theo hướng chuyên
nghiệp, hiệu quả các hoạt động lập hiến, lập pháp, giám sát và quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước; đối với cơ quan hành pháp, tập trung cải cách hành chính,
xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, chuyển sang Chính phủ
kiến tạo, phục vụ, hạn chế và tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho; đối với cơ quan tư pháp,
đổi mới theo hướng xét xử đúng người, đúng tội trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các nguyên
tắc tố tụng.

Tăng cường vai trò phản biện xã hội, tính độc lập tương đối của các tổ chức
chính trị - xã hội để góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kịp thời phát hiện những sai sót,
khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp với
thực tiễn.

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường.
Cần thực hiện tốt vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhằm làm công cụ vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô. Đồng thời, Nhà nước quản lý
và điều tiết có hiệu quả trong thực tiễn phát triển kinh tế.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng dân chủ. Nếu như Đảng
lãnh đạo bằng phương thức mệnh lệnh như trước đổi mới sẽ không phù hợp và không
có hiệu quả, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền.
Đồng thời, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần có cơ chế giám sát, kiểm soát quyền
lực trong Đảng.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội bởi lẽ các tổ chức này có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ
Đảng, củng cố và bảo vệ chính quyền nhà nước, nhất là trong chế độ một đảng lãnh
đạo. Vì vậy, trong thực tiễn phải tránh và khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”, “chính
trị hóa”, từ đó làm giảm vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội.

15
Đổi mới về đối ngoại:

Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ
vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và
trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan
hệ hữu nghị và hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở
chủ nghĩa Mác – Lenin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, tăng cường sự hợp tác giữa các
đảng anh em trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thụy Điển, Phần Lan,
Pháp, Australia, Nhật Bản và với các nước phương Tây khác trên cơ sở bình đẳng và
cùng có lợi. Bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và
sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á.

Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, thấm nhuần tư tưởng và tình cảm cách
mạng trong sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa
bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra
sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới.

2.2. Những đóng góp lý luận – chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam qua 34 năm
đổi mới

2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân

Việt Nam trước thời kỳ đổi mới

Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80 của
thế kỷ trước), do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do những sai lầm mang nặng tính chủ
quan, duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình cũ đã lỗi thời, cho
nên chỉ mấy năm sau khi hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thì đất nước đã lâm vào cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.

16
Sản xuất nông - công nghiệp đình đốn. Lưu thông, phân phối ách tắc. Lạm phát
ở mức ba con số. Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng thấy. Ở thành
thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 - 15 ngày. Ở nông thôn, vào
lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn. Tiêu cực xã hội lan rộng.
Lòng dân không yên.

Tình hình diễn biến đến mức, vào khoảng từ cuối năm 1985 đến cuối năm 1986,
nghĩa là sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền (9-1985), đại đa số
quần chúng nhân dân cảm thấy không thể tiếp tục sống như cũ được nữa; đồng thời
các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước cũng thấy rõ không thể tiếp tục
duy trì những chủ trương, chính sách đã lỗi thời, hoặc chỉ thay đổi có tính chất chắp
vá, nửa vời một số chính sách riêng lẻ nào đó thôi.

Với phương châm "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật"
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về
những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển.

Việt Nam sau thời kỳ đổi mới

Trên cơ sở tổng kết những sáng kiến của quần chúng nhân dân trong nước,
đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tham khảo rộng rãi kinh nghiệm của
thế giới, các Đại hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không ngừng bổ sung, hoàn
thiện đường lối đổi mới

Với chức năng của mình, Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã lần lượt thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo trong đường
lối của Đảng thành hệ thống pháp luật, chính sách, chương trình, dự án để đưa vào
cuộc sống.

Nhìn một cách tổng thể, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước
Việt Nam từ 1986 đến nay bao gồm rất nhiều nội dung phong phú, trong đó có những
nội dung cơ bản sau:

17
Một là, chuyển nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để năng động hóa và đẩy
nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.

Hai là, kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường.

Ba là, dân chủ hóa đời sống xã hội theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra", đồng thời xây dựng một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.

Bốn là, mở cửa tăng cường giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới theo
tinh thần: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển"

Kết quả là sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam hơn 34 năm qua đã đạt được

những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt:

Kinh tế

Về tổng thể, giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn hội tụ các thành tựu phát triển
kinh tế - xã hội cao nhất và toàn diện nhất của Việt Nam, với nền kinh tế cải thiện tích
cực cả về quy mô và chất lượng; quan hệ quốc tế mở rộng, vị thế được củng cố và
nâng cao.

Theo UNDP, Việt Nam đã tạo ra một câu chuyện huyền thoại trong công cuộc
giảm nghèo. GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm và năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2%
giai đoạn 2016 - 2020.

Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân, giai đoạn 2016 – 2020, là 5,8%/năm.
Hệ số ICOR giảm xuống còn khoảng 6,1. Năm 2020, kinh tế Việt Nam có quy mô thứ
40 trên thế giới, thứ 4 trong ASEAN và bình quân GDP/người đứng thứ 6 trong
ASEAN.

Năm 2020, Việt Nam đã có quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia; đã ký 15
hiệp định FTA (năm 2020 phê chuẩn và triển khai có hiệu quả EVFTA; tham gia ký

18
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và ký FTA Việt Nam – Anh),
đang đàm phán hai FTA; có 79 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị
trường…

Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam nằm trong số hiếm hoi các nước vẫn giữ được
mức tăng trưởng 2,91% GDP; được coi là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công
nhất thế giới và phục hồi kinh tế nhanh hình chữ V, với mức tăng trưởng dự báo từ hơn
6% tới 11,2% trong năm 2021.

Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội

Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập
trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao
động có việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở
cả nông thôn và thành thị.

Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể
dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động
xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ.

Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý,
phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc
làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.

Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân
hưởng ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở
rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta.

Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà
nước được nâng lên.

Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh

Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa
bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.

19
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến
lược quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời
sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân
đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được
củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.

Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị

Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố
Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã
hội; đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều
văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những,
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp
nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê
hương vì đại nghĩa ấy.

Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia
tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế

Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào;
xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực,
trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền
thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga, các nước trong
Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng quan hệ với các nước
công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và mở rộng quan hệ

20
với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh;
mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực.

Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và
công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế
giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối
ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ trên thế giới.

Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn
bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực
tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ không hoàn
lại hoặc cho vay để phát triển.

Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững
hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế
giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là
sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Trong hơn 34 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt nam
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc
chưa cụ thể.

Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát
triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt
trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh
tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa
đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ
và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.

21
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường, còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức
xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận
thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa
phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên
bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày
càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực,
người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.

Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa
đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách.
Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang
tầm với nhiệm vụ. Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất
lượng công vụ thấp.

Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều
tiến bộ song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn
nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc
phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải
cách tư pháp còn lúng túng.

Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ
thị về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến
cơ bản trong tình hình mới. Chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liệu, tiêu cực xã hội còn diễn ra
nghiêm trọng. Công tác tư tưởng- lý luận, công tác tổ chức- cán bộ, công tác kiểm tra,
giám sát, công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt
chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu.

22
Những hạn chế trên đây làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh,
chưa ngang tầm nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

23
2.3. Giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong công
cuộc đổi mới đất nước thời gian tới

“Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận
rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng”14.

Chủ tịch của chúng ta đã đưa ra một nhận định đanh thép về vai trò của Đảng
trong việc dẫn dắt đường lối cho chúng ta, vì thế cần phải có những giải pháp để tiếp
tục phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước
trong thời gian tới.

Cần phải tuyên truyền cho nhân dân về tính đúng đắn và đường lối của Đảng,
cho nhân dân hiểu được tầm quan trọng của Đảng trong việc lãnh đạo và phát triển đất
nước. Để đất nước có thể phát triển và đi lên thì phải có một ban lãnh đạo tốt, có tâm
và có tầm, và đó là Đảng cộng sản Việt Nam.

Nhân dân cần đồng tâm phối hợp với Đảng và Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp
hành các quy định mà Nhà nước đề ra, không vi phạm pháp luật, thể hiện chúng ta là
những người văn minh hiện đại, nếu có ý kiến về việc phát triển đất nước hay các qui
định thì cần phải góp ý văn minh để các bộ phận có thẩm quyền tiếp thu ý kiến và trình
lên cấp trên.

Trong quá trình bầu cử, nhân dân phải tìm hiểu kỹ các ứng viên mà mình sẽ lựa
chọn, vì họ sẽ là những lãnh đạo của chúng ta trong tương lai, những người đại diện
chúng ta và đưa ra những quyết định của từng khu vực, góp phần chung trong việc xây
dựng đất nước.

Đối với các cá nhân đang ứng cử hoặc đang giữ các chức vụ, cần phải có trách
nhiệm thật cao trong công việc của mình, vì đây là những người lãnh đạo đất nước,
đưa ra những quyết định về đa số vấn đề trong xã hội, để quản lý đất nước, để phát
triển, để bảo vệ toàn thể dân tộc ta.

Xử lý nghiêm các cá nhân cố tình lợi dụng tín nhiệm để trục lợi cho bản thân để
làm gương cho toàn thể nhân dân, để tạo lòng tin cho nhân dân về cấp lãnh đạo và giữ

14
Chủ tịch Hồ Chí Minh
24
vững sức mạnh của bộ máy chính trị, sẵn sàng đương đầu với các khó khăn trên con
đường phát triển phía trước.

25
KẾT LUẬN

Sau hơn 30 năm đổi mới, với tầm nhìn chiến lược trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận chính trị
khá hoàn chỉnh, lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Đó là một trong những nguồn gốc của những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử.

Mặc dù thế giới có nhiều biến động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Những chủ trương và giải pháp của Đảng theo ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, qua lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn con đường đã chọn. Bài
học chung cho mọi quyết sách trong thời đại hiện nay là tiếp tục làm sâu sắc hệ giá trị
phát triển Việt Nam theo con đường đã chọn; tìm ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử
tốt nhất trong mọi tình huống, bước ngoặt chiến lược của cách mạng trong tình hình
mới; để tiếp tục kiến giải một cách khoa học con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa mang bản sắc Việt Nam.

Thành tựu lý luận của Đảng ta trong nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội
không tách rời việc xác định hệ mục tiêu với những giá trị cơ bản, quan trọng nhất mà
Việt Nam hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Vượt qua những hạn chế, sai lầm của nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao
cấp thời kỳ trước Đổi mới, nhận thức lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là sự phát triển đầy sáng tạo, một thành tựu lý luận có ý nghĩa rất to
lớn của Đảng ta. Đây chính là một cơ sở, điều kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp
phần mang lại sự phát triển liên tục, mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta trong mấy thập
niên vừa qua.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng,
phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là logic tất yếu, hệ quả không tách rời của những
thành tựu của Đảng trong đổi mới nhận thức lý luận, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tính chất,
đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

26
Qua các kết cấu của tiểu luận này chúng ta đã rút ra được những bài học về
những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, giúp chúng ta
nhìn nhận ra được các thành tựu, khuyết điểm, hạn chế về những đóng góp lý luận của
Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời đưa ra những giải pháp duy trì phát huy vai trò
của Đảng cộng sản Việt Nam trong tương lai.

27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Tiếp tục xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước".

3. PGS, TS Nguyễn Viết Thông. (26/07/2015). Đổi mới - vấn đề có ý nghĩa sống
còn. Truy cập từ https://tinyurl.com/doimoi-vandecoynghiasongcon.

4. Hà Lê. (28/10/2020). Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Truy cập từ https://tinyurl.com/doimoichinhtrivadoimoikinhte.

5. Nguyễn Chí Công. (28/03/2016). Tiểu luận đường lối đổi mới kinh tế được Đảng
đề ra trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Truy
cập từ https://tinyurl.com/tieuluanduongloidoimoikinhte.

6. Nguyễn Xuân Thắng. (04/05/2018). Giá trị tư tưởng, lý luận và sức sống của
chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay. Truy cập từ
https://tinyurl.com/giatritutuonglyluanvasucsong.

7. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. (28/09/2021). Đổi Mới. Truy cập từ

https://tinyurl.com/doimoiwikipedia.

28

You might also like