You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ


…...000…..

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM? SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY?

Họ và tên sinh viên: Phạm Việt Phương


MSV: 11225301
Lớp tín chỉ: LLTT1101(123)_09
Giảng viên: TS Nguyễn Chí
Thiện

Hà Nội - 2023
0
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................................2

CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM........................................................................................................................3

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.............................................................................................................4
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 4
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam...............................................................................................5

CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.................................9

1. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi
mới ở nước ta hiện nay...................................................................................................10
1.1 Thúc đẩy phát triển kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo................................10
1.2 Xây dựng nền kinh tế tập thể ngày càng củng cố phát triển, kinh tế tư nhân là
động lực quan trọng.....................................................................................................12
1.3 Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường...............................................................14
1.4 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp...................................15

2. Những hạn chế còn tồn đọng...................................................................................16

3. Biện pháp giải quyết................................................................................................17

1
MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, một người thầy,
người cha già vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới. Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của con đường cách mạng Việt Nam
đều gắn liền với công lao to lớn của Người, sự soi sáng, dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại ánh sáng cho con đường cách mạng Việt Nam
bằng con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thời kỳ dân chủ mới, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội với
hình thái gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Chính
điều này đã chi phối đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhằm từng bước xoá bỏ triệt
để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời từng bước xây dựng mầm
mống cho chủ nghĩa xã hội phát triển.
Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ là
mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế - xã hội còn quá non kém của nước ta. Chính vì vậy đề tài: “ Tìm hiểu và phân tích
quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở việt nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay? ” là một đề tài hay, có nội dung rộng và phức tạp. Do
vốn kiến thức của bản thân vẫn còn hạn hẹp nên trong quá trình làm bài khó có thể tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của thầy để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

2
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thời kỳ quá độ là thời kì diễn ra với giai đoạn trong thay đổi tính chất xã hội. Đó
là thời kỳ trung gian khi chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã
hội khác. Đây được xem là tất yếu trong nhu cầu đất nước nếu muốn đi lên Chủ nghĩa xã
hội. Quá độ là những chuyển giao, và mang đến các thay đổi rõ rệt. Đặc trưng kinh tế của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

Theo Mác và Ăng ghen, hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm hai giai đoạn phát
triển là giai đoạn dưới của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn chủ
nghĩa xã hội và giai đoạn trên của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn
chủ nghĩa cộng sản. Lênin đã trên cơ sở kế thừa quan điểm của Mác và Ăng ghen, đồng
thời trên cơ sở tính thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, Lênin vạch ra hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa có những nấc thang phát triển sau: thứ nhất là
những cơn đau đẻ kéo dài; thứ hai là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa; thứ ba
là giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Từ đó, Lênin đã cho rằng có nhiều kiểu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó có kiểu “quá độ” của các nước đã qua chủ nghĩa tư
bản và những nước bỏ qua gia đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà đi thẳng lên chủ nghĩa
xã hội.

Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên theo chủ nghĩa xã hội là sự tồn
tại của kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và bản chất của từng tầng lớp trong xã hội đã thay đổi một
cách rõ rệt. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu dài, có lợi
cho việc phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo Lênin, mâu thuẫn của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn chủ nghĩa xã hội tuy thành công nhưng
vẫn mâu thuẫn với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng phục hồi. Vì
vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ xảy ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản kịch liệt, gay go, khúc khuỷu và phức tạp. Nghiên cứu về thực trạng
nước Nga thời kỳ quá độ, V.I.Lenin rút ra có năm thành phần kinh tế là: thành phần kinh
tế nông dân gia trưởng; thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, tiểu thủ
3
công cá thể và tiểu

4
thương; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Thực trạng phát triển kinh tế của nước Nga khi ấy, sau khi nội chiến kết thúc, từ
mùa xuân 1921, nước Nga bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện
Chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách này vẫn bao gồm những nội dung cơ bản như:
Thuế lương thực; khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và
công nghiệp; sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước; sử dụng các quan hệ
hàng hoá – tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với người lao
động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới; xây dựng nền đại công nghiệp hùng mạnh, coi đó như một trong
những điều kiện nền tảng cho sự phát triển vững chắc của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự tồn
tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần… Những nội dung này thể hiện tư tưởng của
V.I.Lênin về cách mạng đổi mới, hội nhập quốc tế, hiện đại hóa, công nghiệp hóa, thể
hiện hình thức và phương pháp mới đúng đắn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận và thừa kế quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về
tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và thời kỳ quá độ để chuyển đất nước lên chủ
nghĩa xã hội. Dựa trên đặc điểm và điều kiện của Việt Nam, Người đã nhấn mạnh rằng
giai đoạn quá độ đóng vai trò quan trọng là "thời kỳ dân chủ mới" tiến tới mục tiêu cuối
cùng là xây dựng xã hội công bằng và bình đẳng. Việt Nam đã trải qua một quá trình quá
độ gián tiếp, với một đặc điểm quan trọng là việc vượt qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa
tư bản trước khi tiến vào chủ nghĩa xã hội. Điều này đặc biệt đối lập với quá trình lịch sử
của nhiều quốc gia khác, nơi chủ nghĩa tư bản phát triển trước khi diễn ra cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Việc chuyển từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu trực tiếp lên chủ nghĩa
xã hội đã tạo ra một tình huống độc đáo và phức tạp.

Tính chất đặc biệt này đã tác động và chi phối mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội
tại Việt Nam. Nó đã dẫn đến việc từng bước loại bỏ hoàn toàn các di sản của chế độ thực
dân và phong kiến, bởi vì cách tiếp cận này yêu cầu xóa bỏ các yếu tố kinh tế, chính trị và
xã hội liên quan đến kiểu bá quyền và áp bức từ các thực thể đế quốc và phong kiến.

5
Đồng

6
thời, Việt Nam đã từng bước xây dựng những yếu tố cơ bản để phát triển chủ nghĩa xã
hội, bao gồm việc phát triển nền kinh tế, xây dựng hệ thống giáo dục và y tế, đảm bảo
quyền lợi của công nhân và nông dân, và tạo điều kiện cho sự tham gia dân chủ của toàn
bộ xã hội. Việc tiến hành quá độ gián tiếp và chuyển đổi trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà
không trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản là một đặc trưng độc đáo của
cuộc cách mạng Việt Nam. Điều này đã tạo ra một bước tiến quan trọng trong việc loại bỏ
các yếu tố cổ truyền bị lạc hậu và phục vụ cho sự phát triển xã hội toàn diện và tiến bộ.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt
Nam được xem như một hành trình dài, phức tạp, và đầy khó khăn do những đặc điểm và
tính chất riêng. Trong lịch sử, nhiệm vụ của giai đoạn quá độ này ở Việt Nam được chia
thành hai mục tiêu quan trọng:

Thứ nhất, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho xã hội xã hội chủ nghĩa, nó bao gồm
việc tạo ra các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng vô cùng cấp thiết cho quá trình
quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Quá trình này đòi hỏi sự đầu tư và phát triển vô cùng quan
trọng, từ việc xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn lực sản xuất, đảm bảo
nền kinh tế ổn định và bền vững. Đồng thời, cần xây dựng một hệ thống chính trị vững
mạnh, đảm bảo quyền lợi và tương tác xã hội công bằng, xây dựng một nền văn hóa và tư
tưởng tiến bộ, đáp ứng nhu cầu và giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng khác trong giai đoạn quá độ là cải tạo và xây dựng xã hội
mới, với sự tương hỗ giữa việc cải tạo và xây dựng. Tuy nhiên, trọng tâm của quá trình
này là xây dựng, nội dung cốt yếu và chủ chốt, được xem là mục tiêu lâu dài và quan
trọng nhất. Nó yêu cầu thay đổi và loại bỏ hệ thống xã hội cũ và lạc hậu để cải tổ, thay thế
bằng hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội tiến bộ hơn, đồng thời tạo dựng một xã hội mới
dựa trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng. Điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn
bộ xã hội, trong đó mọi thành viên đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển xã hội
mới.

Thế nên, việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ tập trung vào việc
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, mà còn tập trung vào việc
cải tạo và xây dựng xã hội mới. Hai mục tiêu này song hành với nhau mang ý nghĩa quan
trọng và không thể tách rời trong quá trình tiến tới một xã hội văn minh, tiến bộ và phát
triển.

7
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

8
Trong lĩnh vực kinh tế, việc phát triển lực lượng sản xuất chính là một vấn đề vô
cùng cấp thiết và trở thành trụ cột trong việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn nhà nước
ta vươn tới mục tiêu này, việc tăng năng suất lao động nhờ vào công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trở thành một yếu tố không thể thiếu. Đồng thời, việc thiết lập hệ thống quan hệ
sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế và cơ cấu kinh tế theo ngành, vùng và lãnh thổ cũng đóng
vai trò quan trọng trong giai đoạn quá độ này. Phân phối và quản lý kinh tế là hai khía
cạnh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng. Người nhìn nhận rằng quản lý kinh
tế cần dựa trên hệ thống hạch toán chính xác và khoa học, đảm bảo sự hiệu quả cao và tận
dụng tối đa các đòn bẩy để thúc đẩy phát triển sản xuất. Ngoài ra, việc phân phối tài
nguyên và sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng, nhằm đảm bảo sự công bằng và tiến bộ
trong xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, việc phát triển lực lượng sản xuất không chỉ đơn
thuần là việc tăng cường sản xuất và năng suất lao động, mà còn liên quan đến việc xây
dựng một môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới
công nghệ, cùng với việc phát triển các ngành kinh tế đa dạng và cân đối. Quản lý kinh tế
đúng nguyên tắc cung-cầu, định giá hợp lý và quản lý rủi ro cũng là những yếu tố quan
trọng để thúc đẩy phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tổng kết lại, trong
quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, phân phối hợp lý và
quản lý kinh tế đúng nguyên tắc đóng vai trò không thể chối cãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhìn nhận và đặc biệt quan tâm tới những khía cạnh này, nhằm đảm bảo sự tiến bộ và
phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.2.1 Cơ cấu thành phần kinh tế

Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng về cơ cấu thành phần kinh tế trong
giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người đưa ra quan điểm rằng việc thiết
lập một hệ thống cơ cấu kinh tế phù hợp và cân đối là rất quan trọng để đảm bảo sự phát
triển bền vững và tiến bộ của xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ cấu thành phần kinh
tế phải được tạo ra dựa trên nguyên tắc đa dạng và cân đối, nghĩa là phát triển đồng đều
các ngành kinh tế và không tập trung quá mức vào một ngành duy nhất. Bên cạnh đó,
Người còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển các ngành kinh tế cơ bản như
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Và Bác cũng không quên khuyến khích sự đa dạng
hóa và phát triển các ngành kinh tế khác như công nghệ thông tin, du lịch, văn hóa, giáo
dục và khoa học.

Khi Người nghiên cứu về Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lenin để áp dụng vào
thời kỳ quá độ của Việt Nam, xuyên suốt từ những năm kháng chiến chống Pháp, Người
9
đã nhấn mạnh rằng trong vùng tự do của Việt Nam, còn tồn tại sáu thành phần kinh tế
khác nhau. Người thấy rằng trong thực tế Việt Nam, nhất là trong các khu vực đang tổ
chức kháng chiến chống Pháp, không thể áp dụng một chính sách kinh tế đơn nhất cho
toàn bộ khu vực. Thay vào đó, Người nhận thức được sự đa dạng và sự tồn tại của các
thành phần kinh tế khác nhau. Các thành phần kinh tế được đề cập bao gồm: kinh tế địa
chủ phong kiến bóc lột địa tô, kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã
cung cấp, kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, kinh tế tư bản của tư nhân,
kinh tế tư bản quốc gia.

Khi nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã mạnh mẽ khẳng định rằng quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền
tư bản như Trung Quốc và Việt Nam yêu cầu một giai đoạn "chế độ dân chủ mới" tương
ứng. Trong bối cảnh của chế độ dân chủ mới này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo phân
loại và xác định tồn tại 5 loại kinh tế đa dạng và phong phú, bao gồm:

Một là, kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).

Hai là, các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).

Ba là, kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức
là nữa CNXH)

Bốn là, tư bản của tư nhân.

Năm là, tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).

Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới tại Miền Bắc Việt
Nam sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 có những
điểm thống nhất và có những điểm thay đổi đáng chú ý. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chú
trọng đến việc xem xét cơ cấu kinh tế theo địa phương và vùng miền. Người nhận thấy
rằng Việt Nam là một quốc gia có địa hình và điều kiện tự nhiên đa dạng, do đó, việc phát
triển các ngành kinh tế phải được điều chỉnh và tận dụng tối đa các tiềm năng và lợi thế
địa phương. Bác khuyến khích việc phát triển các khu vực kinh tế đặc thù và khu vực kinh
tế mở rộng nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện và cân đối trong cơ cấu kinh tế của đất
nước.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong giai đoạn
10
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự kết hợp giữa việc phát triển các ngành kinh

11
tế cơ bản và khuyến khích sự đa dạng hóa và phát triển các ngành kinh tế khác, cùng với
việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo địa phương và vùng miền. Điều này nhằm đảm bảo sự
phát triển toàn diện và cân đối, góp phần xây dựng một nền kinh tế mạnh mẽ và bền vững
cho xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.2.2 Cơ cấu ngành kinh tế


Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện qua các tuyên ngôn và hướng dẫn chính
sách của ông. Hồ Chí Minh coi cấu trúc kinh tế là một yếu tố quan trọng trong quá trình
xây dựng xã hội cộng sản và đề cao vai trò của kinh tế quốc doanh trong việc thúc đẩy sự
phát triển và ổn định của đất nước.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam năm 1945-1954 phải tuân thủ nguyên tắc căn bản là sự kết hợp
giữa kinh tế quốc doanh và tư nhân. Người nhấn mạnh vai trò của kinh tế quốc doanh như
là một công cụ quan trọng để đẩy mạnh sản xuất, tạo thu nhập và cải thiện đời sống nhân
dân. Người coi kinh tế quốc doanh là một thành phần quan trọng trong cơ cấu ngành kinh
tế, có vai trò lãnh đạo và định hướng phát triển kinh tế và đặc biệt nhấn mạnh rằng kinh tế
quốc doanh phải được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu phục vụ lợi ích
của toàn dân và xã hội, đồng thời đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng sự phát triển của kinh tế quốc doanh phải đi đôi với sự
phát triển của các ngành kinh tế khác, bao gồm kinh tế tư nhân, nông nghiệp, công nghiệp
và thương mại. Ông khuyến khích sự đa dạng và đa dạng hóa trong cơ cấu ngành kinh tế,
để tạo ra sự cân đối và sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Bác cũng nhìn nhận rằng sự phát triển kinh tế không thể xảy ra một
cách đồng đều và tự nhiên. Bác nhấn mạnh vai trò của nhà nước và Đảng trong việc điều
chỉnh và hướng dẫn quá trình phát triển kinh tế, nhằm đảm bảo lợi ích của toàn dân và sự
tiến bộ xã hội. Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự kết hợp giữa kinh tế quốc doanh và tư nhân.
Ông đề cao vai trò của kinh tế quốc doanh trong việc thúc đẩy sự phát triển và ổn định
của đất nước, nhưng cũng coi việc phát triển các ngành kinh tế khác là cần thiết để tạo ra
sự cân đối và đa dạng hóa trong cơ cấu ngành kinh tế.
2.2.3 Cơ cấu vùng kinh tế

Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược và triết lý lãnh đạo đặc biệt, đã có
những quan điểm rõ ràng về cơ cấu vùng kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

12
ở Việt Nam. Người nhìn nhận rằng việc cải cách cơ cấu vùng kinh tế là một yếu tố quan
trọng để đảm bảo sự phát triển toàn diện và bền vững của quốc gia.

Một trong những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cải cách đất đai và phân
chia vùng kinh tế. Người nhận thức rằng cơ cấu đất đai và nguồn tài nguyên là một trong
những yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế của mỗi vùng. Do đó, Người đề xuất
phân chia đất đai thành các vùng kinh tế nhỏ để tập trung phát triển và quản lý hiệu quả.
Ý tưởng này nhằm tối đa hóa sử dụng tài nguyên và năng lực sản xuất của từng vùng,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các chính sách và phương pháp phát triển
kinh tế phù hợp với từng vùng. Người cũng coi việc phát triển kinh tế vùng nông thôn là
một ưu tiên hàng đầu. Nhận thức rằng dân số Việt Nam lớn phần là người nông dân, và
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, nhấn mạnh việc nâng cao
đời sống của người nông dân, tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất và cải thiện thu
nhập. Qua việc mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp, phát triển các ngành nghề, và đầu
tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xóa bỏ sự chênh lệch
kinh tế giữa thành thị và nông thôn.

Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những phương pháp cải cách cơ cấu vùng
kinh tế, phát triển vùng nông thôn và các vùng đặc biệt ở Việt Nam, đồng thời cùng với
hợp tác giữa các vùng kinh tế để đảm bảo phát triển bền vững và nâng cao chất lượng
cuộc sống tốt hơn cho nhân dân Việt Nam ta.

CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là giai đoạn quan trọng trong
lịch sử của đất nước, được lãnh đạo bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở thời kỳ này, Nhà nước
ta đã trải qua quá trình chuyển đổi từ một xã hội thống trị tư bản và thực dân sang một nền
xã hội xã hội chủ nghĩa mới. Tất cả những phương pháp cải cách trong thời kỳ quá độ
nhằm thực hiện các mục tiêu cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, bao gồm cải cách đất đai, quy
hoạch kinh tế, công cuộc công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó, việc cải cách
đất đai nhằm phân chia lại tài nguyên đất đai theo nguyên tắc công bằng, văn minh, bên
cạnh đó cũng tạo điều kiện cho người nông dân sở hữu trang trại và đất canh tác. Quy
hoạch kinh tế tập trung vào phát triển các vùng kinh tế đặc biệt, đồng thời xóa bỏ chênh

13
lệch kinh tế

14
giữa thành thị và nông thôn. Công cuộc công nghiệp hóa nhằm nâng cao năng suất lao
động và đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp. Hội nhập quốc tế được thúc đẩy để
mở rộng thị trường và tận dụng nguồn lực, kỹ thuật, và vốn đầu tư từ các quốc gia khác.

Qua quá trình này, Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa độc lập, tự do phát triển và tự cung tự cấp. Đồng thời, Nhà nước ta đã nhấn
mạnh đến phát triển giáo dục, y tế để nâng cao mức sống của nhân dân. Quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử, từ đó mở ra một giai
đoạn mới trong sự phát triển của đất nước.

1. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay
1.1 Thúc đẩy phát triển kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo

Từ Ðại hội VIII (1996) trở đi, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định giữ quan
điểm chỉ đạo rằng kinh tế nhà nước sẽ tiếp tục đóng chức năng chủ đạo trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong suốt những thập kỉ vừa qua, kinh tế nhà
nước đã và đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng khẳng định vị thế chủ đạo trong nền kinh
tế và góp phần tích cực vào "việc duy trì ổn định và đồng bộ của kinh tế quốc gia, tăng
trưởng ổn định với mức độ cao, nâng cao quy mô và tiềm lực của nền kinh tế, cải thiện
chất lượng tăng trưởng". Tuy nhiên vẫn còn xuất hiện những quan điểm lệch lạc, phủ
nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, ví dụ như "Kinh tế nhà nước chỉ là gánh nặng
cho nền kinh tế với hàng loạt doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ" hoặc "Phải loại bỏ vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước vì đã có kinh tế thị trường, nên tất cả các thành phần kinh tế
phải được đối xử bình đẳng và tự do cạnh tranh"... Những quan điểm này không chỉ thiếu
cơ sở khoa học, mà còn mang tính chủ quan và thiếu sự khách quan.

Bởi lẽ, trong thực tế, quan điểm trên là một quan điểm được xây dựng dựa trên cơ
sở thực tiễn và kinh nghiệm, và đã được chứng minh là phù hợp và hiệu quả trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế và đảm bảo sự cân đối và ổn định của nền kinh tế Việt Nam.

Đầu tiên, cần nhận định rõ rằng kinh tế nhà nước không hoàn toàn trùng hợp với
doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước chiếm một phần lớn trong hệ thống kinh tế,
gồm các yếu tố thuộc sở hữu của nhà nước và toàn dân, mà nhà nước được ủy quyền đại
diện về sở hữu. Kinh tế nhà nước do nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành. Ngoài doanh
nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước còn bao gồm những yếu tố khác thuộc sở hữu của nhà

15
nước như tài

16
nguyên quốc gia, ngân hàng trung ương, ngân sách và quỹ dự trữ quốc gia. Nó gồm gồm
các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, dầu khí, nước, đất đai và các nguồn tài
nguyên khác. Kinh tế nhà nước gồm các doanh nghiệp nhà nước, cạnh đó còn bao gồm
những yếu tố thuộc sở hữu của nhà nước như tài nguyên quốc gia, ngân hàng trung ương,
ngân sách và quỹ dự trữ quốc gia. Nhà nước phải có trách nghiệm đảm nhiệm việc tổ
chức, quản lý và điều hành kinh tế nhà nước nhằm mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia và
đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Năm 2020 theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư tại Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam,
việc hiệu quả sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đã đạt hiệu quả lớn, với
78,5% trong số đó đạt lãi, 2,2% hòa vốn và 19,3% là thua lỗ. Trong khi đó, doanh nghiệp
ngoài nhà nước có tỷ lệ 43,7% đạt lãi, 7,7% hòa vốn và 48,6% thua lỗ. Dù chỉ chiếm
0,4% trong tổng số doanh nghiệp cả nước, nhưng doanh nghiệp nhà nước đã chiếm được
vốn đầu tư lên tới 9,65 triệu tỷ đồng cho hoạt động sản xuất và kinh doanh. Doanh nghiệp
nhà nước có doanh thu thuần cao nhất đạt 13,41 triệu tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt
323,64 nghìn tỷ đồng. Trong năm 2021, tổng doanh thu của các doanh nghiệp nhà nước
vượt kế hoạch đề ra, tăng 7,8% so với năm 2020, đạt tỷ lệ 43,3%. Lợi nhuận trước thuế
cũng vượt kế hoạch, tăng 22,5% so với năm 2020, đạt tỷ lệ 41,7%. Các doanh nghiệp nhà
nước đã đóng góp một phần lớn vào ngân sách nhà nước, chiếm tỷ lệ từ 17% đến 23% của
tổng thu ngân sách.

Thứ hai, việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không chỉ vạch ra con
đường đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ bảo đảm thực hiện các mục tiêu của quá trình phát
triển đất nước theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa, bên cạnh đó còn cho thấy sự khác biệt
đáng kể của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đây là một nền kinh tế thị trường xoay
quanh xã hội chủ nghĩa, trong đó có sự kết nối chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và việc
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời phát triển kinh tế và phát triển văn hóa,
xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và đời sống của người dân, bảo vệ môi trường và đảm bảo
quốc phòng - an ninh.

Thứ ba, không thể chỉ nhìn vào hiệu quả kinh doanh của một số doanh nghiệp tư
nhân để đánh giá rằng kinh tế tư nhân có thể trở thành chủ đạo. Mặc dù Đảng đã xác định
rằng "Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế" và công nhận đóng góp
ngày càng lớn của khu vực này trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia, thực tế cho
thấy hầu hết các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, công nghệ thấp, vốn và quản trị
yếu.
17
Cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ thương mại nhỏ,
với hơn 97% doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ, năng suất lao động thấp chỉ đạt
khoảng 34% so với doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% so với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Năng lực khoa học công nghệ vẫn còn là một hạn chế lớn.

Thứ tư, để cho kinh tế nhà nước giữ vị thế chủ đạo là "ưu ái đối với kinh tế nhà
nước", "phân biệt đối xử bất công với các doanh nghiệp khác", "cạnh tranh không lành
mạnh",... là sự xuyên tạc vô căn cứ. Bởi lẽ, quan điểm nhất quán của Ðảng là: “Các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật", doanh
nghiệp nhà nước cũng phải “cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế”. Nhà nước luôn chú trọng “tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho
các doanh nghiệp”, bảo đảm “thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập
môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh
tế”.

Thế nên, kinh tế nhà nước chính là "một công cụ, một yếu tố quan trọng về mặt vật
chất, đóng vai trò trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội, cũng như khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường”,
nhằm đảm bảo rằng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế nhà nước trực tiếp có vai trò đảm nhiệm những lĩnh vực trọng yếu liên
quan đến an ninh chủ quyền quốc gia, quân sự quốc phòng, bảo đảm an sinh xã hội, tài
nguyên quốc gia, hay đầu tư ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà doanh nghiệp tư nhân
không thể hoặc không muốn làm nhưng cần thiết cho tiến trình phát triển kinh tế của đất
nước theo mục tiêu đã định, vì lợi ích đông đảo tầng lớp nhân dân như xây dựng kết cấu
hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt, cung ứng dịch vụ công ích, đầu tư vào những
ngành có vốn đầu tư lớn, ở địa bàn khó khăn, nhiều rủi ro, khó thu được lợi nhuận cao...

1.2 Xây dựng nền kinh tế tập thể ngày càng củng cố phát triển, kinh tế tư nhân là
động lực quan trọng

Cũng chính trong Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định, việc phát triển
mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả “thực sự trở thành
một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế”. Thế nên đây là một chủ trương lớn,
thống nhất của Đảng bên cạnh việc thúc đẩy kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển; cùng với
đó là phát huy vai trò của thành phần kinh tế này trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
an ninh quốc phòng trong tình hình mới.
18
Trước hết, vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chính Minh về cơ cấu
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước đã nhấn
mạnh vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong việc phát triển kinh tế và thúc đẩy sự
hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân. Chính điều này nhằm khơi dậy
khát vọng phát triển xã hội, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội,
củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế mà toàn dân
có thể tham gia, năng động và sáng tạo trong cơ chế thị trường, mang tố chất "cần cù và linh
hoạt" của người Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh rằng sự tồn tại bền bỉ của kinh tế hộ cá
thể, tiểu chủ trong thời kỳ bao cấp, là hiện thực của "năng lực nội sinh" bền bỉ của kinh tế
tư nhân. Với cơ hội mới từ Đại hội lần thứ XIII, kinh tế tư nhân tại Việt Nam sẽ tiếp tục
phát triển và đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển kinh tế-xã hội và củng cố quốc phòng.
Nhưng bên cạnh đó, kinh tế tư nhân không thể thách thức vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước và doanh nhân Việt Nam không thể đánh bại kinh tế nhà nước để trở thành nhân tố
thách thức sự điều tiết kinh tế của Nhà nước.

Hai là, Đại hội XIII đã rõ ràng thể hiện sự công nhận của Đảng, Nhà nước và nhân
dân đối với vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân như một động lực chủ yếu trong quá
trình phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng. Đây là sự công nhận về
những đóng góp đáng kể mà thành phần kinh tế này đã mang lại, một sự thừa nhận rõ
ràng về khả năng và tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế-xã hội, cùng với việc củng cố an ninh quốc phòng. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế
tư nhân tiếp tục được duy trì liên tục ở mức khá, chiếm tỉ trọng 39 - 40% GDP; thu hút
khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các
nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân
dân, bảo đảm an sinh xã hội.

Ba là, Đảng và Nhà nước ta đã ghi nhận kinh tế tư nhân chính là động lực quan
trọng của nền kinh tế. Đó chính là cuộc cách mạng mới về tư duy, tư tưởng của nhân dân
được thống nhất, để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân ngày một lớn mạnh. Bởi lẽ, kinh tế
tư nhân với tư cách là “một động lực quan trọng”, thì về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đã và đang tạo mọi điều kiện để phát huy tốt nhất động lực đó, song hành
với đó là việc phải coi phát triển kinh tế tư nhân là một bộ phận của công cuộc phát triển
lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
là một trong những phương tiện cần được ưu tiên để đạt đến mục đích nâng cao năng suất

19
lao động xã hội - yếu tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.

20
Tóm lại, chính sách “Xây dựng nền kinh tế tập thể ngày càng củng cố phát triển,
kinh tế tư nhân là động lực quan trọng” đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Đây là một chính sách mang tính chiến lược và tầm nhìn
xa hơn, nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của
các doanh nghiệp kinh tế tư nhân. Qua việc công nhận vai trò quan trọng của kinh tế tư
nhân, chính sách này đã làm bùng nổ động lực phát triển xã hội, sử dụng hết tất cả các
nguồn lực và tiềm năng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Sự tăng trưởng và đa
dạng hóa các doanh nghiệp kinh tế tư nhân đã tạo ra một môi trường kinh doanh sáng tạo,
năng động và cạnh tranh, góp phần vào việc tạo ra việc làm, gia tăng sản xuất và cải thiện
mức sống của người dân.

1.3 Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, là khâu đột phá
quan trọng, tạo động lực giúp đất nước phát triển nhanh chóng và vững mạnh. Đúng như
quan điểm đã được Đại hội Đảng đề ra trước đó, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng
định vai trò và định hướng phát triển của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điểm mới trong Văn kiện này là việc vạch ra một
cách rõ ràng và cụ thể hơn về vai trò và yêu cầu của từng thành phần kinh tế. Điều này
giúp tạo ra một sự cân đối hài hoà, hợp lý, minh bạch, đảm bảo sự cônng bằng và tăng
cường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, đồng thời khuyến khích sự phát triển hài
hòa và bền vững của nền kinh tế.

Đảng ta đã làm rõ và nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó được khẳng định giữ vai trò chủ đạo và
được coi là công cụ và lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô,
định hướng, điều tiết, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Chẳng hạn như việc
Nhà nước đã ổn định kinh tế bằng các biện pháp như kiểm soát tổng cung-cầu, quản lý tài
chính và tiền tệ, đảm bảo ổn định giá cả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Còn đối với hình thức kinh tế tập thể, nó xác định là có phạm vi hoạt động rộng
lớn trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn. Điều này được thể hiện trực tiếp qua hình thức
kinh doanh hợp tác xã - cung cấp dịch vụ, bảo vệ lợi ích thành viên và tạo điều kiện cho
phát triển bền vững. Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ mở rộng và liên kết hợp tác xã để
giúp người sản xuất nhỏ phát triển trong nền kinh tế thị trường.
21
Đối với Kinh tế tư nhân, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ hàng
đầu kinh tế tư nhân chính là trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế và nói rõ
hơn rằng cần xóa bỏ mọi hàng rào ngăn cản, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh
tế tư nhân, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm; khuyến khích kinh tế tư nhân “thay mình đổi vận”, đổi mới công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, có tiềm lực mạnh, có
sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu
doanh nghiệp, đóng góp khoảng 55% GDP và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh
nghiệp, đóng góp vào GDP đất nước đạt 60 - 65%.

Riêng đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - một phần quan trọng của nền kinh
tế Việt Nam, nó đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, công nghệ và mở
rộng thị trường xuất khẩu. Đại hội XIII đã đề ra một số chủ trương để chuyển trọng tâm
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là nước ta tập trung vào chất lượng hơn là số lượng,
tạo trọng tâm và điểm quan trọng trong việc lựa chọn những dự án có công nghệ mới, tiên
tiến, hiện đại, có giá trị gia tăng cao và thân thiện với môi trường. Đồng thời, chiến lược
này cũng nhấn mạnh việc kết nối chặt chẽ và hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước,
chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước
tham gia vào mạng lưới sản xuất kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho sự hội nhập và phát triển bền vững của kinh tế Việt Nam, đồng
thời tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra lợi ích cho cả các doanh nghiệp trong nước
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Tóm lại, chính sách hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế, đảm bảo cạnh tranh công bằng, văn
minh bảo vệ quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, đẩy mạnh hạ tầng và nguồn nhân
lực, đảm bảo an ninh và công bằng xã hội, và hội nhập quốc tế. Việc tạo ra một môi
trường kinh doanh lành mạnh cũng là mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, đảm
bảo rằng sự cạnh tranh được diễn ra công bằng và không bị hạn chế bởi các hành vi độc
quyền kinh tế.

1.4 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình chuyển dịch từ trạng thái kinh tế này
sang trạng thái kinh tế khác phù hợp với phân công lao động và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong giai đoạn phát triển kinh tế nhất định. Trong giai đoạn 2015-2020,
22
nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến một quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tiến
bộ,

23
sáng tạo, đổi mới, từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp lúa nước với tỷ lệ lao động
nông nghiệp chiếm khoảng 90% đến một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây
quả thực là một bước tiến lớn của nền nông nghiệp Việt Nam, cụ thể ta đã đạt đuợc những
thành tựu như: duy trì liên tục tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định; tạo ra nhiều cơ hội việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; kiểm soát mức lạm phát trong tỉ lệ cho phép,…

Từ Đại hội Đảng lần thứ V vào năm 1982 và đặc biệt là Đại hội Đảng lần thứ VI
vào năm 1986, Việt Nam có một chính sách cải cách toàn diện, đổi mới. Đại hội Đảng lần
thứ VI, văn kiện họp đã chú trọng đến vai trò quan trọng của nền nông nghiệp và sự phát
triển của hệ thống nông nghiệp, từ đó mở ra một giai đoạn mới của sự phát triển kinh tế
và xã hội. Chính sách đã tập trung vào việc đẩy mạnh đa phương quốc tế, mở cửa thị
trường và thu hút đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế Việt Nam đã đi từ một nền kinh tế trọng
điểm công nghiệp nặng sang một nền kinh tế hỗn hợp, cùng với sự phát triển đồng đều
các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, và dịch vụ.

Việc tập trung vào phát triển nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá dưới sự đầu tư và cải cách, nền kinh tế nông nghiệp đã được nâng cấp, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào xuất khẩu nông sản. Nền kinh tế
nước ta đã đạt được một số thành tựu lớn. Chẳng hạn, sản lượng nông sản như lúa, cây
công nghiệp, thủy sản và gia cầm đã tăng lên đáng kể, đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất
khẩu. Hay việc áp dụng kỹ thuật cao, ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao quản lý
đã cải thiện hiệu suất và chất lượng sản phẩm; cải tiến hệ thống tưới tiêu, sử dụng công
nghệ cao trong chăn nuôi và trồng trọt, và phát triển các khu công nghiệp nông nghiệp.
Các sản phẩm nông nghiệp như gạo, cà phê, hạt điều, hải sản và rau quả đã chiếm một tỷ
trọng lớn trong doanh thu xuất khẩu của Việt Nam, đóng góp vào thu nhập quốc gia và cải
thiện cuộc sống của người dân ở nông thôn. Điều này đã đóng góp vào giảm nghèo, cải
thiện chính sách xã hội và đảm bảo an sinh xã hội cho cộng đồng nông dân.

Tóm lại, chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp tập trung vào đa
dạng hóa, phát triển bền vững, cạnh tranh và hội nhập quốc tế, đồng thời tăng cường công
nghệ và đổi mới. Việt Nam cũng đang chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang
các khu vực công nghiệp và dịch vụNhằm nâng cao chất lượng và trình độ của lao động,
đồng thời đảm bảo sự phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đồng bước với
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Những hạn chế còn tồn đọng


24
Bên cạnh những kết quả đạt được, nước ta vẫn còn phải đối mặt với một số hạn chế
trong việc phát triển kinh tế và vận dụng tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ nhất là vấn đề thiếu sự cân đối trong việc phát triển kinh tế. Dù cơ cấu ngành
nước ta đã có sự chuyển biến từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên sự
phát triển giữa các ngành vẫn chưa đồng đều, các khu vực miền núi và nông thân vẫn gặp
khó khăn trong việc tiếp cận cơ hội phát triển và hưởng lợi từ công nghiệp hoá so với các
khu vực thành thị.

Thứ hai là thiếu sự đồng bộ trong việc vận dụng tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tuy tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh được thừa nhận và áp dụng trong phạm
vi rộng rãi, nhưng việc đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả trong việc vận dụng chưa được
thực hiện đầy đủ. Có sự chênh lệch giữa lý thuyết và thực tiễn, gây ra một số rối loạn
trong chính sách kinh tế và quản lý.

Thứ ba là nền kinh tế nước ta vẫn còn thiếu sự sáng tạo và đổi mới. Mặc dù việc
đổi mới đã được nhấn mạnh nhưng còn thiếu sự sáng trong các lĩnh vực kinh tế. Việc phát
triển công nghiệp và dịch vụ cần sự đột phá và áp dụng các tiến bộ công nghệ để nâng cao
năng suất và cạnh tranh.

Ngoài ra, còn một vấn đề vô cùng nhức nhối, đó chính là thách thức về tài nguyên
thiên nhiên và môi trường. Nguy cơ mất rừng, sự suy thoái nhanh của chất lượng đất và
diện tích đất canh tác, tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã
bị suy giảm đáng kể, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên sinh vật, các
hệ sinh thái, sử dụng không hợp lý, ô nhiễm môi trường, trước hết là môi trường nước,
không khí và đất ở mức trầm trọng,... Nếu không ngăn chặn và có biện pháp giải quyết
kịp thời những vấn đề trên, chúng sẽ có những tác động xấu đến cả con người và nền
kinh tế nước nhà.

3. Biện pháp giải quyết

Để vượt qua những hạn chế trong việc phát triển kinh tế và vận dụng tư tưởng kinh
tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể áp dụng các biện pháp sau đây:

Một là, tăng cường đào tạo và nâng cao nhận thức về tư tưởng về nền kinh tế của
Bác. Điều này là một việc rất cần thiết. Nó bao gồm việc đào tạo các nhà quản lý và người

25
làm chính sách với kiến thức sâu về tư tưởng kinh tế của Người, đồng thời tăng cường
nâng cao nhận thức của người dân về tư tưởng kinh tế này.

Hai là, thúc đẩy cải cách hành chính và quản lý. Việc cải cách hành chính và quản
lý là một trong những chính sách quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhà
nước ta cần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm bớt những thủ tục hành
chính lạc hậu, rườm rà, tăng tính minh bạch, trong sáng và trách nhiệm trong quản lý.

Ba là, khuyến khích đổi mới và sáng tạo. Cần tạo điều kiện và khuyến khích các
hoạt động nghiên cứu khoa học phát triển, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và đổi mới
trong các ngành công nghiệp, dịch vụ.

Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta còn cần phải xây dựng môi trường kinh doanh
thuận lợi, sáng tạo, minh bạch nhằm thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Chẳng hạn như
việc cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo ra các chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư, và tăng
cường giải quyết các vấn đề liên quan đến vốn, lao động và thị trường.

Hơn thế nữa, bảo vệ môi trường cũng chính là cơ sở để phát triển bền vững. Cần
thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái
tạo, thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch, và thúc đẩy các hoạt động phát triển bền vững.

Tóm lại, để giải quyết những hạn chế trong việc phát triển kinh tế và vận dụng tư
tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta cần tăng cường đào tạo và
nhận thức, cải cách hành chính và quản lý, khuyến khích đổi mới và sáng tạo, xây dựng
môi trường kinh doanh thuận lợi, và bảo vệ môi trường. Những điều này sẽ là tiền đề và
cơ sở cho nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

2. Báo Công thương: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đáp ứng hội nhập và phát
triển bền vững của việt nam hiện nay: một số vấn đề trao đổi

(https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chuyen-dich-co-cau-nganh-kinh-te-dap-ung-
hoi-nhap-va-phat-trien-ben-vung-cua-viet-nam-hien-nay-mot-so-van-de-trao-doi-
73241.htm)

3. C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

5. V.I.Lênin, Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

6. Tạp chí của ban Tuyên giáo trung ương : Kinh tế tư nhân - động lực quan trọng
của nền kinh tế

(https://tuyengiao.vn/tim-hieu-noi-dung-cac-van-kien-dai-hoi-xiii/kinh-te-tu-nhan-
dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te-133368)

7. Tạp chí của ban Tuyên giáo trung ương : Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước

(https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/khang-dinh-vai-tro-chu-
dao-cua-kinh-te-nha-nuoc-140981)

6. Thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - từ cơ sở lý luận
đến thực tiễn Việt Nam

(https://truongchinhtri.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=ct.chitiet&urile=wc
m%3Apath%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/tintucsukien/tinhoatdo
ngcuatruong/mmnmnbbnmnm)

27

You might also like