You are on page 1of 15

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ…/ NĂM HỌC…

LỚP:………………………………………………………….
NHÓM:……………………………………………………….
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:………………………………

Tp. Hồ Chí Minh - 20.....


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

TÊN ĐỀ TÀI BÀI TẬP LỚN

Tên các thành viên trong nhóm (MSSV):

Tp. Hồ Chí Minh - 20.....


MỤC LỤC

Trang

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các hình vẽ, đồ thị

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

Chương I : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG, BIỆN PHÁP


QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.

1.1. Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa ở việt nam.
1.2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp
thực hiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chương II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VAI TRÒ
CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU, SỬ DỤNG CÁC
THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC – KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ ĐỂ
PHỤC VỤ CHO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC
Mở đầ u
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn ái Quốc –
Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con
đường cách mạng vô sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, mới triệt để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động.
Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo cho đế n
ngày nay.

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo xã hội
tư bản thành xã hội chủ nghĩa bằng cách mạng. Thời kỳ này là tất yếu vì quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa không ra đời trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản chỉ chuẩn
bị những tiền đề vật chất để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa chỉ được thực hiện sau khi đã gạt giai cấp tư sản ra khỏi chính quyền và thiết lập
được nền chuyên chính vô sản. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô
sản cũng không thể có ngay chủ nghĩa xã hội mà “Cần phải có một thời kỳ quá độ khá
lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì
cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống và vì phải trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài quyết liệt mới có thể thắng được
sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tư sản và tiểu tư sản.” [1]

Trong bài tiể u luâ ̣n này, nhóm chúng tôi muố n giúp cho người đo ̣c có thể hiể u rõ
hơn về con đường và những biêṇ pháp giúp nước ta trong quá trình quá đô ̣ lên chủ nghiã
xã hô ̣i. Đồ ng thời, nhấ n ma ̣nh vai trò to lớn của chủ nghiã xã hô ̣i trong quá triǹ h giải
phóng, xây dựng và bảo vê ̣ đấ t nước.
Chương I : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG, BIỆN PHÁP QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.

1.1 Đặc điểm, Nhiệm vụ của thời kìa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

1.1.1 Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ quá độ:

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta không phải từ chủ nghĩa tư bản,
càng không phải từ chủ nghĩa tư bản phát triển, mà về cơ bản là từ xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa (một số mặt ở thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản) nên lại càng phức tạp, khó khăn
hơn. Việc bỏ qua giai đoạn lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước ta làm cho dân
tộc ta tránh khỏi những đau khổ, bất hạnh gắn liền với chủ nghĩa tư bản, nhưng mặt khác,
chúng ta ngày càng nhận ra những khó khăn khách quan của sự phát triển xã hội không
qua chủ nghĩa tư bản. Nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thiếu
một trình độ cần thiết về xã hội hóa lao động, về phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển
kỹ thuật, về dân chủ và pháp chế, về cơ sở vật chất; về giao lưu quốc tế và phong cách
công nghiệp, những điều kiện vật chất cơ bản cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Vì bậy thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có những đặc điểm riêng, chúng ta không thể
rập khuôn một cách máy móc những nhiệm vụ được quy định cho những nước đã qua
chủ nghĩa tư bản, càng không giống thời kỳ quá độ đối với các nước đã qua chủ nghĩa tư
bản phát triển. Nếu như nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ ở các nước đã qua chủ nghĩa
tư bản phát triển là cải biến (bằng cách mạng) những cơ sở của chủ nghĩa tư bản thành
những cơ sở của chủ nghĩa xã hội thì ở nước ta đồng thời với việc cải biến những cơ sở
hiện có thành những cơ sở của chủ nghĩa xã hội lại phải chuẩn bị cả những tiền đề vật
chất cần thiết mà đáng ra chủ nghĩa tư bản đã làm. Chính đặc điểm cơ bản của nước ta đi
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến,
nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, chính do trình độ phát triển kinh tế còn thấp đã quyết
định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ khá lâu dài và nhiều
khó khăn. Đúng như V.I. Lênin đã nhận định: “Một nước, càng lạc hậu mà lại phải – do
những bước ngoắt ngoéo của lịch sử - bắt đầu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nước
đó càng khó khăn.”[2] . Đó là điều cần lưu ý khi bàn đến nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có hai con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ
hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển
còn thấp, hoặc như V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải
qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được
trong điều kiện cụ thể nào đó nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến
giúp đỡ.

Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hòan thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi
lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này. Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong
phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

̣ sử của thời kì quá đô ̣ lên chủ nghiã xã hô ̣i ở Viêṭ Nam:
̣ vu ̣ lich
1.1.2 Nhiêm

Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất
của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp
gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng
dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này
đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch
sử của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quả độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các điểm
sau:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã
hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong Di
chúc Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu
khổng lồ của toàn Đảng toàn dân Việt Nam.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng! Nhà nước, và nhân dân
ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ
đối với Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã
hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước là luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ. Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán
hộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng, chủ quan,
đốt cháy giai đoạn Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, luận tự từng
bước, từ thấp lên cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo
mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận động xã hội, lại phải có nghệ thuật
khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế.
Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào phát triển con
người, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là mục tiêu, vừa là động của sự phát triển xã
hội. Về bước đi, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đã xác định
bước đi, cách làm phù hợp, Người khẳng định: Chúng ta cũng phải có phương pháp xây
dựng CNXH của riêng mình, gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Bước đi trong
xây dựng XHCN ở nước ta là “phải làm dần dần”, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại,
phải thực hiện “đi bước nào vững chắc bước ấy”.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng CNXH,
đó là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng
làm chính; kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và quyết tâm. Đặc
biệt, Người xác định biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định nhất trong xây dựng CNXH ở
nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài dân, sức dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng để làm lợi cho dân.

1.1.3 Quan điể m của Hồ Chí Minh về nô ̣i dung xây dư ̣ng chủ nghiã xã hô ̣i ở nước
ta trong thời kì quá đô ̣:

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ
sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng
điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”[3]. Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học
tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”[4].
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp cách mạng mang
tính toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:
- Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu,
nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã trở thành
Đảng cầm quyền Mối quan tâm lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho
Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất lòng tin của
dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với
nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức.
Đồng thời, củng cố và tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng trở thành nhiệm vụ rất quan trọng.
Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông
dân và tri thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ
hệ thống chính trị cũng như thành tố của nó.
Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao
động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế Hồ
Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng
lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất
giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ. Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa
kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế
vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của
đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị
trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triền
kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo
xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thế của nhân dân lao động,
Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển, về tổ chức
hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện,
cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao
động riêng lẻ khác. Nhà nước bao hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng
dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn. khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với
những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh té và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo đế
góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động
làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ
họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu. Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối
và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao,
sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất Người chủ trương và chi rõ các điều
kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động,
Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất, "Chế độ làm khoán là một
điều kiện của chủ nghĩa xã hội. nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ,
cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và là lợi riêng...: làm khoán tốt thích hợp
và công bằng dưới chế độ ta hiện nay"[5].
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng
con người mới. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học
– kỹ thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa
xã hội cộng với khoa học chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh
rất coi trọng việc nâng cao dan trí, đào tạo và sử dụng nhân tai, khẳng định vai trò to lớn
của văn hóa trong đời sống xã hội.

1.2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp thực hiện
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội:

Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều trăn trở khôn nguôi của Người là tìm ra bước đi, biện pháp
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến nhận thức lý luận thành chương trình hành
động, thành hoạt động thực tiễn hàng ngày. Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp
với Việt Nam. Hồ Chí Minh để ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế,
cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chế độ mới,
có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nuớc anh em. Học tập những kinh nghiệm
của các nước tiên tiến, nhưng không được sao chép, máy móc, giáo điều Hồ Chí Minh
cho rằng, Việt Nam có thể làm khác Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác vì Việt Nam
có điều kiện cụ thể khác.
Hai là xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát
từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên đây, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống việc
xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, quá tuyệt đối hóa cái riêng, những
đặc điểm của dân tộc, vừa chống máy móc. giáo điều khi áp dụng các nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin mà không tính đến những điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước và
của thời đại.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận vừa nêu, Hồ Chí Minh xác định
phương châm thực hiện bước đi trông xây dựng chủ nghĩa xã hội: dần dần, thận trọng
từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và việc xác định các bước đi
phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy định. Hồ Chí Minh nhận thức về
phương châm "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" không có
nghĩa là làm bừa, làm ẩu. "đốt cháy giai đoạn", chủ quan, duy ý chí, mà phải làm vững
chắc từng bước, phù hợp với điều kiện thực tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vai trò của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là
"con đường phải đi của chúng ta", là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; nhưng công nghiệp hóa không có nghĩa là xây dựng những nhà máy xí
nghiệp cho thật to, quy mô cho thật lớn, bất chấp những điều kiện cụ thể cho phép trong
từng giai đoạn nhất định. Theo Người, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực
hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc,
một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề
lương thực, thực phẩm cho nhân dân các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã chỉ đạo một số biện pháp cụ thể
sau đây:
- Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, .lấy
xây dựng làm chính.
- Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền
Nam – Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện thắng
lợi kế hoạch.
-Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản quyết định lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, năng lực có trong dân để đem
lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành
sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập
hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và khai thác triệt để các nguồn
lực của dân vì lợi ích của quần chúng lao động.
Vậy thời kỳ quá độ của nước ta có thể chia ra thành mấy chặng đường? Về vấn đề
này trong giới lý luận của ta có nhiều ý kiến khác nhau. Theo chúng tôi, cơ sở để phân
định các chặng đường như trên đã trình bày là căn cứ vào mục tiêu của nhiệm vụ kinh tế
xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của thời kỳ quá độ. Như vậy,
thời kỳ quá độ ở nước ta tất yếu phải qua chặng đầu với mục tiêu là ổn định kinh tế xã
hội sau chiến tranh, tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chặng
tiếp theo là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng cơ sở của chủ nghĩa xã hội
về căn bản, hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ quá độ, chúng ta thấy thời kỳ quá
độ ở nước ta được chia thành hai chặng.
Chặng đường đầu: với mục tiêu là ổn định kinh tế xã hội, tạo tiền đề cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu của chặng đường đầu này là nhằm ổn định mọi mặt đời sống xã hội. Đảng
phải có những biện pháp hữu hiệu để đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi tình hình khó khăn
nghiêm trọng hiên nay, đưa nước ta vào quỹ đạo vận động và phát triển phù hợp với quy
luật khách quan. Điều cần nhấn mạnh ở đây là phải thức sự tiến hành sự nghiệp đổi mới,
phải có “giải pháp tình thế” mới có thể đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ, suy giảm
hiện nay. Do trình độ phát triển lực lượng sản xuất còn quá thấp nên trong thời kỳ quá
độ, nhất là ở chặng đường đầu, chúng ta phải nắm vững quan điểm hết sức cơ bản là phải
coi trọng phát triển lực lượng sản xuất, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất có hiệu
quả thiết thực. Trên cơ sở tăng nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất mà thiết lập vững
chắc quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: sở hữu, quản lý và phân phối.
Đảng phải có chính sách đứng đắn để phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hóa.
Như vậy, trong chặng đầu phải tập trung sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân vào
nhiệm vụ ổn định kinh tế xã hội mà điểm then chốt là ổn định sản xuất, ổn định đời sống
vật chất và văn hóa của nhân dân, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lý, thực hiện
công bằng xã hội. Trên cơ sở ổn định kinh tế, xã hội tiếp tục tạo ra những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa theo xu hướng ngày càng hiện đại. Chặng đường đầu
sẽ kết thúc khi nền kinh tế quốc dân đi vào thế ổn định, bảo đảm được lao động tất yếu
và tạo ra được nguồn vốn tích lũy để tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong chặng đường tiếp theo. Chặng đường đầu có thể kết
thúc vào những năm cuối của thế kỷ này.
Chặng đường tiếp theo, hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ quá độ:
Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, bảo đảm cân đối, hợp lý giữa các nhân tố hợp thành xã hội xã
hội chủ nghĩa. Chặng bày sẽ kết thúc khi hệ thống mục tiêu nói trên đã được thực hiện,
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giành được thắng lợi quyết định, bắt đầu vận động trên cơ
sở của chính mình. Chặng này dự tính sẽ kết thúc vào những thập kỷ đầu của thế kỷ sau.
Nhịp độ nhanh chậm tùy thuộc vào cố gắng chủ quan của chúng ta và tác động khách
quan của những biến động trên thế giới. Chúng ta tin tưởng rằng Đảng ta sẽ vạch ra chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, phát triển khoa học kỹ thuật mà nhân tố trung tâm là chiến
lược con người, một cách đúng đắn, phù hợp với thực tiên nước ta, tuân thủ nghiêm ngặt
quy luật khách quan của sự vận động và phát triển xã hội, tiến hành cuộc đấu tranh lâu
dài, bền bỉ nhất định hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, đem lại phồn vinh cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Chương II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VAI TRÒ CỦA SINH
VIÊN TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU, SỬ DỤNG CÁC THÀNH TỰU VỀ KHOA
HỌC – KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ ĐỂ PHỤC VỤ CHO CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Mục tiêu:


Khi còn là một sinh viên cần xác định rõ mục tiêu một cách rõ ràng, có kế hoạch rạch
ròi để thực hiện. Trao dồi, cập nhật những thành tựu của khoa học và nâng cao dân trí,
qua đó tiếp thu và vận dụng các thàmh tựu khoa học, tiến bộ kỹ thuật trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Từ đó, đạt được những chuyển biến rõ nét về các mặt sau đây:
- Có luận cứ khoa học cho việc xây dựng các định hướng chiến lược, chính sách, chủ
trương, kế hoạch, quy hoạch phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh
- Tiếp thu, lựa chọn và làm chủ các công nghệ nhập từ nước ngoài, cùng với sự kết hợp
cải tiến và hiện đại hoá các công nghệ truyền thống ở trong nước, nâng cao trình độ công
nghệ trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ.
- Phát triển tiềm lực khoa học công nghệ: Là một cá nhân trong đội ngũ trí thức giàu lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có chí khí và hoài bão lớn, quyết tâm đưa đất nước lên
đỉnh cao mới, có ý thức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đội ngũ. Góp một phần nhỏ vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trong quá trình nghiên cứu
khoa học, kĩ thuật và công nghệ :
2.2.1. Khoa học xã hội và nhân vǎn:
Sinh viên cần tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Nghiên cứu học tập từ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
- Tìm hiểu về phương hướng, mục tiêu, tiến trình và những giải pháp nhằm công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tìm hiểu về quá trình xây dựng quan hệ sản xuất theo con đường xã hội chủ nghĩa; sự
biến đổi các giai cấp, tầng lớp xã hội; các chính sách bảo đảm tiến bộ xã hội và công bằng
xã hội.
- Sinh viên trở thành một cá nhân tích cực trong công cuộc xây dựng nền vǎn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người trong thời kỹ công nghệ hoá, hiện đại
hoá đất nước, phát huy mạnh mẽ nhân tố con người; đấu tranh chống những ảnh hưởng
độc hại từ mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa với bên ngoài.
- Sinh viên tìm hiểu và tổng kết kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cứu nước, giữ nước
trong lịch sử dân tộc, xây dựng, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong
điều kiện mới.
- Tình hình chính trị, kinh tế thế giới, khu vực Đông Nam á và châu á - Thái Bình Dương.
Qua đó sinh viên góp phần không nhỏ trong quá trình tǎng cường vai trò lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tǎng
cường đoàn kết dân tộc trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Khoa học tự nhiên:
Sinh viên cần tích cực học tập thật tốt, tạo môi trường đẩy mạnh tìm hiểu nghiên cứu
một số vấn đế lý thuyết thuộc lĩnh vực mũi nhọn và ứng dụng có chọn lọc các thành tựu
khoa học hiện đại nhằm tạo cơ sở cho đổi mới công nghệ, định hướng sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Cân nhắc kĩ để tìm ra ngành học phù hợp với
bản thân
Trước mắt tập trung chủ yếu vào các nghành toán học, công nghệ thông tin, các khoa
học hệ thống và điều khiển học; vật lý chất rắn, quang học, vật lý lade, vật lý hạt nhân;
cơ học các kết cấu công trình, cơ học các vật liệu mới, động lực học, các hệ thuỷ khí động
học; hoá hữu cơ, hấp thụ và xúc tác, hoá phân tích; sinh vật học nhiệt đới, kỹ kỹ thuật tế
bào, công nghệ gien, sinh học phân tử; cấu trúc địa chất và đặc điểm địa động lực Việt
nam, vật lý địa cầu, nghiên cứu địa lý, biến đổi khí hậu, dự báo các quá trình tai biến thiên
nhiên Việt nam, nghiên cứu biển, thềm lục địa.
2.2.3. Công nghệ:
Sinh viên tích cực tiếp xúc với những nền công nghệ mới. Lấy ứng dụng, chuyển giao
công nghệ là chính. Qua đó học được khả nǎng lựa chọn, thích nghi và làm chủ các công
nghệ nhập; đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến nhất, trước hết ở những ngành, những
lĩnh vực có tác động chi phối nền kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tǎng cao,
ngành công nghiệp mới xây dựng, ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Đồng
thời, đổi mới công nghệ từng phần, hiện đại hoá từng khâu đối với những lĩnh vực còn
cơ sở vật chất - kỹ thuật và sản xuất còn hiệu quả.
Nếu không có điều kiện và cơ sở vật chất sinh viên cần chủ động tìm hiểu qua tranh
ảnh, báo đài, internet, phổ cập công nghệ cho người thân, bạn bè và xã hội
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao
quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng vừa là kim chỉ nam, vừa đồng thời mở ra vấn đề về xác
định biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu thế
thời đại.

Những vấn đề quan trọng nhất đã được đưa ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng lần thứ XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước:

1. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực,
trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
3. Kết hợp sức manh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Chăm lo xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, làm trong sạch bộ máy xây dựng
nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan lieu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện
cần, kiệm, liêm, chính, chí, công vô tư để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

NGUỒN THAM KHẢO


1. https://loigiaihay.com/dac-diem-nhiem-vu-cua-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-
hoi-o-viet-nam-c124a20359.html#ixzz64VWV228V
2. http://kmacle.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/101/1052/thoi-ky-qua-do-len-
chu-nghia-xa-o-viet-nam
3. [1] .V.I. Lênin Toàn tập, tập 38, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, tr. 446.
4. [2] V.I. Lênin Toàn tập, tập 34, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, tr. 6.
5. Phạm Ngọc Anh( chủ biên), Mạch Quang Thắng, Nguyễn Ngọc Cơ, Vũ Quang Hiển,
Lê Văn Thịnh (2018), giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh ( dành cho sinh viên đại học,
cao đẳng khối không chuyên ngành MÁC-LÊNIN, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.
6. [3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.8, tr. 174, tr. 267.
7. [4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.13, tr. 13.
8. [5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr. 314.

PHỤ LỤC

You might also like