You are on page 1of 13

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

------ oOo ------


HỌ VÀ TÊN NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

Hoàng Đức Trung

Mã sinh viên: 19000497

Lớp học phần: PHI1002 6

Gmail: hoangductrung_t64@hus.edu.vn

Hà Nội, 2021
2

Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

Phần 1: Mục đích và ý nghĩa của đề tài. ............................................................... 3

PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................... 4

Phần 1: Phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ....................... 4

1.1. Sự ra đời......................................................................................................... 4

1.2. Các giai đoạn phát triển ................................................................................ 5

Phần 2: Nhận thức về giai đoạn đầu (nấc thang thứ nhất) của hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa................................................................................. 6

2.1. Khái quát ........................................................................................................ 6

2.2. Đặc trưng ....................................................................................................... 6

Phần 3: Nhận thức về mô hình xã hội của giai đoạn đầu của hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................................ 10

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 12

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 13


3

PHẦN MỞ ĐẦU
Phần 1: Mục đích và ý nghĩa của đề tài.

Tìm hiểu và phân tích về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa để làm
rõ luận điểm của V.I.Lênin: “Trong giai đoạn đầu, trong nấc thang thứ nhất, chủ
nghĩa cộng sản chưa thể hoàn toàn trưởng thành về mặt kinh tế, chưa thể hoàn toàn
thoát khỏi những tập tục hay những tàn tích của chủ nghĩa tư bản” trong tác phẩm
“Nhà nước và cách mạng”. Từ đó có thể nhận thức được đúng đắn về giai đoạn đầu
(nấc thang thứ nhất) đó và mô hình xã hội của giai đoạn đầu ấy ở Việt Nam.
4

PHẦN NỘI DUNG


Phần 1: Phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

1.1. Sự ra đời.
Vận dụng quan điểm duy vật là lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người,
C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Trong
học thuyết, C. Mác đã chỉ rõ lịch sử phát triển của xã hội loài người là sự thay thế từ
thấp đến cao của các hình thái xã hội. Sự phát triển đó chịu tác động của các quy luật
khách quan. Đó là: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; Quy luật
đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động
của các quy luật khách quan đó đã khiến hình thái kinh tế - xã hội có khuynh hướng
phát triển như một quy luật tự nhiên. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động
phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: “Tôi coi sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Lịch sử do con người làm ra, con người tạo ra các quan hệ xã hội của mình và
gọi đó là xã hội nhưng sự vận động của xã hội lại tuân theo quy luật khách quan.
Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao là
nhằm giải quyết các mâu thuẫn trong lòng hình thái kinh tế - xã hội. Trong đó mâu
thuẫn cơ bản nhất, phổ biến nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong các phương thức sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
yếu tố quyết định.
Thực tế, lịch sử nhân loại đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội từ
thấp đến cao. Đó là: Hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy; Hình thái kinh tế - xã hội
chiếm hữu nô lệ; Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến; Hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa và Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự ra đời của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa là do những mặt hạn chế, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù chủ
nghĩa tư bản là một bước tiến dài so với chế độ phong kiến, đã tạo ra được lực lượng
5

sản xuất lớn hơn tất cả các thế hệ trước kia gộp lại chỉ trong chưa đầy một thế kỷ,
nhưng lại tạo ra tình trạng người bóc lột sức lao động con người do chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Ngoài ra, chế độ tư bản còn tạo ra sự
phân hóa giàu nghèo và những cuộc chiến tranh xâm lược. Sự vận động cùa những
mâu thuẫn này chính là nguyên nhân dẫn tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc
cách mạng đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền,
mở đầu sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ sản xuất dựa
trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ
nghĩa tư bản, có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ
xã hội hóa ngày càng cao.

1.2. Các giai đoạn phát triển


C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
phát triển từ thấp đến cao qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp và giai đoạn cao. Để có
được giai đoạn thấp và cao đó thì phải trải qua một thời kỳ đặc biệt đó là thời kỳ quá
độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là thời kỳ cải biến
cách mạng trên mọi lĩnh vực. Theo quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen, trong giai
đoạn thấp của xã hội cộng sản, xã hội còn nhiều dấu ấn của xã hội cũ, năng suất lao
động chưa cao và theo nguyên tắc phân phối “Làm theo năng lực, hưởng theo lao
động”. Khi lên đến giai đoạn cao của xã hội cộng sản, năng suất lao động rất cao, lao
động thành nhu cầu số một và theo nguyên tắc phân phối “Làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu”. Sau này, kế thừa những quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen,
V.I. Lênin cũng nêu lại 3 bước phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Đó là: Những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ), Giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn chủ nghĩa xã hội), Giai đoạn cao của xã hội cộng sản
chủ nghĩa (giai đoạn chủ nghĩa cộng sản).
6

Phần 2: Nhận thức về giai đoạn đầu (nấc thang thứ nhất) của hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa

2.1. Khái quát


Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, khi nói về hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa, V.I.Lênin đã viết: Trong giai đoạn đầu, trong nấc thang thứ nhất,
chủ nghĩa cộng sản chưa thể hoàn toàn trưởng thành về mặt kinh tế, chưa thể hoàn
toàn thoát khỏi những tập tục hay những tàn tích của chủ nghĩa tư bản. Như đã đề cập
ở phần trước, theo ông, giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, giai đoạn đầu (hay nấc thang thứ nhất) trong câu nói của ông là
xã hội xã hội chủ nghĩa (hay chủ nghĩa xã hội) và muốn có giai đoạn này phải trải qua
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa là
chế độ xã hội thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, không có tình trạng người bốc lột người.

2.2. Đặc trưng


Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng
lập chủ nghĩa khoa học rất quan tâm tới dự báo những đặc trưng của từng giai đoạn,
đặc biệt là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản nhằm định hướng phong trào công nhân
quốc tế. Những đặc trưng cơ bản này phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội và quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kế thừa tư tưởng của các nhà không tưởng đi trước,
những dự báo của C. Mác, Ph. Ăngghen và trên cơ sở thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô của V.I.Lênin, ta có thể thấy một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa
xã hội.

- Thứ nhất, Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Đây là
sự khác biệt về chất giữa hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình
thái kinh tế - xã hội ra đời trước, thể hiện ở bản chất nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
7

- Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân làm chủ. Đây là đặc trưng thể
hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội. Xã hội vì con người và do con người.
Nhân dân với nòng cốt là nhân dân lao động phải là chủ thể của xã hội thực hiện
quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân,
bảo vệ những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân
dân tham gia vào công việc nhà nước. Đây là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
- Thứ ba, Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng trên
phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là
giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, mà xét đến cùng
là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức rất cao. Chủ nghĩa
xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý có hiệu
quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động. Chủ nghĩa tư bản
dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nên trong xã hội tư bản duy trì chế độ người
áp bức bóc lột người. Vì vậy trong xã hội tư bản sẽ không có sự bình đẳng giữa mọi
người. Khác với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa (xóa bỏ chế độ dùng chiếm hữu tư nhân tư bản để áp bức bóc lột sức lao động)
và xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm xây dựng một xã hội
công bằng, bình đẳng cho mọi người. Như vậy, chủ nghĩa xã hội đã xây dựng được
một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ về mặt sở hữu, về mặt tổ chức quản lý và mặt phân
phối lao động. Đây cũng là đặc trưng khác về bản chất của chủ nghĩa xã hội so với
chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, đặc trưng này phải được xây dựng trên nền tảng của sự
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất tiến bộ thích ứng với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Và vì không thể ngay lập tức tăng lực lượng sản
xuất tới mức cần thiết để xây dựng nền kinh tế công hữu nên không thể ngay lập tức
8

xóa bỏ chế độ tư hữu của chủ nghĩa tư bản mà phải cải tạo xã hội một cách dần dần.
Ngoài ra, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp nên cơ
sở vật chất - kỹ thuật của nó phát triển lên từ tiền đề vật chất - kỹ thuật của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa, có trình độ cao hơn so với trình độ nền công nghiệp
của xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, điều này chỉ thể hiện đầy đủ khi hoàn thành
thời kỳ quá độ. Với những nước chưa có nền đại công nghiệp do chủ nghĩa tư bản tạo
ra thì thời kỳ quá độ sẽ kéo dài hơn so với những nước đã kế thừa thành tựu nền đại
công nghiệp của chủ nghĩa tư bản tạo ra.
- Thứ tư, Chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa xã hội phải thiết lập nhà
nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Đây là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân nhưng trong xã hội của nhà nước này vẫn còn các
giai cấp và tầng lớp khác nhau, vẫn còn có những thế lực chống đối lại chính quyền
và chế độ đó nên nhà nước này vẫn còn tính giai cấp. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
nhà nước mang tính dân chủ rộng rãi cho nhân dân nhưng vẫn phải thực hiện chức
năng chuyên chính với các thế lực phản động, các tội phạm trong xã hội. Nhà nước
này mang bản chất của giai cấp công nhân - giai cấp có lợi ích cơ bản phù hợp với lợi
ích của nhân dân lao động, phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội.
- Thứ năm, Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong chủ nghĩa xã
hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế. Văn hóa đã tạo nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh con người. Do vậy, quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đồng thời, cần chống tư tưởng, văn hóa phi vô sản, trái với những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa
9

xã hội. Như vậy, hoàn toàn có thể áp dụng quy luật phủ định của phủ định trong việc
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần phải kế
thừa có chọn lọc, kế thừa những mặt tích cực và loại bỏ những mặt tiêu cực đi ngược
lại với những giá trị nhân văn của dân tộc và của loài người. Đây là đặc trưng ở lĩnh
vực văn hóa - tinh thần của chủ nghĩa xã hội.
- Thứ sáu, Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Trong chủ nghĩa xã
hội, cộng đồng dân tộc, giai cấp bình đẳng, đoàn kết và hợp tác trên cơ sở chính trị -
pháp lý, đặc biệt là cơ sở kinh tế - xã hội và văn hóa sẽ từng bước xây dựng củng cố
và phát triển. Đây là sự khác biệt căn bản về việc giải quyết vấn đề dân tộc theo quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi
hoặc chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do con
người, vì con người luôn là bảo đảm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và hợp tác
hữu nghị; đồng thời có quan hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Bởi vì thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ nằm ở phạm vi quốc gia, dân
tộc mà phải sứ mệnh này phải được thực hiện trên phạm vi toàn thế giới. Khi xóa bỏ
được vấn nạn người áp bức bóc lột người, vấn nạn giai cấp này áp bức bóc lột giai
cấp khác ở từng quốc gia thì vấn nạn dân tộc này áp bức bóc lột dân tộc khác sẽ được
xóa bỏ. Đặc trưng này góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Qua 6 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, ta đã thấy được sự phát triển hơn
của chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa)
so với chủ nghĩa tư bản. Chính những đặc trưng này là tiêu chuẩn để phân biệt sự
khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Nó được biểu hiện qua
các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, những đặc trưng này
chỉ được thể hiện một cách toàn diện sau khi hoàn thành thời kỳ quá độ, tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Và đúng như những gì V.I.Lênin đã viết, trong giai đoạn đầu,
chủ nghĩa cộng sản chưa thể hoàn toàn trưởng thành về mặt kinh tế và chưa thể thoát
10

khỏi những tập tục hay những tàn tích của chủ nghĩa tư bản. Lý do là vì từ thời kỳ
quá độ cho tới giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn vận hành dựa trên nền
tảng của tư bản chủ nghĩa về mọi mặt, đặc biệt là vẫn sử dụng tư liệu và phương thức
sản xuất của tư bản chủ nghĩa.

Phần 3: Nhận thức về mô hình xã hội của giai đoạn đầu của hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam

Theo V.I.Lênin, đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ
nghĩa xã hội thì có thể đi bằng cách “bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc” xuyên qua
chủ nghĩa tư bản nhà nước, đồng thời cần phải học hỏi kinh nghiệm từ những nước
phát triển. Thực chất đó là bỏ qua tư bản chủ nghĩa và tiến thẳng lên xã hội chủ
nghĩa. Việc quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu. Nước
ta xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến, bị thống trị một thời gian dài nên tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, cơ sở
kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu. Vì vậy, lựa chọn duy nhất phù hợp với tình hình đất
nước ta là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Con đường bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa nhưng vẫn tiếp thu, kế thừa những thành tựu đạt được của chế độ tư bản
chủ nghĩa để có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện
đại. Trong bối cảnh xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, niềm tin vào con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bị dao động, Đảng ta đã nêu ra
những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, năm 1991) và khẳng định phải kiên định vào con đường chủ nghĩa xã hội,
kiên định vào con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ vào việc
kiên định đi theo con đường đó mà chúng ta mới có được độc lập dân tộc như ngày
hôm nay. Tới năm 2011, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, vận dụng sáng tạo, kế
11

thừa và phát triển chủ nghĩa xã hội cụ thể vào Việt Nam, Đảng ta đã tiếp tục bổ sung
thêm những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

- Thứ nhất, Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc trưng này
khái quát về chủ nghĩa xã hội. Dân phải giàu thì nước mới mạnh.
- Thứ hai, Do nhân dân làm chủ. Đặc trưng này thể hiện sự khác biệt về bản chất
so với chủ nghĩa tư bản. Nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh vực.
- Thứ ba, Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đặc trưng này đã có sự thay đổi so với trước
do có trình độ sản xuất khác nhau nên cần quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thứ tư, Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tức là cần kế thừa
tinh hoa truyền thống dân tộc, loại bỏ những phong tục cổ hủ lạc hậu và tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Thứ năm, Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện. Về cơ bản, đây là đặc trưng mà nước ta đã thực hiện được mặc
dù vẫn còn trong thời kỳ quá độ. Đất nước ta có một môi trường chính trị ổn
định, tạo điều kiện cho con người được ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển
toàn diện.
- Thứ sáu, Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Nhờ có sự
đoàn kết, thống nhất của các dân tộc với nhau nên mới phát huy được sức
mạnh tổng hợp của nhân dân và giành được độc lập toàn vẹn lãnh thổ.
- Thứ bảy, Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nhà nước đa số trấn áp
thiểu số, đề cao tính tối thượng của pháp luật. Ai cũng phải tuân thủ pháp luật.
- Thứ tám, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Việt Nam
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới.
12

PHẦN KẾT LUẬN


Qua quá trình học tập môn Chủ nghĩa xã hội và khoa học và nghiên cứu về đề
tài này, em đã có cái nhìn sâu sắc hơn về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa; đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; tính tất yếu của con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam; mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó, em biết được
bản thân cần tích cực học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm được sự vận động phát
triển của quy luật xã hội và có lý luận chính trị vững vàng để không bi quan, dao
động, mất niềm tin trước những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch. Ngoài ra,
cần trau dồi tri thức khoa học, có kỹ năng tốt, phẩm chất tốt, vừa có tài, vừa có đức
nhằm góp sức vào công cuộc xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
13

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Hướng dẫn
học môn chủ nghĩa xã hội khoa học; Hà Nội – 2020.
2. Giáo trình môn Chủ nghĩa xã hội khoa học bậc Đại học cho sinh viên các
trường Đại học (chuyên và không chuyên); Hà Nội – 2019

You might also like