You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE

__________

BÀI TẬP LỚN


Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Đề 2: Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội.
Phân tích và đánh giá một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực mà em biết.

Họ và tên: Hoàng Thùy Trang

Lớp: Tài chính doanh nghiệp CLC 62B

Mã SV: 11208033

Hà Nội – 2021
LỜI MỞ ĐẦU

“Học thuyết xã hội chủ nghĩa do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin sáng tạo và phát
triển trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sinh động của xã hội tư bản trong
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã trở thành khoa học và phương pháp luận cơ bản
của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản. Từ đó có thể vận dụng, bổ sung và phát
triển để trở thành điều kiện thực tế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn
170 năm qua, toàn bộ lịch sử nhân loại, đặc biệt là lịch sử chủ nghĩa xã hội đã trải
qua những biến động chấn động địa cầu cả về lý luận và thực tiễn. Cho đến nay,
không một học thuyết nào có thể vượt qua vị trí to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
trong việc giúp nhân loại xóa bỏ tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác, giải
phóng nhân dân khỏi ách nô lệ. Nhiều lý luận xã hội chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn
còn nguyên giá trị trong điều kiện hoàn cảnh mới hiện nay.”
A. LÝ LUẬN
I. SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Khái niệm :

- Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung với tư cách
là một chuyên luận toàn diện (triết học, lý luận kinh tế và chủ nghĩa xã hội) về sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
Nghiên cứu lợi ích và nhiệm vụ cơ bản của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
Điều này thể hiện tính thống nhất và tính toàn vẹn về cấu trúc của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin.

- Theo nghĩa hẹp, CNXHKH là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-
Lênin. CNXHKH là bộ phận thể hiện tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn sinh
động của chủ nghĩa Mác-Lênin.

2. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội :

a) Điều kiện kinh tế xã hội

- Vào những năm 40 thế kì XIX, Chủ nghĩa tư bản đã đạt được sự phát triển kinh tế ở
Châu Âu. Cuộc cách mạng khoa học và kinh tế lần thứ nhất đã thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời làm rõ mâu thuẫn
giữa phát triển năng suất xã hội ngày càng tăng với quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở
sản xuất, đó là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.

- Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại, với tư cách là
một lực lượng độc lập, đã trưởng thành sang giai đoạn đấu tranh với giai cấp tư sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển sôi nổi và bắt đầu có tổ chức,
quy mô lớn. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc
xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.

-Đây là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội thay thế các phong trào xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã lạc hậu, không
còn đáp ứng được cuộc đấu tranh của phong trào đấu tranh chống tư sản, và sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở lý thuyết về sự di chuyển của lao động.

b) Những tiền đề văn hóa - tư tưởng

Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực
khoa học, văn hóa và tư tưởng. Khoa học tự nhiên: lý thuyết tế bào; thuyết tiến hóa
về bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.

Khoa học xã hội có những thành tựu nổi trội như: Triết học cổ điển Đức: Heghen,
Phoiơbắc, kinh tế chính trị học cổ điển Anh: A.Smith, D.Ricardo, chủ nghĩa xã hội
không tưởng phê phán: Xanh Ximong, S. Phurie, R.Oen

Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp mang lại những giá trị lớn: Phê
phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; đưa ra nhiều
luận điểm có giá trị về xã hội tương lai; những tư tưởng có tính phê phán đã thức tỉnh
giai cấp công nhân và người lao động đứng lên đấu tranh chống lại chế độ quân chủ
chuyên chế và tư bản chủ nghĩa bất công.

Nhưng bên cạnh đó, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán còn
những hạn chế nhất định. Ví dụ như việc không phê phán hát hiện ra được quy luật
vận động và phê phán hát triển của xã hội loài người nói chung, quy luật vận động,
phê phán hát triển của CNTB nói riêng. V.I. Leenin trong tác phẩm “ Ba nguồn gốc,
ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác” đã nhận xét: “ Chủ nghĩa xã hội không tưởng
không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế
độ làm thuê trong chế độ tư bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát
triển của chế độ tư bản và cũng không tìm được lực lượng xã hội có khả năng trở
thành người sáng tạo ra xã hội mới.” Bởi vậy mà chủ nghĩa xã hội không tưởng chỉ
dừng ở mức độ một học thuyết xã hội. Song, những giá trị đó vẫn tạo ra tiền đề để
Mác và Ănghen kế thừa, chọn lọc, xây dựng và phát triển CNXHKH.
II. ĐẶC TRƯNG CỦA CNXH

Theo quan điểm của Lenin, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Luận điểm mang tính dự báo của Marx, Engels về xã hội
xã hội chủ nghĩa và quan điểm của Lenin từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Soviet cho thấy mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển
toàn diện.

1. Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con
người phát triển toàn diện. Đây là mục tiêu và là đặc trưng cao nhất của CNXH, thể
hiện bản chất nhân văn, nhân đạo cao cả của CNXH, CNCS.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về một xã hội tương lai: “Thay cho xã hội tư sản cũ,
với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”. Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh: Tính ưu việt của CNXH, CNCS là xóa
bỏ mọi bóc lột, áp bức, bất công do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra. Do
đó, các ông chỉ rõ, giai cấp công nhân khi đã trở thành giai cấp thống trị “thì đồng
thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những
điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và
cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp”.

2. Lực lượng sản xuất phát triển, chế độ công hữu từng bước được xác lập, tổ chức
quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối theo lao động.

Theo C.Mác, xã hội CSCN phải được phát triển từ CNTB và trên cơ sở những tiền đề
do CNTB tạo dựng, trong đó về kinh tế là nền đại công nghiệp. Đến giai đoạn
V.I.Lênin, ông rất coi trọng việc cần thiết phải xây dựng yếu tố cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại của CNXH. Ông đã từng khẳng định “CNCS là chính quyền xô viết
cộng với điện khí hóa cả nước”, “phải tiếp thu trật tự đường sắt Phổ cộng với kỹ thuật
và cách thức tổ chức các tờ rớt của Mỹ” “cơ sở vật chất của CNXH là nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp”...
Về xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin là xóa bỏ
tính chất TBCN của chế độ sở hữu đó chứ không phải xóa bỏ chế độ sở hữu nói
chung; là nhằm mục đích phát triển LLSX, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, nâng
cao đời sống người dân. Các ông khẳng định: “Đặc trưng của CNCS không phải là
xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản... vì đây là hình
thức chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người
này bóc lột những người kia’’. Tuy nhiên, hai ông chỉ rõ: xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản
không phải là xóa bỏ sở hữu của cá nhân đối với kết quả lao động của cá nhân, là cái
có được một cách lương thiện do lao động của bản thân họ làm ra và là cơ sở của mọi
tự do, mọi hoạt động và sự độc lập của cá nhân. Các ông viết: “Điều chúng tôi muốn,
là xóa bỏ tính chất bi thảm của các phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công
nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi
ích của giai cấp thống trị đòi hỏi”.

Ở đây cần lưu ý tư tưởng “từng bước” xóa bỏ sở hữu tư nhân TBCN của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Các ông nhấn mạnh những điều kiện để “xóa bỏ”: 1) Sự phát triển cao
của LLSX; 2) Là quá trình lâu dài, không thể nóng vội, chủ quan; 3) Phải xây dựng,
thiết lập được chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, sao cho không phủ định sở hữu cá nhân, phải khôi phục sở hữu
người lao động, tránh tràn lan, vô chủ; 4) Phải phát triển kinh tế tư nhân, nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu...

“ Cho nên, các ông nhấn mạnh, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả
những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần
dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc
cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu. ”

“ Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh, những tư liệu sản xuất chủ yếu cần
phải được công hữu để nhà nước thay mặt nhân dân nắm giữ và phân phối lại một
cách công bằng, hợp lý. ”
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không những chỉ rõ đặc trưng kinh tế
của CNXH là thiết lập từng bước chế độ công hữu, mà các ông còn coi trọng cách
thức tổ chức lao động, tổ chức sản xuất để thiết lập một chế độ xã hội cao hơn CNTB,
tức là phải tăng năng suất lao động. V.I.Lênin đã viết: sau khi giai cấp vô sản đã làm
xong nhiệm vụ giành được chính quyền rồi “thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản
khác được đề lên hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư
bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ
chức lao động theo một trình độ cao hơn”. Cùng với cách thức tổ chức quản lý,
V.I.Lênin cũng nhấn mạnh, năng suất lao động cao là nét đặc trưng của CNXH: “chủ
nghĩa cộng sản có nghĩa là năng suất lao động cao hơn (so với năng suất lao động
dưới chế độ tư bản) của những công nhân tự nguyện tự giác, liên hợp với nhau, sử
dụng kỹ thuật hiện đại”. C.Mác khẳng định, nguyên tắc phân phối theo lao động là
nguyên tắc phân phối cơ bản trong CNXH với nghĩa là lao động ngang nhau thì được
hưởng ngang nhau. Đó là nguyên tắc thể hiện sự công bằng trong CNXH.

3. Chế độ dân chủ tiến bộ, Nhà nước dân chủ mang bản chất giai cấp công nhân, với

sự tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động. ”

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước dân chủ, xã hội công dân là những tiêu chí
của tiến bộ xã hội. Nhiệm vụ của giai cấp công nhân và các đảng cộng sản là:
“...bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai
cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Sau khi trở thành giai cấp thống trị, giai cấp công
nhân thiết lập một chế độ dân chủ mới, toàn diện hơn, triệt để hơn, dân chủ cho đa số
nhân dân lao động.

“ Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin nhấn mạnh
tính ưu việt của chế độ dân chủ vô sản, tính ưu việt của chính quyền Xô viết (một
hình thức nhà nước XHCN). Đó là nhà nước do đông đảo quần chúng nhân dân lao
động - những giai cấp trước kia bị chủ nghĩa tư bản áp bức, quản lý. ”

Luận giải về bản chất nhà nước XHCN, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
một mặt đã khẳng định nhà nước này phải mang bản chất giai cấp công nhân, đồng
thời, do bản chất dân chủ XHCN đòi hỏi, nhà nước XHCN phải mang tính nhân dân,
lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Tuy nhiên, các ông cũng
nhấn mạnh, trong xã hội XHCN, nhà nước chưa thể “tự tiêu vong” hoàn toàn được vì
vẫn còn các giai cấp và sự khác biệt giữa các giai cấp.

4. Xã hội công bằng, bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc.

Ngay trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu luận
điểm: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột
dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”. V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển những quan điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen khi luận bàn về quan hệ giữa người và người gắn với quan
hệ giữa các dân tộc. Trong Cương lĩnh về vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã chỉ rõ những
nội dung mang tính nguyên tắc cần thực hiện trong khi giải quyết vấn đề dân tộc
trong xã hội XHCN: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ
nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công
nhân”(13). Trên cơ sở đó, V.I.Lênin đã nêu lên những quan điểm mới về mối quan hệ
giữa các dân tộc, trong đó đặc biệt quan tâm đến “các dân tộc bị áp bức” cũng như
quá trình hình thành dân tộc xã hội chủ nghĩa - một hình thức cộng đồng tiến bộ, ưu
việt hơn so với dân tộc tư sản.

Những luận điểm của V.I.Lênin bàn về dân tộc, quyền tự quyết dân tộc là những chỉ
dẫn rất có giá trị giúp cho các đảng cộng sản, đảng công nhân vận dụng trong giải
quyết vấn đề dân tộc ở các quốc gia, khu vực, kể cả trong bối cảnh hiện nay.

“ Thực tiễn cách mạng thế giới đã và đang chứng minh sức sống, giá trị bền vững của
những nguyên lý, những quan điểm về CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là cơ
sở lý luận để các đảng cộng sản nhận thức, vận dụng và bổ sung, phát triển phù hợp
với điều kiện cụ thể của nước mình. Sự ra đời và những thành tựu vĩ đại của nhà
nước XHCN Xô viết, của hệ thống XHCN trước đây cũng như các nước XHCN hiện
nay đang chứng minh cho điều đó. ”
=> QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC– LÊNIN VỀ CNXH

Thứ nhất, đó là một trào lưu tư tưởng, lý luận

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội hiện thực, một mô hình, kiểu tổ chức
xã hội theo những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.

B. THỰC TIỄN

I. KHÁI QUÁT MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC

Chủ nghĩa xã hội hiện thực là một chế độ xã hội được thiết lập trên những nguyên lý
của chủ nghĩa xã hội khoa học sau khi giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản giành được chính quyền, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội mới
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp.

1. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công vào năm 1917, lịch sử đã mở ra một con
đường mới cho sự giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nước Nga Xô viết ra đời và đây
là diện mạo đầu tiên của chủ nghĩa xã hội hiện thực theo một nghĩa tương đối đầy đủ:
Có ý thức hệ chủ đạo, có Nhà nước, có chính Đảng cầm quyền, có thể chế luật pháp,
có cơ chế, chính sách và mô hình quản lý xã hội. Trong lịch sử Đảng Cộng sản thì
đây cũng là lần đầu tiên, Đảng Cộng sản ở vào vị trí cầm quyền.

2. Mô hình CNXH

“ Mô hình CNXH là phạm trù để chỉ quan niệm về chế độ kinh tế - chính trị - xã hội
được xây dựng theo nguyên tắc của CNXH khoa học và phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng quốc gia. Nó bao gồm những đặc trưng về kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa
tư tưởng... theo đó, bản chất của CNXH dần được hoàn chỉnh và bộc lộ ra các đặc
điểm ưu việt. Quan niệm về mô hình CNXH thế nào thể hiện nhận thức của Đảng
Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở mỗi nước về xã hội sẽ xây
dựng. Quan niệm về mô hình CNXH, theo đó liên quan trực tiếp đến hiệu quả, thậm
chí thành - bại trong xây dựng CNXH. Quan niệm chưa đúng đắn thì hành động chưa
thể đạt kết quả. Các nhà kinh điển mácxít rất quan tâm tới vấn đề này. ”

C.Mác từng phê phán những sai lầm của các nhà CNXH không tưởng về mô hình xã
hội tương lai, như phê phán quan niệm mang nhiều ảo tưởng về mô hình XHCN của
công nhân Pháp trong “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850”, “Nội chiến ở Pháp”,
quan niệm sai lầm về chủ nghĩa cộng sản của Látxan trong “Phê phán Cương lĩnh
Gôta”... Còn Ăngghen đã phê phán về “bệnh phóng họa lịch sử”, xa rời “mảnh đất
hiện thực” của những người cộng sản khi quan niệm về CNXH. Bản thân Người cũng
thừa nhận: “Lịch sử đã chứng minh rằng chúng tôi cũng đã phạm sai lầm, lịch sử đã
vạch ra rằng quan điểm của chúng tôi lúc bấy giờ là một ảo tưởng. Lịch sử lại còn đi
xa hơn thế nữa: lịch sử không những đã đánh tan sai lầm hồi bấy giờ của chúng tôi
mà còn hoàn toàn đảo lộn những điều kiện trong đó giai cấp vô sản đang phải chiến
đấu... và đó là một điểm đáng được nghiên cứu tỷ mỷ hơn nữa”. Và để tránh điều đó,
Ph.Ăngghen yêu cầu: “Ngày nay vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi
chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”.

V.I.Lênin cũng đã có nhiều phê phán về bệnh ấu trĩ tả khuynh, sự nóng vội, quan
điểm biệt phái... trong xây dựng CNXH của những người Bônsêvích, của phái “Văn
hóa vô sản” (Proletcult)...

Thực tế của CNXH trong vài thập niên gần đây cũng xác nhận tầm quan trọng chiến
lược của việc đổi mới tư duy để nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn về mô hình CNXH.
Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong cải cách, đổi mới cũng luôn đòi hỏi chủ thể
của tư duy chiến lược phải coi việc tiếp tục hoàn thiện nhận thức về mô hình CNXH
là công việc thường xuyên và cấp bách.

“ Mô hình CNXH là sản phẩm của tư duy chiến lược mà chủ thể hàng đầu là Đảng
Cộng sản - người lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH. Khả năng điều chỉnh mô hình
CNXH tùy thuộc vào hoạt động thực tiễn và năng lực tư duy lý luận của các Đảng
Cộng sản. Nhu cầu của thực tiễn mỗi nước, đặc điểm của bối cảnh thời đại, sự kiểm
chứng hiệu quả thực tiễn của sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực, việc trao đổi và
học tập, kế thừa kinh nghiệm giữa các Đảng Cộng sản là những nhân tố thực tiễn thúc
đẩy điều chỉnh mô hình. ”

Thực tế xây dựng CNXH còn chỉ ra một vấn đề có tính quy luật là có thể có nhiều mô
hình CNXH cho các quốc gia khác nhau và một mô hình cũng có thể điều chỉnh
nhiều lầntrong quá trình hiện thực hóa. Năng lực tư duy lý luận của các Đảng Cộng

sản là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và điều chỉnh mô hình CNXH,
bao gồm: khả năng nhận biết cái mới hoặc sự bất cập trong quá trình hiện thực hóa
mô hình; sự nhạy cảm với những yếu tố thay đổi của điều kiện, khả năng điều chỉnh
hành động và biết giữ vững nguyên tắc trong việc tìm kiếm mô hình hoặc thay đổi
biện pháp thực hiện mô hình... Ngoài ra, ý chí chính trị, sự kiên định, đồng thuận xã

hội với mô hình đã định cũng là những nhân tố được thực tiễn khẳng định có vai trò
rất quan trọng trong việc hiện thực hóa mô hình CNXH.

Mô hình CNXH trên thế giới cũng đã trải qua nhiều chặng phát triển. Từ mô hình
mang tính đơn nhất là CNXH kiểu Liên Xô - được áp dụng khá phổ biến và ít biến
thể vào nhiều quốc gia, thông qua cải cách đổi mới, đã xuất hiện nhiều mô hình sáng
tạo, song vẫn mang tính chất XHCN như mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc, mô
hình CNXH của Việt Nam, mô hình CNXH kiểu Cu ba, mô hình CNXH ở Lào...
Theo đó, lý luận về CNXH cũng ngày một đầy đủ và phù hợp thực tế hơn. Sự xuất
hiện các mô hình CNXH thời kỳ cải cách, đổi mới vừa khẳng định sức sống của
CNXH, vừa là thành tựu lý luận quan trọng bậc nhất của CNXH hiện thực hiện nay.

II. MÔ HÌNH XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẶC SẮC TRUNG QUỐC

Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa ra đời, mở ra kỷ nguyên xây dựng
XHCN ở Trung Quốc. Bảy mươi năm qua, Trung Quốc không ngừng tìm tói và
xây dựng, hoàn thiện mô hình, con đường xây dựng XHCN. Chế độ chính trị, kinh
tế đạt được những thành tựu vô cùng lớn lao, song hiện cũng đang đối mặt với
những khó khăn, thách thức mới.
Theo các nhà lý luận Trung Quốc, chủ nghĩa xã hội đặc sắc (CNXHĐS) Trung
Quốc chính là thành tựu quan trọng nhất của sự phát triển lý luận cách mạng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong quá trình lãnh đạo nhân dân Trung Quốc xây
dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục năm qua. Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác là sự
vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt lý luận của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
cách mạng Trung Quốc.

Thực tiễn xây dựng CNXHĐS Trung Quốc diễn ra một cách toàn diện ở mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đó là: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc
(XHCNĐS) Trung Quốc, dân chủ XHCNĐS Trung Quốc, Nhà nước pháp quyền
XHCNĐS Trung Quốc, văn hóa XHCNĐS Trung Quốc, xã hội hài hòa XHCNĐS
Trung Quốc…

Đặc điểm nổi bật của lý luận CNXHĐS Trung Quốc là hệ thống lý luận mở, mang
trong mình tiềm năng sáng tạo to lớn. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác, nó cơ
bản xuất phát từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Trung Quốc trong thời đại toàn cầu
hóa. Vì lẽ đó, nó hứa hẹn sẽ tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển không
ngừng. Có thể khẳng định, lý luận CNXHĐS Trung Quốc được phát triển hết sức
linh hoạt, sáng tạo, uyển chuyển gắn liền với thực tiễn cải cách, mở cửa, thực tiễn
thực sự trở thành tiêu chuẩn của lý luận CNXHĐS Trung Quốc.

1. Cơ sở và ý nghĩa của lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc

Theo các nhà lý luận Trung Quốc, sự hình thành và phát triển của nó dựa trên các
căn cứ sau: căn cứ lý luận đó là những nguyên tắc cơ bản của CNXH khoa học
của chủ nghĩa Mác; căn cứ lịch sử đó là thực tiễn và kinh nghiệm của Trung Quốc
và các nước xây dựng CNXH; căn cứ thực tiễn của sự ra đời và phát triển lý luận
CNXHĐS Trung Quốc chính là hiện thực công cuộc cải cách, mở cửa và thực
hiện hiện đại hóa XHCN của Trung Quốc; căn cứ thời đại của lý luận CNXHĐS
Trung Quốc đó chính là quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Lý luận CNXHĐS Trung Quốc chính là hệ thống lý luận khái quát hóa những
thành tựu mới nhất của lý luận Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác trên cơ sở thực
tiễn cách mạng của nhân dân Trung Quốc; trong đó, đề cao chiến lược quan trọng
của quan điểm phát triển khoa học, quan điểm xây dựng xã hội hài hòa trong hệ
thống lý luận CNXHĐS Trung Quốc; đồng thời, cũng là sự khái quát quy luật cầm
quyền của Đảng Cộng sản, quy luật vận động và phát triển của CNXH, cũng như
quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người trong thời đại ngày nay. Với
những ý nghĩa như thế, lý luận CNXHĐS Trung Quốc chính là hệ thống lý luận
xây dựng Trung Quốc trở thành quốc gia XHCN phồn vinh, giầu mạnh, nhân dân
cùng giầu có. Đây cũng là một bước quan trọng phát triển chủ nghĩa Mác, tư
tưởng Mao Trạch Đông trong thời đại ngày nay.

2. Những nội dung cơ bản của lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc

Theo các nhà lý luận Trung Quốc thì hệ thống lý luận CNXHĐS Trung Quốc có
thể khái quát thành một số nội dung cơ bản sau:

- Kiên trì giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, tiến cùng thời đại.

- Lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, quán triệt quan điểm phát triển khoa học

phát triển toàn diện, nhịp nhàng, bền vững, đi theo con đường công nghiệp hóa
kiểu mới, xây dựng nông thôn mới XHCN, xây dựng nhà nước mô hình sáng tạo
và mô hình phát triển tiết kiệm tài nguyên, thân thiện với môi trường, có những
bước đi cụ thể thích hợp để thực hiện hiện đại hóa XHCN. ”

- Kiên trì quan điểm lấy con người làm gốc, luôn luôn coi thực hiện, bảo vệ, phát
triển tốt nhất lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân làm xuất phát điểm và mục
tiêu hoạt động của Đảng và Nhà nước.

- Tiếp tục cải cách, mở cửa, thúc đẩy cải cách thể chế một cách toàn diện cả kinh

tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật; tích cực tham gia vào toàn cầu
hóa kinh tế và cạnh tranh bình đẳng cùng có lợi trên thị trường thế giới. ”
- Đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN, lấy chế độ công hữu làm
chủ.

- Tăng cường xây dựng xã hội lấy dân sinh làm trung tâm, cơ chế an sinh xã hội,
hoàn thiện chế độ phúc lợi, từ thiện xã hội, thúc đẩy công bằng chân chính, xây
dựng xã hội hài hòa XHCN.

- Đi theo con đường phát triển hòa bình, thuận theo trào lưu thời đại hòa bình;
thực hiện phát triển, hợp tác, ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ, cùng nhân dân
thế giới xây dựng thế giới hài hòa, hòa bình lâu dài, cùng phồn vinh.

- Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc; tăng cường xây dựng Đảng

theo tinh thần cải cách sáng tạo, tăng cường ý thức cầm quyền, cải cách phương
thức cầm quyền, nâng cao năng lực cầm quyền; kiên quyết cầm quyền theo khoa
học, dân chủ, pháp luật, cầm quyền chân chính vì nhân. ”

3. Mô hình ưu tiên tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc

Ngay khi tiến hành cải cách ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã khẳng định chủ
nghĩa Mác gắn liền với tầm quan trọng cao độ của việc phát triển các lực lượng
sản xuất. Để thực hiện được nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu

của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn đầu (CNXH) là
phát triển các lực lượng sản xuất. Tính ưu việt của chế độ XHCN được chứng tỏ
chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển nhanh hơn và mạnh mẽ hơn so với chế độ tư
bản chủ nghĩa. Khi đó, đời sống văn hóa và vật chất của nhân dân sẽ được cải

thiện. CNXH có nghĩa là xóa bỏ nghèo khó. Sự bần cùng không phải là CNXH,
càng không phải là chủ nghĩa cộng sản. Từ đó, Đặng Tiểu Bìnhđã nêu chủ trương
“lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”, “bốn nguyên tắc cơ bản”, “cải cách mở
cửa”… mở ra con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc.

Bước vào cải cách năm 1978, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Phải kiên
trì giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất xã hội là nhiệm vụ căn bản của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc. Cần kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm…”.
Đến những năm đầu thế kỷ XXI, Giang Trạch Dân đưa ra lý thuyết “ba đại diện”,
theo đó, lần đầu tiên đặt vấn đề thay quan điểm “Đảng Cộng sản Trung Quốc đại
diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến” trước đây bằng quan điểm “đại diện cho yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến”. Từ đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc
chủ trương mở rộng cơ sở xã hội của Đảng bằng cách kết nạp những cá nhân tiên
tiến trong các “giai tầng xã hội mới” (trong đó có tầng lớp chủ doanh nghiệp tư
nhân)vào Đảng.

Với quan điểm đó, Trung Quốc luôn ưu tiên phát triển kinh tế, thực hiện chính
sách cho phép một số vùng, một số người giàu trước; khuyến khích những người
giàu trước giúp đỡ người giàu sau, cuối cùng thực hiện xã hội cùng giàu có. Đảng
Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “…khuyến khích một bộ phận khu vực và một
bộ phận nhân dân giàu lên trước, từng bước xóa nghèo khó, đạt được cùng giàu
có, trên cơ sở phát triển sản xuất và tăng trưởng của cải của xã hội…”.

Năm 2007, sau gần 30 năm thực hiện công cuộc cải cách, GDP của Trung Quốc
đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim ngạch thương mại tăng
hơn 100 lần; hoàn thành công nghiệp hóa, biến Trung Quốc từ một “công xưởng
của thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”.

“Trong thời kỳ thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính, nhịp độ tăng trưởng kinh tế
của Trung Quốc tuy giảm, song vẫn dẫn đầu thế giới. Năm 2009, GDP tăng 9,2%;
năm 2010 – 10,3%; năm 2011 – 9,2%; năm 2012 – 7,6%; năm 2013 – 7,6% và
năm 2014 – 7,4%, đạt 10.500 tỷ USD. Sức mua tương đương (PPP) của người
Trung Quốc thậm chí còn nhỉnh hơn so với người Mỹ. Bước vào thế kỷ XXI, kinh
tế Trung Quốc chỉ xếp ở vị trí thứ sáu thế giới (sau Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh,
Pháp), nhưng đến năm 2010 đã vượt qua Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ
hai thế giới (sau Mỹ). Dự trữ vàng và ngoại hối của Trung Quốc năm 2014 đạt
hơn 4000 tỷ USD; kim ngạch thương mại cũng đạt hơn 4000 tỷ USD. Công
nghiệp sản xuất ô tô tăng với “tốc độ như vũ bão”: Năm 1978 (trước khi cải cách),
sản lượng ô tô của Trung Quốc chỉ đạt 149 nghìn xe/năm, nhưng đến giai đoạn
2010 – 2011, mỗi năm nước này đã có thể xuất xưởng 18 triệu xe, nhiều hơn bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới. Năm 2012, sản lượng ô tô tăng lên 19 triệu 300
nghìn xe. Năm 2013 đạt 20 triệu xe và năm 2014 lên đến 22 triệu xe.”

Nhược điểm

“ Với chính sách khuyến khích một bộ phận dân cư, một số khu vực giàu có trước,
kinh tế Trung Quốc đã đạt tăng trưởng liên tục nhưng mặt trái của tăng trưởng
nóng là sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc. Báo cáo của Đại

học Bắc Kinh đã đưa ra những con số đáng báo động như: “1% các gia đình giàu
có nhất sở hữu tới hơn 1/3 giá trị tài sản của toàn bộ đất nước. Tờ Nhân Dân nhật
báo (Trung Quốc) cũng đăng tải một nghiên cứu cho rằng tổng giá trị tài sản của
25% các gia đình nghèo nhất chỉ chiếm 1% toàn xã hội. Nguyên nhân chính của
thực trạng này là do mức tiền lương ở các thành phố và khu vực nông thôn có sự
khác biệt quá lớn dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo.”

Cũng theo tờ Nhân Dân nhật báo , dựa trên số liệu của Ngân hàng thế giới (WB)
cho thấy “khoảng cách giàu nghèo ở Trung Quốc tăng nhanh nhất châu Á trong 2
thập kỷ qua. Còn theo Báo cáo của Đại học Bắc Kinh, hệ số phân phối lợi tức
(Gini) đối với các hộ gia đình ở Trung Quốc năm 2012 đã vọt lên mức 0,73 (Mức
cao nhất trên thang đo chỉ số Gini là 1 – phản ảnh sự bất bình đẳng hoàn toàn.
Trong khi đó, con số trong số liệu thống kê của chính phủ Trung Quốc năm 2012
chỉ là 0,474, năm 2015 là 0,462. Tuy hệ số Gini của nước này có xu hướng giảm
nhưng vẫn ở mức cao so với thế giới, cao hơn các nước phát triển như Mỹ, Pháp,
Nhật, Anh, Đức, Hàn Quốc, thậm chí còn vượt qua mức cảnh báo về tình trạng bất
bình đẳng thu nhập nghiêm trọng do Ngân hàng Thế giới đề ra là 0,4.”

Theo thống kê, “Trung Quốc hiện có gần 100 triệu nông dân sống trong cảnh
nghèo đói. Tại các vùng khó khăn ở nước này, hằng ngày, nhiều trẻ em phải mất
hai đến ba giờ để đi tới trường. Các chi phí y tế chiếm 60% mức thu nhập trung
bình của người dân tại các vùng nông thôn, do vậy nhiều người đã không thể đi
khám bệnh khi ốm đau. Cùng với đó, tình trạng công nhân bị sa thải hàng loạt,
hiện tượng khan hiếm việc làm ở nông thôn ngày càng gia tăng: tỷ lệ thất nghiệp
tăng từ 3% giữa những năm 1990 lên 5% năm 2005, hiện nay lên tới 12 – 13%; số
vụ đình công tăng từ 1.909 vụ năm 1994 lên thành 22.600 vụ năm 2003.”

Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã làm cho một số người trở nên
giàu có nhanh chóng nhưng bất minh; tình trạng chiếm đoạt đất đai, nhũng nhiễu
cửa quyền của hệ thống hành chính quan liêu khiến bất bình đẳng xã hội ngày
càng tăng nhanh.

=> Bài học cho việc xây dựng XHCN ở Việt Nam

“ Là một nước tiến hành cải cách trước, tuy trong giai đoạn đầu Trung Quốc gặp
phải những khó khăn trong tiếp nhận vai trò của thị trường, nhưng sau khi thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa được công nhận, yếu tố thị trường của Trung
Quốc trong thực tế ngày càng phát triển nhanh chóng, đồng thời sự phát triển quá
mạnh mẽ đó làm bộc lộ những mặt trái của nó cũng ngày càng rõ (tăng trưởng quá
nóng). Vì vậy, khi nhìn vào bài học của Trung Quốc, Việt Nam cũng đã có những
bước đi thận trọng hơn nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường. ”
Tài liệu tham khảo

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB
Giáo dục và đào tạo

2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội 1995

3. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1978

4. GS.TS. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và
tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb. CTQG, HN, 2009.

You might also like