You are on page 1of 9

Chủ đề 16:

Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội


- Kinh tế xã hội:
+ Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu âu đã đạt được
những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế
=> phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà chủ
nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách mạng
tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa
học và cách mạng.
+ Giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai
cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập
+ Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu
có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng
dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công
nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt
Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong
trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong
trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa
học và cách mạng.
=> Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội
khoa học ra đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
đã tỏ ra lỗi thời, không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận): Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt
nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa và tư tưởng.
+ Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức);
thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
của M. Lômônôxốp (Nga).
+ Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…),
kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không
tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S. Phuriê, R.Ôoen,…).
=> Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư
tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng.
Chủ đề 7:
1. Những đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội
Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: Cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền
sản xuất công nghiệp hiện đại.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ
luật lao động mới.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích
của nhân dân.
- Đặc trưng thứ sáu: Chủ nghĩa xã hội đã giải phóng con người thoát khỏi
áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những
điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.

2. Phân tích đặc trưng “Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người
phát triển toàn diện”.
- Nội dung và mục đích cuối cùng của sức mạnh lịch sử của giai cấp công
nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người.
- Để giải phóng cho lực lượng sản xuất phát triển, giai cấp công nhân xóa
bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất cũng sẽ tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
- Đây là đặc trưng thể hiện nội dung sức mạnh lịch sử của giai cấp công
nhân thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng công nhân.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc Cách mạng triệt để với mục tiêu
trước hết là giải phóng giai cấp, xóa bỏ tình trạng giai cấp này bóc lột, áp
bức giai cấp kia, và một khi tình trạng người áp bức, bóc lột người bị xóa
bỏ thì tình trạng dân tộc này đi bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ, cuối
cùng là đi đến giải phóng công nhân.
- Mặt khác: Chủ nghĩa xã hội còn tạo những đk để con người phát triển
toàn diện thông qua hình thức sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và hình
thức phân phối sản phẩm là làm theo năng lực, hưởng theo lao động và
khi trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất là làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu.

3. Ý nghĩa của đặc trưng này lên quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội Nhà
nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát
của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của công dân…
Chủ đề 18: Nêu các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội? Phân tích đặc
trưng: “ Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Ý nghĩa của đặc
trưng này đến quá trình xây dựng CNXH.
Trả lời:
1.Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: Cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản
xuất công nghiệp hiện đại.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật
lao động mới.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân
rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
- Đặc trưng thứ sáu: Chủ nghĩa xã hội đã giải phóng con người thoát khỏi áp
bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều
kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
2.Về đặc trưng: “ Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”.
- Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu
cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều
kiện kinh tế - xã hội phát triển, mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát
triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý có hiệu quả, năng
suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động. V.I.Lênin cho
rằng: “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân
phối theo lao động của mỗi người”.
- Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, chủ nghĩa
xã hội, theo Ph.Ăngghen không thể ngay lập tức thủ tiêu chế độ tư hữu.
Trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được
không? Ph.Ăngghen dứt khoát cho rằng: “Không, không thể được cũng y
như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức
đến mức cần thiết để xây dựng nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách
mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra,
sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã
tạo nên một khối lượng tư liệu cần thiết cho việc cải tạo đó là khi ấy mới
thủ tiêu được chế độ tư hữu”.
- Cùng với việc từng bước xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, để
nâng cao năng suất lao động cần phải tổ chức lao động theo một trình độ
cao hơn, tổ chức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm., nghĩa là phải tạo
ra quan hệ sản xuất tiến bộ, thích ứng với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. V.I. Lệnin cho rằng: “thiết lập một chế độ xã hội cao hơn
chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động và do đó (và
nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn”.
- Đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản di lên chủ nghĩa xã
hội, để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
V.I.Lênin chỉ rõ tất yếu phải “bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc”
xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước: “Trong một nước tiểu nông, trước
hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua
chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”. “dưới chính
quyền xô- viết thì chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ có thể là ¾ chủ nghĩa xã
hội”. Đồng thời, V.I.Lênin chỉ rõ, những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư
bản di lên chủ nghĩa xã hội cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm tử các
nước phát triển theo cách thức: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt
của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ
thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ
etc. etc. + + = ∑ (tổng số) = chủ nghĩa xã hội”.

Chủ đề 19: Nêu tính tất yếu khách quan và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên
CNXH? Phân tích tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH? Liên hệ với TKQĐ lên
CNXH ở Việt Nam?
Trả lời:
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các
lãnh vực đời sống của xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết
để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội
XHCN sẽ được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành
được chính quyền nhà nước cho đến khi CNXH đã tạo ra được những cơ sở của
mình trong các lãnh vực của đời sống xã hội. Xét về bản chất, mục tiêu nhất
quán của các chế độ XH từ khi có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì thời
kỳ quá độ lên CNXH nằm trong giai đoạn thấp của hình thái KT-XH CSCN
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH
Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ
quá độ được quy định bởi 2 lý do cơ bản sau đây:
- Một là CNXH - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội CSCN - không thể
tự phát ra đời trong lòng xã hội cũ. CNTB dù phát triển ở trình độ cao cũng
chỉ tạo ra những tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH. Còn bản thân
công cuộc xây dựng CNXH chỉ có thể thực hiện được chỉ khi giai cấp công
nhân và nhân dân lao động giành lấy chính quyền nhà nước và sử dụng bộ
máy nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới từ cơ sở
hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
- Hai là với điểm xuất phát về kinh tế - xã hội của xã hội tiền tư bản và tư bản,
sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động trở thành chủ thể cầm
quyền, trong xã hội đó còn chưa có đủ những tiền đề vật chất, văn hóa và
tinh thần cần thiết để thực hiện những chuẩn mực của xã hội XHCN. Muốn
đạt được những đặc trưng đó, phải trãi qua quá trình tổ chức, xây dựng để
từng bước cải tạo các quan hệ KT-XH tư bản và tiền tư bản, phát triển lực
lượng sản xuất và thay đổi tương ứng trên lĩnh vực QHSX, phát triển một cơ
cấu xã hội tiến bộ, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phù hợp với nhu
cầu giải phóng con người. Nói riêng trên lĩnh vực kinh tế, toàn bộ sự phát
triển của sản xuất và các quan hệ vật chất, tinh thần khác cho phép áp dụng
một cách phổ biến nguyên tắc phân phối theo lao động.
2. Dặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH:
 Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên CNXH là những nhân tố của xã hội
mới và tàn tích của xã hội cũ tồn tại, đan xen lẫn nhau, đấu tranh trên mọi
lãnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, tập quán
trong xã hội... biểu hiện dưới dạng cái cũ còn tồn tại, những bộ phận, những
mảnh, những tàn dư (của xã hội cũ bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn
toàn) xen kẻ với cái mới nảy sinh đã ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh, còn non
yếu.
Thời kỳ quá độ cũng là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt, gay go, phức
tạp diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực, rất khó khăn đòi hỏi giai cấp công nhân
phải biết phân biệt, bình tĩnh và chủ động khắc phục. Thể hiện cụ thể:
- Về lĩnh vực chính trị : bản chất nhất thời của thời kỳ quá độ là sự quá độ
về chính trị, ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và
ngày càng hoàn thiện
- Về lĩnh vực kinh tế : sự phát triển chưa đồng đều của LLSX trong thời kỳ
này quy định tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại nhiều thành phần kinh
tế khác ngoài thành phần kinh tế XHCN, trong đó có cả những thành phần
kinh tế tư bản.đối lập.
- Về lĩnh vực xã hội : do kết cấu kinh tế trên đây quy định, trong xã hội còn
nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, trong đó có sự đối lập - đối kháng nhất
định về những lợi ích căn bản. Trong thời kỳ này còn có sự khác biệt cơ bản
giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và lao
động chân tay, vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần phải được xác lập
dần dần.
- Về lĩnh vực tư tưởng và văn hóa: còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa
tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập. Bên cạnh nền văn hóa mới, lối sống
vừa xây dựng còn tồn tại những tàn tích của nền văn hóa cũ, lối sống cũ, tư
tưởng lạc hậu, thậm chí phản động gây cản trở không nhỏ cho con đường đi
lên CNXH của các dân tộc sau khi mới được giải phóng.
3. Liên hệ với Việt Nam:
Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù đo điều kiện lịch sử cụ
thể đất nước đó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động nước ta đã vận dụng nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa
Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
Việt Nam, phù hợp với đặc điểm và truyền thống quý báu của nước ta đồng
thời tận dụng các ưu thế của thời đại để định ra mục tiêu tổng quát, phương
hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành công bước quá độ đi lên
CNXH
Xuất phát từ một nước nông nghiệp có nền kinh tế lạc hậu, Đảng đã xác
định con đường phát triển đất nước quá độ lên CNXH không qua chế độ
TBCN. Mặc dù CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào, chúng ta
không còn có sự giúp đở của các nước XHCN tiên tiến nhưng chúng ta vẫn
có thể đứng vững và tin tưởng rằng con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN ở nước ta vẫn là con đường tất yếu và có khả năng thực hiện
là vì những điều kiện khách quan và chủ quan sau đây:
- Về khách quan : Thời đại ngày nay cũng là thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới, do đó Việt Nam lựa chọn con đường đi
lên CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Mặt khác thế kỷ XXI
là thế kỷ khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt, kinh tế trí thức
ngày càng có vai trò nổi bậc trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực lượng sản
xuất của các quốc gia. Bên cạnh đó toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia. trong đó có nước
ta. Chính những yếu tố khách quan này đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiến
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta..
- Về chủ quan: chúng ta quá độ lên CNXH với sự lãnh đạo của Đảng cầm
quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng gắn
bó với quần chúng và là nhân tố vô cùng quan trọng. Trong những thời điểm
phong trào XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng
hoảng, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững vàng
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đường lối đổi mới vượt qua những hiểm
nghèo đưa công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước của nhân dân ta
tiến lên một cách vững chắc. Kế thừa truyền thống và những kinh nghiệm
cách mạng đã tích lũy, trãi qua thể nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí tuệ
của toàn Đảng toàn dân, Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng
đắn hình thành những nét chủ yếu quan niệm về xã hội XHCN mà nhân dân
ta xây dựng và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới
do Đảng chủ trương và tổ chức thực hiện mấy năm qua đã thu được thành
tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn đất
nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng KT-XH để từng bước vượt qua nước
nghèo tiến lên giàu mạnh nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đội ngũ
cán bộ Đảng viên của Đảng đại đa số đều là những người trung thành với sự
nghiệp cách mạng, nhất trí với đường lối của Đảng, có ý chí biến đường lối
đó thành hiện thực. Nhân dân ta cần cù, thông minh, sáng tạo rất cách mạng,
có lòng yêu nước gắn bó với chế độ, với Đảng. Bên cạnh đó, Việt Nam là
một nước có nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng, chúng ta cũng đã xây
dựng CNXH được mấy chục năm và bước đầu đã xây dựng được một số cơ
sở vật chất kỹ thuật của CNXH. 
Chủ đề 20: Trình bày hình thức quá độ lên CNXH ở Việt Nam? Làm rõ sự sáng
tạo của Đảng ta trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Leenin về TKQĐ
lên CNXH? Liên hệ với Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
1. Hình thức quá độ lên CNXH ở Việt Nam:
- Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,
có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất
là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ
nghĩa phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển
còn thấp, hoặc như V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế
lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng
có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó
nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm
quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều
nước tiên tiến giúp đỡ.
- Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất
phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh đã
khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải
phóng dân tộc, hòan thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về
một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này.
Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác -
Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có những đặc điểm riêng nên
không thể rập khuôn một cách máy móc những nhiệm vụ được quy
định ở những nước đã qua chủ nghĩa tư bản. Nếu như nội dung cơ
bản của thời kỳ quá độ ở các nước XHCN đã qua chủ nghĩa tư bản
phát triển là cải biến những cơ sở của chủ nghĩa tư bản thành chủ
nghĩa xã hội, thì ở nước ta đồng thời với việc cải biến những cơ sở
hiện có thành những cơ sở của CNXH, lại phải chuẩn bị tiền đề vật
chất cần thiết cho sự phát triển của CNXH. Như Lênin đã nói: "
Một nước càng lạc hậu mà lại phải- do những bước ngoắt ngoéo
của lịch sử - bắt đầu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nước đó
càng gặp khó khăn"
- Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá
trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến,
hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế
quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong
điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng
dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có
những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình
thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống
lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quả độ
lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là;
+ Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề kinh tế, chính trị, văn
hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
+ Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải
tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm
nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
2. Sự sáng tạo của Đảng ta trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về TKQĐ lên CNXH:
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta. Từ Đại hội V, VI đến Đại hội XI, Đảng và Nhà nước ta vận dụng
sáng tạo tư tưởng của Lênin trong Chính sách kinh tế mới, đề ra nhiều chủ
trương, đường lối đúng đắn trong việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tạo ra
các đòn bẩy kinh tế thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Cho đến nay, các chủ
trương, đường lối lớn có ý nghĩa chiến lược của Đảng đã được thực hiện đạt kết
quả tốt.
Một ví dụ điển hình là việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
trong suốt thời kỳ quá độ và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, góp phần làm giàu cho
xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con
đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác-Lênin, nắm bắt
đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
3. Liên hệ với Việt Nam hiện nay:
Trong điều kiện hiện nay, kinh tế nước ta đang gặp khó khăn tạm thời do
tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác
định phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện cho bằng
được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đây cũng là mục tiêu xuyên suốt, trung tâm của những giải pháp
điều hành nền kinh tế như kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,  thúc
đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội. Nhà nước ta luôn gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, như thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo,… Những nhóm giải pháp đó
đã và đang phát huy tác dụng.

You might also like