You are on page 1of 40

ĐỀ CƯƠNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

10 CÂU TÁI HIỆN


1. Trình bày các đặc điểm của giai cấp công nhân
a. Khái niệm GCCN:
GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ở các nước TBCN, GCCN là những người không có hoặc về cơ bản
không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho GC tư sản và bị GC tư sản bóc lột
giá trị thặng dư.
Ở các nước XHCN, GCCN cùng nhân dân lao động làm chủ những tư
liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn
xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của mình.
b. Đặc điểm của GCCN
Từ những nghiên cứu về GCCN từ phương diện kinh tế - xã hội và chính trị - xã
hội trong chủ nghĩa tư bản, có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của GCCN
bao gồm:
- Lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ lao động
là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính
chất xã hội hóa.
- GCCN là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất hiện đại => Là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội hiện đại.
- Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn
luyện cho GCCN những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao
động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp => Là một giai
cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
2. Phân tích điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
a. Khái niệm sứ mệnh lịch sử của GCCN
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là toàn bộ những nhiệm vụ lịch
sử khách quan mà giai cấp công nhân có thể thực hiện và cần phải thực
hiện nhằm thủ tiêu CNTB đã lỗi thời, xây dựng CNXH và CNCS, hình
thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử xã hội và phù hợp với lợi ích chính trị căn bản của giai cấp công
nhân, được quy định bởi địa vị kinh tế - xã hội và địa vị chính trị - xã hội
căn bản của giai cấp công nhân.
b. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN bao gồm:
● Do địa vị kinh tế của GCCN quy định:
- GCCN là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong phương thức
sản xuất TBCN, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại =>
GCCN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất
hiện đại.
- Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân
là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền
về tay mình, chuyển từ giai cấp”tự nó” thành giai cấp “vì nó”. GCCN trở
thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất
có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững
chắc để xây dựng CNXH với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới,
không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
● Do địa vị chính trị - xã hội của GCCN quy định:
- Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, GCCN có được những phẩm
chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức và kỷ
luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải
phóng xã hội.
=> Những phẩm chất này được hình thành từ chính những điều kiện
khách quan, được quy định từ địa vị kinh tế và địa vị chính trị - xã hội của
nó trong nền sản xuất hiện đại và trong xã hội hiện đại mà giai cấp tư sản
và chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nó.

3. Trình bày nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
a. Nội dung:
Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là những nhiệm vụ mà GCCN cần
phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu trong
cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
● Nội dung kinh tế: Xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa

(*) Giai cấp công nhân:

- Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao

- Là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật chất
ngày càng nhiều. Đáp ứng nhu cầu ngày càng có xu hướng tăng của
con người và xã hội

=> Tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời của xã hội mới.

- Giai cấp công nhân là đại biểu cho lợi ích chung của xã hội

- GCCN là giai cấp duy nhất không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu,
luôn phấn đấu cho lợi ích chung của toàn xã hội và chỉ tìm thấy lợi ích
chân chính của mình khi thực hiện được lợi ích chung của xã hội
- Quan hệ sản xuất mới ra đời đáp ứng tính chất xã hội hóa ngày càng
cao của lực lượng sản xuất, đồng thời quan hệ sản xuất này phải phù
hợp với chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội làm nền
tảng và tiêu biểu cho lợi ích của toàn xã hội.

(*) Ở các nước XHCN:

Giai cấp công nhân trải qua quá trình công nghệ hóa và thực hiện “một
kiểu tổ chức mới về lao động”. Dẫn đến tăng năng suất lao động và thực hiện
các nguyên tắc sở hữu, quản lý, phân phối phù hợp với nhu cầu phát triển sản
xuất, tiến tới tiến bộ và công bằng xã hội.

Mặt khác các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức rút ngắn,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó:

- Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình về nội dung kinh tế, giai cấp
công nhân phải đóng vai trò nòng cốt trong quá trình giải phóng lực
lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong quá
khứ) trong bối cảnh các nước XHCN ra đời từ phương thức rút ngắn
(bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa). Bên cạnh đó còn cần phải thúc đẩy
LLSX phát triển tạo tiền đề, cơ sở cho QHSX mới, XHCN ra đời.

- Giai cấp công nhân còn phải là lực lượng đi đầu thực hiện công nghiệp
hóa ( vì công nghiệp hóa là một yếu tố tất yếu có tính quy luật để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH) trong bối cảnh đổi mới và
hội nhập quốc tế . Từ đó, đòi hỏi phải gắn liền công nghiệp hóa với
hiện đại hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

● Nội dung chính trị - xã hội : Xóa bỏ chế độ bóc lột người
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân cùng với nhân
dân lao động:

- Tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư
sản, xoá bỏ chế độ bóc lột và áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành
quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

- Thiết lấp nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện quyền lực của nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội
của tuyệt đại đa số nhân dân lao động

Theo đó thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước
của mình, do mình làm chủ như một công cụ có hiệu lực để :

- Cải tạo xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới

- Phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ-pháp
quyền

- Quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và


lợi ích của nhân dân lao động

- Thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý
tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

● Nội dung văn hóa, tư tưởng: Giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột

Trong tiến trình cách mạng, giai cấp công nhân cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ
giá trị mới: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do:
- Là sự phủ định các giá trị tư sản mang bản chất tư sản và phục vụ cho
giai cấp tư sản; những tàn dư các giá trị đã lỗi thời, lạc hậu của các xã
hội quá khứ.

- Thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa sẽ từng
bước phát triển và hoàn thiện .

Bên cạnh đó, giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư
tưởng bao gồm:

- Cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh
vực ý thức tư tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần
xã hội

- Xây dựng và củng cố ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là
chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và các
tàn dư còn sót lại của các hệ tư tưởng cũ.

- Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức
và lối sống mới xã hội chủ nghĩa.

b. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của GCCN:


● Sứ mệnh lịch sử của GCCN xuất phát từ những tiền đề kinh tế - xã hội
của sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
- Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc
đẩy sự phát triển của xã hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản
trong lòng phương thức sản xuất TBCN.
- Thứ hai, quá trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp
công nhân và rèn luyện nó thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử.
● Thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN là sự nghiệp cách mạng của bản
thân GCCN cùng với đông đảo quần chúng và mang lại lợi ích cho đa
số.
- LLSX xã hội hóa cao, ở trình độ phát triển hiện đại và chế độ công hữu sẽ
tạo ra cơ sở kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế độ người bóc lột người
- GCCN chỉ có thể tự giải phóng mình thông qua việc đồng thời giải phóng
các giai cấp bị áp bức bóc lột khác, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
● Sứ mệnh lịch sử của GCCN không phải là thay thế chế độ sở hữu tư
nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
- Đối tượng xóa bỏ ở đây là sở hữu tư nhân TBCN là nguồn gốc sinh ra
những áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội hiện đại
- Sự xóa bỏ này hoàn toàn bị quy định một cách khách quan từ trình độ
phát triển của LLSX
● Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề
để cải tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành
công xã hội mới với mục tiêu cao nhất là giải phóng con người.
- Nếu các cuộc CM trước đây, điển hình là cuộc CM tư sản coi việc giành
được chính quyền là mục tiêu duy nhất để thực hiện quyền tư hữu thì
cuộc CM của GCCN nhằm xóa bỏ tình trạng bóc lột, áp bức và nô dịch
con người, xóa bỏ sự thống trị của GC tư sản để thực hiện quyền làm chủ
của GCCN và nhân dân lao động trong chế độ XH mới - XHCN và cộng
sản chủ nghĩa.
4. Trình bày các đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm CNXH:
CNXH có thể được coi:
- Là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động
chống lại áp bức, bất công, chống các giai cấp thống trị
- Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất công
- Là một khoa học - CNXHKH, khoa học về sứ mệnh lịch sử của GCCN
- Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
b. Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
● Một là, CNXH giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn
diện:
Trong xã hội XHCN, mục đích cao cả của CNXH cần đạt đến được xác
định là xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, biến tất cả thành viên trong xã
hội thành người lao động, tiêu diệt cơ sở của mọi tình trạng người bóc lột người.
Trong quá trình phấn đấu để đạt được mục đích cao cả đó, GCCN, chính DDCS
phải hoàn thành nhiệm vụ của các giai đoạn khác nhau, trong đó có mục đích,
nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây dựng CNXH - tạo ra điều kiện về cơ sở vật chất
- kỹ thuật và đời sống tinh thần để thiết lập xã hội cộng sản.
● Hai là, CNXH là xã hội do nhân dân lao động làm chủ:
Đây là một đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của CNXH, xã hội vì
con người và do con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ
thể của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. CNXH là một chế độ chính trị dân
chủ, nhà nước XHCN với hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức ngày càng
hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng hiệu quả.
● Ba là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu:
- Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực
chất của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm
thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối
kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn
bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
● Bốn là, CNXH có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động:

Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, chủ nghĩa Mác-Lênin đã
xác định rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản.
Thực chất nhà nước đó là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ
chức ra. Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi
mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt
của xã hội. Nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước, theo
V.I. Lênin, nhà nước chuyên chính vô sản (hay nhà nước xã hội chủ nghĩa)
không còn nguyên nghĩa như nhà nước của chủ nghĩa tư bản, mà là “nhà nước
nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các
quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
● Năm là, CNXH có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại:
- Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của chế độ XHCN không chỉ thể
hiện ở lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn ở lĩnh vực văn hóa - tinh thần
của xã hội. Trong CNXH, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục
tiêu, động lực của phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế, văn
hóa đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh con người, biến con
người thành con người chân, thiện mỹ.
- Theo V.I Lênin, chỉ có xây dựng được nền văn hóa vô sản mới giải quyết
được mọi vấn đề từ kinh tế, chính trị đến xã hội, con người. Đồng thời
cho rằng trong xã hội XHCN, người cộng sản sẽ làm giàu tri thức của
mình bằng tổng hợp các tri thức, văn hóa mà loài người đã tạo ra.
=> Quá trình xây dựng văn hóa XHCN phải biết kế thừa những giá trị văn hóa
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, chống tư tưởng, văn hóa phi vô sản, trái
với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương
hướng đi lên CNXH.
● Sáu là, CNXH đảm bảo bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, có quan
hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới:
- Vấn đề giai cấp và dân tộc, xây dựng một cộng đồng dân tộc, giai cấp
bình đẳng, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế
giới luôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạch định và thực thi chiến
lược phát triển của mỗi dân tộc và mỗi quốc gia.
- CNXH, với bản chất tốt đẹp do con người, vì con người luôn là bảo đảm
cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và hợp tác hữu nghị, đồng thời có
quan hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Để làm được điều này
cần có sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, của toàn thể
quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế
giới.
=> Bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hợp tác, hữu
nghị với nhân dân tất cả các nước trên thế giới, CNXH mở rộng được ảnh
hưởng và góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
5. Phân tích những đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội
a. Khái niệm:
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư
bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ
lên CNXH được tính từ khi GCCN giành được chính quyền cho đến khi xây
dựng xong cơ sở vật chất- kỹ thuật và những quan hệ xã hội căn bản của
CNXH
b. Đặc trưng cơ bản thời kỳ quá độ:
- Là một thời kỳ lịch sử lâu dài (lâu dài hơn so với các thời kỳ trước), thời
kỳ cách mạng phải trải qua những khó khăn vô cùng to lớn bao gồm
những khó khăn như:
+ Khó khăn khách quan: kinh tế lạc hậu, chiến tranh, nội chiến, sự phá rối
của thế lực tự phát triển tư sản,..
+ Khó khăn chủ quan: Do sự yếu kém trong rèn luyện của cán bộ, đảng
viên, do thiếu kinh nghiệm,...
🡪 Là thời kỳ phức tạp và lâu dài. Song do phù hợp với quy luật phát triển khách
quan của lịch sử nên đó là khó khăn để trưởng thành hơn, khó khăn cần phải
vượt qua
- Là thời kì đấu tranh giai cấp quyết liệt và có những đột biến cách mạng
“long trời, lở đất”, với những nội dung mới, bằng các hình thức và
phương pháp mới so với thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Đây là thời
kỳ đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới từ gốc
đến ngọn, thời kỳ hình thành những đặc trưng của CNXH, còn các thời
kỳ sau thì CNXH đã phát triển trên cơ sở của chính nó. Các đột biến
trong thời kỳ quá độ là toàn diện và liên tục: nhân dân lao động từ địa vị
làm thuê từng bước xác lập địa vị làm chủ, từ chế độ tư hữu sang chế độ
công hữu, từ văn hóa cũ, con người cũ sang văn hóa mới, con người mới
XHCN…Các bước nhảy vọt trong các lĩnh vực gắn bó chặt chẽ và làm
tiền đề cho nhau phát triển
- Thời kỳ quá độ lên CNXH biểu hiện rõ nhất tính đặc thù dân tộc. Có
những đặc thù đó là do các nước, các dân tộc bước vào thời kỳ quá độ có
xuất phát điểm về trình độ phát triển không giống nhau: điều kiện lịch sử,
truyền thống lịch sử khác nhau. Khi CNXH đã được xác lập thì tính đồng
nhất ngày càng cao hơn
Tính đặc thù thể hiện ở bước đi, hình thức, nhịp độ, ở con đường phát triển..
giữa các nước không hoàn toàn giống nhau. Do đó bất cứ thời kỳ nào, trong thời
kỳ quá độ các ĐCS phải vận dụng 1 cách linh hoạt, sáng tạo các quy luật chung,
nguyên lý chung vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình, dân tộc mình
6. Trình bày nội dung liên minh các giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam.
a. Khái niệm:
Liên minh của giai cấp công nhân trong CMXHCN là một hình thức liên
kết, hợp tác với giai cấp công nhân với các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao
động trong cơ cấu xã hội – giai cấp của 1 quốc gia dân tộc cụ thể, trong những
giai đoạn cụ thể của tiến trình CMXHCN và xây dựng CNXH
b. Nội dung liên minh các giai cấp, tầng lớp:
● Nội dung kinh tế của liên minh:
- Nhiệm vụ cũng là nội dung kinh tế xuyên suốt của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta là:
+ Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh CN hóa - HĐ
hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp; phát triển kinh
tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN,..
+ Dưới góc độ kinh tế, xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế
của công nhân, nông dân, tri thức và toàn xã hội => Xây dựng kế hoạch
đầu tư và tổ chức triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm
bảo lợi ích của các bên và tránh đầu tư không hiệu quả, lãng phí.
+ Xác định đúng cơ cấu kinh tế (của cả nước, cơ sở, địa phương,...) => Các
địa phương, cơ sở vận dụng linh hoạt và phù hợp vào địa phương mình,
ngành mình để xác định cơ cấu kinh tế cho đúng
+ Tổ chức giao lưu, hợp tác, liên kết giữa các ngành kinh tế, các thành phần
kinh tế, vùng kinh tế, giữa trong và ngoài nước….để phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, tri thức và toàn
xã hội
+ Chuyển giao và ứng dụng KHKT và công nghệ hiện đại vào sản xuất =>
Gắn chặt các lĩnh vực kinh tế, gắn bó chặt chẽ nông dân, công nhân, tri
thức và các lực lượng khác trong xã hội làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự
phát triển của quốc gia.
=> Là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất - kỹ thuật của liên
minh trong thời kỳ quá độ lên CNXH (khi chính trị đã chuyển trọng tâm sang
chính trị trong lĩnh vực kinh tế)
● Nội dung chính trị của liên minh:
- Nội dung chính trị của liên minh được thể hiện ở việc giữ vững lập
trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vai
trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với khối liên minh và đối với toàn xã hội để
xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc
và định hướng đi lên CNXH
- Trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn còn tồn tại những tư tưởng lạc hậu,
những thế lực thù địch chống phá vì thế trên lập trường tư tưởng - chính
trị của GCCN, để thực hiện liên minh giai cấp, tầng lớp, phải hoàn thiện,
phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng
củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng cường bản chất
giai cấp, sức chiến đấu, truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng,...
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, đảm bảo các lợi ích chính trị, các quyền dân chủ, quyền công
dân, quyền làm chủ, quyền con người của công nhân, nông dân, tri thức
và của nhân dân lao động, từ đó, thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân.
- Động viên các lực lượng trong khối liên minh gương mẫu chấp hành
đường lối chính trị của Đảng, pháp luật và chính sách của nhà nước, sẵn
sàng tham gia chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế
độ XHCN. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực
và âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và phản động.
=> Tạo sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đập tan mọi âm
mưu chống phá sự nghiệp cách mạng.
● Nội dung văn hóa xã hội của liên minh:
- Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh giai cấp, tầng lớp đòi hỏi phải
đảm bảo “gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển, xây
dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”, xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

=> Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt
các chính sách xã hội đối với công nhân, nông dân, tri thức và các tầng
lớp nhân dân, chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
nhân dân, nâng cao dân trí, thực hiện tốt an sinh xã hội.
=> Là nội dung cơ bản, lâu dài tạo điều kiện cho liên minh giai cấp, tầng lớp
phát triển bền vững.

➔ Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội trên có quan hệ mật thiết với
nhau, tác động và quy định lẫn nhau tạo tiền đề điều kiện cho nhau, chỉ
trên cơ sở thực hiện tốt các nội dung này thì khối liên minh của giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức mới được củng cố,
tăng cường.
7. Phân tích bản chất của nền dân chủ XHCN
a. Khái niệm dân chủ:
Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con
người, là một phạm trù chính trị gắn với các hình thức tổ chức nhà nước của giai
cấp cầm quyền, là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển của
lịch sử xã hội nhân loại.
b. Bản chất của nền dân chủ XHCN:
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân
chủ xã hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
● Bản chất chính trị:
- Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân (đảng
Mác Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của
nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, quyền con người, thỏa mãn
ngày càng cao hơn các nhu cầu và lợi ích của nhân dân.
- CN Mác Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự
lãnh đạo chính trị của GCCN thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội,
không phải chỉ thực hiện quyền lực và lợi ích riêng của GCCN mà chủ
yếu để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có
GCCN.
+ Nhân dân lao động là những người làm chủ quan hệ chính trị trong xã
hội, có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền từ
TW đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp
luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước, tham gia quản lý
nhà nước,...
=> Quyền lực của dân, sức mạnh ở dân, lợi ích vì dân.
● Bản chất kinh tế:
- Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa
mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân
dân lao động.
- Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN không hình thành từ “hư vô”
theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế XHCN cũng là sự kế thừa và phát
triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm,... của các chế độ kinh tế trước
đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột bất công,..đối với đa số nhân
dân.
=> Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN là
thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân
phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
● Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội:
- Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác Lênin - hệ tư tưởng của GCCN,
làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới.
Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân
tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã
hội….mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc….
- Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa
tinh thần, được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát triển cá
nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình
sáng tạo văn hóa, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của
con người.
- Trong nền dân chủ XHCN có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá nhân,
tập thể và lợi ích của toàn xã hội.
- Dân chủ XHCN chỉ có được với điều kiện tiên quyết là đảm bảo vai trò
lãnh đạo duy nhất của ĐCS

8. Trình bày nội dung cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa xã
hội khoa học
a. Khái niệm cương lĩnh dân tộc:
- Cương lĩnh dân tộc là một chương trình hành động thể hiện đường lối và
những nhiệm vụ quan trọng nhất của giai cấp công nhân và các đảng cộng
sản về vấn đề dân tộc => Là cơ sở lý luận quan trọng để các Đảng cộng
sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh giành
độc lập dân tộc và xây dựng CNXH.
b. Nội dung cơ bản:
● Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
- Là quyền thiêng liêng của dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ,
ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc
nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
- Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc
nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có
nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở
pháp lý, nhưng quan trọng hơn nó phải được thực hiện trên thực tế.
+ Bình đẳng trong kinh tế: bình đẳng dân tộc phụ thuộc vào sự đồng đều về
sự phát triển kinh tế của các dân tộc, cốt lõi là sự phát triển đồng đều về
LLSX
+ Bình đẳng về chính trị: đóng vai trò là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và
là cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng trên các lĩnh vực khác trong quan
hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc có quyền tự quyết định vận mệnh của
dân tộc mình, bao gồm: Quyền lựa chọn chế độ, con đường phát triển của
dân tộc mình, quyền quyết định chính sách dân tộc mình trong lĩnh vực
quan hệ với các dân tộc khác
+ Bình đẳng về văn hóa: có tầm quan trọng đặc biệt và liên quan đến nhiều
yếu tố dân tộc - tộc người. Trong quan hệ dân tộc, văn hóa là một nhân tố
có ý nghĩa quyết định địa vị bình đẳng của dân tộc này với dân tộc khác.
Vấn đề bình đẳng trong văn hóa phải gắn liền với bình đẳng trong kinh
tế,chính trị.
=> Nguyên tắc: Để thực hiện quyền bình đẳng, trước hết phải thủ tiêu tình trạng
áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc, phải đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
=> Là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu
nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
● Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết:
- Là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình,
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc
mình.
- Bao gồm: Quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng
thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Tuy nhiên việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực
tiễn - cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của GCCN, đảm bảo sự
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của GCCN.
- Quyền tự quyết của dân tộc không đồng nhất với “quyền” của các tộc
người thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập
thành quốc gia độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự
quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hoặc kích động
đòi ly khai dân tộc.
● Ba là, Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
- Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần
của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
- Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội
dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên kết
các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể.
9. Trình bày các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học trong
giải quyết vấn đề tôn giáo
a. Khái niệm tôn giáo:
Tôn giáo là một khái niệm dùng để chỉ một hình thái ý thức xã hội, là
hoạt động của cộng đồng người có cùng một thế giới quan duy tâm về đời
sống hiện thực của mình, cùng tôn sùng, và phụ thuộc vào một lực lượng
siêu nhiên và cùng sinh hoạt gắn bó với nhau trong một tổ chức với một
thiết chế tương ứng.
b. Các nguyên tắc cơ bản của CNXHKH trong giải quyết vấn đề tôn giáo:
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự
biến đổi trên nhiều mặt. Vì vậy khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm
bảo các nguyên tắc sau:
● Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân
- Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao,
đấng thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng.
Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư
tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng việc theo đạo, đổi đạo hay
không theo đạo là quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không một cá
nhân, tổ chức nào kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội,...được
quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự
do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người dân phải theo
đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
- Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN. Nhà nước XHCN không can
thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín
ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các
tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các phương
tiện phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân được Nhà
nước XHCN tôn trọng và bảo hộ.
● Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền
với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
- Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác Lênin chỉ hướng vào giải
quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân
dân mà không chủ trương can thiệp vào các công việc nội bộ của tôn
giáo.
- Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết
cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh
trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy.
Điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không
có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,...cũng như những tệ nạn nảy
sinh trong xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện
được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
● Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng: tín ngưỡng, tôn giáo và lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo
- Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện
thuần túy về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn
giai cấp - chính trị ít nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Từ đó hai mặt
chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có mối quan hệ với nhau trong
vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
+ Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản
ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp,
mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách
mạng với lợi ích của nhân dân lao động.
+ Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin tưởng giữa
những người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo,
cũng như những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu
thuẫn không mang tính đối kháng.
=> Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn
giáo thực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn tồn
tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo.
Sự phân biệt này trong thực tế không đơn giản bởi trong đời sống
xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính
trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác trong
xã hội có đối kháng giai cấp, tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối
rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần túy
trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh
hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan
đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
● Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
- Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn
luôn vận động và biến đổi không ngừng tùy thuộc vào những điều kiện
kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có
quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không
giống nhau.
- Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực
của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt.
=> Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối
với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với những tôn giáo cụ thể.
10. Phân tích những cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
a. Khái niệm gia đình:
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và
quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các
thành viên trong gia đình.
b. Những cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
● Cơ sở kinh tế - xã hội:
- Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên
CNXH là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của
lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của
quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia
đình dần dần bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình
đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã hội.
- Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (quá độ lên CNXH) là:
+ Xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống trị của người đàn ông trong
gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch
đối với phụ nữ. Bởi sự thống trị của người đàn ông trong gia đình là kết
quả sự thống trị của họ về kinh tế, sự thống trị đó tự sẽ tiêu tan khi sự
thống trị về kinh tế của đàn ông không còn.
+ Là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội
trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia lao
động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận động và phát
triển, tiến bộ của xã hội.
+ Là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ
không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính toán nào khác.
● Cơ sở chính trị - xã hội:
- Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
việc thiết lập chính quyền nhà nước của GCCN và nhân dân lao động,
nhà nước XHCN. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân lao động
được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và
nữ. Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu,
đè nặng lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ
và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
- Nhà nước XHCN với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ thống
pháp luật, trong đó có Luật hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thống chính
sách xã hội đảm bảo lợi ích của công dân, các thành viên trong gia đình,
đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã
hội…
=> Hệ thống pháp luật và chính sách đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình
hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
● Cơ sở văn hóa:
- Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, cùng với những biến đổi căn bản trong
đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không
ngừng biến đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng tư
tưởng chính trị của GCCN từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò
chi phối nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố
văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng
bước bị loại bỏ.
- Sự phát triển của hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ và công
nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ
của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình
kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị,
chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình xây
dựng CNXH.
=> Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế,
chính trị thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.

5 CÂU VẬN DỤNG


1. Làm rõ các đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
a. Công nhân VN mang những bản chất và đặc điểm của GCCN thế giới
● Đặc điểm cơ bản:
- Giai cấp công nhân là sản phẩm của đại công nghiệp: Từ khi CM công
nghiệp diễn ra, nền sản xuất máy móc ra đời và ngày càng phát triển
khiến cho ra đời một cơ cấu xã hội mới với những tầng lớp, giai cấp mới
và giai cấp công nhân ra đời, phát triển trong thời đại công nghiệp.
- Giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích chính trị đối lập giai cấp tư sản:
Giai cấp tư sản biểu hiện cho chủ nghĩa tư hữu, bóc lột đối lập với giai
cấp công nhân có tính xã hội cao, là nhân tố bị bóc lột
- Giai cấp công nhân có lợi ích chính trị về cơ bản thống nhất với nhân dân
lao động và toàn xã hội: Trong CNTB, mâu thuẫn chính trị cơ bản và là
mâu thuẫn đối kháng trong xã hội đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản
với GCCN, hơn nữa đó cũng là mâu thuẫn giữa tầng lớp cai trị và tầng
lớp bị trị, là nguyên nhân cơ bản của GCCN với nhân dân lao động khác
trong xã hội
● Đặc điểm chi tiết:
- Sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất tạo ra giá trị
thặng dư, đây là nguồn gốc giàu có trong xã hội hiện đại: GCCN không
có tư liệu sản xuất, bán sức lao động rồi tạo ra giá trị thặng dư, tất cả đều
về tay tư bản nên GCCN bị bóc lột
- Phương thức lao động của GCCN: Là những tập đoàn người lao động
trực tiếp hay gián tiếp những công cụ lao động sản xuất có tính chất công
nghiệp ngày càng hiện đại, trình độ xã hội hóa cao
b. Ngoài những đặc điểm chung với GCCN thế giới, GCCN VN cũng có
những đặc điểm riêng:
● Trước CM tháng 8:
- Ra đời muộn, chiếm tỷ lệ ít trong dân cư và chịu cảnh “1 cổ 2 tròng”, bị
bóc lột nặng nề
- Ra đời và phát triển trong nỗi nhục mất nước và áp bức bóc lột của phong
kiến thực dân khiến lợi ích CM và lợi ích dân tộc là 1, làm họ vô cùng
trung thành với CM
- Luôn đoàn kết thống nhất và kiên cường bất khuất
- Đa số xuất thân từ nông dân bị mất ruộng đất
● Sau CM tháng 8:
- Lực lượng trở nên đông đảo, quyền lực hơn
- Họ đã xây dựng đất nước ngày một phát triển hơn
- Trình độ văn hóa, kỹ thuật còn kém
- Nước ta vẫn quen nếp sống nông nghiệp thời phong kiến nên năng suất
lao động không cao lắm, hay bị giờ cao su
- Vì GCCN VN đa số xuất thân từ nông dân, có mối liên hệ máu thịt với
nông dân. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi để thực hiện sự liên minh giai
cấp, trước hết là đối với GC nông dân. Ngày nay, trong quá trình CN hóa
- HĐ hoá nông thôn sẽ có nhiều người nông thôn làm việc trong các cơ sở
công nghiệp và trở thành công nhân ở ngay chính quê hương mình.
- Tuy nhiên số lượng công nhân nước ta còn ít, trình độ văn hóa, tay nghề,
KHKT còn thấp, cách thức làm việc có nơi, có chỗ còn tỏ ra tùy tiện,
manh mún. Do vậy để đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình, một
trong những điều kiện quan trọng là GCCN VN phải liên minh được với
giai cấp nông dân, tầng lớp tri thức và các tầng lớp nhân dân khác
2. Làm rõ tính tất yếu của liên minh các giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam
( Nêu khái niệm)
● Tính tất yếu của LM các giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam:
Liên minh giai cấp ở nước ta cũng là một tất yếu khách quan, bởi cả 3
giai tầng đều cùng chung cảnh ngộ mất nước, đều bị áp bức, bóc lột và cùng
chung 1 mục tiêu giải phóng. Quan điểm, đường lối của Đảng ta về tính tất yếu
của liên minh công - nông - tri thức được thể hiện từ văn kiện Đại hội II của
Đảng lao động VN (1951):” Chính quyền của nước VN dân chủ cộng hòa là
chính quyền dân chủ của nhân dân…Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao
động tri thức làm nền tảng do GCCN lãnh đạo”
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công - nông - tri thức ở nước
ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận tổ quốc, là
cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước
XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng
CNXH
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”
và trong chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta đặc biệt coi trọng mối liên minh này và coi
đó là nền tảng của Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đến đại hội lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định tính tất yếu và còn
đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CN hóa-HĐ hóa đất nước. Đại hội
chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và tầng lớp tri thức do Đảng lãnh đạo

3. Chứng minh rằng: ĐCSVN là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng XHCN ở Việt Nam
a. Khái niệm:
- Trong lịch sử phòng trào công nhân quốc tế, các chính đảng của giai cấp
công nhân có một lịch sử phát triển lâu dài. Vào thời kỳ đầu tiên khi xuất
hiện chủ nghĩa xã hội khoa học, các tổ chức đầu tiên của phong trào công
nhân quốc tế được gọi là đảng cộng sản. Thời kỳ này, đảng cộng sản là
sản phẩm đầu tiên của sự kết hợp chủ nghĩa Mac với phong trào công
nhân Châu Âu đang còn trong thời kỳ tự phát.
- Đảng cộng sản là tổ chức chính trị tiên tiến nhất, bao gồm những đại
biểu ưu tú, giác ngộ và trung thành nhất với sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Đảng được thành lập để lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
b. Đặc điểm cơ bản của ĐCS:
- ĐCS là tổ chức chính trị tiên tiến nhất của giai cấp công nhân
- ĐCS là tổ chức có kỷ luật chặt chẽ
- ĐCS là đại biểu trung thành cho lợi ích chính trị của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và dân tộc
- ĐCS tồn tại, phát triển trong mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân
dân lao động
c. Chứng minh: Vai trò của ĐCS:
● Vai trò của Đảng trong lãnh đạo đề ra phươg hướng, chiến lược phát
triển, mục tiêu cơ bản của mỗi giai đoạn cách mạng và lãnh đạo quá
trình hiện thực hóa chiến lược phát triển, mục tiêu cơ bản
Điều kiện cơ bản đảm bảo giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của mình là đảng cộng sản, đội tiên phong của nó luôn được vũ
trang bởi một lý luận cách mạng và khoa học. Trên cơ sở ấy, ĐCS xây dựng
cương lĩnh chính trị đúng đắn làm cơ sở cho việc xác định các mục tiêu cơ
bản, nhiệm vụ chủ yếu phù hợp với mỗi giai đoạn CM, mỗi hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của CM. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản về phương hướng, nhiệm
vụ cách mạng, phương châm tập hợp và tổ chức lực lượng CM cần huy động
trên các lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, an ninh, quốc
phòng... hợp thành cương lĩnh và đường lối CM cơ bản được ĐCS đề ra, là
yếu tố tiên quyết đảm bảo thằng lợi của sự nghiệp CM XHCN, từng bước
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lích sử của giai cấp công nhân.
Không chỉ đề ra đường lối và chiến lược CM, ĐCS còn là người lãnh
đạo quá trình hiện thực hóa đường lối, chiến lược CM thành các chủ trương,
chính sách, lãnh đạo quá trình thể chế hóa đường lối ấy thành các chính sách
chủ trương, pháp luật của nhà nước.
● Vai trò của Đảng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản, thực hiện các mục tiêu cơ bản trong mỗi giai đoạn của tổ chức
đảng và đảng viên.
Ở phương diện vĩ mô, vai trò quyết định của đảng với thắng lợi của sự
ngiệp CM được thể hiện thống qua quá trình đảng là người đề ra đường lối,
chiến lược cách mạng, đề ra hệ thống sách lược CM và là người lãnh đạo quá
trình thể chế hóa các đường lối chiến lược, sách lược CM ấy. Đống thời, vai trò
quyết định của đảng với thắng lợi của sự nghiệp CM được thể hiện thông qua sự
lãnh đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ CM cụ thể, trên những lĩnh vực, phạm
vi công tác cụ thể...của từng thành tố cụ thể trong hệ thống chính trị-xã hội CN
ở các cấp, các chủ thể.
Trong mối quan hệ này, ta có thể nhạn thấy đường lối chiến lược, sách
lược CM chỉ có thê được thực hiện một khi đường lối chiến lược, sách lược ấy
được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các chủ trương, chính sách, pháp luật của
nhà nước.
● Vai trò của đảng trong lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng đội ngũ cán bộ cho cách mạng:
- Các chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước được thực hiện hiệu quả
đến đâu, hiệu quả cao hay thấp lại phụ thuộc chủ yếu và trước hết bởi năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức các cấp của đảng, phụ thuộc chủ yếu,
trước hết vào năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tính tiền phong, gương mẫu...
của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các tổ chức ấy và trong hệ thống chính trị các
cấp...được đảng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng.
- Một người cán bộ đảng chuyên nghiệp có nghĩa là sự chuyên tâm, say mê, sẵn
sàng hy sinh cho công việc được giao.
- Kế thừa tư tưởng của V.I.Lênin chủ tịch HCM cũng đã từng đề cập đến vai trò
quan trọng của đội ngũ cán bộ đảng, của hệ thống tổ chức đảng đối với sự
nghiệp CM. Vì vậy, mỗi chi bộ, mỗi cán bộ đảng..đều ra sức làm tròn nhiệm vụ
của đảng giao phó, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Đó là việc cần làm trước
tiên để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
● Vai trò của Đảng trong việc xây dựng, củng cố mối liên hệ với quần
chúng nhân dân, xây dựng và củng cố khối địa đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng và củng cố tình đoàn kết giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
- Xét dưới góc độ lý luận, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân là nội dung
cốt lõi, liên quan mật thiết với sự nghiệp gaiỉ phóng nhân loại khỏi mọi áp bức
và bất công xã hội.
- Trong sự nghiệp ấy, giai cấp công nhân đóng vai trò là giai cấp tiên phong có
sứ mệnh lịch sử dẫn dắt nhân dân, dân tộc, nhân loại trong công cuộc thủ tiêu
CN tư bản, xây dựng CN cộng sản.vì lẽ đó, sự nghiệp ấy là sự nghiệp không
phải của riêng giai cấp công nhân.
- Lịch sử các thời đại CMXH cũng đã CM sự cần thiết phải thực hiện sự liên
minh của một giai cấp cách mạng với giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động bị
áp bức, bị thống trị trong xã hội, trong mỗi thời đại CM.
- Rõ ràng, chăm lo xây dựng và củng cố mối liên hệ mật thiết với quần chúng
nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển của ĐCS. Thông qua mối quan hệ đó và
bằng việc chăm lo củng cố mối quan hệ đó. Đảng đóng vai trò là nhân tố quyết
định đối với việc thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
🡪 Vì vậy muốn thực hiện SMLS, đảng phải giữ vai trò tiên phong, đảng phải
trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của GCCN, đồng thời phải
thường xuyên xây dựng Đảng và cương quyết thanh lọc những phần ử cơ hội đủ
loại, đặc biệt là cơ hội về chính trị, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và CNXH.
4. Phân tích những đặc trưng cơ bản của CNXH Việt Nam được nêu
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (2011) đã
phát triển mô hình CNXH Việt Nam với 8 đặc trưng, trong đó có đặc trưng về
mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, đó là:
- Một là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
- Hai là: Do nhân dân làm chủ
- Ba là: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đài
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
- Bốn là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Năm là: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện
- Sáu là: Các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển
- Bảy là: Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do ĐCS lãnh đạo
- Tám là: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
=> Tám đặc trưng trên vừa mang giá trị, ý nguyện và khát vọng của dân tộc Việt
Nam, vừa mang giá trị phổ quát của nhân loại và tầm nhìn của thời đại.
● Cương lĩnh tập trung khẳng định và làm rõ một số nội dung sau:
- Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là những giá trị tiến
bộ phổ quát mà nhân loại đang hướng tới, là khát vọng phát triển của mọi
dân tộc, nhất là ở những nước đi sau, đồng thời là việc cụ thể hóa mô
hình CNXH chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa ra phù hợp với logic của thực
tiễn và logic của phát triển.
- Thứ hai, đề cao dân chủ XHCN. Từ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội, công bằng, dân chủ, văn minh” đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
công bằng, văn minh, Đảng ta đã cho thấy điểm mới trong nhận thức và
thực tiễn xây dựng CNXH. Nếu dân chủ tư sản là bước tiến bộ so với chế
độ PK, đảm bảo cho chế độ tư bản phát triển thì dân chủ XHCN là nền
tảng của xã hội XHCN, là điều kiện giải phóng triệt để con người khỏi
mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tiến bộ và tốt đẹp hơn
- Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của mô hình XHCN
VN là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến
bộ phù hợp. Cách diễn đạt này phản ánh đúng quy luật cơ bản của CNXH
Mác Lenin. Thay vì tập trung vào việc đảm bảo chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu, điều này đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện
QHSX một cách đồng bộ, toàn diện, vừa tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển, vừa giữ vững định hướng XHCN
- Thứ tư, có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do ĐCS lãnh đạo. Đây là một bổ sung quan trọng về đặc trưng
bản chất của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng
- Thứ năm, nhấn mạnh vấn đề phát triển con người.
5. Làm rõ những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam hiện nay
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH
như sau:
a. Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, về phương diện kinh tế, tất yếu tồn
tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập mà theo V.I
Lênin, thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng, kinh tế
hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế XHCN.
b. Trên lĩnh vực chính trị:
- Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, về phương diện chính trị, là việc
thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc
GCCN nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến
hành xây dựng một xã hội không giai cấp.
=> Đây là sự thống trị về chính trị của GCCN với chức năng thực hiện dân chủ
đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới,chuyên chính với
những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp
tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn.
- Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới - GCCN đã trở thành giai cấp
cầm quyền, với nội dung mới - xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm
là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới - cơ bản là hòa
bình tổ chức xây dựng.
c. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa:
Trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. GCCN thông qua đội
tiền phong của mình là ĐCS từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hóa
mới XHCN, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo
đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
d. Trên lĩnh vực xã hội:
- Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy định nên trong thời kỳ
quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai
cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với
nhau.
- Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn,
thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá
độ từ CNTB lên CNXH, về phương diện xã hội là thời kỳ đấu tranh
chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội
cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân
phối theo lao động là chủ đạo.
=> Tóm lại, thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử
có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc
thù mà giai đoạn xã hội XHCN trên con đường phát triển của hình thái KT-XH
cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
5 CÂU SÁNG TẠO
1. Sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện nay có ảnh hưởng như thế
nào đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
GCCN VN là một bộ phận của GCCN quốc tế nên nó có những đặc điểm
chung của GCCN quốc tế. Ngoài ra, GCCN VN ra đời và phát triển trong điều
kiện cụ thể của dân tộc VN nên còn có những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN VN.
- GCCN VN ra đời trước cả giai cấp tư sản VN, là giai cấp đối kháng trực
tiếp với tư bản thực dân Pháp
- GCCN VN tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất
chống ngoại xâm của dân tộc
- GCCN VN ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã bề tắc về con
đường cứu nước thì chỉ có GC công nhân mới có khả năng tìm thấy lối
thoát cho CM
- GCCN VN ra đời khi CM XHCN tháng 10 Nga thành công, mở ra một
chế độ XH mới trong lịch sử nhân loại, đó là chế độ XHCN và cùng lúc
đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc là
con đường CM vô sản dưới sự lãnh đạo của GCCN
- GCCN VN sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh công
nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây cũng là điều kiện cần thiết
đảm bảo cho CMVN giành thắng lợi
- GCCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập,
giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh CM của nhân dân VN
- GCCN VN ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và sớm có Đảng lãnh đạo
nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, cải lương
Ngoài những đặc điểm nói trên thể hiện những ưu điểm của GCCN VN, GCCN
VN còn có những hạn chế cần phải khắc phục: số lượng còn ít, trình độ văn hóa,
chuyên môn và nghiệp vụ cũng như KHKT còn thấp, tư tưởng bảo thủ, chủ
quan, cách làm ăn tùy tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng
nặng nề
=> Nguyên nhân là do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển và thành phần
đa số xuất thân từ nông dân. Tuy nhiên, những hạn chế trên không thuộc về bản
chất nên GCCN VN vẫn có đủ khả năng và điều kiện để đảm đương sứ mệnh
lịch sử của mình đối với dân tộc.
2. Anh/chị nhận thức như thế nào về con đường quá độ lên CNXH bỏ
qua TBCN ở Việt Nam
Theo HCM, đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát
triển TBCN. Ở đây có các điểm cần lưu ý:
● Thứ nhất, cần phải bỏ qua chế độ TBCN vì đó là một chế độ áp bức bóc
lột, nô dịch con người. CNTB đã ra đời như một kiểu chế độ XH tất yếu
từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến.
Do đó, CNTB đương nhiên cũng sẽ bị CNXH phủ định về nguyên tắc
trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa GC vô sản và GC tư sản. Tiến lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN vì thế là phù hợp với xu thế vận động
khách quan của lịch sử
● Thứ hai, tiến thẳng lên CNXH chỉ với nghĩa là bỏ qua tất cả những gì là
mặt trái, là tiêu cực của chế độ TBCN. Giai cấp vô sản nhất thiết phải tận
dụng, phát huy những ưu việt, tích cực sẵn có của CNTB. Với hoàn cảnh,
điều kiện và trình độ phát triển của VN, tiến thẳng lên CNXH đòi hỏi
phải tiến dần từng bước, không thể làm bừa, làm ẩu theo lối chủ quan,
duy ý chí. Tại Đại hội II (1951) của Đảng, Người đã xác định, phải chuẩn
bị những điều kiện để hoàn thành CM dân tộc dân chủ sau đó tiến dần lên
CNXH
● Thứ ba, bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí của QHSX và
kiến trúc thượng tầng TBCN. Tức là bỏ qua chế độ áp bức, bóc lột, bất
công TBCN, bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính
trị không phù hợp với chế độ XHCN
● Thứ tư, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học
công nghệ đã phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát
triển, có chọn lọc
=> Tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường đi lên của nước ta, tuy
khó khăn, phức tạp nhưng nếu có cách làm đúng đắn, sáng tạo, “đúng quy luật,
thuận lòng dân, hợp thời đại” thì sẽ thành công.
3. Vai trò và trách nhiệm của anh chị trong việc xây dựng gia đình mới ở
Việt Nam
Với mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật
sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể nhằm tăng số hộ gia đình văn
hóa, giảm số gia đình có nạn bạo lực và mắc tệ nạn xã hội, tuyên truyền, vận
động các gia đình dành thời gian chăm sóc, bảo ban con, cháu, tạo điều kiện cho
con, cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không có
sự phân biệt trai hay gái,...
● Vai trò của sinh viên:
- Là những ngọn cờ tiên phong cho tương lai sau này, góp phần không nhỏ
trong công cuộc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
- Là thành viên của gia đình, cá nhân trong cộng đồng và là thành phần
trong xã hội có khả năng thay đổi nhận thức của nhiều người
● Là sinh viên năm hai, chúng ta có trách nhiệm:
- Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, chú trọng hình thức truyền tải các
thông điệp trên phương tiện thông tin đại chúng, tích cực nêu gương
người tốt việc tốt
- Phê phán những biểu hiện không đúng trong việc xây dựng gia đình hạnh
phúc, gây ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, cảnh báo các nguy cơ và
hậu quả về thói “trọng nam, khinh nữ”, làm mất cân bằng giới tính
- Trong công tác xây dựng gia đình VN, việc đẩy mạnh giáo dục là nhiệm
vụ hàng đầu, qua đó cung cấp cho các thành viên gia đình những hiểu biết
về chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến gia đình cùng các kỹ
năng sống, nhất là kỹ năng làm cha, mẹ, nâng cao chất lượng mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng, xây dựng
gia đình là một môi trường an toàn cho trẻ em cũng như trách nhiệm của
nam giới đối với công việc trong gia đình và bảo đảm quyền của phụ nữ
trong gia đình
- Giúp đỡ, quyên góp, hỗ trợ cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn,
vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số để tiếp cận tới xã hội ngày nay
4. Vai trò và trách nhiệm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
trong việc xã hội hóa các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước Việt Nam hiện nay
Mỗi thanh niên sinh viên của HVBCTT hôm nay luôn có ý thức không
ngừng tự tu dưỡng rèn luyện và hình thành cho mình bản lĩnh sống, bản lĩnh
chính trị vững vàng, bản lĩnh nghề nghiệp vững chắc, không ngừng nỗ lực học
tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng động và sáng tạo, không
ngừng rèn luyện nhân cách và lối sống, xung kích tình nguyện vì Tổ quốc, vì
cộng đồng để tiếp tục hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang “là người chủ tương
lai của đất nước” mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã tin tưởng giao phó
Lực lượng sinh viên, đặc biệt là những đoàn viên trẻ, đoàn viên ưu tú
trong học viện cần tập trung thực hiện có hiệu quả những vấn đề sau:
● Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống, khơi dậy tinh
thần yêu nước, giáo dục và nâng cao nhận thức của đoàn viên thanh niên
và thế hệ trẻ về những thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
đạt được qua từng giai đoạn lịch sử. Học tập các môn KHXH và NV, cốt
lõi là các môn lý luận chính trị, bao gồm: Triết học Mác Lenin, KTCT,
CNXHKH, tư tưởng HCM và môn Đường lối của ĐCSVN để nâng cao
nhận thức, lý tưởng CM cho đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú, từ đó nâng
cao khả năng lý luận góp phần thực hiện việc phản bác các luận điệu
xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động. Đề cao nhận
thức và vai trò của người thủ lĩnh thanh niên trong việc định hướng và tổ
chức các nội dung hoạt động tại đơn vị.
● Thứ hai, tiếp tục tăng cường hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội, truyền
thông, có sự liên kết chặt chẽ đối với các đồng chí các bộ Đoàn. Kịp thời
triển khai tuyên truyền các thông tin chính thống, thông tin tích cực, định
hướng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các lĩnh
vực, trên không gian mạng. Phát động các phong trào thi đua tích cực trên
các trang mạng xã hội nhằm định hướng thông tin tích cực đến với đoàn
viên thanh niên và giới trẻ. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động
“mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, thực hiện phương
châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, góp phần nâng cao sức đề kháng cho
đoàn viên, thanh niên trong nhận diện và xử lý các vấn đề tiêu cực trên
các trang MXH và trong dư luận quần chúng.
● Thứ ba, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú, giới thiệu cho Đảng xem
xét kết nạp: đồng thời định kỳ hàng quý,6 tháng có đánh giá chất lượng,
có đánh giá đảng viên dự bị, đảng viên trẻ về ý thức, trách nhiệm và nhận
thức trong quá trình rèn luyện, học tập và công tác. Đánh giá đúng năng
lực, đạo đức, tác phong của đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú khi bổ nhiệm
vị trí công tác và phân công nhiệm vụ.
● Thứ tư, duy trì và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của CLB lý
luận trẻ, xây dựng chuyên đề thực tiễn công tác đối với nâng cao khả
năng lý luận chính trị, kỹ năng nghiệp vụ phản bác những vụ việc cụ thể.
Thể hiện vai trò, trách nhiệm trong đề ra các giải pháp có hiệu quả thực
hiện cuộc vận động “Người cộng sản trẻ”, thể hiện tiếng nói, ý chí và
hành động cụ thể trong các diễn đàn “Đảng với thanh niên, thanh niên với
Đảng”
● Thứ năm, thông qua các phong trào hành động CM của đoàn như “Tuổi
trẻ xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình
nguyện”, phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo”, phát huy vai trò xung kích, tình
nguyện của tuổi trẻ trong đề ra các hoạt động, mô hình, giải pháp để giải
quyết các vấn đề mà người dân quan tâm, đồng thời hỗ trợ giải quyết các
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo đoàn viên thanh niên
như: vệ sinh môi trường, cải cách hành chính, phòng chống tội phạm,
truyền thông trên MXH,... để qua đó tuyên truyền các công trình, phần
việc của Đoàn, công tác vận động nhân dân, nâng cao uy tín của từng
đồng chí đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú trong việc tham gia thực hiện
nhiệm vụ kinh tế, chính trị tại địa phương.
Tiếp nối truyền thống đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú nói riêng, bằng tất cả trách
nhiệm và nhiệt huyết của mình để phát huy cao nhất tinh thần tiên phong, tình
nguyện qua những hành động cụ thể, việc làm sáng tạo đóng góp chung vào kết
quả phát triển KTXH của thành phố, cụ thể hóa sự quyết tâm của tuổi trẻ bằng
kết quả trong học tập, lao động sản xuất, kinh doanh, chăm lo cải thiện đời sống
nhân dân, thực hiện an sinh xã hội, xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh để luôn
là người bạn đồng hành với thanh niên và tất cả vì đàn em thân yêu.
5. Vai trò và trách nhiệm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của ĐCSVN hiện nay
Sức sống của CN Mác Lênin, tư tưởng HCM phải được bổ sung và phát
triển trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học và thực tiễn trong cuộc sống,
đó là cách duy nhất để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nhiệm vụ của cán bộ Đảng viên là phải:
● Một là, sức sống của CN Mác Lênin, tư tưởng HCM phải được bổ sung
và phát triển trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học và thực tiễn
cuộc sống, đó là cách duy nhất để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
● Hai là, tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, dựa vào dân, gắn bó mật thiết với
nhân dân để xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng và nền tảng tư tưởng của
Đảng.
Nguyên tắc của cổ nhân đã đúc kết đó là: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa,
đất nước chúng ta đang hội tụ cả 6 chữ đó, yếu tố cuối cùng quyết định vận
mệnh của Đảng ta phải chiếm được nhân hòa, ai chiếm được nhân hòa, người đó
có được thiên hạ. Nhân dân ta hơn 88 năm qua đã trao sứ mệnh lịch sử cho
Đảng dẫn dắt đất nước ta tiến cùng thời đại, mỗi bước đi của dân tộc đều gắn
với vai trò của Đảng.
● Ba là, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân cảnh giác về những thông tin vu khống, bịa
đặt của các thế lực thù địch bôi nhọ, chia rẽ các lãnh tụ, lãnh đạo và nền
tảng tư tưởng của Đảng.
● Bốn là, đấu tranh phản bác, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch
trên không gian mạng.
Tác động của cuộc CM 4.0 tới tất cả mọi mặt của đời sống xã hội có cả
tích cực và không tích cực. Với lượng thông tin khổng lồ, chống, phá, phủ nhận
nền tảng tư tưởng của Đảng, thì việc tiếp cận thông tin thiếu định hướng sẽ dẫn
đến mất phương hướng, rơi vào cực đoan khi bị tác động của các hệ tư tưởng
phản tiến bộ
=> Vì vậy:
- Thứ nhất, toàn Đảng, tổ chức đảng các cấp, các ngành, các lực lượng phải
tự nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nâng cao dân trí
- Thứ hai, phát huy vai trò của Nhà nước trong đấu tranh, đòi hỏi sự tham
gia, góp sức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó nhà nước
phải đóng vai trò chủ đạo. Nhà nước không ngừng tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc
đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
● Năm là, nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lấy lại niềm tin
của dân là cách bảo vệ Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng hiệu quả
nhất.
Người bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là quần chúng
nhân dân, cho nên đấu tranh chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và toàn dân, cần phải có sự thống nhất cao trong toàn Đảng về tầm
quan trọng của vấn đề này, phải tiến hành từ trên xuống như một cuộc chiến đấu
chống lại cái ác.

You might also like