You are on page 1of 34

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

--------------------------CHƯƠNG 2------------------------------
v. NỘI DUNG SỨ MỆNH LỊCH SỬ GIAI CẤP CÔNG NHÂN:
[thế kỷ 19]
Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định sẽ xuất hiện một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, là
LLXH chính đấu tranh xóa bỏ XH cũ lạc hậu, xây dựng XH mới tiến bộ hơn. Vai trò và vị
trí chính là SMLS của một giai cấp.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN: “Thông qua đội tiền phong là ĐCS, GCCN tổ
chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn XH khỏi mọi áp bức,
bất công, xóa bỏ các chế độ áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu, xóa bỏ CNTB để
xây dựng CNXH và CNCS trên toàn thế giới.”

Sứ mệnh lịch sử của GCCN thể hiện trong 3 nội dung cơ bản là: kinh tế, chính trị và
văn hóa – xã hội.

Về nội dung kinh tế thì GCCN là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa
cao, là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu
ngày một tăng của con người và xã hội. Bằng cách đó, giai cấp công nhân tạo tiền đề vật chất
– kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.

Về nội dung chính trị, GCCN dưới dự lãnh đạo của ĐCS, tiến hành cách mạng chính
trị để đấu tranh giành CQ, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay GCCN và
nhân dân lao động, từ đó xây dựng nhà nước mới của nhân dân, mang bản chất giai cấp công
nhân. GCCN sử dụng nhà nước của mình như một công cụ để họ cải tạo xã hội cũ và xây
dựng một xã hội mới tiến bộ hơn.

Về nội dung văn hóa – xã hội, nội dung này bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu và
xây dựng cái mới tiến bộ trong đời sống tinh thần xã hội. Dưới sự lãnh đạo của ĐCS, GCCN
xây dựng nền văn hóa, con người mới với tư tưởng, đạo đức, lối sống XHCN là một trong
những nội dung căn bản mà CM XHCN trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra với SMLS của
GCCN hiện nay.

v. ĐẶC ĐIỂM SMLS CỦA GCCN


Đầu tiên, SMLS của GCCN xuất phát từ những tiền đề KT – XH của sản xuất
mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật. Một, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện
những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn
cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự xung đột giữa tính chất xã hội
hóa của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất là nội dung kinh tế - vật chất của mâu thuẫn cơ bản đó trong chủ nghĩa tư bản. Hai, quá
trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp công nhân và rèn luyện nó thành
chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử. Do mâu thuẫn về lợi ích cơ bản không thể điều hòa giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, nên mâu thuẫn này trở thành động lực chính cho cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội hiện đại. Giải quyết mâu thuẫn cơ bản về kinh tế và chính trị trong
lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Thứ hai, thực hiện SMLS là sự nghiệp của bản thân GCCN cùng đông đảo nhân
dân lao động do ĐCS lãnh đạo và mang lại lợi ích cho đa số. Giai cấp công nhân chỉ có
thể tự giải phóng mình thông qua việc đồng thời giải phóng các giai cấp bị áp bức bóc lột
khác, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong
của mình là Đảng Cộng sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử bằng một cuộc cách mạng triệt để
không chỉ xóa bỏ sự thống trị áp bức của chủ nghĩa tư bản mà còn xây dựng thành công chế
độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội không còn giai
cấp. Thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, để xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội) - đó là con đường, phương thức để thực
hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Đó là một tiến trình lịch sử lâu dài gắn
liền với vai trò, trọng trách lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,
đến lúc đó giai cấp công nhân mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.

Thứ ba, SMLS của GCCN không phải là thay thế chế độ SH tư nhân này bằng
một chế độ SH tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để chế độ tư hữu TBCN về TLSX chủ
yếu (xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người). Đối tượng xóa bỏ ở đây là sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa là nguồn gốc sinh ra những áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội hiện đại.
Sự xóa bỏ này hoàn toàn bị quy định một cách khách quan từ trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.

Cuối cùng, giành quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo XH cũ, xây dựng XH mới
nhằm giải phóng con người. Nếu các cuộc cách mạng trước đây, điển hình là cách mạng tư
sản coi việc giành được chính quyền là mục tiêu duy nhất để thực hiện quyền tư hữu thì cuộc
cách mạng của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ tình trạng bóc lột, áp bức và nô dịch con
người, xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản để thực hiện quyền làm chủ của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Đó là cuộc cách mạng triệt để nhất thực hiện lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người
như C.Mác và Ăngghen đã nhấn mạnh trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, năm 1848.

v. Nội dung SMLS CỦA GCCN VIỆT NAM


Về nội dung kinh tế, GCCN Việt Nam có số lượng đông đảo, có cơ cấu ngành nghề
đa dạng, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ CN ở mọi thành phần kinh tế (có chất
lượng ngày càng nâng cao về kỹ thuật và công nghệ) sẽ là nguồn nhân lực lao động chủ yếu
tham gia phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
đó, GCCN còn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HDH đất nước – vấn
đề nổi bật đối với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN VN hiện nay. Cuối cùng, để thực
hiện được SMLS của mình trên lĩnh vực kinh tế, GCCN có vai trò to lớn trong việc thực
hiện khối liên minh công – nông – trí thức để tạo ra những động lực phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nông dân ở nước ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hóa.
Về nội dung chính trị - xã hội, có hai nội dung chính yếu thể hiện SMLS của GCCN.
Đầu tiên, cần “giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương
mẫu của cán bộ , đảng viên”. Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong GCCN
cần nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính trị - xã
hội quan trọng của Đảng. Thứ hai, cần “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn
đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
GCCN cần chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN.

Về nội dung văn hóa tư tưởng, có 2 nội dung. Đầu tiên, xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc thì có nội dung cốt lõi là xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa. GCCN còn tham gia đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn thực
hiện được SMLS này GCCN VN cần phải thường xuyên giáo dục cho các thế hệ công nhân
và lao động trẻ nước ta về ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa GCCN vs dân tộc, đoàn kết giai cấp gắn
liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

v. Phương hướng xây dựng GCCN VN hiện nay


Về quan điểm của ĐCSVN về xây dựng GCCN:
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là động lực chính của
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay. Đặc
biệt hiện nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của giai cấp
công nhân hết sức quan trọng.
Đảng Cộng sản VN đã đề ra một số phương hướng quan trọng để xây dựng GCCN
VN hiện nay:
- Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng của
Đảng.
- Đồng thời, xác định rõ: Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, … để thích ứng với cuộc CMCN lần thứ tư.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho GCCN.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng
của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Định hướng, quản lý tốt hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ
chức công đoàn hiện nay.

v. Giải pháp:
Nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản thân GCCN và trong
toàn XH về vai trò (SMLS) của GCCN. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều
kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Xây dựng GCCN lớn mạnh gắn với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, doanh nhân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Phát huy vai trò giai cấp công nhân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc -
động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước; đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác
quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

Xây dựng GCCN lớn mạnh, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân;
đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp
thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.

Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí
thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ
công nhân trẻ, có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và
quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt
của giai cấp công nhân.

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân. Sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan
trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức, xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ
chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân.

v. Đặc điểm của GCCN [thế giới]


Xuất phát từ quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công
nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, có thể
nhận định: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp
hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ
bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột
giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ
những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã
hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ".

C.Mác và Ăngghen đã làm sáng tỏ những đặc điểm quan trọng của GCCN với tư cách
là một giai cấp CM có sứ mệnh lịch sử thế giới trên phương diện kinh tế - xã hội và chính trị -
xã hội như sau:

Về phương diện kinh tế - xã hội.

Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong
các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất hiện
đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản
xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại công nghiệp, còn giai
cấp công nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại
có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều này có được là do yêu cầu khách quan của sự
phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.

Thứ hai, giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là giai
cấp của những người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ
phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với
nhà tư bản, công nhân là những người lao động tự do, với nghĩa là tự do bán sức lao động của
mình để kiếm sống. Chính điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối
kháng với giai cấp tư sản.

Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể
nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng đi theo
làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân
lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về phương diện chính trị - xã hội:

Đặc điểm nổi bật của GCCN là lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng
công cụ là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, mang tính chất xã hội hóa.

GCCN là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá trình SX
vật chất hiện đại. Do đó họ là đại biểu cho LLSX tiên tiến, cho PTSX tiên tiến quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn mạnh
không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp giúp cho giai cấp
công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột
vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp công nhân có
những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích căn bản của nhân.

Nền sản xuất đại công nghiệp và PTSX tiên tiến đã rèn luyện cho GCCN tính tổ
chức, kỷ luật cao trong lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Môi
trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày
càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp
công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh
giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực và kinh tế - kỹ thuật nên giai
cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.

Là giai cấp tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, tất cả các giai cấp
khác đều là những tầng lớp trung đẳng ... Đó là do giai cấp công nhân không gắn với tư hữu,
do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới”
Là giai cấp có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung
một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều
có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai
cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với nhau thành
tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần
quốc tế của giai cấp mình. Dựa vào đặc điểm này, C.Mác - Ph.Ăngghen nhấn mạnh: trong sự
nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. V.I. Lênin sau
này cũng khẳng định: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để GCCN có vai trò lãnh đạo
cách mạng.

v. Đặc điểm của GCCN VN


Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất
tiên tiến, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa
xã hội.

Giai cấp công nhân VN là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có những
đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài ra, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam nên còn có những đặc điểm riêng,
ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt Nam vào đầu
thế kỷ XX, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, nên giai cấp công
nhân Việt Nam phát triển chậm. Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp
chưa bằng giai cấp công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông
dân, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

GCCN Việt Nam là sản phẩm và lực lượng đi đầu của quá trình CNH, HDH. Họ
lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy, họ đa dạng về trình độ công
nghệ, về thành phần kinh tế và về lợi ích.

Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự nhiên với nông dân và đông
đảo nhân dân lao động, họ có sự gắn bó giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc lại có cùng
một kẻ thù. Chính vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm liên minh với nông dân, tạo
thành khối liên minh công - nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng.

Giai cấp công nhân Việt Nam sớm giác ngộ được lý tưởng và mục tiêu cách
mạng, họ sớm tiếp thu CN M-L và sau một thời gian ngắn thì Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào
công nhân có một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của GCCN, đại
biểu cho lợi ích của GCCN và nhân dân lao động. DCSVN ra đời là sự kết hợp giữa CN M-L,
PTCN và PTYN. DCS là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN hoàn thành SMLS của
mình bởi DCS là sự kết hợp của PTCN và CN M-L, bao gồm những người ưu tú và giác ngộ
cao về mặt lý luận, có tinh thần kiên quyết cách mạng nhất. Đảng cao hơn GC ở trình độ giác
ngộ lí tưởng, phẩm chất, sự hi sinh cho giai cấp nên Đảng giữ vai trò lãnh đạo GC.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định thì GCCN VN là “giai cấp kiên quyết nhất,
cách mạng nhất, đi đầu trong đấu tranh cách mạng”

v. Đặc điểm GCCN hiện nay


Điểm tương đồng so với GCCN thế kỷ XIX:

Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện
đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày
càng cao.

Cũng giống như thế kỷ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân vẫn bị
giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng bóc lột này vẫn tồn
tại.

Thực tế đó cho thấy, xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại, vẫn là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của đấu tranh
giai cấp trong xã hội hiện đại ngày nay.

Phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu trong
các cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và
chủ nghĩa xã hội.

Điểm khác biệt so với GCCN thế kỷ XIX:

Xu hướng trí tuệ hóa GCCN (CN tri thức) tăng nhanh gắn liền với cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức, công nhân hiện nay có
xu hướng trí tuệ hóa. Người lao động phải có hiểu biết sâu rộng và có tri thức lẫn kỹ năng
nghề nghiệp để theo kịp nền sản xuất và dịch vụ ngày càng hiện đại. Ngày nay, công nhân
được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo lại, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng
của công nghệ trong nền sản xuất. Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ
không còn thuần túy là hao phí sức lực cơ bắp.

Tham gia vào sở hữu (xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng). Một bộ phận công nhân
đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản xuất của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa.
Về mặt hình thức, họ không còn là “vô sản” nữa và có thể được “trung lưu hóa” về mức sống,
nhưng về thực chất, ở các nước tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình
sản xuất và phân chia lợi nhuận vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn. Quyền định đoạt
quá trình sản xuất, quyền quyết định cơ chế phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản.
Ở một số nước XHCN, GCCN đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền
phong là ĐCS, từ khi nhà nước XHCN đầu tiên – Nhà nước Xôviet – ra đời, GCCN và đội
tiền phong của mình đã trở thành GC lãnh đạo chính quyền và xây dựng NN XHCN. Vai trò
này vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.

v. Nội dung SMLS GCCN hiện nay


Về ND kinh tế. GCCN vẫn là lực lượng giữ vai trò sản xuất vật chất chủ yếu cho xã
hội, quyết định sự tồn tại của XH; thông qua vai trò của mình trong quá trình SX với công
nghệ hiện đại, năng suất và chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững, SMLS của
GCCN đối với sự phát triển xã hội.

Về ND chính trị - xã hội:

Ở các nước định hướng XHCN: là GC lãnh đạo nhân dân giải quyết thành công các
nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng CNXH, đưa đất nước phát triển nhanh
và bền vững. Đặc biệt là xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh.

Ở các nước TBCN: đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công, áp đặt
của CN đế quốc; chống nghèo đói, ô nhiễm môi trường… Mục tiêu lâu dài là giành chính
quyền về tay GCCN và NDLD.

Về ND văn hóa – tư tưởng. Lãnh đạo hoặc đi đầu trong xây dựng một nền văn hóa
tiến bộ vì công bằng, bình đẳng và quyền con người… Đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng Cộng sản, giáo dục nhận thức và củng cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục
tiêu của CNXH cho GCCN và NDLD; giáo dục và thực hiện lý chủ nghĩa quốc tế chân chính
của GCCN trên cơ sở phát huy CN yêu nước và tinh thần dân tộc.

------------------------CHƯƠNG 3--------------------------------
v. Điều kiện ra đời CNXH
Điều kiện kinh tế, CNTB đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, LLSX càng được cơ khí hóa, hiện đại hóa thì càng mang tính xã hội hóa cao, điều
này mâu thuẫn với QHSX TBCN. LLSX phát triển cao, song QHSX từ chỗ mở đường đã trở
nên lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của LLSX.

Điều kiện chính trị - xã hội, cuộc đấu tranh giữa GCCN và GCTS ngày càng trở nên
gay gắt và có tính chính trị rõ nét. Đồng thời, chính sự phát triển về cả số lượng và chất lượng
của giai cấp công nhân là tiền đề KT – XH dẫn đến sự sụp đổ của CNTB. Với sự phát triển
của LLSX và sự trưởng thành thực sự của GCCN là tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

v. *Đặc trưng cơ bản của CNXH


Theo quan điểm của CN M-L, chủ nghĩa xã hội có 6 đặc trưng cơ bản:
Giải phóng GC, giải phóng DT, giải phóng XH, giải phóng con người, tạo điều kiện
để con người phát triển toàn diện. Đây là sự khác biệt về chất giữa hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế - xã hội ra đời trước, thể hiện ở bản chất nhân
văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Để
đạt được mục tiêu đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải tiến hành triệt để, trước hết là giải
phóng giai cấp, xóa bỏ tình trạng giai cấp này bóc lột, áp bức giai cấp kia, và khi đó thì tình
trạng dân tộc này đi bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Mục đích cao cả của chủ nghĩa xã
hội cần đạt đến là xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, tiêu diệt cơ sở của mọi tình trạng
người bóc lột người. Trong quá trình phấn đấu để đạt mục đích đó, giai cấp công nhân, chính
Đảng Cộng sản phải hoàn thành nhiều nhiệm vụ của các giai đoạn khác nhau, trong đó có
mục đích, nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội - tạo ra các điều kiện về cơ
sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần để thiết lập xã hội cộng sản.

Có nền KT phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và có chế độ công hữu về TLSX
chủ yếu. Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là
xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý có hiệu quả, năng suất lao
động cao và phân phối chủ yếu theo lao động. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng
sản chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội theo Ph.Ăngghen không thể ngay lập tức thủ tiêu chế độ tư
hữu. Cùng với việc từng bước xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, để nâng cao năng
suất lao động cần phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn, tố chức chặt chẽ và kỷ
luật lao động nghiêm, nghĩa là phải tạo ra quan hệ sản xuất tiến bộ, thích ứng với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.

Có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của VH dân tộc và
tinh hoa VH nhân loại. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
mục tiêu, động lực của phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế; văn hóa đã hun đúc
nên tâm hồn, bản lĩnh con người, biến con người thành con người chân, thiện mỹ. Do vậy,
quá trình xây dựng nên văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hóa tin
tộc và tinh hoa văn nhân loại, đồng thời, cần chống tư tưởng, văn hóa phi vô sản, trái với
những giá trị truyền thông tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội.

Bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các DT và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các
nước trên thế giới. Theo quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn
để giai cấp và dân tộc có quan hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn để dân tộc, giai cấp
trong chủ nghĩa xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do
con người, vì con người luôn là bảo đảm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và hợp tác hữu
nghị, đồng thời có quan hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Tất nhiên, để xây dựng
cộng đồng bình đăng, đoàn kết và có quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới, điều kiện chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, theo VI Lênin cần thiết phải
có sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản và toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất
cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới.

Có nhà nước kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích,
quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã
khẳng định trong chủ nghĩa xã hội phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước
kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chi của
nhân dân lao động. Nhà nước vô sản, theo Lênin phải là một công một phương tiện đồng thời,
là một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động, phản ánh trình độ nhân
dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước, quần chúng nhân dân thực sự tham gia vào
từng bước của cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý.

Do ND lao động làm chủ. Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ
nghĩa xã hội. XH XHCN là xã hội vì con người và do con người. Nhân dân mà nòng cốt là
nhân dân lao động là chủ thể của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy
đủ trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, họ sẽ không bị bóc lột bởi bất kỳ
một giai cấp nào khác như các chế độ xã hội trước đây. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính
trị dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức ngày càng
ngày càng hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng hiệu quả. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“.., bước thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị
là giành lấy dân chủ".

v. *Đặc trưng cơ bản của CNXH ở VN: [quan điểm của DCS về
đặc trưng của mô hình CNXH ở VN]
Cương lĩnh xây dựng đất nước tròn thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2019) đã phát triển mô hình chủ nghĩa xã hội VN với 8 đặc trưng cơ bản, trong đó đặc trưng
về mục tiêu, bản chất và nội dung của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đó
là:

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đặc trưng tổng quát nhất
chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời
của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc
trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn
bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó.

Do nhân dân làm chủ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với bản chất
nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Để có một xã hội
do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân

Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp. Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng vật
chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và phát triển của
xã hội. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi “một nền đại công
nghiệp”. Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh
tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa là tinh hoa con người và
dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh
xã hội và thời đại. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là tiến bộ, khoa học và nhân
văn. Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã
hội chủ nghĩa là xã hội văn hóa cao. Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến,
vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt
Nam.

Các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển. Trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát một chân lý: Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một
giá trị đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng
của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau là đòi hỏi, yêu cầu,
trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là
một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó,
phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và
điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy,
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất
lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan
để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện
mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Theo nguyên lý phát triển
xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng
quốc tế. Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Và chính nó là yếu tố, điều kiện để Việt Nam phát triển nhanh chóng trên
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được đặc trưng nêu trên, Đảng ta vạch ra
đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.

Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá trị của xã
hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người
đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất - xã
hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Do đó đây là một trong những đặc trưng quan trọng
của chủ nghĩa xã hội ở VN. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no cho con người như là
đòi hỏi tiên quyết. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như C.Mác đã nói. Đặc trưng người
nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi,
được phát triển, song vẫn bất hạnh.

v. Phương hướng (biện pháp) xây dựng CNXH trong thời kỳ


quá độ lên CNXH
- Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Đây là
một trong những phương hướng quan trọng. Chỉ khi quốc phòng và an ninh quốc gia đủ
ổn định và an toàn thì mọi người mới có thể tập trung xây dựng và phát triển các lĩnh
vực khác như kinh tế, văn hóa, tư tưởng,… và như vậy mới có thể giữ vững được chế
độ và bảo đảm cuộc sống của nhân dân.

v. Về các mối quan hệ (mâu thuẫn) cần giải quyết:


1. Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
2. Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị phải đi liền và phù hợp
với nhau, đổi mới kinh tế phải phù hợp với nền chính trị của ta đồng thời nếu muốn đổi mới
về chính trị cũng phải phù hợp với nền kinh tế.
3. Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN;
4. Giữa phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN;
5. Giữa Nhà nước và thị trường
6. Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
7. Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN;
8. Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
9. Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;

v. *Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam


Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Tiến
lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được
độc lập theo con đường cách mạng vô sản.

Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi dành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử cận đại và hiện đại, sự phát triển của dân tộc Việt
Nam đã được trải nghiệm qua các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc để xây dựng lại một chế độ phong kiến (Cần Vương), hoặc để xây dựng
một chế độ cộng hòa đại nghị tư sản (theo hệ tư tưởng tư sản) đã bị bế tắc. Với điều kiện lịch
sử mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Điều này chính là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và thực tế chứng minh con
đường phát triển đó của dân tộc Việt Nam là tất yếu, duy nhất đúng, hợp với điều kiện của
Việt Nam và phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ
XX, khi đã tin theo kết luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã khẳng định rằng: "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình dân, bác ái. đoàn kết, ấm no
trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại
là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ
là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thương nhau"

v. *Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH


Đặc điểm nổi bật và bao trùm nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại đan xen giữa các cũ
(của chế độ cũ) và cái mới, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.

Về lĩnh vực kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên CNXH tất yếu tồn tại nhiều thành phần
kinh tế khác nhau trong một nền kinh tế thống nhất, trong đó có cả các thành phần đối lập
nhau. Ở thời kỳ này chế độ bóc lột đã được xóa bỏ, tuy nhiên không hoàn toàn mà vẫn còn
tồn tại bóc lột.

Về lĩnh vực chính trị - xã hội, GCCN đã nắm được chính quyền, họ sử dụng quyền
lực nhà nước để trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành vừa củng cố, vừa xây dựng và vừa bảo vệ
chính quyền của mình. Ở thời kỳ quá độ, các giai cấp trong xã hội đa dạng (công nhân, nông
dân, trí thức, tư sản, tiểu tư sản), họ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Tuy nhiên GC vô
sản chưa hoàn toàn thắng lợi và GCTS cũng chưa phải thất bại hoàn toàn, cuộc đấu tranh vẫn
đang diễn ra khi GCTS và các thế lực phản động vẫn còn chống phá CQCM hòng giành lại
chính quyền.

Về lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại
nhiều loại hình tư tưởng - văn hóa khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản
(vd: Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, chủ nghĩa
cơ hội…). Hệ tư tưởng – văn hóa thống trị xã hội thời kỳ quá độ là của GCCN.

Về lĩnh vực xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần nên trong thời kỳ quá
độ vẫn còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp đó. Họ
vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
v. *Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất
định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn có sự đan xen lẫn
nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội cũng không ngoại lệ. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một
bước nhảy lớn và căn bản về chất nên so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội
mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể
kéo dài. Nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co, được Lênin ví
như là “những cơn đau đẻ kéo dài”.

Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ
những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối với chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra bởi
sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa nên cần phải có thời kỳ quá độ
để từng bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền CN TBCN. Đối với những nước chưa từng
trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng
tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ vô cùng phức tạp
và quan trọng nên không thể bỏ qua.

Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện,
tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy cũng cần phải có
thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất
định để rèn luyện, nâng cao về cả 2 mặt chất và lượng để có thể đảm nhận trách nhiệm to lớn
này.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước
đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là
những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ
thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
v. *Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Mác - Lênin, có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là
quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở trình độ
cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư
bản phát triển còn thấp, hoặc như V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu,
chưa trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được
trong điều kiện cụ thể nào đó nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm
quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.

Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc,
hòan thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy,
quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về
một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối thực hiện TKQĐ được xác
định là “bỏ qua chế độ TBCN”, tức là TKQĐ gián tiếp. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII
(tháng 1-1995) khẳng định: trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các nước XHCN,
nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ
TBCN, nhưng kế thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. “Bỏ
qua CNTB” có nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng TBCN nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh LLSX,
xây dựng nền kinh tế hiện đại (Đại hội IX - 2001). Thời kỳ quá độ ở VN là một thời kỳ khó
khăn, kéo dài rất lâu và vô cùng phức tạp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

-----------------------CHƯƠNG 6-------------------------------------
v. DÂN TỘC LÀ GÌ? (Quan điểm của CN M-L về vấn đề dân tộc)
Theo quan điểm của chủ nghĩa M-L, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội
loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.

Hiểu theo nghĩa rộng thì dân tộc là khái niệm chỉ một cộng đồng người ổn định làm
thành phần dân cư của một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa này, dân tộc đồng nghĩa với quốc gia - dân tộc.

Dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:


Thứ nhất, có chung một lãnh thổ riêng, ổn định. Lãnh thổ là không gian sinh tồn, là
vị trí địa lý của một dân tộc gồm vùng đất, vùng trời mà dân tộc đó được quyền sở hữu. Họ
tồn tại và gắn bó với nhau, cùng nhau bảo vệ lãnh thổ quốc gia cũng là bảo vệ dân tộc của
chính mình. Bảo vệ chủ quyền quốc gia là nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành
viên trong dân tộc. Chủ quyền quốc gia – dân tộc thường được thể chế hóa thành luật pháp.

Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là cơ sở để gắn kết các
thành viên trong dân tộc tạo nên tính thống nhất, bền vững của dân tộc. Quan hệ kinh tế là
nền tảng không thể thiếu, tạo nên sự lớn mạnh và vững chắc của một dân tộc.

Thứ ba, có chung một ngôn ngữ giao tiếp. Mỗi một dân tộc cần phải có một ngôn ngữ
riêng để giao tiếp với nhau, gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ở một quốc gia có nhiều
cộng đồng người thì vẫn phải thống nhất ít nhất 1 ngôn ngữ chung. Tính thống nhất thể hiện
ở cấu trúc ngữ pháp và kho từ vựng cơ bản.

Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý. Văn hóa dân tộc được thể hiện thông
qua tâm lý, phong tục, tập quán, lối sống,… tạo nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa
hình thành và phát triển trong quá trình sinh hoạt của cộng đồng, được vun đắp từ sức sáng
tạo của mỗi thành viên trong dân tộc, tạo thành đặc trưng riêng chỉ có ở dân tộc đó đồng thời
được các thành viên hấp thu các giá trị ngược trở lại. Văn hóa còn được phát triển nhờ quá
trình giao lưu với văn hóa dân tộc khác, song cần lưu ý bảo tồn và giữ gìn bản sắc dân tộc.

Thứ năm, có chung một nhà nước. Các thành viên của dân tộc đều chịu sự quản lý,
điều khiển của một nhà nước độc lập. Nhà nước đặc trưng cho thể chế chính trị của dân tộc,
đại diện cho dân tộc trong các quan hệ với quốc gia dân tộc khác. Đây cũng là yếu tố phân
biệt giữa dân tộc – quốc gia và dân tộc – tộc người (không có thể chế chính trị riêng).

Hiểu theo nghĩa hẹp, dân tộc chỉ một cộng đồng tộc người được hình thành trong lịch
sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và
những nét văn hoá đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những
nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng
đồng đó. Theo nghĩa này, dân tộc được hiểu như một tộc người hay một dân tộc trong một
quốc gia đa dân tộc. Với nghĩa hiểu này, Việt Nam gồm 54 dân tộc hay 54 tộc người

Dân tộc – tộc người có 3 đặc trưng cơ bản sau:

Về ngôn ngữ, đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn đề
luôn được các dân tộc coi trọng gìn giữ. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, một số dân tộc
không còn giữ được tiếng mẹ đẻ nên sử dụng ngôn ngữ khác để giao tiếp

Về văn hóa, gồm văn hóa vật thể và phi vật thể phản ánh lối sống, phong tục, tập quán,
tín ngưỡng,… của từng dân tộc.

Ý thức tự giác tộc người. Là tiêu chí quan trọng để phân định một tộc người, quyết
định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc trưng nổi bật là luôn tự ý thức về nguồn
gốc dân tộc, tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của dân tộc dù có nhiều yếu tố tác động.
v. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển của dân tộc
Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới CNTB, V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng
vận động khách quan của các dân tộc:

Xu hướng thứ nhất. Ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người
khác nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành về ý thức dân tộc nên các cộng đồng dân cư muốn tách
ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu
tranh chống áp bức dân tộc để hướng tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này
nổi trội ở giai đoạn đầu của CNTB. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được
rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của
dân tộc mình.

Xu hướng thứ hai. Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Xu
hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ
nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm
áp bức, bóc lột các dân tộc còn nghèo nàn và lạc hậu

Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và những xu hướng phát triển của nó, chủ nghĩa
Mác-Lênin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng áp bức giai
cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc cũng bị xóa bỏ. Dân
tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự vận động mới theo xu hướng ngày càng tiến
bộ văn minh. Trong đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc sẽ phát huy tác dụng
cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả dân tộc, quốc gia.
Quan hệ dân tộc là biểu hiện sinh động của hai xu hướng đó trong điều kiện của công cuộc xây
dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa

v. *CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA LÊNIN (CƠ SỞ LÝ LUẬN


ĐỂ VN ĐƯA RA QUAN ĐIỂM QUYỀN BÌNH ĐẲNG VÀ
QUYỀN TỰ QUYẾT)
Cương lĩnh là văn bản chính trị trình bày mục tiêu, đường lối và các bước tiến hành
trong một thời kì nhất định, được chính thức quy định (của một chính phủ, một chính đảng
hoặc một đoàn thể chính trị).

Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin được trình bày trong tác phẩm “Quyền dân tộc tự
quyết” (1914), bao gồm 3 nội dung cơ bản:

Một, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. V.I.Lênin nhấn mạnh việc bảo đảm bình đẳng
về quyền lợi cho các dân tộc, đặc biệt là những dân tộc ít người: “Chúng ta đòi hỏi một sự
bình đẳng tuyệt đối về mặt quyền lợi cho tất cả các dân tộc trong quốc gia và sự bảo vệ vô
điều kiện các quyền lợi của mọi dân tộc ít người”. Đây là quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc
trong mối quan hệ giữa các dân tộc với nhau. Điều này được hiểu là không phân biệt là dân
tộc nhỏ hay lớn, ở trình độ phát triển thấp hay cao thì đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau,
không dân tộc nào được đặc quyền, đi áp bức dân tộc khác và cũng không dân tộc nào phải bị
dân tộc khác áp bức bóc lột. Quyền bình đẳng của các dân tộc được thể hiện trong luật pháp
quốc tế và luật pháp quốc gia, thể hiện ở các lĩnh vực đời sống xã hội.

Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được bảo
vệ như nhau, phải khắc phục sự phát triển chênh lệch về kinh tế, văn hóa xã hội, có như vậy
quốc gia mới có thể phát triển bền vững. Trên phạm vi thế giới, quyền bình đẳng giữa các
quốc gia dân tộc đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước
lớn, chống sự áp đặt của các TB phát triển đối với các nước chậm phát triển về mọi mặt.

(liên hệ: Trên thực tế, tình trạng phân biệt chủng tộc giữa người da trắng với người da
màu vẫn còn tồn tại rất nghiêm trọng, điển hình trong đó là phong trào #BlackLivesMatter
xuất hiện từ năm 2013 vừa trở lại vào tháng 5/2020 sau sự việc của George Floyd, tuy nhiên
qua phản ứng dữ dội của cộng đồng ta thấy được ý thức về sự bình đẳng giữa các dân tộc đã
tăng cao dù vẫn còn nhiều bất cập khác.)

Hai, các dân tộc được quyền tự quyết. Quyền tự quyết là quyền được làm chủ với vận
mệnh của dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển
của dân tộc mình mà không phụ thuộc vào dân tộc khác; quyền tự do tách ra thành lập một
quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân
tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân tộc
cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến
bộ và phù hợp với lợi ích chính đáng của GCCN và nhân dân lao động và chống lại các
phong trào dân tộc tự quyết giả hiệu vì lợi ích và mưu đồ của một nhóm người nào đó.
Nguyên tắc trong giải quyết vấn đề quyền dân tộc tự quyết là việc thực hiện quyền này vẫn
phải đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội, hướng tới lợi ích chung của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó là tiêu chí để xem xét có giải quyết quyền dân tộc tự quyết của một dân
tộc nào đó hay không.

Ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương
lĩnh dân tộc của Lênin, đồng thời là nội dung quan trọng hàng đầu của Cương lĩnh, phản ánh
bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc
để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công
nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại
ngày nay đã trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc
tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau. Khẩu hiệu của
C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã được V.I. Lênin phát
triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

Cương lĩnh dân tộc của Lênin có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn, nhờ cương lĩnh
mà nhiều dân tộc trên thế giới đã vùng lên chống lại áp bức, bóc lột. Điển hình trong đó chính
là VN.
v. *QUAN ĐIỂM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
VN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC.
Trên quan điểm của CN M-L, đặc biệt là vận dụng CLDT của Lênin đồng thời xuất
phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc VN, Đảng và Nhà
nước ta ngay từ khi thành lập đã xem vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
có tầm quan trọng hàng đầu. Với đặc trưng là một quốc gia đa sắc tộc với 54 dân tộc cùng
sinh sống đan xen, gắn bó nên vấn đề dân tộc luôn vô cùng phức tạp và rộng lớn, cần phải
xem xét một cách toàn diện.
Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc có 5 nội dung cơ bản sau:

Một, Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược cơ bản, lâu dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng
VN. Luôn phải chú trọng vấn đề dân tộc bởi nếu có mâu thuẫn giữa các dân tộc thì nội chiến
sẽ xảy ra, dẫn đến mâu thuẫn chính trị và ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế cùng mọi mặt khác
của xã hội.

Hai, từ cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta, qua các thời kỳ cách mạng và ngày nay xây
dựng đất nước đi lên CNH, HDH, ND chính sách dân tộc của Đảng và NN xác định: các dân
tộc ở VN bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn
đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HDH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
VN XHCN. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Tinh thần “đại đoàn
kết” được Đảng ta đặt lên hàng đầu, ra sức tăng cường khối đoàn kết không gì lay chuyển
giữa các dân tộc trong nước, phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa.

Ba, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh – quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng KT với giải quyết các
vấn đề XH, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn
nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ các bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những
giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển
chung của cộng đồng dân tộc VN thống nhất. Luôn đảm bảo mọi dân tộc đều được tạo điều
kiện để phát triển về các mặt.

Bốn, ưu tiên đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc miền núi.
Theo đó, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng (để tạo nền tảng cơ
bản phục vụ cho quá trình phát triển được thuận lợi); khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh
thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của
Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

Năm, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Mỗi
cá nhân thuộc dân tộc VN đều có trách nhiệm to lớn với vấn đề dân tộc, bởi đây vấn đề cơ
bản mang tính bao quát.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước VN:

Về chính trị, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển
giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân;
nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc,
đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một dẫn chứng rõ ràng về mặt chính trị đó
là sáng ngày 02/07/2021 tại Nhà Quốc hội mở cuộc họp Hội đồng Dân tộc, phó chủ nhiệm
Ủy ban Dân tộc, ông Lê Sơn Hải đã khẳng định chính sách đầu tiên đó là: Tiếp tục thực hiện
có hiệu quả nguyên tắc các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan
hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển”
Về kinh tế: nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế – xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát
huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa
các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh
tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.

(VD: Nhà nước ban hành chính sách kinh tế 216 (vùng sâu vùng xa, miền núi),
Chính sách Mặt trận Quốc gia 2020 với dụng ý phát triển kinh tế cho dân tộc thiểu số,
Chương trình 135 - Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn,
vùng xa, vùng sâu theo quyết định 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31-7-1998; Chương trình
173 - chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL; Chương trình 186 –
chương trình phát triển vùng đặc biệt khó khăn các tỉnh miền núi phía Bắc,…)

Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo
cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các tộc
người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các
khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt
trận tư tưởng- văn hóa ở nước ta hiện nay.

(VD: Nhà nước tổ chức nhiều buổi tọa đàm trong cơ quan để các cán bộ có thể trao
đổi văn hóa và áp dụng vào địa phương. Hoặc các trường học từ Tiểu học đến Đại học
mở các lớp giao lưu để các học sinh - sinh viên Việt Nam có dịp giao lưu văn hóa, tìm
hiểu những văn hóa độc đáo, tốt đẹp tăng thêm hiểu biết như: Ngày hội giao lưu văn
hóa dân tộc cho sinh viên tại trường Dự bị Đại học Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp
tổ chức cùng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Quận 05 vào ngày 18/04/2021)

Về xã hội, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua việc thực
hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ
sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
và các tổ chức chính trị – xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.

(VD: liên quan đến dẫn chứng về mặt chính trị ở trên, ngày 02/07/2021 tại Nhà
Quốc hội đã đưa ra mục tiêu từ năm nay đến 2025 về xã hội đó là: tỷ lệ hộ nghèo trong
đồng bào dân tộc thiểu số mỗi năm giảm trên 3%. 100% xã có đường ô tô đến trung
tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng
hóa. 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố,..)

Về an ninh quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn
định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực
lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân
trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.

(VD: các đồng chí làm nghĩa vụ quân sự cách một khoảng thời gian đều phải phân
bố đồng đều tại các phân khu từng vùng miền, các cán bộ được đào tạo bài bản, kỹ
lưỡng để bảo vệ quốc gia, bảo vệ người dân; tuyên truyền, giáo dục từng dân tộc cảnh
giác với các thế lực thù địch và ý thức cao chủ quyền dân tộc nước ta, đặc biệt phải
giáo dục chu đáo cho vùng dân tộc thiểu số)

→ Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn diện, tổng hợp, bao trùm
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc
trong cộng đồng quốc gia. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta còn mang tính cách
mạng, tiến bộ và tính nhân văn sâu sắc. Bởi vì, chính sách đó không bỏ sót bất kỳ dân tộc
nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào; đồng thời nó còn nhằm phát
huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong
cả nước.

v. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH:


Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, đề ra đường lối, chính sách dân tộc nhất quán và
đúng đắn. Mà để thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, cần có một số giải pháp
như sau:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và đẩy mạnh thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng cán bộ dân
tộc thiểu số, trong đó ưu tiên đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ đối với con em là người dân
tộc thiểu số địa phương, cùng tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, tham gia công tác
xóa đói giảm nghèo và theo dõi, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền các cấp, nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ
của công tác dân tộc trong tình hình mới; xác định công tác dân tộc của Đảng là nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc.

Thứ ba, tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch nhằm điều chỉnh, bổ sung kịp thời
phù hợp với thực tế và các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, xây dựng
cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng kết cấu hạ tầng: giao thông nông thôn,
công trình thủy lợi, nước sinh hoạt, điện thắp sáng và các công trình phúc lợi công cộng khác.
Phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với xây dựng nông thôn mới. Huy động mọi
nguồn lực để phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, từng địa phương
đảm bảo khai thác được thế mạnh của địa phương nhằm làm giàu cho gia đình và xã hội.

Thứ tư, khi ban hành và thực thi chính sách dân tộc chúng ta phải xét tình hình
thực tế ở các địa phương, phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc trưng
văn hóa của tùng vùng, miền, đặc điểm của từng dân tộc. Trong tổ chức thực hiện các chính
sách dân tộc cần có sự phân loại cụ thể để thực hiện có trọng tâm, hiệu quả, dứt điểm, nhất là
đối với các chính sách quan trọng, cấp bách, phù hợp với khả năng tiếp nhận và sự chuẩn bị ở
mỗi dân tộc, mỗi địa phương, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, thường xuyên không ngừng cải thiện và nâng cao hiệu quả chính sách dân
tộc ở từng địa phương, đòi hỏi chúng ta phải có tính kiên trì, nhẫn nại, linh hoạt trong thực
hiện các chính sách dân tộc của Đảng, cuối cùng mục tiêu của chính sách dân tộc là động lực
trực tiếp thúc đẩy bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và phát huy vai trò, tiềm năng thực sự
của mỗi dân tộc.

Thứ sáu, thực hiện việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của cộng đồng các dân
tộc nói chung và từng dân tộc nói riêng. Đặc biệt phải lưu giữ tiếng nói riêng của dân tộc vì
đó là bản sắc riêng của mỗi dân tộc, các làng nghề truyền thống, món ăn đặc sản. Đẩy mạnh
xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa; xây dựng và đầu tư cho các trung tâm sinh hoạt
cộng đồng; tổ chức nhiều hoạt động lễ hội văn hóa để nâng cao đời sống tinh thần. Thực hiện
tốt phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” trong việc xây dựng các thiết chế văn
hóa ở cơ sở, đẩy mạnh việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” ở cơ sở.

Thứ bảy, vì đặc trưng các dân tộc thiểu số phân bố ở những vùng trọng yếu nên
việc phổ cập, tuyên truyền kiến thức an ninh quốc phòng cho người dân và cán bộ ở từng
địa phương là rất cần thiết. Đấu tranh ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng vấn đề dân
tộc gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác
vận động quần chúng có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin. Đổi mới
công tác dân vận, công tác vận động quần chúng, nội dung, phương pháp vận động cụ thể,
thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của đồng bào.

Thứ tám, mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân
văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực giới thiệu những tinh hoa, bản sắc văn hóa
Việt Nam, những thành tựu to lớn của hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và chính sách hội
nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có biện
pháp quản lý Nhà nước hiệu quả đối với các hoạt động văn hóa, xuất bản, báo chí, bảo tồn
các giá trị văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, bản quyền tác giả, quảng cáo, các hoạt động dịch vụ
văn hóa,…

v. ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC VIỆT NAM


Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người. Việt Nam - một quốc gia đa
tộc người, có 54 dân tộc, trong đó (theo số liệu năm 2021), dân tộc người Kinh có 82,085,826
người chiếm 85,3% dân số cả nước; 53 dân tộc thiểu số có 14,123,158 người, chiếm 14,7%
dân số. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc cũng không đồng đều, có dân tộc với số dân lớn hơn 1
triệu người (Tày, Thái, Mường, Khơ Me,...), nhưng có vài dân tộc với số dân chỉ vài ba trăm
(Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu).
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau. Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân
tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính chất chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các
dân tộc trở nên phân tán, xen kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc
người riêng. Vì vậy, không có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên
một địa bàn.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị
trí chiến lược quan trọng. Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt
Nam lại cư trú trên 3/4 diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh
tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái - đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng
xa của đất nước.
Thứ tư, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều.
Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội của các dân tộc
thiểu số khác nhau.
Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các dân tộc thiểu số Việt Nam ở
những trình độ phát triển rất khác nhau: Số ít dân tộc duy trì kinh tế chiếm đoạt;
tuy nhiên, đại bộ phận dân tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản
xuất tiến bộ - công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về phương diện văn hóa, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật ở dân tộc
thiểu số còn thấp.
Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng
đồng dân tộc - quốc gia thống nhất. Đặc trưng này xuất phát từ đấu tranh chống giặc ngoại
xâm xâm lược bờ cõi nước nhà. Các dân tộc đa số cũng như thiểu số ngày nay phải ra sức
phát huy nội lực, giữ gìn truyền thống phát huy đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp thời
đập tan mọi âm mưu và chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ sáu, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Trong văn hóa của 54 dân tộc có sắc thái độc đáo
riêng góp phần làm nền văn hóa Việt Nam thống nhất thêm phong phú. Sự thống nhất đó, suy
cho cùng là bởi, các dân tộc đều có chung một lịch sử dựng nước và giữ nước, đều sớm hình
thành ý thức về một quốc gia độc lập, thống nhất.
6 đặc điểm trên đã tạo nên một Việt Nam với 54 dân tộc cùng gắn bó, đoàn kết và
hướng tới xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

v. BẢN CHẤT CỦA TÔN GIÁO

Chủ nghĩa Mác - Lênin


cho rằng tôn giáo là một
hình thái ý thức xã hội
phản Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư
ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở
thành siêu nhiên, thần bí...
Ở mặt tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội – các tôn giáo cụ thể (vd: Phật
giáo, Công giáo, Tin Lành,…) với nhiều tiêu chí cơ bản như: có niềm tin sâu sắc vào đấng
siêu nhiên, thần linh,… để tôn thời; có hệ thống gióng thuyết; có hệ thống cơ sở thờ tự; có tổ
chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo; có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự
nguyện tin theo 1 tôn giáo và được tôn giáo đó thừa nhận.
 Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: Tôn
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: Tôn giáo là
một hiện tượng xã hội - văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo
vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng,
sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng tôn
giáo vô điều kiện.
 Mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được sinh ra
Mọi quan niệm về tôn giáo, tuyệt đối hóa tôn giáo đều sinh ra từ những hoạt động sản
xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ
sở kinh tế.
 Về phương diện thế giới quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có
Về phương diện thế giới quan, các tôn giáo mang thế giới duy tâm, có sự khác biệt
với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong những
điều kiện cụ thể của xã hội, những người cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có
thể cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn ở thế giới hiện thực.

v. NGUỒN GỐC CỦA TÔN GIÁO:

Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội. Trong xã hội công xã nguyên thủy, do lực lượng
sản xuất chưa phát triển, trước thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phối khiến cho con người
cảm thấy yếu đuối và bất lực, không giải thích được, nên con người đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực thần bí. Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người
cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được
nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và
định mệnh. Từ đó, họ đã thần thánh hóa một số người thành những thần tượng có khả năng
chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo. Như vậy, sự yếu kém về trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất
lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo, do đó đây là yếu tố
quyết định sự ra đời của tôn giáo.
 Nguồn gốc nhận thức: Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của
Nguồn gốc nhận thức. Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người
về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi có những điều mà khoa học
chưa giải thích được, con người chưa đủ khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa các vấn đề
thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề
đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì
đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. Thực chất nguồn
gốc nhận thức của tôn giáo chính là sự tuyệt đối hóa, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận
thức con người, biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh.
Nguồn gốc tâm lý. Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và
xã hội mà dẫn đến việc sinh ra tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự
sợ hãi sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, sự
phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt vong …, dồn họ vào cảnh chết
đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại. Ngay cả những tâm lý tích cực như
lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện qua tôn giáo. Ngoài ra họ có tâm lý
muốn được bình yên khi làm việc lớn (ví dụ: ma chay, cưới xin, làm nhà,…).

Các nguồn gốc trên không tách biệt một cách rõ ràng, chúng tác động một cách đan
xen dẫn đến nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các yếu tố dẫn đến sự ra đời của tín
ngưỡng, tôn giáo như trên, yếu tố kinh tế – xã hội là yếu tố quyết định.

v. TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO:


Tôn giáo có 3 tính chất là tính lịch sử, tính quần chúng và tính chính trị.
Thứ nhất, tính lịch sử. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử,
tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị - xã hội của thời đại đó. Thời đại
thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo (vd: Phong trào Cải cách tôn giáo; Ki-
tô giáo khi mới hình thành là tôn giáo của người nghèo, đến năm 325 lại trở thành một bộ
phận trong guồng máy chính trị của GC thống trị). Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát
triển đến một trình độ lịch sử nhất định. Tôn giáo không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện
của con người. Theo quan điểm của CN M-L, đến một giai đoạn lịch sử nào đó mà con người
nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được tự
nhiên, xã hội, làm chủ được bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con người
(các nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo đã bị loại bỏ) thì tôn giáo có thể sẽ mất đi. Tuy nhiên đây
sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài.
Thứ hai, tính quần chúng. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các
dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo thể hiện ở số lượng tín đồ đông đảo
(~3/4 dân số thế giới) và tôn giáo đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của một
bộ phận QCND LĐ. Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của
những con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bát ái. Nhiều tôn giáo mang tính
nhân đạo, nhân văn và hướng thiện nên được nhiều người thuộc các tầng lớp khác nhau trong
xã hội đặc biệt là QCND LD tin theo.
Thứ ba, tính chính trị. Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia
giai cấp. Suy đến cùng trong xã hội có GC, tôn giáo sẽ là công cụ của các GC thống trị, các
GC thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Có những nơi tôn giáo và
chính quyền không có sự tách rời. Những nhân vật nắm quyền hành trong tổ chức tôn giáo đó
cũng nắm thực quyền trong bộ máy chính trị. Trong nội bộ tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các
dòng, hệ, phái nhiều khi cũng mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì
tôn giáo thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.

Ngoài ra tôn giáo còn mang tính nhân văn và tính phản khoa học. Tính nhân văn, TG ra
đời để đáp ứng nhu cầu con người, phục vụ đời sống của con người, mang đến sự bình an
trong tâm hồn.
v. *NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin khi giải quyết vấn đề về tôn giáo trong
thời kỳ quá độ cần đảm bảo 4 nguyên tắc:

Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng liêng
nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do
không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng việc theo
đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không
một cá nhân, tổ chức nào được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Tôn trọng tự do tín
ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm
phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân
dân.

Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nguyên tắc này khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin
chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân
dân mà không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Chủ nghĩa Mác -
Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã
hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra
ảo tưởng ấy. Đó là một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng; tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo. Hai mặt chính trị và tư tưởng
thường thể hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng
tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu
hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin giữa những người theo tôn giáo và những người
không theo tôn giáo, cũng như những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu
thuẫn không mang tính đối kháng. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, việc phân biệt hai mặt
này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những
vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.

Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Tôn giáo
không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và biến đổi
không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều
có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau.
Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội
luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và
ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể
v. ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VN:
Đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá đã tác động sâu sắc đến tín ngưỡng, tôn giáo Việt
Nam, làm cho tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, VN là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Tại Việt Nam có 43 tổ chức tôn giáo
thuộc 16 tôn giáo đã được công nhận với hơn 26,5 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm 28% dân
số cả nước. Đó là do điều kiện địa lý nước ta là nơi thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều
luồng tư tưởng, văn hóa khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh
lớn Trung Hoa và Ấn Độ, đồng thời là một nước có 54 dân tộc cư trú ở nhiều khu vực với
điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau nên Việt Nam
có điều kiện du nhập nhiều tín ngưỡng tôn giáo lớn trên thế giới. Do vậy, các tôn giáo có hình
thức tồn tại khác nhau và có nhiều tôn giáo du nhập từ bên ngoài với các thời điểm khác
nhau.

Thứ hai, tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có
xung đột, chiến tranh tôn giáo. Tín đồ của các tôn giáo khác nhau cùng chung sống hòa bình
trên một địa bàn, đặc biệt giữa họ có sự tôn trọng niềm tin của nhau và chưa từng xảy ra xung
đột, chiến tranh tôn giáo. Thực tế cho thấy, không có một tôn giáo nào du nhập vào Việt Nam
mà không mang dấu ấn, không chịu ảnh hưởng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Bởi các tín
ngưỡng truyền thống đã phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung,
nhân ái của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây chính là những yếu tố
quan trọng để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

Thứ ba, tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc. Tín đồ các tôn giáo Việt Nam có thành phần rất đa dạng, chủ yếu là
người lao động... Đa số tín đồ các tôn giáo đều có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm,
gắn bó với dân tộc, đi theo Đảng, hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên
những thắng lợi to lớn, vẻ vang của dân tộc và có ước vọng sống “tốt đời, đẹp đạo”. Như Bác
Hồ từng nói: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái, Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi,
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”. Với những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các
tôn giáo ở Việt Nam đã cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu người, giúp đời,
chung tay cùng đồng bào xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Thứ tư, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội,
có uy tín, ảnh hưởng với tín đồ. Có thể nói, chức sắc, chức việc là đội ngũ nòng cốt của các
tôn giáo, họ vừa có vị trí, vai trò lãnh đạo, vừa có trình độ giáo lý, giáo luật, có uy tín lớn
trong quần chúng tín đồ, vừa là cầu nối giữa các tôn giáo với tín đồ nên có tác động to lớn,
ảnh hưởng sâu sắc đến quần chúng tín đồ tham gia quản lý trật tự, an ninh xã hội. Do vậy, vận
động các vị chức sắc, chức việc trong tôn giáo có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc thực
hiện đường lối của Đảng và chính sách pháp luật Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, hàng
ngũ chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam luôn chịu sự tác động của tình hình chính trị - xã hội
trong và ngoài nước, nhưng nhìn chung xu hướng tiến bộ trong hàng ngũ chức sắc ngày càng
phát triển.
Thứ năm, các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo
ở nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Đây chính là điều kiện gián tiếp củng cố và phát sinh mối
quan hệ giữa các tôn giáo Việt Nam với tôn giáo ở các nước trên thế giới. Vì vậy, việc giải
quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam phải đảm bảo kết hợp giữa mở rộng giao lưu hợp tác quốc
tế với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền, không để cho kẻ địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền,
tự do tôn giáo để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Nhà nước Việt Nam. Nguyên
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình cũng từng nhấn mạnh đến việc tăng cường đối
ngoại tôn giáo, tham gia vào các cơ chế, diễn đàn tôn giáo thế giới và khu vực, phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

v. *CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÍN


NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO VN:
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn giáo và ban hành
những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ
mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Trong đó chính sách của Đảng và Nhà nước bao gồm 5 nội
dung cơ bản sau:

Một, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự khẳng
định đó mang tính khoa học và cách mạng, vì vậy, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, quyền sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật”. Tín ngưỡng tôn giáo hiện đang là đứa con tinh thần của một bộ phận đông
đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc và cùng với chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên, tín ngưỡng tôn giáo đang có những thay đổi vô cùng mạnh mẽ trước biến động
của thế giới và sự phát triển đi lên của đất nước. Vì vậy, quán triệt quan điểm này cần khắc
phục các biểu hiện: Chủ quan, duy ý chí, phiến diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn
giáo. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Đặc biệt,
Đại hội lần thứ XIII của Đảng vừa qua tiếp tục khẳng định: “Phát huy các nguồn lực của các
tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước

Hai, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó bao gồm: đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử
với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, thông qua quá trình vận động quần
chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất, hoạt động xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần, nâng cao trình độ kiến thức... để tăng cường sự đoàn kết vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, đều có quyền và nghĩa
vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công
tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước,
ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói
chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. Đây là một trong những nội dung quan trọng của
chính sách bởi để lấy được lòng tin, qua đó tập hợp, đoàn kết, phát huy được sức mạnh của
đồng bào các tôn giáo, phải làm tốt công tác dân vận. Điều này đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta
phải chăm lo đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào có đạo, tăng cường xóa đói,
giảm nghèo làm cho mọi người no ấm; xã hội ổn định; đất nước phát triển. Ở đâu làm tốt
công tác vận động tín đồ, chức sắc tôn giáo, thì ở đó các thế lực xấu sẽ không lợi dụng được
và ngược lại.

Bốn, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Bởi vì công tác tôn
giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn, liên
quan đến chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Làm tốt công tác tôn giáo là
trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt
trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Nội
vụ là nòng cốt và chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong đó có một phương hướng quan trọng đó là: Xác định công tác tôn giáo là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, các bộ ngành chức năng và địa phương cần nắm chắc tình hình để
tham mưu, xử lý kịp thời, đúng chính sách pháp luật, các phát sinh trong hoạt động tôn giáo,
tạo niềm tin cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo và đồng bào có đạo, tăng cường bồi dưỡng kỹ
năng, nghiệp vụ, kinh nghiệm, nâng cao năng lực tham mưu, xử lý, giải quyết.

Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mỗi tín đồ có quyền tự bày tỏ
niềm tin tôn giáo của mình tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật: không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín, dị đoan,
không được ép buộc người dân theo đạo. Đồng thời, nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định Hiến pháp và
pháp luật.

Như vậy, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo là nhất quán
và xuyên suốt và xoay quanh 5 nhóm vấn đề lớn đảm bảo nguyên tắc mọi hoạt động tôn giáo
đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, hướng đến mục tiêu chung đoàn kết gắn bó đồng
bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.

v. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI TÔN GIÁO:


Nguyên nhân kinh tế, trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn
tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn
ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ
biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm
cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.

Nguyên nhân chính trị - xã hội: Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo
phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp ứng
được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực
nhất định, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt
khác, những thế lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự
nghiệp xây đựng chủ nghĩa xã hội.

Nguyên nhân nhận thức: Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội
xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học
chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó,
trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận
thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải
chúng từ sức mạnh của thần linh.

Nguyên nhân văn hóa: Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng
tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong
một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi
cá nhân trong cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện
dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức
phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín
ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn
hóa tinh thần, tình cảm của họ.

v. PHÂN BIỆT TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG


Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất nhưng lại có 1 số giao thoa nhất định. Trong
đó, tôn giáo và tín ngưỡng có 2 điểm giống nhau.

Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín
ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó
truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện
hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng
linh thiêng đó.

Hai là, những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi
ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối
quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những
đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.

Sự khác nhau của tôn giáo và tín ngưỡng thể hiện như sau:

Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật
và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng
lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo
Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là những lời dạy của đức
giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy
trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể
có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau.
Chẳng hạn một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, thờ cụ kỵ tổ tiên nhưng
cũng thờ thần tài thổ địa, ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa
làm lễ Mẫu,…

Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín
ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối với tín
ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận
rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh
“Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu
văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.

Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt
đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên
nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc
chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất
ít). Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại
trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh
chuyên nghiệp.

v. “TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO” NGHĨA LÀ GÌ?


Sống “tốt đời đẹp đạo” nghĩa là sống một cuộc sống đúng đắn, có ý nghĩa và tuân thủ
các nguyên tắc và quy tắc đạo đức.

Với những người theo đạo Phật, "sống tốt đời đẹp đạo" có thể được hiểu là sống đúng
đắn theo Tứ trụ và Tám đường, đồng thời tu tập giác ngộ, từ bi và giúp đỡ người khác. Với
những người theo đạo Thiên chúa giáo, "sống tốt đời đẹp đạo" thể hiện qua trung thành với
Đức Chúa Trời, sống đúng đắn theo những giá trị đạo đức và giúp đỡ người khác. Cũng có
những người không theo tôn giáo nhất định, nhưng vẫn có những triết lý sống riêng. Với họ,
"sống tốt đời đẹp đạo" có thể hiểu là sống đúng với những giá trị đạo đức cá nhân, đặt giá trị
con người lên trên tất cả và đóng góp cho xã hội.

Tuy nhiên, dù khác nhau về cách hiểu, chung quy lại, "sống tốt đời đẹp đạo" thể hiện
mong muốn của con người là có một cuộc sống ý nghĩa, hạnh phúc và mang lại lợi ích cho xã
hội. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, con người cần tuân thủ các giá trị đạo đức và tôn giáo,
sống đúng đắn và đóng góp cho cộng đồng, để cuối đời được nhìn lại một cuộc đời có ý nghĩa
và để lại dấu ấn tích cực.
v. TÔN GIÁO CÓ CÒN TỒN TẠI TRONG TIẾN TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TRONG XÃ HỘI XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA NỮA HAY KHÔNG? VÌ SAO?
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực
khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều
trở thành thần bí.

Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch
sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự
bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Ở một mức độ nhất định tôn giáo có
vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội như: đoàn kết, hướng thiện, quan tâm đến con
người….Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần chúng lao động. Về phương diện
thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với hệ tư tưởng và thế giới
quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng.

Có thể nói, tôn giáo còn tồn tại lâu dài, cả trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như tôn
giáo không mất đi bằng con đường “tự tiêu vong” thì cũng không thể xóa bỏ tôn giáo bằng
các sắc lệnh hay bằng biện pháp bạo lực. Các tôn giáo vẫn tồn tại lâu dài trong các nước xã
hội chủ nghĩa là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ
xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã
hội đến nay khoa học chưa giải thích được. Hiện nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu
to lớn về khoa học và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ, đã giúp con
người có thêm những khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song, thế giới khách
quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá
trình và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những
sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời
sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh,
Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước
xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào
trong tiềm thức của nhiều người dân. Trong m ối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những
hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần,
ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ
đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho
nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo
cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.

Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn
phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là
mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu
hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc"...
Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã hội của những người có đạo bằng
cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động thực tiễn. Cuộc đấu
tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực
chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những
cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn
xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật đói nghèo... cùng với những mối đe dọa
khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.

Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau
của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... vẫn là một
thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động
mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ
động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.

Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một
mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng
đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có
chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn
giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự tồn tại của tín
ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách
quan.

Tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, do
đó sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã
hội khách quan.

v. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của 1 bộ phận quần chúng
nhân dân, em hiểu nó như thế nào?
Quan điểm của Chính phủ Việt Nam nhất quán cho rằng tôn giáo - tín ngưỡng là nhu
cầu tinh thần chính đáng của một bộ phận nhân dân, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận
của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; gìn giữ và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”

Do đó, quần chúng nhân dân không chỉ có những nhu cầu vật chất cơ bản như ăn, uống,
mặc, ở,.. mà còn có nhu cầu về tinh thần như học tập, giải trí,.. đặc biệt là nhu cầu về tôn
giáo.

Ghi chú:
- phải đọc kỹ phân biệt nguồn gốc và nguyên nhân ra đời tôn giáo.
- *nguồn gốc kt – xh: do lực lượng sản xuất thấp kém -> con người đã
gán cho tự nhiên những sức mạnh to lớn, thần thánh hóa những sức
mạnh đó bởi các vị thần linh. Do mâu thuẫn giai cấp
- Nguồn gốc nhận thức: do thiếu sự hiểu biết nên con người chưa đủ
khả năng để lý giải những vấn đề trong cuộc sống, chưa đủ khả năng
khái quát hóa, trừu tượng hóa các vấn đề.
- Nguồn gốc tâm lý: sự sợ hãi, sự biết ơn các đấng siêu nhiên.
 Tuy nhiên sự tách biệt giữa nguồn gốc kt – xh, nhận thức và tâm
lý chỉ mang tính chất tương đối mà thôi.
 Tính chất:
- Tính lịch sử: tôn giáo k xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con
người, tôn giáo sẽ biến đổi cùng với sự biến đổi của chính trị - xã hội,
tôn giáo có thể sẽ mất đi khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo mất
đi (tuy nhiên sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài)
- Tính quần chúng: tôn giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của
một bộ phận quần chúng nhân dân (cơ sở lý luận của CN M-L_->
Đảng và Nhà nước đưa ra quan điểm: tôn giáo là nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân), tín đồ tgia tôn giáo rất quan trọng.
- Tính chính trị: suy đến cùng trong xã hội có GC, tôn giáo sẽ công cụ
của các GC thống trị.
- Ngoài ra tôn giáo còn mang tính nhân văn và tính phản khoa học.
- KHÔNG SOẠN TỦ
- Có 5 quan điểm, chính sách phân tích cái khiến mình tâm đắc nhất
(Cơ sở lý luận = xuất phát từ đâu = CN M-L)*

You might also like