You are on page 1of 15

1.

Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân


2. Điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
3. Phân tích những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Liên hệ Việt Nam
CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về
chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra
những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại.
Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều
của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa của nhân dân,
không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển
dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. Ở những nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã
hội.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã
hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung
mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố,
hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi
thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt động
tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích
đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao
động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động –
nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo và hưởng thụ.
Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo năng
lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới,
nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc;
thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã
hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã
hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà
nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích
của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô
dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội
chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa
bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng,
bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại.
Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
VIỆT NAM:
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của
Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng.
Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011)
Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý
luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa
giữa "cái phổ biến" và "cái đặc thù," cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội
Việt Nam .
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh .
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực,
trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng
tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh...là
công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh
phúc...
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa
đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt
Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc
lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị
của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin
sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân
tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của
Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang
xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát, nhân
văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự
do, tự cường dân tộc...)
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá
trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt
Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá
trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân
ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì
con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa
phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người
Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con
người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và
Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc
(theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân
tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận
trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân..
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các nước
trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế...Đảng và Nhà
nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính
trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu
vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu trên vừa thể hiện tính toàn diện và sự thống nhất
của các đặc trưng đó trong một chỉnh thể, phản ánh được bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
đang xây dựng.
Có thể nói, tính toàn diện và tính thống nhất của các đặc trưng thể hiện ở chỗ các đặc trưng này phản
ánh toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quan hệ đối ngoại, và sự thống nhất biện
chứng giữa kinh tế và chính trị, kinh tế, chính trị và xã hội, đối nội và đối ngoại.
4. Tính tất yếu và đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH. Liên hệ Việt Nam?

Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành xã hội, bắt đầu từ giai
cấp công nhân giành chính quyền và kết thúc khi đã xây dựng thành công cơ sở của CNXH cả về lực
lượng sx lẫn qhsx, cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lãnh vực đời
sống của xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã
hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội XHCN sẽ được thực hiện. Thời kỳ
này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi
CNXH đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lãnh vực của đời sống xã hội. Xét
về bản chất, mục tiêu nhất quán của các chế độ XH từ khi có Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo thì thời kỳ quá độ lên CNXH nằm trong giai đoạn thấp của hình thái KT-XH
CSCN

Thời kì quá độ lên CNXH là tất yếu vì:


+ CNTB và CNXH là 2 chế độ xã hội hoàn toàn khác nhau về bản chất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân về TLSX & quan hệ bóc lột lao động làm thuê thì CNXH lại dựa trên chế độ công hữu về TLSX
chủ yếu, không còn chế độ người áp bức bóc lột người, để có được xã hội như vậy tất yếu phải trải
qua 1 thời kì lịch sử nhất định
+ CNXH dựa trên cơ sở vật chất kĩ thuật là nền sản xuất lớn hiện đại có cơ cấu kinh tế hợp lí, có trình
độ xã hội hóa cao. CNTB dù đã có cơ sở vật chất kĩ thuật là nền công nghiệp lớn hiện đại nhưng đó
mới chỉ là tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH. Cần phải có thời gian
để cải tạo, sắp xếp, phát triển và hoàn thiện nó thành cơ sở vật chất kinh tế của CNXH. Với nhiều
nước có xuất phát điểm thấp, cơ sở vật chất kĩ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu chưa tiến hành công
nghiệp hóa thì phải xác định công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản trong suốt thời kì
quá độ lên XHCN nhằm xây dựng thành công cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH
+ Các quan hệ xã hội mới, XHCN k tự phát nảy sinh trong lòng CNTB, nó là kết quả của quá trình
cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới mặc dù CNTB phát triển trình độ cao nhưng mới chỉ tạo ra
những đk tiền đề cho việc hình thành các quan hệ xã hội mới, cần có thời gian để xây dựng, hoàn
thiện các quan hệ xã hội đó. XHCN hoàn toàn là một công việc mới mẻ, khó khăn phức tạp đối với
giai cấp công nhân tuy nhiên cần có thời gian để giai cấp công nhân làm quen thích nghi với việc đó
Thời kì quá độ lên CNXH là 1 tất yếu khách quan nó có thể diễn ra dưới thời gian dài ngắn khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xh của mỗi nước với mỗi nước từ CNTB quá độ lên CNXH thời
kì quá độ có thể diễn ra tương đối ngắn còn với nhiều nước có nền kinh tế lạc hậu quá độ lên CNXH
thì thời kì quá độ sẽ diễn ra tương đối dài gồm nhiều chặng đường với nhiều khó khăn phức tạp.
Đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH :
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên CNXH là những nhân tố của xã hội mới và tàn tích của xã
hội cũ tồn tại, đan xen lẫn nhau, đấu tranh trên mọi lãnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, tư tưởng, tập quán trong xã hội... biểu hiện dưới dạng cái cũ còn tồn tại, những
bộ phận, những mảnh, những tàn dư (của xã hội cũ bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn)
xen kẻ với cái mới nảy sinh đã ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh, còn non yếu.
Thời kỳ quá độ cũng là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt, gay go, phức tạp diễn ra trên tất cả mọi
lĩnh vực, rất khó khăn đòi hỏi giai cấp công nhân phải biết phân biệt, bình tĩnh và chủ động khắc
phục. Thể hiện cụ thể:
- Về lĩnh vực chính trị : bản chất nhất thời của thời kỳ quá độ là sự quá độ về chính trị, ở đó nhà
nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện
- Về lĩnh vực kinh tế : sự phát triển chưa đồng đều của LLSX trong thời kỳ này quy định tính tất yếu
khách quan trong sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác ngoài thành phần kinh tế XHCN, trong đó
có cả những thành phần kinh tế tư bản.đối lập.
- Về lĩnh vực xã hội : do kết cấu kinh tế trên đây quy định, trong xã hội còn nhiều giai cấp và tầng
lớp khác nhau, trong đó có sự đối lập - đối kháng nhất định về những lợi ích căn bản. Trong thời kỳ
này còn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và
lao động chân tay, vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần phải được xác lập dần dần.
- Về lĩnh vực tư tưởng và văn hóa : còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có
cả sự đối lập. Bên cạnh nền văn hóa mới, lối sống vừa xây dựng còn tồn tại những tàn tích của nền
văn hóa cũ, lối sống cũ, tư tưởng lạc hậu, thậm chí phản động gây cản trở không nhỏ cho con đường
đi lên CNXH của các dân tộc sau khi mới được giải phóng.
Tương ứng với tính phức tạp trong kết cấu kinh tế - xã hội, tư tưởng tinh thần đó, thời kỳ quá độ là
thời kỳ đấu tranh giai cấp chưa kết thúc. Trong thời kỳ này vẫn diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản, giữa con đường phát triển đất nước lên CNXH hay đi lên CNTB. Song,
đây là cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới (giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm
quyền), với nội dung mới (mà trung tâm là xây dựng toàn diện xã hội mới, trong đó xây dựng nền
kinh tế XHCN là nhiệm vụ cơ bản nhất) và hình thức mới (cơ bản là hòa bình với tổ chức xây dựng).
Cùng với những bước tiến trong quá trình xây dựng CNXH, các thành phần nhân tố mang tính
XHCN sẽ ngày càng phát triển và vươn lên vị trí chi phối trên mọi lĩnh vực; con đường XHCN sẽ giữ
vững vai trò chủ đạo.
Từ đó có thể nói, thời kỳ quá độ là thời kỳ, xét trên mọi phương diện , còn tồn tại nhiều yếu tố khác
nhau, đối lập nhau, thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, xét về xu hướng tất yếu, các
yếu tố mang tính chất XHCN sẽ ngày càng phát triển, nhưng không loại trừ khả năng ở những lúc,
những nơi nhất định, cái cũ tạm thời lấn áp cái mới; trong đó tính tự phát TBCN còn có cơ sở rộng
lớn. Trình độ thấp trong sự phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH quy định tính khó
khăn, lâu dài của thời kỳ này. Trong quá trình đó, sự phát triển tiến bộ có thể đan xen với những sự
thoái lui tạm thời, những tìm tòi, thử nghiệm nhiều khi phải làm đi, làm lại mới xác định được giá trị
chân thật của nó trong quá trình xây dựng XH mới.
Liên hệ với thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù đo điều kiện lịch sử cụ thể đất nước đó. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta đã vận dụng nguyên lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
Việt Nam, phù hợp với đặc điểm và truyền thống quý báu của nước ta Xuất phát từ một nước nông
nghiệp có nền kinh tế lạc hậu, Đảng đã xác định con đường phát triển đất nước quá độ lên CNXH
không qua chế độ TBCN. Mặc dù CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào, chúng ta không
còn có sự giúp đở của các nước XHCN tiên tiến nhưng chúng ta vẫn có thể đứng vững và tin tưởng
rằng con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta vẫn là con đường tất yếu và có
khả năng thực hiện là vì những điều kiện khách quan và chủ quan sau đây:
- Về khách quan : Thời đại ngày nay cũng là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn
thế giới, do đó Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
Mặt khác thế kỷ XXI là thế kỷ khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt, kinh tế trí thức ngày
càng có vai trò nổi bậc trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực lượng sản xuất của các quốc gia. Bên
cạnh đó toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham
gia. trong đó có nước ta. Chính những yếu tố khách quan này đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta..
- Về chủ quan : chúng ta quá độ lên CNXH với sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản
Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng gắn bó với quần chúng và là nhân tố vô cùng quan
trọng. Trong những thời điểm phong trào XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự
khủng hoảng, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân
dân ta thực hiện đường lối đổi mới vượt qua những hiểm nghèo đưa công cuộc xây dựng CNXH và
bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách vững chắc. Kế thừa truyền thống và những kinh
nghiệm cách mạng đã tích lũy, trãi qua thể nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí tuệ của toàn Đảng
toàn dân, Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn hình thành những nét chủ yếu quan
niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Công
cuộc đổi mới do Đảng chủ trương và tổ chức thực hiện mấy năm qua đã thu được thành tựu to lớn có
ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn đất nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng
KT-XH để từng bước vượt qua nước nghèo tiến lên giàu mạnh nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh
phúc. Đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng đại đa số đều là những người trung thành với sự nghiệp
cách mạng, nhất trí với đường lối của Đảng, có ý chí biến đường lối đó thành hiện thực. Nhân dân ta
cần cù, thông minh, sáng tạo rất cách mạng, có lòng yêu nước gắn bó với chế độ, với Đảng. Bên cạnh
đó, Việt Nam là một nước có nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng, chúng ta cũng đã xây dựng
CNXH được mấy chục năm và bước đầu đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH.
Như vậy, nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp
với lợi ích dân tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhưng làm cho CNXH trở
thành hiện thực ở một nước như nước ta thật không đơn giản. Hiện nay cuộc khủng hoảng toàn diện
và sâu sắc của CNXH hiện thực đang đặt CNXH trước sự công kích gay gắt chưa từng có và từ chiều
hướng này đã làm nảy sinh những khuynh hướng dao động hoài nghi tậm chí phụ định khả năng đi
lên CNXH ở những nước còn lạc hậu về KT, trong khi đánh giá đầy đủ những khó khăn hiện nay,
nước ta vẫn kiên trì đi theo con đường XHCN mà ND ta đã chọn lựa và thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện sự nghiệp xây sựng đất nước. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh; xã hội công
bằng dân chủ, văn minh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất phải là cải tiến căn bản tình
trạng kinh tế- xã hội kém phát triển; đẩy mạnh CNH; HĐH đất nước; chiến thắng những cản trở trong
việc thực hiện mục tiêu đó trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH. Bài học
kinh nghiệm đầu tiên của thắng lợi là: " Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH."
5. Bản chất và chức năng của nhà nước XHCN

6. Khái niệm và đặc trưng dân tộc


Khái niệm: Đươc hiểu theo 2 nghĩa
- Nghĩa rộng: Dân tộc là khái niệm dùng để chỉ 1 cộng đồng người ổn định, làm thành nhân dân của 1
nước, có lãnh thổ riêng, có nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung va ý thức về sự thống nhất của
mình. Gắn bó với nhau bởi quyền lợi về chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu
tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
- Nghĩa hẹp: Dân tộc là khái niệm dùng để chỉ 1 cộng đòng người được hình thành trong lịch sử có
mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, có chung ngôn ngữ và văn hóa.
Đặc trưng (Nghĩa rộng)

Dân tộc có chung 1 ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp

Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong cộng đồng (thị tộc, bộ lạc,
bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với
nhau. Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn
ngữ chung thông nhất mà các thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất
trong ngôn ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ vựng cơ
bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc đó.

Dân tộc có chung 1 vũng lãnh thổ ổn định

Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất,
vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có
nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành. Phạm vi
lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là
một khái niệm xác định, thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Thực tế lịch sử có những trường hợp bị chia cắt tạm thời, nhưng không thể căn cứ vào đó mà cho
rằng cộng đồng ấy đã bị chia thành hai hay nhiều dân tộc khác nhau. Đương nhiên sự chia cắt đó là
một thử thách đối với tính bền vững của một cộng đồng dân tộc.

Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn
sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.

Dân tộc có chung 1 phương thức sinh hoạt kinh tế

Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết cộng đồng dựa trên quan hệ
huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là nhu cầu
hoàn toàn khách quan trong đời sống xã hội. Những mối liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn
định, bền vững của cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ kinh tế
thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính thông nhất, tính ổn
định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt
chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân tộc.

Dân tộc có chung 1 nền văn hóa tâm lí

Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái
của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất
không bị chia cắt. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Văn hóa của mỗi dân tộc không thể phát triển, nếu không giao lưu văn hóa với các dân tộc khác. Mỗi
dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Để nhận biết tâm lý, tính cách của mỗi dân tộc phải thông qua sinh
hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần của dân tộc ấy, đặc biệt thông qua phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
đời sống văn hóa.

Dân tộc có chung 1 nhà nước

Những đặc trưng trên có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ trong lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc. Trong đó cộng đồng về kinh tế có vai
trò quyết định đối với dân tộc. Các đặc trưng khác có vai trò nhất định đối với quá trình hình thành,
phát triển dân tộc.

Nghiên cứu vấn đề dân tộc hiện nay có vai trò to lớn đối với sự phát triển của con người, của mỗi
quốc gia dân tộc. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội mà còn là
động lực của sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác và hội nhập là xu thế khách quan đối với mỗi quốc gia dân tộc trên
thế giới, song không vì thế mà làm mất đi bản sắc với những đặc trưng phong phú của dân tộc mình.
Với ý nghĩa đó, việc quán triệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các
dân tộc trên thế giới và giữ gìn bản sắc của các dân tộc hiện nay là vấn đề đặt ra hết sức cần thiết đối
với mỗi dân tộc.

7. Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ không phân biệt trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ
và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức dân tộc
khác.
Trong một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ
ngang nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc lịch sử
để lại.
Trên phạm vu giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự
kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát
triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng
mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
b. Các dân tộc được quyền tự quyết”
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình: quyền
quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình; quyền tự do độc lập về
chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện hiệp
lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ
bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc
gia, dân tộc.
Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân
ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi
dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
c.Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại
Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Leenin: nó phản án bản chất quốc tế của phông
trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Nó uy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết quyền dân
tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch HCM khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cm vô sản”
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu tranh
chống chũ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân
các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội dung cương lĩnh thành một chỉnh thể
8. Bản chất, nguồn gốc của tôn giáo
Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác
định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là 1 hình thức xã hội phản ánh 1 cách hoang đường, hư ảo
hiện thực khách quan; là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức
mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội.
Theo C.Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới không có trái tim … tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Tuy nhiên tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo đức, đạo lý của
xã hội.
Về phương diện thế giới quan, tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, nó có sự khác biệt hoàn toàn với
thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác Lenin. Tuy vậy, những người cộng sản có lập trường mác
xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp
của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa ML và những người cộng sản, chế độ xhcn luôn tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Nguồn gốc của tôn giáo
* Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo:
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và
bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực
to lớn, thần thánh hóa nhứn sức mạnh đó. Từ đó, họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ
cúng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế
lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc
lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã thần thành hóa một số người thành
những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức,
bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc sâu xa của
* Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình
còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều khoa học chưa khám phá và giải
thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo.
Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng, thần thành
hóa đối tượng.
* Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn đến việc ính ra tôn
giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho
rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản …. sự phá sản “đột ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”,
làm họ bị diệt vong …, dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện qua tôn
giáo.
9. Khái niệm, vị trí của gia đình đối với xã hội
Kn gia đình:
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chề văn hóa – xã hội
đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục … giữa các thành viên.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ bản nhất của xã hội.
Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Lịch sử nhân loại có
những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, một vợ một chồng thì cũng có các hình thức gia đình:
tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng có các loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội:
1. Sự tác động của gia đình đối với sự phát triển của xã hội:
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố tồn tại và phát triển của
xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị
nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát
triển được. Chính vì vật, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ
xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia
đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ bên ngoài gia đình.
Gia đình chính là xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự hình
thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, mỗi cá nhân không thể chỉ sống mãi trong
gia đình mà còn có nhu cầu quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn
là thành viên của xã hội. Gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá
nhân. Nhiều thông tin, hình tuongwjcuar xã hội thông qua lăng kính của gia đình mà tác động tích
cực hoặc tiêu cực đến mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư
xử với người xung quanh và xã hội.
c. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi thành viên, mỗi
công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc gia đình là tiền
đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội. Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội
thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt
cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu
của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những quan hệ xã hội. Mỗi
cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Không thể có con
người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của
mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặt khác, nhiều
hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát
triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống.

You might also like