Professional Documents
Culture Documents
Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành xã hội, bắt đầu từ giai
cấp công nhân giành chính quyền và kết thúc khi đã xây dựng thành công cơ sở của CNXH cả về lực
lượng sx lẫn qhsx, cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lãnh vực đời
sống của xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã
hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội XHCN sẽ được thực hiện. Thời kỳ
này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi
CNXH đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lãnh vực của đời sống xã hội. Xét
về bản chất, mục tiêu nhất quán của các chế độ XH từ khi có Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo thì thời kỳ quá độ lên CNXH nằm trong giai đoạn thấp của hình thái KT-XH
CSCN
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong cộng đồng (thị tộc, bộ lạc,
bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với
nhau. Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn
ngữ chung thông nhất mà các thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất
trong ngôn ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ vựng cơ
bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc đó.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất,
vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có
nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành. Phạm vi
lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là
một khái niệm xác định, thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Thực tế lịch sử có những trường hợp bị chia cắt tạm thời, nhưng không thể căn cứ vào đó mà cho
rằng cộng đồng ấy đã bị chia thành hai hay nhiều dân tộc khác nhau. Đương nhiên sự chia cắt đó là
một thử thách đối với tính bền vững của một cộng đồng dân tộc.
Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn
sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.
Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết cộng đồng dựa trên quan hệ
huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là nhu cầu
hoàn toàn khách quan trong đời sống xã hội. Những mối liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn
định, bền vững của cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ kinh tế
thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính thông nhất, tính ổn
định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt
chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân tộc.
Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái
của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất
không bị chia cắt. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Văn hóa của mỗi dân tộc không thể phát triển, nếu không giao lưu văn hóa với các dân tộc khác. Mỗi
dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Để nhận biết tâm lý, tính cách của mỗi dân tộc phải thông qua sinh
hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần của dân tộc ấy, đặc biệt thông qua phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
đời sống văn hóa.
Những đặc trưng trên có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ trong lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc. Trong đó cộng đồng về kinh tế có vai
trò quyết định đối với dân tộc. Các đặc trưng khác có vai trò nhất định đối với quá trình hình thành,
phát triển dân tộc.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc hiện nay có vai trò to lớn đối với sự phát triển của con người, của mỗi
quốc gia dân tộc. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội mà còn là
động lực của sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác và hội nhập là xu thế khách quan đối với mỗi quốc gia dân tộc trên
thế giới, song không vì thế mà làm mất đi bản sắc với những đặc trưng phong phú của dân tộc mình.
Với ý nghĩa đó, việc quán triệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các
dân tộc trên thế giới và giữ gìn bản sắc của các dân tộc hiện nay là vấn đề đặt ra hết sức cần thiết đối
với mỗi dân tộc.
7. Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ không phân biệt trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ
và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức dân tộc
khác.
Trong một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ
ngang nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc lịch sử
để lại.
Trên phạm vu giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự
kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát
triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng
mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
b. Các dân tộc được quyền tự quyết”
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình: quyền
quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình; quyền tự do độc lập về
chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện hiệp
lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ
bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc
gia, dân tộc.
Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân
ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi
dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
c.Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại
Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Leenin: nó phản án bản chất quốc tế của phông
trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Nó uy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết quyền dân
tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch HCM khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cm vô sản”
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu tranh
chống chũ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân
các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội dung cương lĩnh thành một chỉnh thể
8. Bản chất, nguồn gốc của tôn giáo
Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác
định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là 1 hình thức xã hội phản ánh 1 cách hoang đường, hư ảo
hiện thực khách quan; là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức
mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội.
Theo C.Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới không có trái tim … tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Tuy nhiên tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo đức, đạo lý của
xã hội.
Về phương diện thế giới quan, tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, nó có sự khác biệt hoàn toàn với
thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác Lenin. Tuy vậy, những người cộng sản có lập trường mác
xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp
của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa ML và những người cộng sản, chế độ xhcn luôn tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Nguồn gốc của tôn giáo
* Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo:
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và
bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực
to lớn, thần thánh hóa nhứn sức mạnh đó. Từ đó, họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ
cúng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế
lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc
lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã thần thành hóa một số người thành
những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức,
bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc sâu xa của
* Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình
còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều khoa học chưa khám phá và giải
thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo.
Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng, thần thành
hóa đối tượng.
* Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn đến việc ính ra tôn
giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho
rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản …. sự phá sản “đột ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”,
làm họ bị diệt vong …, dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện qua tôn
giáo.
9. Khái niệm, vị trí của gia đình đối với xã hội
Kn gia đình:
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chề văn hóa – xã hội
đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục … giữa các thành viên.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ bản nhất của xã hội.
Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Lịch sử nhân loại có
những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, một vợ một chồng thì cũng có các hình thức gia đình:
tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng có các loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội:
1. Sự tác động của gia đình đối với sự phát triển của xã hội:
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố tồn tại và phát triển của
xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị
nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát
triển được. Chính vì vật, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ
xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia
đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ bên ngoài gia đình.
Gia đình chính là xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự hình
thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, mỗi cá nhân không thể chỉ sống mãi trong
gia đình mà còn có nhu cầu quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn
là thành viên của xã hội. Gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá
nhân. Nhiều thông tin, hình tuongwjcuar xã hội thông qua lăng kính của gia đình mà tác động tích
cực hoặc tiêu cực đến mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư
xử với người xung quanh và xã hội.
c. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi thành viên, mỗi
công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc gia đình là tiền
đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội. Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội
thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt
cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu
của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những quan hệ xã hội. Mỗi
cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Không thể có con
người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của
mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặt khác, nhiều
hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát
triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống.