You are on page 1of 10

Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là

giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH
tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng
áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản
phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của
mô hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là những “đặc trưng”). Nếu không
phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó định
hướng để xây dựng CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa,
những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát
triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của
truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất
yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh
đạo xây dựng CNXH.

Mặc dù khi dự báo về những đặc trưng của xã hội XHCN, những nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không coi đó là mô hình bất biến, song,
các ông đã hình dung và phác thảo về CNXH - một chế độ xã hội ưu việt
và tiến bộ hơn với các chế độ xã hội trước đó thể hiện trên một số nét
cơ bản như sau:

(1) Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách
bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện;

(2) Cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất
tiên tiến, hiện đại;

(3) CNXH là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;

(4) CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao dộng mới với năng
suất cao;

(5) CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động;

(6) Nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản
chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của
nhân dân lao động;

(7) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), các quan hệ giai cấp - dân
tộc - quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
Ở nước ta, từ năm 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, độc lập dân tộc luôn gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm
vững chắc cho độc lập dân tộc.

Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh
dân tộc, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn.
Trong quá trình đổi mới nhận thức về CNXH và xây dựng CNXH, Đảng
ta đã nhận thấy việc xác định đúng mô hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa
quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH ở nước
ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa mục
tiêu CNXH ở nước ta.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991) của Đảng, mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng
đã được phác họa với sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng
đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH Việt Nam toàn diện hơn,
gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển
2011) Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ
sung, phát triển những đặc trưng của CNXH trong hai Văn kiện nêu trên.

Các đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự
thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi
mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về CNXH,
trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng
là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”,
cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: CNXH Việt Nam.

Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta
đang xây dựng đã thể thể hiện tính ưu việt của CNXH Việt Nam.

- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh

Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể
hiện mục tiêu của CNXH ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của CNXH
phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm
Mác - Lênin về mục tiêu của CNXH, đồng thời vận dụng sáng tạo quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân
giàu, nước mạnh..., là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng
quyền tự do, dân chủ được sống cuộc đời hạnh phúc...

Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới
việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đối với dân tộc Việt
Nam, chỉ có CNXH mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân
dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ
quốc.

Nói đến tính ưu việt của đặc trưng này, không thể không so sánh về mặt
bản chất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng với các xã
hội đã từng tồn tại trước đây ở Việt Nam nói riêng và với chủ nghĩa tư
bản nói chung. Trước năm 1945, ở Việt Nam chưa hề có và chưa thể có
các giá trị dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là
một thực tế hiển nhiên mà mỗi người đều nhận biết. Trong Dự thảo
Cương lĩnh (bổ sung và phát triển), Đảng ta đã có đánh giá đúng đắn,
khách quan về CNTB: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng
phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất
công”.

Nhân dân ta đã từng chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất công, tàn
bạo của chủ nghĩa tư bản trong thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế
quốc xâm lăng, đô hộ. CNXH phải xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, khuyến
khích mọi người dân làm giàu chính đáng để tất cả cùng giàu có. Đó
cũng là tiền đề để đất nước giàu mạnh thật sự trên các lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng. CNXH mà nhân dân
ta đang xây dựng là quá trình dân chủ hóa, phát huy mọi quyền dân chủ
của nhân dân, đồng thời hướng tới những giá trị công bằng cho mọi
tầng lớp, mọi người dân, xây dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội
văn minh, hiện đại.

Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản
chất ưu việt của các giá trị, thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh thật sự.

Chúng ta đang xây dựng CNXH là đang từng bước hiện thực hoá tính
ưu việt của đặc trưng thứ nhất vừa nêu.

- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ


Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản
chất ưu việt về chính trị của chế độ dân chủ XHCN trên cơ sở kế thừa
giá trị quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: sự nghiệp cách mạng là
của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của
dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân là gốc. Đặc biệt, đã thể hiện quan điểm
về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức dân là chủ, dân làm
chủ.

Tính ưu việt của CNXH trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện
trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ
XHCN gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung vả phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân
chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân
chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và
các hình thức dân chủ trực tiếp...”.

Nhân dân (bao gồm đông đảo các giai cấp, tầng lớp dân cư, các dân
tộc, tôn giáo...) làm chủ thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và
dân chủ trực tiếp, thông qua việc thực hiện các Quy chế dân
chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở... cũng đã thể hiện tính ưu việt về
chế độ chính trị của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.

Tính ưu việt của CNXH tự bản thân nó đã đòi hỏi phải phát huy dân chủ
cao độ, gắn với tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong
tham gia xây dựng, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. V.I.Lênin
từng nêu quan niệm: CNXH không phải là sản phẩm được tạo ra từ
những sắc lệnh từ trên ban xuống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng
định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền lợi đều của dân...

Tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN thể hiện cụ thể, thiết thực ở Việt
Nam hiện nay là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tính ưu việt
này đã, đang, sẽ biểu hiện thông qua quá trình đổi mới và dân chủ hóa
ở Việt Nam.

- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của CNXH
mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.

Về lực lượng sản xuất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng
không thể là cái gì khác ngoài lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Về
quan hệ sản xuất không thể không tính đến yếu tố quan trọng hàng đầu
là chế độ sở hữu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH việc xác định chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện tính ưu việt của
CNXH mà chúng ta đang xây dựng (đã khắc phục được tư duy cũ, giáo
điều về CNXH ở Việt Nam đồng nghĩa với chế độ công hữu là duy nhất
ngay trong thời kỳ quá độ).

Một luận điểm phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về sự
phát triển quá độ lên CNXH mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội IX được
tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình: “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”  1.

Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN giữ vai trò thống
trị của quan hệ sản xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh
tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất TBCN, từng bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa
trên cơ sở của chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện
rõ tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng so với chế độ
TBCN.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà
ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế,
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản
xuất của CNXH mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước
chế độ công hữu.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo
định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều
thành phần kinh tế.

- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc

Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể
hiện khái quát ở tính chất tiên tiến của nền văn hóa (bao hàm những giá
trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở việc giữ gìn
bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt
Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý
thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).

Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc
gia, khu vực tham gia. Xu thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao
lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác làm nảy sinh
nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc.
Trong bối cảnh quốc tế mà các chế độ chính trị - xã hội khác nhau cùng
tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; trong giao lưu, hợp tác và phát triển
văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng phải được
thể hiện không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về văn
hóa vừa nêu, mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.

Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi
vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải
kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây
dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp
hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân
tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên
lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển.

- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện

Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được
thể hiện trong đặc trưng tổng quátdân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người
trong xã hội XHCN. Về phương diện con người, CNXH đồng nghĩa với
chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và
phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn
xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Để có con người XHCN
phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng
của con người trong xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.

Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người trong xã hội XHCN, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và
phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết
thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của
CNXH thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con
người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người
(đức, trí thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.

Trong những động lực để xây dựng thành công CNXH trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta xác định một động lực rất quan trọng là giải quyết hài hòa
các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Lợi ích thiết thân mà mỗi con
người Việt Nam hiện nay mong đợi phản ảnh nhu cầu về đời sống vật
chất, đời sống tinh thần và nhu cầu phát triển con người toàn diện. Giải
quyết hài hòa các lợi ích, bảo đảm nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi
con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là thể hiện tính ưu việt
của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.

- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển

Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết
đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc
người trong quốc gia ta dân tộc Việt Nam).

CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng nhất thiết phải bảo đảm quyền
bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử
ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc.
Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và
chia rẽ các dân tộc, CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng gắn liền với
việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các dân tộc hiện nay.

Thực tiễn 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt
trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu
việt của CNXH trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó
đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng
thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ
dân tộc của các thế lực thù địch.

- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh
đạo

CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.

Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với
tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền XHCN mà nhân dân ta đang hướng tới xây
dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát,
ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách
nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.

Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
là biểu hiện cụ thể tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây
dựng. Nhà nước ấy phải kế thừa những giá trị trong kiểu tổ chức nhà
nước pháp quyền và xã hội công dân với tư cách là giá trị của văn minh
nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Thành quả của
công cuộc đổi mới đã giúp Đảng và Nhà nước ta xác định kiểu tổ chức
và hoạt động mang tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
là: Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống
nhất của trung ương. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp. Trong quan hệ với Nhà nước, Đảng lãnh đạo để Nhà
nước phát huy vai trò quản lý chứ không bao biện làm thay Nhà nước.
Đảng luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.

Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong
đặc trưng về Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân là thành quả của việc vận dụng, phát huy sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
XHCN trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.

- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới

CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt
trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện
trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta.

Xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới là đặc trưng nhất quán trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng ta
từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991 đến nay.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đặc trưng này còn thể hiện tính ưu
việt của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân
dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.

Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất
cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ
sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế.

Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ
chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động
tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong
đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

=>Những đặc trưng vừa nêu trên thể hiện tính ưu việt của CNXH mà
nhân dân ta đang xây dựng trong việc xác lập những đường nét cơ bản
mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà nhân
dân ta đang xây dựng để từng bước hiện thực hóa đặc trưng, mô hình
đó trong thực tiễn cuộc sống.

Sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay, của thực tiễn xây dựng
CNXH sẽ tiếp tục cung cấp thêm những cứ liệu mới để bổ sung cho
nhận thức của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường để thực hiện
mô hình đó ở Việt Nam.

Với quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát


triển, chúng tôi mong rằng tại diễn đàn Đại hội Đảng lần này sẽ có thêm
những ý kiến đóng góp thiết thực về những đặc trưng và tính ưu việt
của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện qua những đặc
trưng đó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


https://sites.google.com/site/thquanly/van-kien-dhh-xii-cua-dhang/van-
kien-
dhang/nhungdactrungxahoixahoichunghiamanhandantadangxaydung

You might also like