You are on page 1of 20

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Nội dung số 1: CHƯƠNG 2


1. Quan điểm của CNXHKH về GCCN và sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN.
Khái niệm giai cấp công nhân.
Trước hết, để hiểu rõ vấn đề, chúng ta cần tìm hiểu giai cấp công nhân là gì? Khi sử dụng khái
niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu
đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại,
giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết
đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền
sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, song khái niệm giai cấp công nhân được các nhà
kinh điển xác định trên 2 phương diện là:
Thứ nhất, trên phương diện kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân có hai đặc trưng cơ bản sau
đây: Một là, về phương thức lao động, giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động
trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng
hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hóa cao. Hai là, về địa vị của giai cấp công nhân trong
hệ thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, người công nhân không sở hữu tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội. Họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống và bị nhà tư
bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đặc trưng này, vì chính nó là
đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê
cho giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Thứ hai, trên phương diện chính trị - xã hội, trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử,
sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt của bộ phận tư sản đại công nghiệp là điều kiện ban
đầu cho sự phát triển của giai cấp công nhân.
Nghiên cứu giai cấp công nhân từ phương diện kinh tế-xã hội và chính trị-xã hội trong chủ
nghĩa tư bản, Mác và Ăngghen đã không những đưa lại quan niệm khoa học về giai cấp công
nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm quan trọng của nó với tư cách là một giai cấp cách
mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới gồm ba đặc điểm sau đây: Thứ nhất, lao động bằng phương
thức công nghiệp, quá trình lao động mang tính chất xã hội hóa cao, đây là đặc điểm nổi bật
của GCCN. Thứ hai, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá trình
sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, GCCN là đại biểu tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Thứ ba,
nền SX đại công nghiệp và phương thức SX xã hội hóa cao đã rèn luyện cho giai cấp công
nhân những phẩm chất về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động
công nghiệp.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và có vai
trò lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất
có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc
tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà giai cấp công
nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu trong cuộc cách
mạng xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.:
Thứ nhất, về nội dung kinh tế là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, là
đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiên tiến nhất dựa trên chế độ sở hữu xã hội công hữu về tư
liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của
lịch sử xã hội, vai trò chủ thể của giai cấp công nhân trước hết là chủ thể của quá trình sản xuất
vật chất, sau đó là tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Thứ hai, về nội dung chính trị xã hội, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai
cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột áp bức của chủ nghĩa tư bản giành quyền lực về ta giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thiết lập nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân
cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới phát triển kinh tế và văn hóa xây dựng nền
chính trị dân chủ pháp quyền thực hiện dân chủ công bằng bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, về nội dung văn hóa tư tưởng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp công nhân
trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa tư
tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới lao động công bằng dân chủ, bình đẳng và tự
do. Xét về thực chất giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa tư tưởng bao
gồm cải tạo cái cũ lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng.
2. Đặc điểm cơ bản của GCCN Việt Nam. Phương hướng và một số giải pháp chủ
yếu để xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay.
Đặc điểm
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân
đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở
thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ
hai (1924 - 1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam
sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung
của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có truyền thống
yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp công nhân Việt Nam đã
sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường
tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị
tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý
tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân
Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên
giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở
vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Phương hướng (giáo trình/44-45)
Phát triển giai cấp công nhân Việt Nam về số lượng và chất lượng.
Nâng cao giác ngộ tư tưởng , bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, xứng đáng là lực lượng công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho công nhân.
Xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công nhân.
Một số giải pháp chủ yếu: giáo trình/ 45-46.

Nội dung số 2: CHƯƠNG 3


1. Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản:
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một chế độ xã hội phát triển cao nhất hiện nay,
là chế độ có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở
hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; trên cơ sở hạ tầng đó có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự
là của nhân dân.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển
biến từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Quá độ trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Còn quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các
nước tư bản trung bình lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thực hiện thời kì quá độ lên CNXH theo chủ nghĩa Mác – Lênin là một tất yếu, khách quan
bắt buộc, bởi vì:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được
xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ áp bức
bóc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng, áp bức, bóc lột.
Hai là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư
bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình
thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để
xây dựng và phát triển những quan hệ đó. Ba là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc
mới mẻ, khó khăn và phức tạp, phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm
quen với những công việc đó. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát
triển kinh tễ - xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau.
Thời kỳ quá độ lên CNXH có mấy nội dung cơ bản sau:
Trong lĩnh vực kinh tế:Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã
hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát
triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Trong lĩnh vực chính trị:Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là
nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong
sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học
và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý
có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội: Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại;
từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người
với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của
người khác.
Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH là sự tồn tại những yếu tố của xã hội
cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành
phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó thành phần kinh tế nhà nước và
hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng,
phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản
xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tùy theo từng điều kiện cụ thể của mỗi
nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều
yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng
tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông…Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu
mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh
vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với
nhau.

2. Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ sở lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích
dân tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Con đường đi lên CNXH là
con đường duy nhất đúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã lựa chọn cho dân
tộc Việt Nam. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và
năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu
“đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
Một là, quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước nghèo nàn lạc hậu,
chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải
qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
Ba là, căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển của cách
mạng Việt Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản trước hết là sự
lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “ Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm
1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với
sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động nước ta khi theo Đảng
làm cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân không có con đường nào khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đặc điểm
Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã ở nước ta “. . .là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên
tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Do đó, đặc điểm cơ
bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Đây là tư tưởng mới,…gtrinh/60.


Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất
lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc
dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta
hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có
những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ
nghĩa Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, trong đó nhiệm vụ
trọng tâm là: Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng
các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội. Hai là, cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm
nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Kết: Bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp với
lợi ích dân tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Con đường đi lên
CNXH là con đường duy nhất đúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã lựa chọn
cho dân tộc Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu không thay đổi của cách mạng nước ta. Song
CNXH là gì và Việt Nam đi lên CNXH bằng cách nào thì qua mỗi thời kỳ cách mạng chúng ta
mới có được những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn và sâu sắc hơn. Nhưng trải qua hơn 34
năm đổi mới đất nước, thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được trong tiến trình cách
mạng đã cho phép chúng ta một lần nữa khẳng định con đường đi lên CNXH là hoàn toàn
đúng đắn. Vì thế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử”

Nội dung số 3: CHƯƠNG 3


1. Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là gì? CNXH được hiểu theo 4 nghĩa
Một, là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại áp bức, bất
công, chống các giai cấp thống trị.
Hai, là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức,
bóc lột, bất công.
Thứ ba là một khoa học – CNXHKH, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Bốn là một chế độ XH tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Điều kiện ra đời của CNXH:
Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:

Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên
cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật
chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công
nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. Ở những
nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có
Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội.
Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc
cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư
hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
+ Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này
được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng
trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích
căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
+ Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình
hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản
chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm
chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa
trong xã hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên
tắc phân phối cơ bản nhất.
+ Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo và
hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc
“làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội
ở giai đoạn này.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới,
nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc;
thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo
toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi
mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà
nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân
chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện
công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn
diện.
+ Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh
tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối
sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ
sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân
tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.
- Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể
nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH (được bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân
dân ta, là sự lựa chọn đúng đắng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Cùng với đó, tiếp tục bổ sung và nêu lên tám đặc trưng
về “xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” là:
Thứ nhất là, dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh. .
Thứ hai là do nhân dân làm chủ.
Ba là có nền KT phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ, phù hợp.
Bốn là có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là con người có cuộc sống ấm no, tự do, HP, có điều kiện PT toàn diện.
Thứ sáu, các DT bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển.
Thứ bảy, có Nhà nước pháp quyền XHCN của ND, do ND, vì ND do ĐCS lãnh đạo.
Thứ tám là có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên TG.
Những đặc trưng trên đều mang tính dự báo. Với sự phát triển về kinh tế và xã hội của đất
nước, thời đại, những đặc trưng sẽ được tiếp tục bổ sung, phát triển trong tiến trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nội dung số 4: CHƯƠNG 6


1. Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề dân tộc
Mở bài: Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc luôn là một vấn đề có vị trí chiến lược quan trọng
đối với một quốc gia. Theo V.I.Lênin, cách mạng vô sản ở chính quốc phải gắn liền với cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa; và để giải quyết triệt để vấn đề dân tộc, cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa phải vận động theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Giải phóng dân
tộc thuộc địa không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi
của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và những người cộng sản ở chính quốc. Những năm
gần đây, với những biến động lớn trong đời sống chính trị - xã hội trên thế giới, vấn đề dân tộc
và quan hệ dân tộc diễn biến rất đa dạng và phức tạp. Hàng loạt vấn đề dân tộc đang đặt ra ở
nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
*Khái niệm dân tộc:
Theo nghĩa rộng, dân tộc là chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước,
có lãnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất
của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền
thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn
bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc. Ví dụ, dân tộc Việt Nam, dân tộc Thái Lan,...
Theo nghĩa hẹp, dân tộc chỉ các cộng đồng người của một quốc gia, có chung sinh hoạt kinh
tế, có ngôn ngữ riêng, có văn hóa đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc
là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân tộc. Ví dụ: Dân tộc Tày, Nùng, Mông, Ê đê,
Bana…
* Đặc trưng chung nhất của dân tộc là:
Thứ nhất, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, cơ
bản nhất, là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Thứ hai, có chung một vùng lãnh thổ nhất định, trên lãnh thổ đó các thành viên gắn bó với
nhau, cùng nhau lao động để tồn tại và phát triển.
Thứ ba, có tiếng nói chung làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong các lĩnh vực KT,
VH, tình cảm …
Thứ tư, có tâm lý riêng tạo nên bản sắc của nền văn hóa dân tộc.
* Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc:
Khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện CNTB, Lênin đã phát
hiện ra xu hướng khách quan:
Xu hướng thứ nhất: Ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác
nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành về ý thức dân tộc nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra
để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập.
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin
Trong CNTB do mục tiêu của mọi chính sách trước hết là phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư
sản, do vậy mà hai xu hướng khách quan trên không được giải quyết. Vì vậy, Lênin cho rằng
một cương lĩnh dân tộc đúng đắn phải phù hợp với mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Đồng thời tạo ra môi trường cho sự vận động của hai xu hướng khách
quan trong một tiến trình thống nhất. Đặc biệt Lênin đã nêu ra Cương lĩnh về vấn đề dân tộc
gồm có ba nội dung chính:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ không phân biệt trình độ cao hay
thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc
lợi và đi áp bức dân tộc khác.

Trong một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo
vệ ngang nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân
tộc lịch sử để lại.

Trên phạm vu giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn liền với cuộc đấu tranh xây
dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển
với các nước chậm phát triển về kinh tế.

Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.


Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình:
quyền quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình; quyền tự
do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc;
quyền tự nguyện hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia, dân tộc.

Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các
thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của
các nước.

Thứ ba, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc
Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản án bản chất quốc tế của
phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

Nó quy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết
quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo
cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch HCM
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”

Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu
tranh chống chũ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp
công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội dung cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sach dân tộc của
Đảng CS và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không được xem nhẹ vấn đề
nào. Thực tiễn CM trên thế giới trong thời gian qua đã chứng minh được tính đúng đắn, khoa
học, cách mạng của Cương lĩnh. Những nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng đúng
đem lại thành quả hết sức to lớn, ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp méo lý luận dẫn đến
thất bại, trì trệ thậm chí bị tan rã, sụp đổ…

2. Đặc điểm quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam
hiện nay.
Khái quát đôi nét về đặc điểm dân tộc Việt Nam
Nước ta là một nước có bề dày lịch sử, trên dải đất VN có 54 các thành phần dân tộc, trong
đó tộc người Kinh chiếm 86% dân số và 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, phân bố rải
rác trên địa bàn cả nước.
Đặc trưng nổi bật của dân tộc Việt Nam:
Thứ nhất là tính cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở
thành truyền thống của dân tộc VN trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ
Quốc và xây dựng đất nước.
Thứ hai, do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu xã hội nông
thôn bền chặt nên dân tộc VN xuất hiện rấ sớm, gắn liền với cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, đấu tranh chống thiên tai. Vì vậy đoàn kết là xu hướng khách quan trên cơ sở
có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, có chung tương lai, tiền đồ.
Thứ ba, hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng, tuy nhiên
trong từng khu vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung nhưng không
thành địa bàn riêng biệt. Chính vì thế các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền
kinh tế riêng. Và sự thống nhất giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã
hội ngày càng được củng cố.
Thứ tư, do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử
nên trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc còn chênh lệch, khác biệt. Đây là
một đặc trưng cần hết sức quan tâm nhằm thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Thứ năm, các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 14% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên địa
bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, giao lưu quốc
tế đó là vùng biên giới, vùng núi cao, hải đảo.
Thứ sáu, cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc VN
có đời sồng văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú thêm nên văn hóa của
cộng đồng.
* Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:
Dựa trên quan điểm Chủ nghĩa Mác Leenin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu tranh
cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN cũng như dựa vào tình hình thế giới hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết có tầm
quan trọng đặc biêt, HCM đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng
bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ
nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc.
Trong mỗi kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc
là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của
từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Tựu trung lại, quan điểm của Đảng về dân tộc có mấy ý cơ bản sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng
thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển,...
Thứ ba, phát triển toàn diện chính sách, kinh tế, văn hóa và an ninh - quốc phòng trên địa
bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết vấn đề dân tộc và
thực hiện tốt các chính sách dân tộc,...
Thứ tư, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,...
Thứ năm, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, và cả hệ thống chính trị.
b. Những chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Nguyên tắc cơ bản trong thực hiện các chính sách này là: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm
từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của
địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các
dân tộc, từng bước nâng cao dân trí đồng bào dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số vùng
cao, hải đảo.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm
các hành vi miệt thị dân tộc và chia rẽ dân tộc. HCM đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc là
động lực chủ yếu, là sức mạnh vĩ đại quyết định sự thành công của CM”, Người khẳng
định : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công”
Tăng cường, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ ít người để phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội miền núi; đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác cho cán bộ dân tộc.
Kết luận, như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính toàn diện, tổng
hợp tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính cách
mạng và tiến bộ, đồng thời mang tính nhân đạo, bởi vì nó không bỏ sót một dân tộc nào, nó
tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác,
nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các
dân tộc anh em trong cả nước.
Kết bài:
- Khẳng định tính đúng đắn của nội dung dân tộc
- Khẳng định quan điểm, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc.
- Liên hệ bản thân: suy nghĩ gì về vấn đề dân tộc,..

Nội dung số 5: CHƯƠNG 7


1. Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về bản chất, nguồn gốc, tính chất của
tôn giáo; các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn
giáo
Mở bài: Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập
trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Vậy tôn giáo là gì?...
* Khái niệm tôn giáo: Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự
phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hàng của họ, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua
sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên, thần bí,...

* Bản chất của tôn giáo:


Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng là một loại hình thái ý thức xã hội phản
ánh hư ảo hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực và tích cực nhất định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra
tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ.
Nhưng sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng tôn giáo
vô điều kiện.
Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác
biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ xem
thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mà luôn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân.
* Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế xã hội
Do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, xã hội để giải quyết các yêu
cầu, các mục đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc sống của bản thân họ. Sự bần cùng về kinh
tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những bất công xã hội cùng với những thất vọng,
bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người có
điều kiện hơn trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, tâm
linh. Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và xuất
hiện những loại hình tôn giáo mới.
Nguồn gốc nhận thức
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản
thân mình là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những
điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính
các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí
thấp, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển.
Nguồn gốc tâm lý
Từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát triển của thiên nhiên và xã hội đã dẫn con người đến nhờ
cậy đến thần linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng,…
trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi cũng
được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.
* Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, bởi vì nó có sự hình thành, tồn tại và phát
triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều
chế độ chính trị - xã hội.
(Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học
và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả
trong nhận thức, niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá
trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.)
Tính quần chúng của tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu luc, không một
quốc gia nào, dân tộc nào không có một hay nhiều tôn giáo.
Tính quần chúng biểu hiện của số lượng tín đồ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần
của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Tính chính trị của tôn giáo
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự
đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị.
Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong xã hội XHCN, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó là
do, nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của tôn giáo vẫn chưa mất, đó là:
Một là, nguyên nhân về mặt nhận thức.
Hai là, nguyên nhân về mặt tâm lý.
Ba là, nguyên nhân về mặt kinh tế.
Bốn là, nguyên nhân về mặt văn hóa.
Do đó, cần có nguyên tắc ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
một cách hài hòa nhất, đó là:
Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Tôn
trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của
chế độ XHCN.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng. Quần chúng là nguồn gốc của mọi
sức mạnh, là động lực phát triển của lịch sử. Đoàn kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng
và không có tín ngưỡng tôn giáo là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt
động lợi dụng tôn giáo chống nhà nước XHCN.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng lao động.
Phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,…
cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và trí tuệ con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng
tôn giáo trong vấn đề tôn giáo
Là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và
trong vấn đề tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả”
hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến
một bộ phận quần chúng trong xã hội (những người theo tôn giáo).
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và
biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không
giống nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối
với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
2. Quan điểm, chính sách Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo.
Khái quát đôi nét về tôn giáo ở Việt Nam:
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Nước ta hiện nay có 13 tôn giáo đã được công
nhận.
Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hoà bình, không có xung đột, chiến tranh
tôn giáo
Các tôn giáo ở Việt Nam nói chung luôn đồng hành cùng dân tộc, có nhiều đóng góp quan
trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là do nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần
dân tộc
Đảng và Nhà nước ta đã xác định cho mình những quan điểm và chính sách như: (ghi
thêm trong giáo trình/ 120)
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta
Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Thứ năm, về vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia
đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Kết bài, Liên hệ cho bản thân:
Vì vậy, học tập, nghiên cứu vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sinh viên chúng
ta cần chú ý một số vấn đề có phương pháp luận sau:
Một là, luôn đứng trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để nghiên cứu, xem xét tổng thể vấn đề tôn giáo, cũng như từng khía cạnh của nó.
Hai là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải gắn với thực tiễn tồn tại, vận động của chính vấn đề
tôn giáo.
Ba là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải kết hợp với việc phê phán các quan điểm không đúng
về vấn đề tôn giáo.
Bốn là, kết hợp, kế thừa các phương pháp, thành quả nghiên cứu về tôn giáo của các ngành
khoa học khác.

You might also like