You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN


Bộ môn: Chủ nghĩa Xã hội khoa học
ĐỀ TÀI 2
Phân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Ngân Hà


Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa Xã hội khoa học (121)_29
Mã sinh viên: 11201185

Giảng viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN HẬU

...................................................................... .
HÀ NỘI, NĂM 2020
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề 2

B. Nội dung nghiên cứu 3

I. Phân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 3

1. Một số khái niệm quan trọng liên quan đến thời kỳ quá độ lên 3
Chủ nghĩa xã hội

a. Chủ nghĩa xã hội là gì? 3

b. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là gì? 4

c. Hai hình thức cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 4

2. Khái quát đặc điểm thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội 4

3. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội 6

II. Liên hệ thực tiễn Việt Nam: tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ 12
nghĩa xã hội ở Việt Nam

C. Kết luận 16

1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ănghen cho rằng, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển
từ thấp lên cao qua hai giai đoạn, giai đoạn thấp và giai đoạn cao, giai đoạn
cộng sản chủ nghĩa; giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Khẳng định quan điểm của
C.Mác, V.I. Lênin cho rằng: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất
định.”
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ:
lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với
các hình thái kinh tế xã hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất, trong đó không có giai cấp
đối kháng, con người từng bước trở thành người tự do… Bởi vậy, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất
yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C.Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa vã xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nà sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là
nền chuyên chính các mạng của giai cấp vô sản.”
Về xã hội của thời kỳ quá độ, sau này, từ thực tiễn nước Nga, V.I. Lênin
cho rằng, đối với những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao “cần
phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”
Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đối với các nước
chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá
lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội – ở đây chính Việt Nam là
một ví dụ điển hình với thời kỳ quá độ đã và đang được tiến hành với nhiều
thử thách để đi tới cái đích CNXH. Thứ hai, đối với các nước đã trải qua chủ

2
nghĩa tư bản phát triển, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội
kia, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Qua những bài giảng của thầy, sách giáo trình và một vài tài liệu tham
khảo bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, cá nhân em cảm thấy hứng thú và
mong muốn được nghiên cứu về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Em xin
phép trình bày bài tập nghiên cứu lần này qua đề tài số 2: “Phân tích tính tất
yếu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Liên hệ thực tiễn Việt Nam.”
Do vấn đề nghiên cứu là một chủ đề lớn trong triết học nói chung và tầm hiểu
biết cũng như khả năng tìm kiếm thông tin của em còn nhiều hạn chế, em
mong nhận được những lời góp ý của thầy cho bài tập lớn để có thể hoàn
thiện hơn trong những nghiên cứu tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


I. Phân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội

1. Một số khái niệm quan trọng liên quan đến thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội
a. Chủ nghĩa xã hội là gì?
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong
thế kỷ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Chủ nghĩa xã hội
bao gồm một loạt các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh
chính trị và các đảng công nhân có tinh thần cách mạng, những người muốn
lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải
cách chấp nhận Thể chế Đại nghị và dân chủ như chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn mạnh giá trị cơ bản như
bình đẳng, công bằng và đoàn kết và đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những
phong trào xã hội và lý thuyết phê phán xã hội. Họ theo đuổi mục tiêu tạo ra
một trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến công bằng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh
ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao
3
động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã
hội phát triển cao – xã hội chủ nghĩa.
b. Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là gì?
Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ
nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành
được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã
hội. Đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là
phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi
hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
Đây là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực nhưu kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, xây dựng từng
bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội.
c. Hai hình thức cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa Mác Lê – nin khẳng định có hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa
xã hội: quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và qua độ gián
tiếp từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.

2. Khái quát đặc điểm thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội
chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư
về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và
những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới
phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo
cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ
thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian

4
khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
• Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện
kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần
đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá
độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ
hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa
tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song
không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần
của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào?
Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó.”
• Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương điện
chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của
nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai
cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị
về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với
nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những
phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp tư
sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra
trong điều kiện mới - giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với
nội đung mới - xây dựng toàn điện xã hội mới, trọng tâm là xây đựng nhà
nước có tính kinh tế, và hình thức mới - cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.
• Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều
tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp
công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước
xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hóa mới của xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá

5
trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu
văn hóa – tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
• Trên lĩnh vực xã hội
Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn,
thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội, là thời kỳ
đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn
dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.

3. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên


Chủ nghĩa xã hội
Một là, Theo VI. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc
điểm ra đời phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy
định. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa
tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về các tư liệu
sản xuất, dựa trên chế độ áp bức và bóc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng
trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình
thức là nhà nước và tập thể, không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình
trạng áp bức, bóc lột.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người.
Nhưng không thể ngay tức khắc tước quyền sở hữu của giai cấp địa chủ và giai
cấp tư sản. Hơn nữa, chỉ riêng việc tước đoạt quyền sở hữu cũng chưa giải
quyết được vấn đề, mà còn phải thay thế sự quản lý của giai cấp bóc lột bằng
sự quản lý khác do giai cấp công nhân đảm nhiệm,
Hơn nữa, giai cấp bóc lột thống trị đã bị đánh đổ, nhưng nó vẫn sẽ còn giữ
được nhiều trụ thể thực sự và lớn lao, vì họ còn có tiền, bất động sản, còn
những mối liên hệ, những kinh nghiệm về tổ chức quản lý, trình độ học vấn
cao hơn và có cả những mối liên hệ quốc tế.

6
Xóa bỏ giai cấp là một việc lâu dài, muốn thực hiện được việc đó phải đạt
được một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển lực lượng sản xuất, chiến
thắng tàn dư của sản xuất nhỏ, phân tán, khả năng xóa bỏ giai cấp chỉ xuất hiện
từ những điều kiện vật chất của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa hiện đại mà
thôi.
Cách mạng vô sản có điểm khác biệt căn bản so với cách mạng tư sản. Đối
với cách mạng tư sản, quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến; nhiệm vụ của
nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền nhà nước làm kinh tế thị trường thích
ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ
lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực
lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần không ít thời gian.
Như vậy, sự hình thành chế độ mới có thể ví như một cơn đau để kéo dài
do đó nổ cần phải có thời gian, có những sự chuẩn bị và những tích lũy vật
chất cần thiết đủ cho nổ lọt lòng và phát triển.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp
với trình độ khoa học kỹ thuật cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn
cho cơ sở vật chất kỹ thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian
sắp xếp lại. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa
muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm là
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Nền sản xuất đại công nghiệp với trình độ khoa học kỹ thuật cao đưa năng
suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm
bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng
nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền đại công nghiệp đó phát triển trên
cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản
7
xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại sẽ quyết định việc nâng cao năng
suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của
phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật
tương ứng Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu
tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công
nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải
vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói
cơ sở vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng
cho phương thức sản xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí
hoá.
Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn
chủ nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai
mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có
công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu
cũng chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
các nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn
những thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, hình thành cơ cấu kinh
tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền
công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao
8
dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có
kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ chủ nghĩa tư bản
hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật
kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh
trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo
xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dù đã ở trình độ cao cũng
chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội
mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng
và phát triển những quan hệ đó.
Chủ nghĩa tư bản, dưới hình thức hiện đại nhất của nó là chủ nghĩa tự do
mới, đã bị phê phán quyết liệt ngay từ bên trong và ở quy mô toàn cầu. Đảng ta
hoàn toàn có căn cứ khi khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã
hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định vận mệnh của
chủ nghĩa tư bản”, đó là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế các
phương thức sản xuất, nhưng không phải phương thức sản xuất này kết thúc
hoàn toàn rồi mới ra đời phương thức sản xuất khác. Giữa phương thức sản
xuất củ và phương thức sản xuất mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời
kỳ quá độ, mà ở đó kết cấu kinh tế - xã hội cũ bị suy thoái dần, kết cấu kinh tế
- xã hội mới ra đời, lớn mạnh dần và tiến tới giữ địa vị thống trị. | Sự phát triển
của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự biến đổi và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng lập chủ

9
nghĩa Mác khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ bị
thay thế bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đó là một quy luật
khách quan của lịch sử và thời đại ngày này chính là thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Sở dĩ nói thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới là vì thực tiễn lịch sử cho thấy, từ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười thành công ở nước Nga năm 1917, nhân loại đã thực sự bước vào
một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay,
mặc dù hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới đã bị sụp đổ, phong trào xã hội chủ
nghĩa nhìn chung đang trong giai đoạn thoái trào "...nhưng một số nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý
tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thắng lợi to lớn, tiếp tục
trỗi dậy, phát triển mạnh mẽ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
những bước phục hồi...
Đó là xu thế, là tiến trình vận động tự nhiên của lịch sử thế giới. Chủ nghĩa
tư bản mặc dù vẫn còn tiềm năng tồn tại và phát triển nhưng những mâu thuẫn
nội tại của nó ngày càng trở nên gay gắt không thể dung hòa được, những cuộc
khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội những năm đầu thế kỷ
XXI báo hiệu chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ suy thoái toàn diện; bên cạnh
đó, cùng với sự cải cách, đổi mới thành công của Việt Nam và Trung Quốc,
phong trào cánh tà và xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới cũng đang trỗi dậy
mạnh mẽ. Hơn nữa, nhiều nước tư bản phát triển theo xu hướng xã hội dân chủ
cũng cho thấy nhiều dấu hiệu thực tế của một xã hội tương lai thay thế chủ
nghĩa tư bản đang hình thành và ra đời ở chính trong lòng những nước tư bản
chủ nghĩa phát triển.
Độ dài của thời kỳ quá độ bao giờ cũng bị quy định bởi đặc trưng văn hóa
và xuất phát điểm khi bước vào thời kỳ quá độ của mỗi quốc gia cụ thể, VI
Lênin cho rằng, cần phải có một thời kỳ quá độ khá dài từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Ông còn nói cụ thể hơn: "... tất yếu phải có một thời kỳ quá
độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa... tiến lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa”. Như vậy theo VI. Lênin, bản thân những nước có điểm xuất phát khi

10
bước vào thời kỳ quá độ là từ chủ nghĩa tư bản đã cần phải có độ dài của thời
kỳ quá độ là khá lâu dài thì đối với những nước có điểm xuất phát thấp hơn
chủ nghĩa tư bản - tiển tư bản chủ nghĩa càng chắc chắn rằng sẽ có thời kỳ quá
độ còn lâu dài hơn gấp nhiều lần. Bởi lễ, về mặt khách quan, chủ nghĩa xã hội
ra đời trên cơ sở của sự phát triển chủ nghĩa tư bản, hay nói cách khác, trong
quá trình phát triển mạnh mẽ của mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề hiện
thực cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, nền đại công nghiệp, phương pháp quản
lý, tổ chức sản xuất và xã hội mà còn cả sự phát triển toàn diện của văn hóa, xã
hội và con người. Đó chính là tiền đề hiện thực của sự ra đời của xã hội mới -
xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc khó khăn,
phức tạp và mới mẻ, phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước
làm quen với những công việc đó.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền
kinh tế rất phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng sản xuất đã phát
triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới,
xây dựng nền văn hóa mới. Đối với những nước thuộc loại này, có nhiều thuận
lợi hơn, do vậy thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, từ
một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa thì cũng phải trải qua thời kỳ quá độ lâu đài.
Chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là chưa
có đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở xã hội và con người để tiến lên chủ
nghĩa xã hội một cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, đối với những
nước chưa trải qua quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản thì, muốn xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải thực hiện thời kỳ quá độ một cách
lâu dài với những bước đi thích hợp và với một khối lượng công việc to lớn
bao gồm trong đó không chỉ những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà hơn thế, còn phải đồng thời đạt được cả

11
những thành tựu căn bản mà chủ nghĩa tư bản phải mất hàng trăm năm mới có
được.
C. Mác cho rằng thời kỳ này bao gồm những cơn đau để kéo dài có nghĩa
là tiến trình quá độ không dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải qua nhiều
khúc quanh, quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng. Điều đó cũng được Lê –
nin khẳng định rằng: trong thời kỳ quá độ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội có khi phải “làm lại nhiều lần” mới xong và trong thực tế, diễn biến của
tiến trình quá độ trong gần chín mươi năm qua với những thất bại thăng trầm
cũng đã chứng minh điều đó. Như vậy, chắc chắn thời kỳ quá độ không chỉ vô
cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn phát triển rất lâu dài với
những nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

II. Liên hệ thực tiễn Việt Nam: Tính tất yếu khách quan của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế
phát triển. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là
con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con
đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch
sử tự nhiên của Cách mạng Việt Nam.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền
Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống
nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm
vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
• Đối với những nước phát triển, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời
kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài.

12
• Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học
tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo
nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt
và lâu dài".
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu
lịch sử đối với nước ta, vì:
• Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi
thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ
nghĩa. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Quá trình cải
biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa không phải là
quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua
nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa
xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến
bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện
lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư
bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự
phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi
theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của
lịch sử.
• Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế
kỷ XX. Nhờ con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành
công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được
độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc
13
và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử
dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một
tất yếu lịch sử.
Khả năng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam
• Về khả năng khách quan
Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc
gia, không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trở thành
một tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự
quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát
triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản
xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực
hiện "con đường phát triển rút ngắn". Xu thế toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng
những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc
khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát
triển, nếu như có đường lối, chính sách đúng đắn. Trong điều kiện đó, cho
phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng
có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
• Về những tiền đề chủ quan:
Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên
đa dạng. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô
sản, đã xây dựng những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã
hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo - một đảng
giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối đúng đắn
và gắn bó với quần chúng - đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng quan
14
trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng
chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn
vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới đáp ứng được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng
vật chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ
Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả bước đầu khả
quan, giữ vững ổn định chính trị; tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát triển kinh
tế; đời sống nhân dân được cải thiện... điều đó đã củng cố và khẳng định con
đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
Nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
• Đây chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp
tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là sự rút
ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng
con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn một
cách đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
• Chủ nghĩa tư bản đã có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, xã hội hoá lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Quá trình này đã diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ cùng
với những đau khổ đối với con người. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử
mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường
tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây
15
không phải là công việc có thể làm nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: "tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một
công tác tổ chức và giáo dục"
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời
hạnh phúc.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

C. KẾT LUẬN
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mang tính tất yếu trên con
đường lịch sử của mọi quốc gia, dân tộc. Đối với VIệt Nam, đây là một lựa
chọn đúng đắn trong đường lối chiinhs sách của Đảng và Nhà nước để dân tộc
có thể phát triển lớn mạnh, dần theo kịp các quốc gia phát triển trên thế giới.
Từ tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nhà nước
cần có những phương hướng – nhiệm vụ cơ bản xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập tưng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị tri

16
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chính
sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, trung thành
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả
cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta dài hay ngắn tùy thuộc một
phần quan trọng vào tính năng động chủ quan của chúng ta. Xuất phát từ thực
tiễn, vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn, vững vàng nguyên tắc, linh hoạt
trong hình thức, bước đi, là một trong những chìa khóa đưa sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta đến thành công.

17

You might also like