You are on page 1of 68

MỤC LỤC

TUẦN 1
1.1. Nhận diện nguyên nhân, bản chất của sự khủng hoảng, sụp đổ của chế độ Xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu và bài học cho Việt Nam. 3
1.2. Dẫn chứng thực tiễn cho xu hướng trung lưu hóa trong sở hữu, thu nhập và
mức sống của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay; sự ảnh
hưởng của nó đối với sứ mệnh lịch sử và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân ở những nước này. 5
1.3. Dẫn chứng thực tiễn cho xu hướng trí thức hóa và xu hướng dịch vụ hóa trong
cơ cấu của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay; sự ảnh hưởng
của từng xu hướng đó đối với sứ mệnh lịch sử và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân ở những nước này. 6
1.4. Dẫn chứng thực tiễn về sự phát triển không ngừng của giai cấp công nhân (cho
dù mức độ tự động hóa của nền sản xuất ngày càng cao); về vai trò của giai cấp
công nhân trong nền sản xuất hiện đại và trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ,
vì tiến bộ xã hội ở các nước tư bản hiện nay. 7
1.5. Dẫn chứng thực tiễn về những áp bức, bóc lột đối với giai cấp công nhân ở các
nước tư bản phát triển hiện nay. 8
TUẦN 2
2.1. Dẫn chứng thực tiễn ở các nước tư bản phát triển hiện nay để chứng minh:
Chính chủ 9
nghĩa tư bản đã và đang chuẩn bị những điều kiện, tiền đề về kinh tế, chính trị, xã
hội cần thiết 9
cho sự thay thế tất yếu hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa bởi hình thái
kinh tế - xã hội 9
Cộng sản chủ nghĩa. 9
2.2. Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để chứng minh: Muốn xây dựng
thành công xã 11
hội Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam không thể bỏ qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. 11
2.3. Dẫn chứng thực tiễn trên lĩnh vực chính trị và kinh tế ở Việt Nam để minh
chứng cho lý 12
luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa 12
xã hội (trên lĩnh vực chính trị). 12
2.4. Dẫn chứng thực tiễn trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội ở Việt Nam để
minh chứng 13
cho lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm và thực chất của thời kỳ
quá độ lên chủ 13
nghĩa xã hội (trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội). 13
2.5. Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để chứng minh cho tính tất yếu của
việc “bỏ 13
qua chế độ tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi thống nhất đất nước
của Việt Nam. 13
2.6. Chỉ rõ điểm khác nhau căn bản trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
về “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” trước và sau Đại hội lần thứ IX. 15
TUẦN 3
3.1. Dẫn chứng thực tiễn (trong từng chế độ xã hội có đối kháng giai cấp) để chứng
minh cho 16
quan niệm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về tính giai cấp của dân chủ. 16
3.2. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam để minh họa cho quan niệm của Chủ nghĩa xã
hội khoa học về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 17
3.3. Dẫn chứng thực tiễn để minh chứng cho khác biệt về bản chất giữa nền dân
chủ tư sản 17
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 17
3.4. Vận dụng lý luận khoa học và dẫn chứng thực tiễn để phản bác quan điểm:
“Việt Nam 20
cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đảm bảo dân chủ cho nhân
dân”. 20
3.5. Dẫn chứng thực tiễn quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam để minh 21
họa cho quan niệm của Chủ nghĩa xã hội khoa học: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
kiểu nhà nước 21
“không nguyên nghĩa” hay “nhà nước nửa nhà nước”; là kiểu “nhà nước đặc biệt”
trong lịch sử. 21
3.6. Dẫn chứng thực tiễn về những biểu hiện của quan hệ liên minh giữa các giai
cấp, tầng lớp trong cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực
cơ bản của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. 23
TUẦN 4
4.1. Lập luận giải thích luận điểm: “Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc” là
nội dung tư tưởng cơ bản, quan trọng nhất trong Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. 24
4.2. Dẫn chứng thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế để minh
chứng: “Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc” là nội dung tư tưởng cơ bản,
quan trọng nhất trong Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. 25
4.3. Phân tích cơ sở lý luận khoa học để phản bác quan điểm sai trái: “Việt Nam
đánh Pháp, Mỹ, Nhật là đã đánh đuổi ba nền văn minh”. 26
4.4. Phân tích cơ sở thực tiễn để phản bác quan điểm sai trái: “Việt Nam đánh
Pháp, Mỹ, Nhật là đã đánh đuổi ba nền văn minh”. 28
4.5. Những cơ sở để xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 30
4.6. Dẫn chứng thực tiễn về sự biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình ở Việt Nam
hiện nay và tác động của sự biến đổi này đến các quan hệ gia đình. 33
TUẦN 5
5.1. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam hiện nay minh chứng cho quan niệm của Chủ
nghĩa xã hội khoa học về nguyên nhân chính trị - xã hội dẫn đến sự tồn tại và phát
triển của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 34
5.2. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam hiện nay minh chứng cho quan niệm của Chủ
nghĩa xã hội khoa học về nguyên nhân tâm lý và nguyên nhân nhận thức dẫn đến
sự tồn tại và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. 36
5.3. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam hiện nay minh chứng cho quan niệm của Chủ
nghĩa xã hội khoa học về nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân văn hóa dẫn đến sự
tồn tại và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. 36
5.4. Dẫn chứng thực tiễn cho mỗi khía cạnh của từng tính chất của tôn giáo. 37
5.5. Dẫn chứng thực tiễn về việc vận dụng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đối
với nguyên tắc “Phải phân biệt rõ mặt tư tưởng với mặt chính trị trong giải quyết
vấn đề tôn giáo”. 38
5.6. Phân tích tính cấp thiết của việc nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học trong
điều kiện hiện nay. 40
Tuần 1:
1.1 nguyên nhân, bản chất của sự khủng hoảng, sụp đổ của chế độ Xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu. Nhận diện và bài học cho Việt Nam.
Nguyên nhân khách quan
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường hoàn toàn mới mẻ, khó khăn, phức
tạp chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Hai là, sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc đối với chủ
nghĩa xã hội thế giới.
Ba là, hầu hết các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa có điểm xuất phát thấp, cơ
sở vật chất, kỹ thuật và trình độ phát triển về kinh tế so với chủ nghĩa tư bản còn
hạn chế.
Bốn là, về mặt khách quan, ảnh hưởng quá lớn của mô hình Xô Viết dẫn tới “áp
đặt mô hình Xô Viết”, coi đó là mô hình duy nhất của chủ nghĩa xã hội.
Nguyên nhân chủ quan
Một là, hạn chế trong tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận của Đảng Cộng sản, nhà
nước xã hội chủ nghĩa trong việc tìm kiếm mô hình phù hợp với quốc gia, dân tộc
mình.
Hai là, những yếu kém, khuyết điểm trong đường lối chính trị, sự vận hành kém
hiệu quả của hệ thống chính trị và pháp luật xã hội chủ nghĩa. do đường lối lãnh
đạo mang tính chủ quan, duy ý chí; cùng với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
làm cho sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện. Thêm vào đó là
sự thiếu dân chủ và công bằng đã làm tăng thêm sự bất mãn trong quần chúng.
Ba là, không bắt kịp bước phát triển của khoa học – kĩ thuật tiên tiến. Điều này dẫn
tới tình trạng trì trệ, khủng hoảng về kinh tế, xã hội. Chẳng hạn như ở Liên Xô,
trong những năm 70 của thế kỉ XX phải nhập lương thực của các nước Tây Âu.
Bốn là, sự mâu thuẫn, mất đoàn kết, thiếu thống nhất trong nội bộ hệ thống xã hội
chủ nghĩa là khi tiến hành cải tổ lại phạm phải sai lầm trên nhiều mặt làm cho
khủng hoảng thêm trầm trọng. Đặc biệt là sai lầm khi thực hiện chế độ đa nguyên
đa đảng, từ bỏ quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng.
Năm là sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước có tác động
không nhỏ làm cho tình hình trở nên thêm rối loạn.
Bản chất:
Các quan điểm sai trái về sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu:
Thứ nhất, nhiều học giả phương Tây, cả cánh tả và cánh hữu, từ tân bảo thủ đến
tân tự do, tin rằng sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đặt dấu chấm hết đối với chủ
nghĩa Mác - Lênin sau hơn 150 năm tồn tại. Đại diện cho quan điểm này là triết gia
tân bảo thủ Francis Fukuyama với công trình nổi tiếng “Sự cáo chung của lịch sử
và người cuối cùng” xuất bản năm 1992, trong đó cho rằng cùng với sự kết thúc
của Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của bức tường Berlin thì cuộc đấu tranh giữa
các hệ tư tưởng như là động lực của sự tiến bộ nhân loại đã đến hồi kết với thắng
lợi cuối cùng thuộc về nền dân chủ tự do và chủ nghĩa tư bản thị trường.
Có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Để phủ
định học thuyết Mác - Lênin, các thế lực thù địch cho rằng, học thuyết Mác - Lênin
Chỉ phù hợp với thế kỷ XIX và phù hợp trong một chừng mực nào đó với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất phương Tây thời đó. Lý luận này không còn phù
hợp với thế kỷ XX và đặc biệt trong điều kiện ngày nay khi Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa phát
triển thì càng không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Từ đó, họ tuyên truyền
xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không phù hợp ở Việt Nam và
cần loại bỏ. Gần đây,trước những khó khăn về kinh tế, xã hội của đất nước, họ
tuyên truyền luận điệu: Việc Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm, là duy ý chí. Họ
cho rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác chỉ là một mớ lý thuyết
suông về một chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được. Do
vậy, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và trên toàn thế giới là một tất yếu,
là sự cáo chung đã được báo trước.
Thứ hai, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng kích thích cuộc đấu tranh tư
tưởng ngay trong lòng các đảng cộng sản do sự trỗi dậy của hàng loạt các quan
điểm mạo danh Mác-xít – Lênin-nít, kêu gọi bảo vệ học thuyết này, nhưng thực
chất gây nghi ngờ, chia rẽ, xói mòn cơ sở lý luận Mác - Lênin. Có quan điểm đem
quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của
chủ nghĩa Mác -Lênin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học thuyết”.
Bài học:
Từ sự sụp đổ và tan rã của CNXH ở Liên Xô, chúng ta có thể rút ra được những
bài học bổ ích sau đây:
Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trò cầm quyền
của Đảng, bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với nhân dân. Xây
dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, luôn luôn gắn bó mật thiết
với nhân dân, nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân.
Đảng luôn luôn phải giữ vai trò cầm quyền, có nghĩa là Đảng Cộng sản phải thể
hiện quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo về chính trị và không bao giờ chia sẻ
quyền lực đó cho bất kỳ lực lượng nào khác. Đảng mất là mất hết, vì Đảng lãnh
đạo toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân sự
cán bộ… Lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt chức năng, cụ thể hóa đường lối của
Đảng, quản lý tốt xã hội, kiến tạo xã hội mới, định ra chính sách xã hội đúng đắn
đáp ứng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực sự dân chủ, lắng nghe và tôn trọng
những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và bộ máy chính quyền là
“xương sống” của chế độ nên phải vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
thực sự vì nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, quản
lý điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân thì mới bảo đảm cho
sự tồn tại của chế độ xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Hai là, vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến
lược công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo,
quản lý kế cận, kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong công tác tổ
chức sắp xếp cán bộ, nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng những người
thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình
độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân dân và được tín nhiệm, bảo đảm sự vững vàng
về chính trị. Kiên quyết loại khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng và cơ quan Nhà nước
những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính trị tư tưởng và đạo đức, lối sống,
sách nhiễu dân và xa dân, không được tín nhiệm. Thực hiện tốt công tác quản lý
cán bộ, đánh giá và sử dụng cán bộ vì đó là gốc của mọi công việc, không để mất
cảnh giác để các thế lực thù địch cài cắm các phần tử cơ hội, phần tử chống đối
phản bội chui sâu, leo cao trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự
chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển vững chắc
của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của
đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái, đất nước dễ lâm vào mất ổn
định chính trị, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lôi kéo, kích động nhân dân
chống lại Đảng và chính quyền, làm chuyển hóa chế độ xã hội theo quỹ đạo của
chủ nghĩa tư bản. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia, không để
cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh tế. Cần duy trì được
tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực nội sinh, tạo được
nhiều việc làm để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công bằng xã hội, an sinh
xã hội, tạo cơ sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển bền vững. Mở rộng hội
nhập quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa, đặc biệt là hợp tác về kinh tế là xu thế
khách quan mà các nước XHCN phải tham gia, nếu không thì khó có thể tồn tại và
phát triển được. Vấn đề đặt ra là các nước XHCN mở rộng hội nhập quốc tế để tận
dụng được những thành tựu khoa học công nghệ, tận dụng được nguồn lực tài
chính của các nước phát triển làm cho sản xuất của đất nước ngày càng lớn mạnh
đủ sức cạnh tranh, lợi ích quốc gia - dân tộc và cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
ngày càng được củng cố.

Bốn là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và
bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phòng, chống có hiệu quả chiến
lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác tư tưởng,
lý luận phải trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong điều kiện Đảng cầm
quyền, trước hết phải quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục lý luận chính
trị cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là
những người nắm vững bản chất các nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới trở thành những người tiên phong. Nhận thức
sâu sắc nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và Đông Âu, với
những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Giáo dục mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, quán triệt kịp thời những nghị quyết đến cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền,
vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Củng cố niềm tin có cơ sở khoa học của cán bộ,
đảng viên, của nhân dân vào con đường đi lên CNXH trong giai đoạn hiện nay.
Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
trong tiến hành công tác chính trị tư tưởng, đặc biệt là phải phát huy vai trò của cơ
quan và cán bộ chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở.
Năm là, Đảng cầm quyền phải nắm chắc lực lượng vũ trang, đặc biệt chăm lo xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về chính
trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc. Việc nắm chắc và chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là
quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh, thực sự trung thành và tin cậy
về chính trị là một nguyên tắc chiến lược của đảng cầm quyền, liên quan trực tiếp
đến sự sống còn của quốc gia dân tộc và chế độ. Đảng cầm quyền phải thường
xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện bản chất giai cấp
công nhân của lực lượng vũ trang, luôn trung thành với Đảng, với nhân dân. Nâng
cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, quyết tâm chiến đấu của cán bộ,
chiến sĩ quân đội và công an, sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
được giao trong các tình huống không để bất ngờ xảy ra. Đảng luôn luôn giữ vững
vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện về mọi mặt đối với lực lượng vũ
trang, nhất là quân đội và công an; đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội và công an vừa hồng, vừa chuyên... Sự vững mạnh của lực lượng vũ trang
không chỉ là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, mà còn là đội quân lao động
sản xuất, đội quân công tác, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Đây
là lực lượng nòng cốt để cùng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh, chủ động xử lý kịp thời và đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch chống phá con đường đi lên CNXH.

1.2. Dẫn chứng thực tiễn cho xu hướng trung lưu hóa trong sở hữu, thu nhập và
mức sống của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay; sự ảnh
hưởng của nó đối với sứ mệnh lịch sử và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân ở những nước này.
1.2.1. Dẫn chứng thực tiễn cho xu hướng trung lưu hóa trong sở hữu, thu nhập và
mức sống của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay:
* Đời sống của họ nhìn chung được cải thiện:
- “Giai cấp lao động” chiếm 62%; các nhà doanh nghiệp hay “giai cấp tư bản” chỉ
chiếm 2%. Nằm giữa 2 giai cấp này là “tầng lớp trung lưu” (chiếm 36% lực lượng
lao động Mỹ). Tầng lớp trung lưu là các chuyên gia, chủ doanh nghiệp nhỏ và nhân
viên quản lý giám sát. Họ không chỉ là tầng lớp trung gian về phân phối thu nhập,
mà là những người sống ở giữa hai giai cấp ở hai cực trong xã hội tư bản. Trải
nghiệm của họ có một số khía cạnh giống với giai cấp lao động và một số giống
với doanh nhân.
- Thu nhập và mức sống ở “quãng giữa tư sản và công nhân” là đặc thù để nhận
biết nhóm xã hội trung lưu. Đặc điểm của các thành viên thuộc tầng lớp trung lưu
là họ có một công việc ổn định, được trả lương, có thu nhập gấp 0,5 đến 1,5 lần thu
nhập trung bình. Nhiều nghiên cứu xuyên quốc gia đã chỉ ra rằng tầng lớp trung
lưu có những giá trị chính trị khác so với người nghèo: họ coi trọng dân chủ hơn,
muốn tự do cá nhân nhiều hơn, bao dung các lối sống khác hơn, v.v.”.Họ có thể
mua cổ phiếu ở xí nghiệp, công ty cổ phần nào đó (ở Mỹ 10%, ở Anh 12% người
lao động có cổ phần) với hy vọng thu lợi tức cổ phần và lãi vốn.
* Tuy nhiên địa vị kinh tế và địa vị xã hội của họ không thay đổi: Tầng lớp trung
lưu hóa hiện nay dù có cổ phiếu với giá trị cao hơn trước cũng chẳng vì thế mà
thay đổi địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hội tư bản. Họ vẫn đang là lực lượng
chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư bản; là lực lượng đối
lập trực tiếp với giai cấp tư sản, bị bóc lột nhiều nhất và khoảng cách về mức thu
nhập giữa họ với giới chủ ngày càng lớn. Như vậy dù mức sống có cao hơn trước,
dù công nhân có được tham gia quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí
nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm” nhưng họ vẫn là người làm
thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng
lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn
luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn là giai cấp tiên phong trong xã
hội.
1.2.2. Sự tác động của nó đối với sứ mệnh lịch sử và việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân ở những nước này.
Xu hướng trung lưu hóa làm chậm tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử, tức là cách
CNTB làm điều hòa mâu thuẫn giữa công nhân và tư sản (công nhân đời sống tốt
lên, thu nhập tăng lên, cho nhân lực sở hữu tư liệu sản xuất quan trọng).
Sự trung lưu hóa của giai cấp công nhân chỉ là sự trung lưu hóa một bộ phận công
nhân được trung lưu thôi, không phải tất cả. Mà bộ phận công nhân được trung lưu
này chỉ được trung lưu sở hữu những tư liệu sản xuất không quan trọng, không trực
tiếp,... nên đây là cách tư sản điều hòa mâu thuẫn với công nhân. Công nhân nghĩ
rằng mình bị bóc lột, không được dùng TLSX, nên nhà tư sản cho họ sở hữu 1 ít
TLSX -> họ nghĩ rằng mình đang được trung lưu hóa, đang là nhà tư sản rồi,
không còn người khổ nữa nên không cần thực hiện sứ mệnh lịch sử nữa. Chính
điều này làm kìm hãm sứ mệnh lịch sử của GCCN. Mặc dù tất cả sự trung lưu đó
làm số phận người công nhân tốt lên, nhưng tất cả những điều đó không làm thay
đổi địa vị kinh tế và địa vị chính trị xã hội của GCCN. Vì về cơ bản công nhân vẫn
là những người bị chiếm đoạt giá trị thặng dư, giai cấp bị bóc lột triệt để nhất nên
công nhân vẫn hoàn toàn có sứ mệnh lịch sử của mình, chỉ có điều sứ mệnh lịch sử
đó chưa diễn ra do bị kìm hãm.

1.3. Dẫn chứng thực tiễn cho xu hướng trí thức hóa và xu hướng dịch vụ hóa trong
cơ cấu của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay; sự ảnh hưởng
của từng xu hướng đó đối với sứ mệnh lịch sử và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân ở những nước này.
1. Xu hướng tri thức hóa
Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh tế
tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa
công nhân là hai mặt của cùng một quá trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối với công
nhân và giai cấp công nhân. Trên thực tế đang có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ
công nhân theo xu hướng này. Đó là “công nhân tri thức”, “công nhân trí thức”,
“công nhân áo trắng”, lao động trình độ cao. Nền sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi
hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp.
Báo cáo phát triển nhân lực của Ngân hàng Thế giới từ thế kỷ XXI (2002) đã nêu
rõ: “Tri thức là một động lực cơ bản cho việc gia tăng năng suất lao động và cạnh
tranh toàn cầu. Nó là yếu tố quyết định trong quá trình phát minh, sáng kiến và tạo
ra của cải XH”. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên
được đào tạo lại, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong nền sản
xuất. Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ không còn thuần
túy là hao phí sức lực cơ bắp. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần
và văn hóa tinh thần của công nhân ngày càng tăng, phong phú đa dạng hơn và đòi
hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần cao hơn. Với tri thức và khả năng làm chủ công
nghệ, với năng lực sáng tạo trong nền sản xuất hiện đại, người công nhân hiện đại
đang có thêm điều kiện vật chất để tự giải phóng. Công nhân hiện đại với trình độ
tri thức và làm chủ công nghệ cao, với sự phát triển của năng lực trí tuệ trong kinh
tế tri thức, trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn vốn XH quan trọng nhất trong các
nguồn vốn của XH hiện đại.
* Dẫn chứng thực tiễn:
Ngày nay, kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ ở các nước công nghiệp phát
triển (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada...), kể cả các nước công nghiệp mới
(Hàn Quốc, Singapore...) và bắt đầu định hình ngày càng rõ nét ở các nước đang
phát triển (Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil...). Theo tiêu chí về nền kinh tế tri thức mà
nhiều nước chấp nhận, được gói gọn trong con số 70%. Đó là: trên 70% GDP là do
các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mang lại (mà công nghệ
cao là do công nhân trí thức đảm nhiệm); trên 70% trong cơ cấu giá trị gia tăng là
kết quả của lao động trí óc; trên 70% là công nhân lao động trí óc (công nhân trí
thức); trên 70% vốn là vốn con người. Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu hiện nay,
kinh tế tri thức đang chiếm đến 45% - 70% GDP.
Hiện nay, nước ta đang cố gắng “đi tắt, đón đầu”, tiến vào giai đoạn công nghiệp
hiện đại và tiếp cận công nghệ thông tin, bước đầu xây dựng và phát triển kinh tế
tri thức. Những thành tựu của công nghệ thông tin hiện đang xâm nhập ngày càng
sâu rộng vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn
thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hàng năm vào loại cao nhất
và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Năm 2019, các doanh nghiệp
công nghệ thông tin đang nộp ngân sách nhà nước trên 53.000 tỷ đồng. Hai mặt
hàng công nghiệp công nghệ thông tin (máy vi tính và linh kiện điện tử) giữ vị trí
thứ 3 trong 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong giai đoạn 2014-
2019, tổng doanh thu ngành công nghiệp công nghệ thông tin đạt 110 tỷ USD, với
mức độ tăng trưởng trung bình 31,1% năm, hình thành đội ngũ lao động công nghệ
số với hơn 1 triệu người. Điều đó cho thấy xu hướng trí thức hóa công nhân ở nước
ta đang ngày càng rõ hơn.
2. Xu hướng dịch vụ hóa trong cơ cấu của giai cấp công nhân:
Xu hướng dịch vụ hóa là kết quả của xu hướng trí thức hóa chính là xu hướng dịch
chuyển cơ cấu công nhân: giảm công nhân trong các ngành công nghiệp truyền
thống (khai thác mỏ, luyện kim, cơ khí chế tạo, xây dựng), trong khu vực sản xuất
vật chất, tăng công nhân trong các ngành chế biến, các ngành công nghiệp mũi
nhọn, công nhân dịch vụ, du lịch…
3. Sự ảnh hưởng của từng xu hướng đó đối với sứ mệnh lịch sử và việc thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở những nước này.
Tác động tích cực với sứ mệnh lịch sử, đó là sự phát triển của bản thân giai cấp
công nhân về số lượng và chất lượng, hay nói cách khác, xu hướng tri thức hóa,
dịch vụ hóa đã là sự phát triển, nâng cao chất lượng của giai cấp công nhân. Về
mặt chủ quan, khi người công nhân có tri thức, họ sẽ sớm nhận thức được vai trò,
sứ mệnh lịch sử của mình đối với thế giới, họ sẽ có khả năng tiếp thu những lí luận
cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng, kêu gọi quần chúng và là nhân tố tích cực
tham gia thành lập ĐCS. Chất lượng GCCN tăng nhanh sẽ tiến dần, tiệm cận với
SMLS, nhưng về mặt khách quan, nếu một phần nào đó thì công nhân trí thức lại
chính thuộc bộ phận trung lưu hóa thì việc thực hiện SMLS thì sẽ còn rất lâu dài.
1.4. Dẫn chứng thực tiễn về sự phát triển không ngừng của giai cấp công nhân (cho
dù mức độ tự động hóa của nền sản xuất ngày càng cao); về vai trò của giai cấp
công nhân trong nền sản xuất hiện đại và trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ,
vì tiến bộ xã hội ở các nước tư bản hiện nay.
* Về phương thức lao động của GCCN:
- Công nhân trước kia thế kỉ 19, thì họ chỉ lao động chân tay. Nhưng hiện nay công
nhân lao động bằng trí tuệ, trí óc.
* Về tư duy, lập trường lí luận cách mạng của GCCN:
Ban đầu GCCn đấu tranh rất tự phát, không nhận thức được vai trò sứ mệnh lịch sử
của mình. Nhưng hiện nay công nhân đấu tranh tự giác, đấu tranh chính trị. Mặc dù
phong trào cộng sản của công nhân ở các nước phương Tây chưa phát triển. Nhưng
bản thân giai cấp công nhân nhận thức ra được vai trò, sứ mệnh của mình. Lập trg
chuyển từ tự giác sang tự phát.
* Tính sở hữu TLSX trong QHSX tư bản chủ nghĩa
- Công nhân thế kỉ 19 không có TLSX nào cả, đến nay mặc dù công nhân có CS tốt
lên, TLSX có thêm một chút. Đặc biệt các nước XHCN hiện nay, công nhân cùng
nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất CNXH.
* Cơ cấu ngành nghề xu hướng tri thức, dịch vụ hóa
=> So sánh tất cả giai cấp tiến bộ của GCCN so với TK19. Vai trò công nhân trong
nền SX rất quan trọng vì công nhân không chỉ là người lao động trực tiếp mà còn
là người lao động gián tiếp cho nên số lương công nhân không ngừng tăng lên. Vai
trò công nhân trong nền sản xuất TBCN không thay đổi, công nhân vẫn là lực
lượng sản xuất hàng đầu XHCN, tạo ra sự giàu có phát triển vượt bậc của CNTB.
1.5. Dẫn chứng thực tiễn về những áp bức, bóc lột đối với giai cấp công nhân ở các
nước tư bản phát triển hiện nay.
Một là, về quan hệ sở hữu: Mặc dù có sự đa dạng về sở hữu, nhưng vấn đề đặt ra là
trong hàng triệu triệu cổ phần của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, người lao
động nắm tỉ lệ bao nhiêu? Ai vẫn là người nắm số lượng cổ phần, cổ phiếu lớn
hoặc giữ tỷ lệ cổ phiếu chi phối?... Câu trả lời chắc chắn vẫn là các nhà tư bản.
Thông qua chế độ tham dự, theo mô hình một công ty mẹ khống chế nhiều công ty
con, một công ty con khống chế nhiều công ty cháu... mà quyền lực kinh tế, chính
trị, xã hội của nhà tư bản, của các tổ chức độc quyền tăng lên. Vì vậy, nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sở hữu trong nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa hiện nay làm cho nó phù hợp được phần nào đó với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và củng cố chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, tuy nhiên, bản chất của quan hệ sở
hữu không thay đổi.

Hai là, về tổ chức quản lý sản xuất: Trong tổ chức quản lý sản xuất, việc thuê
mướn hoặc sa thải (kể cả giám đốc điều hành sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám
đốc marketing, thậm chí cả giám đốc tài chính …) đều do các nhà tư bản quyết
định. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất nhằm khai
thác tối đa nguồn lực con người, tiềm lực khoa học, công nghệ phục vụ cho khát
vọng làm giàu của nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh thích nghi
về tổ chức quản lý đã tạo ra sự thích ứng nhất định để thúc đẩy xã hội hoá lực
lượng sản xuất tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do tư liệu sản xuất
thuộc quyền chiếm hữu của nhà tư bản nên quyền tổ chức quản lý sản xuất vẫn do
giai cấp tư sản điều hành, chi phối và mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ
giữa nhà tư bản với công nhân vẫn là quan hệ giữa ông chủ và người làm thuê.
Trong cuốn “Tư bản thế kỷ XXI”, Thomas Piketty, nhà kinh tế học người Pháp
nhận định “Dữ liệu kế toán mà hiện tại các doanh nghiệp được yêu cầu phải công
bố là hoàn toàn không đủ để cho phép người lao động hay những công dân bình
thường có thể có ý kiến về các quyết định của công ty, nói gì đến việc can thiệp
vào những quyết định đó”[2].

Ba là, trong quan hệ phân phối: Thực hiện trả lợi tức cổ phần và sử dụng một bộ
phận lợi nhuận khổng lồ để phân phối thông qua các quỹ không làm cho bản chất
của quan hệ phân phối thay đổi. Nhìn nhận một cách khác, việc điều chỉnh quan hệ
phân phối sản phẩm phần nào góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
người công nhân làm thuê. Tuy nhiên, những điều chỉnh về quan hệ phân phối đã
làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản không còn là xã hội bóc lột
và bất công, là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, xã hội mà “toàn dân là tư sản”, từ đó
gây ra sự chia rẽ trong phong trào đấu tranh của công nhân.
1.6. Thực tiễn về những điều kiện chủ quan đảm bảo cho việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay và sự ảnh
hưởng của nó đến cuộc cách mạng giành chính quyền của giai cấp công nhân ở
những nước này.
Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng
- Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về chất lượng giai cấp
công nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch
sử của mình.
+ Chất lượng công nhân phải thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức chính trị
của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận thức được vai trò và trọng trách
của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp công nhân phải được giác ngộ về
lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng giai
cấp công nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật
và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay.
2. Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình
- Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai
trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp
công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng nhất
của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp.
+ Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân
tộc và xã hội.
- Đảng Cộng sản đề ra đường lối, tuyên truyền đưa đường lối vào thực tiễn cuộc
sống; tổ chức thực hiện và gương mẫu thực hiện đường lối.
3. Sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác (trí thức, tiểu thương,. . . ) do giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo
→ Chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản,
từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế
giới.

Tuần 2
2.1. Dẫn chứng thực tiễn ở các nước tư bản phát triển hiện nay để chứng minh:
Chính chủ
nghĩa tư bản đã và đang chuẩn bị những điều kiện, tiền đề về kinh tế, chính trị, xã
hội cần thiết
cho sự thay thế tất yếu hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa bởi hình thái
kinh tế - xã hội
Cộng sản chủ nghĩa.
Điều kiện KT:
Cách mạng công nghiệp lần 2 đánh dấu sự ra đời của công nghiệp cơ khí
→ phát triển mạnh mẽ về lực lượng sản xuất: ngày càng cơ khí hóa, hiện đại hóa
=> càng mang tính xã hội hóa
→ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất TBCN
Hiện nay, Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có những đặc điểm
mới. Tích tụ, tập trung sản xuất làm hình thành các công ty có quy mô ngày càng
lớn, trở thành những công ty tư bản độc quyền. Nhu cầu vốn của các công ty này
vô cùng lớn, vượt quá khả năng của một vài cá nhân, đòi hỏi phải thu hút các
nguồn lực xã hội. Công ty cổ phần trở thành hình thức tổ chức phổ biến của các
công ty, tập đoàn kinh tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sở hữu tư nhân, nền tảng
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong các công ty này, không còn tồn tại dưới
hình thức sở hữu của những người sản xuất độc lập, mà là sở hữu tư nhân đã được
xã hội hóa. Trong các công ty cổ phần, không chỉ có vốn của các nhà tư bản mà
còn có sự tham gia của công nhân, người lao động. Với việc tham gia thị trường
chứng khoán, phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường chứng khoán, số
người (và tổ chức) đầu tư vào cổ phiếu ngày càng nhiều, quyền sở hữu cổ phần của
công ty ngày càng phân tán. (Nhật: Mitsubishi, Sony, Honda,…)
Các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, phân phối trong chủ nghĩa tư bản hiện đại
cũng có những thay đổi lớn. Các dây chuyền sản xuất tự động, các máy móc tự
động, các robot thay thế cho con người được sử dụng ngày càng nhiều. Hệ thống
máy tính, trí tuệ nhân tạo đã thay thế nhiều hoạt động quản lý sản xuất, phân phối
của con người. Thay thế cho việc tổ chức sản xuất tập trung, hoàn chỉnh một sản
phẩm trước đây, ngày nay, việc sản xuất một sản phẩm, nhất là những sản phẩm
lớn, phức tạp, được chia nhỏ, phân tán cho nhiều đơn vị sản xuất độc lập thực hiện,
chuyên môn hóa sản xuất những chi tiết, linh kiện được tiêu chuẩn hóa, tạo nên
chuỗi các công đoạn sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm có quan hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau. Các đơn vị sản xuất có thể ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác
nhau. Cách thức tổ chức sản xuất mới tạo điều kiện, cơ hội cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa nhưng có công nghệ hiện đại hợp tác, liên kết, trở thành vệ tinh, đối tác
tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn kinh tế lớn. Các công ty,
tập đoàn kinh tế lớn chuyển quản lý từ mô hình “kim tự tháp”, tập trung quyền
quản lý vào các công ty mẹ sang quản lý theo mô hình “mạng lưới”, mỗi đơn vị
sản xuất là một điểm nút trong mạng lưới, có tính tự chủ cao, có khả năng ứng phó
linh hoạt, hiệu quả với các biến động của thị trường
Điều kiện chính trị-XH:
Là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp tư sản lỗi thời
Chủ nghĩa tư bản giúp phát triển lực lượng sản xuất một cách mạnh mẽ (phát triển
vượt bậc về số lượng và chất lượng người công nhân) tuy nhiên đó cũng chính là
tiền đề dẫn tới sự sụp đổ của CNTB (công nhân chính là lực lượng lãnh đạo cách
mạng xã hội)
- Cùng với sự phát triển kinh tế, cơ cấu xã hội, giai cấp trong chủ nghĩa tư bản hiện
đại cũng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Ngay cơ cấu giai cấp công nhân cũng có
những sự thay đổi lớn, quan trọng. Bên cạnh lực lượng đông đảo những công nhân
truyền thống, những người lao động làm thuê trực tiếp làm việc trong các dây
chuyền sản xuất, lưu thông của các công ty, tập đoàn tư bản, họ được xem là những
“công nhân cổ xanh” (trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, họ cũng đòi hỏi phải có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đến một trình độ nhất định, phải được đào
tạo mới đáp ứng được yêu cầu công việc), còn có một bộ phận người lao động làm
thuê có trình độ cao, có thu nhập cao, đảm nhận các vị trí lãnh đạo, quản lý,
chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau trong guồng máy sản xuất của tư bản, họ được
xem là những “công nhân cổ trắng”. Công nhân cổ trắng cùng với tầng lớp công
chức, viên chức nhà nước, các luật sư, bác sĩ, giáo sư các trường đại học, các viện
nghiên cứu,... trở thành tầng lớp trung lưu của xã hội. Ở các nước tư bản phát triển,
tầng lớp trung lưu chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu xã hội, ở giữa hai cực là
giai cấp tư sản giàu có và những người lao động có mức sống thấp, những người
thất nghiệp có cuộc sống vô cùng khó khăn.
- Ở các mức độ khác nhau, Nhà nước ở các nước tư bản phát triển đều thể hiện sự
quan tâm, coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của người
lao động, quy định mức tiền lương tối thiểu, điều kiện làm việc, điều hòa quan hệ
giữa người lao động và chủ doanh nghiệp; thông qua chính sách thuế để phân phối
lại thu nhập, thông qua các chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội để hỗ trợ
người có hoàn cảnh khó khăn, giảm bớt sự phân hóa và xung đột xã hội; định
hướng doanh nghiệp vào thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, các tổ chức xã hội do người dân, các tầng lớp, đối
tượng xã hội tự nguyện thành lập ngày càng nhiều, có vai trò ngày càng lớn. Nhà
nước tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội hoạt động để bảo vệ lợi ích của các
thành viên, hội viên của mình, phản ánh với nhà nước nguyện vọng, ý kiến của
thành viên, hội viên; thay mặt các thành viên, hội viên thương lượng với giới chủ
về tiền lương, điều kiện lao động và các bảo đảm xã hội cho người lao động...
Do chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh, thích nghi
Quan hệ sx và lực lượng sx: tất cả các hình thái đều dựa trên QHSX và LLSX để
thay thế hình thái XH cũ. Mâu thuẫn ngày càng lớn, công nhân ngày càng nhận
thức đc sứ mệnh của mình
Mâu thuẫn XH: phân hóa giàu nghèo, mâu thuẫn ng lđ vs nhà tư bản,… -> CNTB
ko thể kiểm soát các mâu thuẫn ngày càng pt trong lòng XHTBCN
Sự pt của gc công nhân
-> càng ngày càng đến giới hạn của CNTB
-> tính tất yếu cho sự ra đời của CNXH
2.2. Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để chứng minh: Muốn xây dựng
thành công xã
hội Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam không thể bỏ qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
- Cơ sở lý luận : Mác cho rằng không có một quốc gia nào muốn lên CNXH mà
không phải trải qua thời kỳ quá độ. Đây là thời kỳ tất yếu, dù là tiến lên theo hình
thức trực tiếp hay gián tiếp thì cũng đều phải trải qua.
- Cơ sở thực tiễn :
+ Căn cứ vào thế giới : Tất cả các nước trên thế giới hiện nay đang xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì cũng đều đang phải trải qua thời kỳ quá độ. Ví dụ : Trung Quốc,
Cuba, Triều Tiên,....
+ Hoàn cảnh thực tiễn của VN:
Bước ra khỏi chiến tranh tuy với tư thế là bên thắng lợi nhưng Việt Nam lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề trên tất cả các mặt. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã làm gần 3 triệu người chết, 4.4 triệu người bị tàn
tật, 2 triệu người nhiễm chất độc màu da cam và thế hệ sau bị di chứng. Nhiều
thành phố, làng mạc, đường xá, di tích lịch sử bị phá hủy.
Nước ta đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, lại chịu hậu quả nặng nề
của chiến tranh. Bối cảnh trong nước và quốc tế vào những năm cuối thập kỷ 70,
đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX hết sức phức tạp. Tất cả những điều này đều đưa nền
kinh tế nước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng khủng hoảng kéo dài. Lạm phát
có thời kì luôn ở mức 3 con số
Chính những điều kiện thực tiễn đó khiến ta không thể đi lên CNXH luôn mà bắt
buộc phải trải qua thời kì quá độ để xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
XH mới, sắp xếp, cải tạo, xây dựng qh XHCN. Đây là yếu tố vô cùng cần thiết và
tất yếu chúng ta cần phải thực hiện

2.3. Dẫn chứng thực tiễn trên lĩnh vực chính trị và kinh tế ở Việt Nam để minh
chứng cho lý
luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa
xã hội (trên lĩnh vực chính trị).
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội tất yếu tồn tại nền kinh
tế nhiều thành phần, trong đó có những thành phần đối lập nhau. Bên cạnh các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội, còn có các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên những hình
thức sở hữu khác về tư liệu sản xuất. Trong đó, kinh tế nhà nước, sở hữu nhà nước
đóng vai trò chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Đây là thời kỳ quá độ về mặt chính trị, trong thời kỳ này,
sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân được thể hiện bằng việc nhà nước
chuyên chính vô sản được thiết lập, được củng cố và ngày càng hoàn thiện, nhằm
thực hiện dân chủ cho nhân dân, bảo vệ những thành quả cách mạng, trước các thế
lực phản động, thù địch với những âm mưu và hành động chống phá của chúng.
Dẫn chứng của Việt Nam:
-Kinh tế: Cái cũ đan xen với cái mới
+ Tồn tại nhiều hình thức sở hữu: tư nhân, xã hội, sở hữu hỗn hợp,…
+ Các thành phần kinh tế: tư nhân ( Vingroup), có vốn đầu tư nước ngoài ( VD:
Samsung), cá thể tiểu chủ hộ gia đình.
+ Sở hữu chung của toàn dân: tài nguyên thiên nhiên
+ Sở hữu tập thể: hợp tác xã
+ Sở hữu nhà nước: các tư nhân thuộc quản lí của nhà nước.
Biểu hiện của sự đấu tranh: sự đấu tranh về khuynh hướng: định hướng xã hội chủ
nghĩa trong đó thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết quản
lí chi phối. Kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân mang tính
tự phát, chưa xóa bỏ quan hệ bóc lột, mang tính tư bản chủ nghĩa trong đó xã hội
chủ nghĩa theo đuổi con đường dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh. Vì vậy
nó có sự đấu tranh với nhau.
- Chính trị:
Cái mới: + Đảng cộng sản Việt Nam được cầm quyền, hệ thống pháp luật được
hoàn thiện.
Cái cũ: các thế lực thuộc chế độ cũ chống phá, kết nối các phần tử cực đoan để
chống phá nhà nước, âm mưu lật đổ chính quyền.
2.4. Dẫn chứng thực tiễn trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội ở Việt Nam để
minh chứng
cho lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm và thực chất của thời kỳ
quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội).
- Nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng khoa
học và cách mạng của giai cấp công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức
xã hội; đồng thời, kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống của các
dân tộc, tiếp thu những giá trị về tư tưởng, văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà
nhân loại đã tạo ra.
Nền văn hoá Việt Nam ngoài việc kế thừa tinh hoa văn hoá dân tộc hàng ngàn năm
do cha ông truyền lại : Những làng nghề truyền thống : Lụa Vạn Phúc, gốm Bát
Tràng,.... Trò chơi dân gian : đua thuyền, cờ người ,.... Truyền thống, đạo hiếu tốt
của dân tộc: Uống nước nhớ nguồn , ăn quả nhớ kẻ trồng cây,... Không những vậy
còn tiếp thu những tinh hoa, văn hoá mới mẻ tích cực từ nước người: Các thể loại
nhạc : Pop, rock, rap,...Nền điện ảnh của nước bạn : TQ, Hàn Quốc,Thái Lan,....
Bên cạnh đó cũng chính là cuộc đấu tranh để bài trừ những tư tưởng cổ hủ, mê tín
dị đoan, làm cản trở tư duy và nhận thức của con người : Tảo hôn , nối dây, cúng
ốm đau,....Sự xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước muốn chống
phá lại nhà nước CHXHCNVN, nhà nước do nhân dân làm chủ
+ Trong nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, nhân dân có quyền làm chủ quá trình sáng
tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá và tinh thần của xã hội mới. Các hoạt động
văn hóa, như văn học, nghệ thuật, thư viện, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, đều
được quan tâm phát triển, có những công trình, tác phẩm có giá trị, có ý nghĩa
chính trị, xã hội sâu sắc. Chỉ tính riêng năm 2019, 59 nhà xuất bản trong cả nước
đã xuất bản trên 33.000 đầu sách với 400 triệu bản in, hàng nghìn sách điện tử đã
được phát hành. Hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng phát triển nhanh, ngày
càng hiện đại. Hàng trăm kênh phát thanh, truyền hình đang hoạt động, trong đó có
nhiều kênh kết nối, hợp tác quốc tế
2.5. Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để chứng minh cho tính tất yếu của
việc “bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi thống nhất đất nước
của Việt Nam.
Cơ sở lý luận:
Một trong những phát hiện vĩ đại của học thuyết Mác - Lênin là đã chỉ ra quy luật
phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình
thái kinh tế - xã hội: Từ cộng sản nguyên thủy đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn đầu là xã hội XHCN). Các hình
thái kinh tế - xã hội ra đời, phát triển theo những quy luật nội tại, trong đó, sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
bao trùm, chi phối mọi hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã chứng minh và khẳng định, CNTB là một hình thái kinh tế - xã hội có
nhiều tiến bộ, là nấc thang phát triển của lịch sử loài người(4), nhưng chính CNTB
đã tạo ra những mâu thuẫn sẽ đưa xã hội tư bản đến chỗ bị phủ định và sự ra đời tất
yếu của chủ nghĩa cộng sản. Đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất dựa trên sở
hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất ngày càng cao với trình độ của lực lượng
sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng lớn, khiến mâu thuẫn và xung đột xã hội
ngày càng gia tăng, thể hiện ở mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công
nhân và người lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp này tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng
XHCN với mục tiêu cuối cùng là phủ định CNTB và thay thế nó là một xã hội mới
tốt đẹp, tiến bộ hơn - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Cùng với việc chỉ ra quy luật loài người tất yếu sẽ đi lên CNXH, chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa Mác - Lênin bước đầu đã phác thảo về những đặc trưng cơ bản của
CNXH để sau này những người XHCN vận dụng, phát triển vào đời sống xã hội.
Theo đó, đặc trưng bản chất bao trùm nhất của CNXH là một xã hội khác hẳn về
chất so với các xã hội đã có, ở chỗ nó tạo mọi điều kiện để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, phát triển tự do cá nhân, để phát triển tự do của cả cộng đồng. Các
ông viết: “Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của
nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mọi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
Trong nhiều bài viết, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin luôn nhắc nhở các Đảng
Cộng sản tránh việc nhận thức giản đơn về CNXH; tránh sự dập khuôn máy móc
những mô hình và con đường đi lên CNXH của nước này cho nước khác; tránh sự
đề cao điểm tương đồng, coi nhẹ nét riêng, đặc thù và ngược lại. Bởi vì: “ở Anh
không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”.
Cơ sở thực tiễn:
Nhiều năm liên tục chúng ta áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô - viết
để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Đó là học hỏi kinh
nghiệm của Liên Xô với sự khái quát thành 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội
chủ nghĩa họp ở Mát-xcơ-va năm 1957 đã thông qua. Có thể thấy, 9 quy luật đó
được phản ánh trong văn kiện các Đại hội III, IV, V của Đảng ta. Mặc dù cũng đạt
được những thành tựu nhất định trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng chúng ta
đã áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết vào Việt Nam mà nội dung
của nó là không thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, coi kế hoạch là
đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa; không thừa nhận nền kinh
tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh
chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân, xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng nội, thiên về
phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất
đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước; thi hành chế độ phân
phối theo lao động trên danh nghĩa, nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, ít quan
tâm tới lợi ích cá nhân; thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, tạo ra tâm lý thụ động, ỷ
lại vào Nhà nước, không phát huy được tính năng động và tích cực của người lao
động. Gắn liền với việc áp dụng máy móc chủ nghĩa xã hội Xô-viết vào Việt Nam
là những sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc
biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội,
chạy theo nguyện vọng chủ quan.

Đến nay, nội dung của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở nước ta đã nêu ra tại các Đại hội III, IV và V của Đảng có nhiều điểm
không còn thích hợp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại nội dung của thời
kỳ quá độ và tìm nội dung mới thích hợp.

Qua đây, ta có thể rút ra một số nhận xét sau:

Một là, trong quá trình vận dụng học thuyết Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ
nghĩa vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam,
Đảng ta đã luôn vận dụng sáng tạo, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm quy luật công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Đảng ta rất chú ý đến đặc điểm xuất phát của đất nước để từ đó định ra
đường lối, chính sách. Điều đó được thể hiện rõ ở các Đại hội II, III, IV và V.
Ba là, Đảng ta nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở nước ta là thời kỳ quá độ lâu dài và do đó, đã nói tới các chặng đường
mà nước ta phải trải qua.

2.6. Chỉ rõ điểm khác nhau căn bản trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
về “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” trước và sau Đại hội lần thứ IX.
- Nếu như tại Đại hội VI (1986) của Đảng khẳng định thời kỳ quá độ ở nước ta do
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua “giai đoạn phát
triển” tư bản chủ nghĩa, thì đến Đại hội VII (1991), Đảng ta không còn dùng cụm
từ “giai đoạn phát triển” mà thay vào đó là bỏ qua “chế độ” tư bản chủ nghĩa. Nhận
thức của Đảng về bỏ qua “chế độ tư bản chủ nghĩa” của thời kỳ quá độ có sự thay
đổi, từ chỗ bỏ qua cả “giai đoạn phát triển” đến chỗ chỉ bỏ qua “chế độ chính trị”
của tư bản chủ nghĩa. Đó là một bước tiến dài trong nhận thức của Đảng về việc bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta đã có bước phát triển mới về nhận thức bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, để phát triển như lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”
+ Giáo sư, Tiến sĩ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định: “Nói bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ
qua những thói hư, tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với
chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn
minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương
nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có sự chọn lọc trên quan điểm khoa
học, phát triển”
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là cơ sở dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản
xuất, từ đó kéo theo sự thay đổi các quan hệ xã hội khác. Trong tiến trình phát
triển, rõ ràng không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất, song
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tuy tồn tại, còn được sử dụng nhưng không
chiếm vị trí chủ đạo và đương nhiên theo đó không có sự xác lập kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa. Cùng với việc không thể bỏ qua sự phát triển của lực lượng
sản xuất, thì cũng không thể bỏ qua những giá trị nhân văn, văn minh mà chủ nghĩa
tư bản đã đạt được. Do đó, nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là bỏ
qua toàn bộ các yếu tố cấu thành chủ nghĩa tư bản, mà phải sử dụng các yếu tố đó
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đây là nhận thức mới hết sức khoa học và đúng đắn, khi cho rằng trong thời kỳ
quá độ sẽ tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ nội dung mới quan trọng: Nhất
thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài: Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ
và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
Như vậy, ở Cương lĩnh bổ sung Đảng tiến thêm một bước trong việc thể hiện quan
điểm về sự tất yếu và cần thiết nhận thức thời kỳ quá độ là thời kỳ lâu dài, trong
khi Cương lĩnh năm 1991 chỉ nêu yêu cầu về sự cần thiết phải có bước đi, hình
thức, biện pháp thích hợp.

- Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn và sự vận
dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều
kiện cụ thể ở Việt Nam trong mỗi thời kỳ phát triển. Thời kỳ trước đổi mới do xuất
phát từ tư duy giản đơn, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, duy ý chí với mong muốn
mau chóng đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành một nước xã hội chủ nghĩa nên
trong tư duy lý luận về thời kỳ quá độ của Đảng có nhiều vấn đề tồn tại và ảnh
hưởng đến quan niệm phân kỳ thời kỳ quá độ. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ
đổi mới, tư duy lý luận về thời kỳ quá độ dần sáng tỏ, xóa bỏ được tư duy giản
đơn, nóng vội, đốt cháy giai đoạn và xác định được bỏ qua hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa là bỏ qua cái gì và đồng thời cần thiết phải thừa kế có chọn
lọc những thành tựu của hình thái - kinh tế xã hội đã được hình thành trên 500 năm
của chủ nghĩa tư bản, để xây dựng nên hình thái - kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện đại hơn, ưu việt hơn.

Tuần 3
3.1. Dẫn chứng thực tiễn (trong từng chế độ xã hội có đối kháng giai cấp) để chứng
minh cho
quan niệm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về tính giai cấp của dân chủ.
- Trong thời kì chiếm hữu nô lệ thì quyền lực thuộc về chủ nô, một thiểu số rất
nhỏ. Ở các nước Phương Tây, tính giai cấp được thể hiện rất sâu sắc và mâu thuẫn
nô lệ cũng rất rõ ràng. Ở các nước này nô lệ chiếm một bộ phận lớn dân cư của xã
hội và có địa vị vô cùng tồi tệ. Họ được coi là tài sản thuộc về chủ sở hữu nô lệ.
Chủ nô lệ có quyền tuyệt đối đối với nô lệ của họ ,chẳng hạn như bóc lột sức lao
động của họ, bán họ, hoặc thậm chí giết họ. Vì Vậy nên dân chủ thời kì này chỉ
thuộc về giai cấp chủ nô. Như vậy ở nền dân chủ chủ nô thì tính giai cấp của dân
chủ thể hiện ở chỗ tất cả các quyền lực và lợi ích của nền dân chủ đó, của xã hội đó
đều dành cho giai cấp chủ nô chiếm 1 thiểu số trong dân cư và giai cấp chủ nô
chính là giai cấp thống trị xã hội đó
- Trong thời kỳ nền dân chủ tư sản thực chất dân chủ cũng chỉ thuộc về giai cấp tư
sản. Dân chủ tư sản mang bản chất của giai cấp lãnh đạo xã hội, thống trị xã hội,
đó chính là giai cấp tư sản.Ở Mĩ thực hiện cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng
đối lập với hai đảng chính là Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ, tuy là hai Đảng
đối lập nhưng đều đại diện cho lợi ích của tư bản( Đảng Dân chủ đại diện cho tư
sản với mặt hàng tiêu dùng còn Đảng Cộng Hoà đại diện cho phe tư bản dầu, khí
đốt, vũ khí hạng nặng,...). Bản chất của nhà nước Hoa Kỳ là nhà nước tư sản mang
bản chất của giai cấp tư sản và nhà nước đó thực hiện cơ chế là tam quyền phân
lập, đó là quyền lập pháp, hành pháp, quyền tư pháp độc lập với nhau, kiềm chế lẫn
nhau, kiểm soát lẫn nhau.
+ Thực tế ở Mỹ, Mỹ không thực sự vì ý kiến của đại đa số nhân dân nên năm nào ở
Mỹ cũng có rất nhiều vụ nhân dân xuống đường biểu tình đòi lại hòa bình, đòi
chấm dứt chiến tranh ở nước ngoài, đòi con em họ trong lực lượng đội quân được
trả tiền để đi sang các vùng Trung Đông phải được trở về nước lành lặn, khỏe
mạnh chứ không phải là được gói trong lá cờ Hoa Kỳ => họ rất muốn chấm dứt cái
tình trạng đó. Nhưng Mỹ không làm, bởi nếu như không có những chuyện như thế
thì vàng ai tiêu, tài nguyên thiên nhiên vơ về túi của ai được, phương tiện chiến
tranh làm sao mà bán được, nếu không ủy nhiệm Ukraine thay mình thực hiện cuộc
chiến với Nga làm cho Nga kh chỉ đánh Ukraina mà Nga đang chiến với cả châu
Âu, đó là 1 cuộc chiến tranh ủy nhiệm của NATO, của EU gửi gắm vào ukraine.
Một loạt các cuộc biểu tình có hàng nghìn, hàng trăm nghìn người tham gia, biến
thành bạo động ở Anh, Pháp, Ý và nhiều quốc gia khác, ngta đòi hỏi chính quyền
nước họ phải rút ra khỏi khối NATO. Tức là khi đối mặt với cuộc chiến tranh ủy
nhiệm làm cho cả châu âu lâm vào tình trạng chiến tranh. Người dân Mỹ biểu tình
chống lại chiến tranh nhưng chính quyền Mỹ không nghe. Nên ở đây khi nói về
vấn đề dân chủ là nói về việc có thuận theo ý chí của nhân dân không hay thuận
theo ý chí của giai cấp tư sản và phụng sự cho lợi ích của nhóm thiểu số. Đó là tính
giai cấp của dân chủ tư sản
- Trong thời kỳ dân chủ xã hội chủ nghĩa: Chế độ bầu cử diễn ra cho toàn thể nhân
dân. Người dân khi đến tuổi có thể đi bầu cử và ứng cử theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên nền dân chủ này cũng có tính giai cấp. Đó chính là nó đại diện cho
lợi ích chung của số đông quần chúng, nhân dân lao động trong xã hội chứ không
phải số lượng ít hay cụ thể 1 giai cấp như thời kì chiếm hữu nô lệ và dân chủ tư
sản. Đó chính là điểm khác biệt trong tính giai cấp của nền dân chủ XHCN khi
quyền lực thuộc về tay của đại đa số người dân.
3.2. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam để minh họa cho quan niệm của Chủ nghĩa xã
hội khoa học về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bản chất chính trị:Ở Việt Nam nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử khi đủ tuổi theo
quy định của Pháp luật. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất do dân bầu, đại
diện quyền lợi cho toàn thể nhân dân thông qua Hiến pháp. Nhân dân có quyền
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của nhà nước,...
Bản chất kinh tế: Dân chủ XHCN dựa trên chế độ về công hữu đem lại quyền làm
chủ cho nhân dân về tư liệu sản xuất, từ đó nhân dân cố gắng lao động tích cực vì
tập thể chung bởi hiện tại chính họ cũng đang là người sở hữu tư liệu sản xuất đó.
Họ được trực tiếp phân phối sản phẩm do mình làm ra từ đó để cải thiện cuộc sống.
Ở VN trong giai đoạn 2016 - 2020, nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức
nổi bật. Kết quả giảm nghèo đạt và vượt mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ
giao. Hộ nghèo từ 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) giảm xuống còn 2,75% năm
2020 (năm cuối kỳ), trong 05 năm giảm bình quân 1,43%/năm (chỉ tiêu: giảm 01%
- 1,5%/năm); hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 04%/năm (chỉ tiêu: giảm
03% - 04%/năm); hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,4%/năm (chỉ
tiêu: giảm 04%/năm)
Bản chất tư tưởng, văn hoá
Nền văn hoá Việt Nam ngoài việc kế thừa tinh hoa văn hoá dân tộc hàng ngàn năm
do cha ông truyền lại : Những làng nghề truyền thống : Lụa Vạn Phúc, gốm Bát
Tràng,.... Trò chơi dân gian : đua thuyền, cờ người ,.... Truyền thống, đạo hiếu tốt
của dân tộc: Uống nước nhớ nguồn , ăn quả nhớ kẻ trồng cây,... Không những vậy
còn tiếp thu những tinh hoa, văn hoá mới mẻ tích cực từ nước người: Các thể loại
nhạc : Pop, rock, rap,...Nền điện ảnh của nước bạn : TQ, Hàn Quốc,Thái Lan,....
Bên cạnh đó cũng chính là cuộc đấu tranh để bài trừ những tư tưởng cổ hủ, mê tín
dị đoan, làm cản trở tư duy và nhận thức của con người : Tảo hôn , nối dây, cúng
ốm đau,....Sự xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước muốn chống
phá lại nhà nước CHXHCNVN, nhà nước do nhân dân làm chủ
Trong nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, nhân dân có quyền làm chủ quá trình sáng
tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá và tinh thần của xã hội mới. Các hoạt động
văn hóa, như văn học, nghệ thuật, thư viện, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, đều
được quan tâm phát triển, có những công trình, tác phẩm có giá trị, có ý nghĩa
chính trị, xã hội sâu sắc. Chỉ tính riêng năm 2019, 59 nhà xuất bản trong cả nước
đã xuất bản trên 33.000 đầu sách với 400 triệu bản in, hàng nghìn sách điện tử đã
được phát hành. Hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng phát triển nhanh, ngày
càng hiện đại. Hàng trăm kênh phát thanh, truyền hình đang hoạt động, trong đó có
nhiều kênh kết nối, hợp tác quốc tế
Bản chất xã hội : Ở VN do có 1 Đảng lãnh đạo duy nhất là ĐCS VN , quan hệ theo
chế độ công hữu, tập thể vì vậy nên mọi người hài hoà với nhau, cùng nhau cố
gắng cùng nhau nỗ lực để thực hiện mục tiêu chung đó là xây dựng đất nước. Sự
ổn định về mặt xã hội cũng đã được thể hiện thông qua những chỉ số xóa đói giảm
nghèo, GDP đầu người tăng và chỉ số hạnh phúc cũng tăng . VN : Trong thời kỳ
dịch bệnh tạm dừng tất cả mọi hoạt động kinh tế để chuyên tâm vào phòng chống
dịch trong nhân dân -> Thiểu số phục tùng đa số
3.3. Dẫn chứng thực tiễn để minh chứng cho khác biệt về bản chất giữa nền dân
chủ tư sản
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Tiêu Nền dân chủ TS Nền dân chủ XHCN


chí

Bản Dân chủ tư sản mang bản chất của - Đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS,
chất giai cấp lãnh đạo xã hội, thống trị nhất nguyên về chính trị: mang bản
chính xã hội, đó chính là giai cấp tư
trị sản.Ở Mĩ thực hiện cơ chế đa chất của giai cấp CN
nguyên chính trị và đa đảng đối
Có tính nhân dân rộng rãi ( 1 Đảng
lập với hai đảng chính là Đảng
để đảm bảo quyền lợi cho ng dân)
Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ, tuy
là hai Đảng đối lập nhưng đều đại Có tính dân tộc sâu sắc ( tồn tại
diện cho lợi ích của tư bản( Đảng quyền làm chủ của các dt tồn tại
Dân chủ đại diện cho tư sản với trong cộng đồng)
mặt hàng tiêu dùng còn Đảng Vd: Trước khi ban hành bộ luật
Cộng Hoà đại diện cho phe tư bản mới thì phải tiến hành trưng cầu ý
dầu, khí đốt, vũ khí hạng nặng,...) dân.
. Bản chất của nhà nước Hoa Kỳ
là nhà nước tư sản mang bản chất - Ở Việt Nam nhân dân có quyền
của giai cấp tư sản và nhà nước đó bầu cử, ứng cử khi đủ tuổi theo
thực hiện cơ chế là tam quyền quy định của Pháp luật. Quốc hội
phân lập, đó là quyền lập pháp, là cơ quan quyền lực cao nhất do
hành pháp, quyền tư pháp độc lập dân bầu, đại diện quyền lợi cho
với nhau, kiềm chế lẫn nhau, kiểm toàn thể nhân dân thông qua Hiến
soát lẫn nhau. pháp. Nhân dân có quyền kiểm tra,
giám sát đối với hoạt động của nhà
-Quyền lực chính trị nằm trong nước,...
tay những người giàu có, tập đoàn
và lợi ích cá nhân. Các quyết định
quan trọng và chính sách công
cộng thường bị tài chính chi phối.
VD: Cuộc tranh cử tổng thống ở
Mỹ chỉ chọn ra người có nhiều tài
chính nhất trong 2 Đảng dân chủ
và đảng cộng hòa để làm tổng
thống, tức là quyền lợi chính trị
nằm trong tay giai cấp tư sản. Do
có những điều kiện ràng buộc nên
công nhân Mỹ và người dân Mỹ
không có đủ điều kiện để tranh cử
chức tổng thống.

Bản Dân chủ tư sản dựa trên chế độ Dân chủ XHCN dựa trên chế độ về
chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản công hữu đem lại quyền làm chủ
kinh tế xuất chủ yếu. Tổ chức quản lý cho nhân dân về tư liệu sản xuất,
nằm trong tay thiểu số (giai cấp tư từ đó nhân dân cố gắng lao động
sản), phân phối theo quyền sở hữu tích cực vì tập thể chung bởi hiện
đối với tư liệu sản xuất, duy trì tại chính họ cũng đang là người sở
chế độ người bóc lột người. Tồn hữu tư liệu sản xuất đó. Họ được
tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản trực tiếp phân phối sản phẩm do
xuất với quan hệ sản xuất, mâu mình làm ra từ đó để cải thiện cuộc
thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai sống.
cấp tư sản.
VD: VD: NN ban hành những
VD: Ở nước Mỹ, 1% tư sản giàu chính sách đốc thúc công nghiêp
nhất ở Mỹ chiếm khoảng 32% phát triển từ TƯ đến địa phương,
tổng tài sản quốc gia ( năm 2020) taoh ra ngành nghề cho nhd nhằm
giảm bớt tình trạng thất nghiệp.
Qua đó tạo động lực cho nhân dân
cũng như tạo động lực phát triển
kinh tế-xh.
Ở VN trong giai đoạn 2016 - 2020,
nước ta đã đạt được những thành
tựu hết sức nổi bật. Kết quả giảm
nghèo đạt và vượt mục tiêu, chỉ
tiêu Quốc hội, Chính phủ giao. Hộ
nghèo từ 9,88% năm 2015 (năm
đầu kỳ) giảm xuống còn 2,75%
năm 2020 (năm cuối kỳ), trong 05
năm giảm bình quân 1,43%/năm
(chỉ tiêu: giảm 01% - 1,5%/năm);
hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm
bình quân 04%/năm (chỉ tiêu: giảm
03% - 04%/năm); hộ nghèo ở các
huyện nghèo giảm bình quân
5,4%/năm (chỉ tiêu: giảm
04%/năm)

Bản Dân chủ tư sản lấy hệ tư tưởng Hệ tư tưởng và văn hoá của nền
chất tư của giai cấp tư sản làm chủ đạo, dân chủ XHCN là vô cùng tiến bộ,
tưởng, giữ vai trò chi phối trong mọi lĩnh khoa học. Nó khắc phục những hạn
văn hoá vực của đời sống, ý thức xã hội. chế, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu
Giai cấp tư sản văn hóa tôn giáo mê tín dị đoan, phản tiến bộ: Tảo
như những công cụ, phương tiện hôn, nối dây, thờ cúng ốm đau,...
để chi phối, lãnh đạo đời sống đồng thời đấu tranh với sự xuyên
tinh thần của xã hội. Nước Mỹ tạc chống phá từ các thế lực thù
cho người dân có thể được tự do địch. Hướng tới lợi ích của người
dùng súng nhưng điều đó có thể dân. Nhân dân có quyền làm chủ
gây nguy hiểm cho người khác các giá trị văn hoá. Ở VN Chỉ tính
nếu xảy ra hiềm khích. Chính điều riêng năm 2019, 59 nhà xuất bản
đó đã gây ra vấn đề là quyền của trong cả nước đã xuất bản trên
cá nhân này xâm phạm dân chủ 33.000 đầu sách với 400 triệu bản
thậm chí đến tính mạng, sức khoẻ in, hàng nghìn sách điện tử đã
của cá nhân khác . được phát hành. Hệ thống báo chí,
truyền thông đại chúng phát triển
Vd: Trào lưu triết học ánh sáng
nhanh, ngày càng hiện đại. Hàng
VD: Việc không công bằng trong trăm kênh phát thanh, truyền hình
quy đổi số phiếu đại cử tri giữa đang hoạt động, trong đó có nhiều
các bang của Mỹ, như vậy ở Mỹ kênh kết nối, hợp tác quốc tế
còn có hiện tượng phân biệt giàu
- Lấy hệ tư tưởng Mác-Lenin- hệ
nghèo, phân biệt dân tộc, lấy tiền
tư tưởng của giai cấp CN, làm chủ
làm thước đo của xh.
đạo đối với mọi hình thái ý thức
khác trong xh mới.
VD: NN ban hành bộ luật giáo
dục: theo đó mọi cd không phân
biệt tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính
…đều được bình đẳng về cơ hội
học tập

Bản Trong xã hội của nền dân chủ tư Trong xã hội của dân chủ XHCN
chất xã bản do những mâu thuẫn không do có 1 Đảng lãnh đạo, quan hệ
hội thể dung hoà đặc biệt mà mâu theo chế độ công hữu, tập thể vì
thuẫn giữa vô sản và tư sản, xã vậy nên mọi người hài hoà với
hội vẫn còn nhiều bất ổn. Ở Mỹ nhau, cùng nhau cố gắng cùng
những vấn đề như đánh bom, xả nhau nỗ lực để thực hiện mục tiêu
súng, vấn nạn phân biệt chủng chung đó là xây dựng đất nước. Sự
tộc, các cuộc đấu tranh của công ổn định về mặt xã hội cũng đã
nhân vẫn diễn ra thường xuyên được thể hiện thông qua những chỉ
gây sự bất ổn, thể hiện sự bất bình số xóa đói giảm nghèo, GDP đầu
của người dân người tăng và chỉ số hạnh phúc
cũng tăng
VD thêm: Mỹ : Trong thời kỳ
dịch Covid Khuyến khích sản VD thêm :
xuất như bình thường, -> con số
VN : Trong thời kỳ dịch bệnh tạm
mắc bệnh trong toàn thể nhân dân
dừng tất cả mọi hoạt động kinh tế
tăng -> Đa số phục tùng thiểu số
để chuyên tâm vào phòng chống
VD: ở các nước phương tây theo dịch trong nhân dân -> Thiểu số
chế độ TBCN, quyền lợi chỉ phục phục tùng đa số
vụ cho tư bản giàu có, đời sống
VD: Chính sách hỗ trợ xóa đói
nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn;
giảm nghèo của Đảng, làm giảm
rất nhiều ng vô gia cư, nhiều khu
khoảng cách chênh lệch giàu
nhà ổ chuột nhưng Nhà nước k
nghèo trong xh.
đoái hoài.
Tiêm chủng cho trẻ em miễn phí,
Phụ nữ sinh đẻ được miễn phí trái
ngược với cả TB . Cuba miễn phí
toàn bộ phí khám chữa bệnh , học
phí được miễn tất cả lên tới bậc đại
học

3.4. Vận dụng lý luận khoa học và dẫn chứng thực tiễn để phản bác quan điểm:
“Việt Nam
cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đảm bảo dân chủ cho nhân
dân”.
- Ngày nay, khẩu hiệu đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” trở thành công cụ
tư tưởng để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá các nhà nước xã hội chủ nghĩa
và các trào lưu tiến bộ trên thế giới. Chúng cho rằng, chế độ chỉ có một đảng lãnh
đạo là độc tài, là mất dân chủ, là nguyên nhân dẫn đến mọi sự trì trệ, tiêu cực của
xã hội. Chỉ có “đa nguyên, đa đảng” mới có thể mang lại một nền “dân chủ thực
sự”. Tính nguy hiểm của thủ đoạn này biểu hiện ở một số khía cạnh như sau
- Thứ nhất, đây là một luận điểm mang nặng tính chất mị dân, dễ gây nên sự ngộ
nhận, mơ hồ, lẫn lộn về nhận thức, sự dao động tư tưởng trong một bộ phận nhân
dân, thậm chí ngay cả một số cán bộ, đảng viên. Điều này rất có thể sẽ dẫn đến sự
chia rẽ về chính trị, tư tưởng trong xã hội, cùng với đó là sự hoài nghi, xói mòn
niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng ta.
- Thứ hai, mưu đồ thực chất của “đa nguyên, đa đảng” là nhằm hạn chế, từ đó dần
dần thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, xóa bỏ nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Một khi đạt được mưu đồ đó, các thế lực phản động sẽ
ngóc đầu dậy, tranh thủ kiếm chác lợi ích cho bản thân mình.
- Thứ ba, nếu mất cảnh giác trước luận điệu đòi “đa nguyên, đa đảng”, hệ quả tất
yếu sẽ là đất nước hỗn loạn, mất ổn định, nền kinh tế đổ vỡ, văn hóa suy đồi… Đất
nước khi ấy không thể có được nền độc lập thực sự, mà sẽ bị xâu xé, bị chi phối
bởi các nước lớn. Mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta đã giành được, đánh
đổi bằng bao nhiêu hi sinh, mất mát, sẽ bị tiêu tan.
- Thực tiễn lịch sử VN:
Trong thời kì Việt Nam phải đối mặt với sự xâm lược của các đế quốc: Pháp, Nhật,
Mỹ,.... Bên cạnh những nhà yêu nước với những phong trào đấu tranh để đòi lại
độc lập dân tộc, dân sinh dân chủ : Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, phong trào
của tư sản, tiểu tư sản,.... nhưng cuối cùng vì những hạn chế nhất định nên gặp thất
bại thì không một “đảng phái” nào đứng ra để giúp dân tộc đòi lại độc lập, nhân
dân đòi lại nhân quyền, quyền được sống. Chỉ đến năm 1930 với sự ra đời của
ĐCS VN đã tạo nên bước ngoặt trong lịch sử cách mạng. Từ đây Đảng dẫn dắt
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: đánh đuổi phát xít Nhật
1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc Pháp phải kí hiệp định Giơnevơ 1954 chấm
dứt chiến tranh tại VN, Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm
buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh tại VN,..... Sau khi thống nhất
đất nước tuy rằng có gặp phải những sai lầm trong việc xây dựng đất nước nhưng
đã được Đảng khắc phục trong Đại hội VI và từ đó đến nay với vai trò lãnh đạo
của Đảng đất nước ngày càng phát triển trên mọi lĩnh vực trong thời kỳ hội nhập
Quốc tế.
- Chỉ số chất lượng sống của các quốc gia được CEOWORLD phân tích và so sánh
165 quốc gia với 10 hạng mục chính. Theo Báo cáo nói trên, chỉ số "Chất lượng
sống" của Việt Nam đạt 78,49 điểm, xếp vị trí 62/165 các quốc gia trên bảng xếp
hạng. So với năm 2021 (Việt Nam đứng thứ 101/171 các quốc gia trên thế giới),
thứ hạng chất lượng sống của Việt Nam đã tăng 39 bậc chỉ sau 1 năm.
- Số năm đi học bình quân của Việt Nam đạt cao hơn mức bình quân chung của
khu vực Đông Nam Á (năm 2017 và 2018 cao hơn 1,0 năm; năm 2019 cao hơn 1,1
năm); đứng thứ 5 khu vực
=> Những chỉ số trên là minh chứng tiêu biểu cho sự phát triển của đất nước trên
tất cả các mặt. Dưới sự lãnh đạo của duy nhất Đảng cộng sản, Việt Nam ngày
càng phát triển bền vững …
- Liên Xô, Đông Âu đã minh chứng cho việc sai lầm trong đường lối chính trị, thực
hiện đa nguyên đa đảng làm cho việc khủng hoảng ngày càng trở nên trầm trọng.
Điều này đã vi phạm nguyên tắc quan trọng nhất của CN Mác Lênin dẫn tới hậu
quả đến 1990 Liên Xô và sau đó là hàng loạt các nước Đông Âu sụp đổ, gây tổn
thất lớn đối với phe XHCN. Mĩ hay Thái Lan cũng thực hiện chính sách đa nguyên
đa đảng cũng dẫn tới những tình trạng bạo loạt gây bất ổn về chính trị, đẩy lùi sự
phát triển kinh tế, kéo tụt GDP,....
=> Với những Lí luận khoa học và dẫn chứng trên cho thấy VN trong lịch sử đến
hôm nay không cần đa nguyên đa đảng vẫn có dân chủ . Phân biệt đa đảng với dân
chủ, không có nghĩa đa đảng là nhiều dân chủ hoặc là ít đảng là ít dân chủ
3.5. Dẫn chứng thực tiễn quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam để minh
họa cho quan niệm của Chủ nghĩa xã hội khoa học: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
kiểu nhà nước
“không nguyên nghĩa” hay “nhà nước nửa nhà nước”; là kiểu “nhà nước đặc biệt”
trong lịch sử.
- Để mà nói về sự ra đời thì ban đầu, Nhà nước được lập ra với mục đích như là
một thứ công cụ để trấn áp người dân, phục vụ lợi ích của một bộ phận thuộc tầng
lớp trên trong xã hội. Đó là nhà nước nguyên nghĩa, nhà nước dành cho thiểu số,
nhà nước bóc lột. Nhà nước là nhà nước nguyên nghĩa là bộ máy bạo lực tập trung
của thiểu số để trấn áp lại đa số và là nhà nước bước ra từ trong lịch sử. VD: NN
chủ nô, NN quý tộc phong kiến, NN tư sản. Nhà nước này chỉ là sự thống trị của
thiểu số, nên khi đứng trước đa số chỉ có chức năng trấn áp giai cấp bằng bạo lực
(hay còn gọi là chức năng giai cấp), thể hiện tính giai cấp của nhà nước và với
chức năng thứ 2 là chức năng quản lý tổ chức hành chính (hay còn gọi là chức
năng xã hội) gắn với tính xã hội của nhà nước.
- Còn đối với nhà nước XHCN thì ưu tiên sử dụng chức năng hàng đầu là chức
năng phi bạo lực, giáo dục tuyên truyền, vận động thuyết phục, nêu gương, học tập
làm theo tư tưởng HCM. Ở nhà nước nguyên nghĩa này vẫn còn trấn áp giai cấp
bằng bạo lực vì còn tồn tại những người đi ngược lại lợi ích của đại đa số nhân dân
nên NN vẫn phải sử dụng bạo lực để trấn áp, nhưng lại đặt ưu tiên thứ 2 chứ k đặt
lên hàng đầu như những nhà nước nguyên nghĩa => đây là nhà nước k nguyên
nghĩa, khi những biện pháp phi bạo lực không có hiệu quả mới sử dụng đến biện
pháp bạo lực. Nhà nước XHCN với mục tiêu hàng đầu không phải là trấn áp mà là
thực thi lợi ích của đại đa số (nhân dân)
- Nhà nước ko đặc biệt là nhà nước mà toàn bộ quá trình tồn tại của nó là để củng
cố sự trường tồn của nó. Ví dụ như nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà
nước tư sản không chuẩn bị cho sự giải tán của nó nhưng với nhà nước XHCN sự
tiêu vong là hoàn toàn nằm trong sự chuẩn bị, tự ý thức của chính nó. Toàn bộ quá
trình tồn tại cho đến tận giai đoạn chủ nghĩa xã hội là quá trình nó chuẩn bị những
điều kiện tiền đề cần thiết để tiến đến cái đích khi đạt tới chủ nghĩa cộng sản thì nó
trở nên vô nghĩa. Nó vô nghĩa được là bởi nó đã thủ tiêu cơ sở xã hội giai cấp cho
sự tồn tại của 1 nhà nước. Một nhà nước ra đời và tồn tại trên cơ sở xã hội đó phải
có sự phân chia và đối kháng giai cấp. Nhưng đạt tới CNXH bước vào thời kỳ quá
độ thì nhà nước XHCN làm một việc đó là dù trong xã hội của thời kỳ vẫn còn giai
cấp nhưng nó thủ tiêu đối kháng giai cấp và đến chủ nghĩa cộng sản tất cả các giai
cấp hòa mình vào với quần chúng nói chung trở thành nhân dân lao động nói
chung, không phân chia giai cấp, không còn tư sản, không còn công nhân, không
còn nông dân,.. tất cả hòa làm một giống nhau, xóa bỏ sự phân hóa vùng miền, sự
phân hóa về trình độ,... Lúc bấy giờ chỉ còn các tổ chức mô hình cộng đồng tự
quản với nhau. Bây giờ VN ta cũng đang có các mô hình tự quản hội đồng: VD
một đền không cần NN quản nhân dân vẫn tìm cử được người trông đền, nhân dân
tự tổ chức lễ hội truyền thông, mỗi cá nhân đều có thể trở thành người tự quản của
chính cuộc đời mình bằng việc pháp luật điều tiết hành vi, điều chỉnh hành vi này.
Đặc biệt của nhà nước này là tự chuẩn bị điều kiện cần thiết để tự tiêu vong, tự giải
tán chứ không phải bị lật đổ, không phải tự chuẩn bị để càng ngày càng hoàn thiện
thì càng vững chắc. Nhà nước XHCN càng hoàn thiện, càng củng cố vững chắc là
càng làm cho nó trở nên vô nghĩa ở Chủ nghĩa xã hội
* Thực tiễn của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Nhà nước k nguyên nghĩa
- VN mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước
Thứ nhất, tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho cử tri
tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao đổi, nhận xét,lựa chọn
và bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ trên cơ sở có sự lãnh đạo,hướng dẫn
về tiêu chuẩn, cơ cấu.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội,Hội
đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là
cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước, của địa phương.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực
tiếp liên quan đến đời sống nhân dân.
Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn,
chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ năm, các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa đổi,bổ
sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế cụ thể, rõ ràng về
quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối,thu
chi ngân sách, tài chính, các chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí... trong các cơ
quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, trường học, bệnh viện
- Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức quốc hội: nâng cao chất
lượng hoạt động lập pháp, nâng cao năng lực quyết định các vấn đề trọng đại của
đất nước, nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội
- Đẩy mạnh cải cách tư pháp: Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị
các tội chống Tổ quốc,chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Nâng cao chất lượng hoạt động của viện
kiểm sát theo chức năng quy định trong Hiến pháp
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của
Đảng, nhất là chủ trương về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, về đổi mới thể
chế kinh tế, về xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng
cố, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước,phát triển kinh tế hợp tác. Thứ hai là tăng
cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Cuối cùng là tăng cường
kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên.
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ quan
nhà nước.
- Kinh tế: tôn trọng các hình thức sở hữu, quyền sở hữu, quyền hưởng thụ,......
Nhà nước đặc biệt
- Nhà nước vnam khắc phục sự đối lập giai cấp, phân hóa giàu nghèo, vùng miền.:
Tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ về kinh tế, chính trị và xã hội. dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cả hệ thống chính trị liên tục phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Theo đó, đã đạt được nhiều kết quả đáng trân
trọng, đời sống của nhân dân từ nông thôn đến miền núi, vùng sâu, vùng xa được
cải thiện rất đáng kể
Về mặt kinh tế, đẩy mạnh ổn định tái cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng để
hiệu quả của nền kinh tế tốt hơn và mang lại lợi ích cho toàn xã hội nhiều hơn. Đào
tạo việc làm cho người nông dân ở nông thôn miền núi, điều tiết thu nhập qua thuế
tốt hơn, an sinh xã hội có nhiều trụ cột khác nhau, đảm bảo quyền lợi cần thiết cho
người dân phải được tiến hành mạnh mẽ hơn, nhất là hỗ trợ tín dụng cho người
nghèo mạnh mẽ hơn.
Về mặt chính trị, Thủ tướng nhấn mạnh “muốn giảm khoảng cách thì ổn định
chính trị vô cùng quan trọng, tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt, dân chủ công
khai để mọi người dân có cơ hội vươn lên và tạo điều kiện cho người dân làm chủ
cũng là một thể hiện của giảm chênh lệch. “Có nhận thức tốt, có hành động tốt, có
chính trị tốt, có kinh tế tốt thì mới có thể giải quyết tốt vấn đề khoảng cách chênh
lệch này” – Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định.
Đặc biệt, theo Thủ tướng, về mặt xã hội phải tiếp tục tiếp cận dịch vụ giáo dục y tế,
nhất là cho người nghèo, người yếu thế, chính sách cho người có công, chính sách
cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn cần
phải tiếp tục đặt ra trong quá trình chỉ đạo và thực hiện của nước ta. Ngân sách nhà
nước cần cho xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động giảm nghèo, giúp đỡ người dân vùng
thiên tai, khơi dậy một tinh thần trách nhiệm xã hội, tinh thần vượt khó, nhân rộng
các mô hình thoát nghèo hiệu quả.
3.6. Dẫn chứng thực tiễn về những biểu hiện của quan hệ liên minh giữa các giai
cấp, tầng lớp trong cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực
cơ bản của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.
-Lĩnh vực kinh tế
Việt Nam là đất nước có một nền nông nghiệp truyền thống lâu đời với hơn 60%
dân số làm nông nghiệp. Vì thế, dù ờ thời kỳ nào, người nông dân, nông thôn và
kinh tế nông nghiệp cũng có một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển
chung của đất nước. Nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng này, trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu là sớm đưa Việt Nam cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt chú trọng đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Ở nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cơ cấu kinh tế chung của cả nước
mà Đảng đã xác định là: “công- nông nghiệp- dịch vụ”. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế diễn ra theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập quốc tế; từng
bước phát triển kinh tế tri thức. Quan điểm trên đã thể hiện rõ nội dung kinh tế của
liên minh công – nông - trí trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc xác lập
những mối quan hệ hợp lý và gắn bó hữu cơ giữa nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn nông thôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế nông thôn. Đây chính là môi trường gắn kết giữa công nhân, nông
dân và trí thức lại với nhau.

-Lĩnh vực chính trị


Tổ chức Công đoàn: Tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và
của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ
thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao
động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia
thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Hội nông dân Việt Nam: Là lực lượng tin cậy trong khối liên minh vững chắc
công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn
Đoàn thanh niên, các Hiệp hội khác…

-Lĩnh vực văn hoá- xã hội


Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức và quan điểm xây dựng
đội ngũ trí thức, trong quá trình lãnh đạo cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta chủ trương: “Đào tạo trí thức mới. Cải tạo trí thức cũ. Công nông trí thức
hóa. Trí thức công nông hóa...” nên đã xây dựng được một đội ngũ trí thức to lớn
có tâm huyết với cách mạng, có năng lực sáng tạo, tiếp thu nhanh khoa học và
công nghệ mới. Từ đó góp phần xây dựng được khối liên minh công nhân, nông
dân và đội ngũ trí thức bền vững, là nền tảng cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng ta rất coi trọng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối liên minh
công nông và đội ngũ trí thức, tiếp theo đó là xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân,
cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó
với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đội ngũ trí thức là lực lượng then chốt trong cách mạng khoa học - kỹ thuật và văn
hóa. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức để phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Tuần 4 -
4.1. Lập luận giải thích luận điểm: “Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc” là
nội dung tư tưởng cơ bản, quan trọng nhất trong Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện quan điểm, lập trường của
giai cấp công nhân trong giải quyết quan hệ dân tộc: “Các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”
* Nội dung của “Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc”
- Bình đẳng và tự quyết là quyền thiêng liêng của các dân tộc, nhưng hiện thực hóa
quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc phải là kết quả của quá trình đấu
tranh chống áp bức, bóc lột dân tộc. Trong quá trình đấu tranh, tất yếu cần sự liên
hiệp, đoàn kết công nhân của các dân tộc không phân biệt dân tộc đi áp bức hay
dân tộc bị áp bức.
+ Giai cấp công nhân ở tất cả các dân tộc trên thế giới phải đoàn kết, hợp tác, giúp
đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại kẻ thù chung là chế độ áp
bức, bóc lột nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
+ Liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc là điều kiện đảm bảo cho phong
trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
- Cơ sở khách quan của sự liên hiệp công nhân các dân tộc là, lợi ích của công
nhân ở dân tộc đi áp bức và dân tộc bị áp bức đều thống nhất. Khi chủ nghĩa tư bản
đã trở thành một lực lượng quốc tế, đòi hỏi giai cấp công nhân các dân tộc phải
đoàn kết với nhau để trở thành một liên minh quốc tế. Nếu không có sự đoàn kết
này thì không có cơ sở vững chắc để đoàn kết tất cả các dân tộc bị áp bức trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân ở dân tộc đi áp bức và phong trào giải phóng dân tộc ở dân tộc bị áp bức đều
bị hạn chế. Mọi sự chia rẽ, phân tán lực lượng cách mạng đều dẫn đến những kẽ hở
để các lực lượng thù địch lợi dụng làm nguy hại đến phong trào công nhân và
phong trào giải phóng dân tộc.
- Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc. Giai cấp công nhân mỗi dân tộc
đều là lực lượng lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng
dân tộc mình. Các dân tộc chỉ có thể "tìm đến" với nhau khi - trước hết- người lãnh
đạo của họ là giai cấp công nhân phải thiết lập và thắt chặt mối liên hệ giai cấp
quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc là "con đỉa hai
vòi", muốn giết được nó phải có đủ sức mạnh, sức mạnh ấy chỉ có được khi phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa liên hệ chặt chẽ với phong trào giải
phóng giai cấp công nhân ở chính quốc tạo thành "hai cánh của một con chim".
Sức mạnh "bên trong" cộng với sức mạnh "bên ngoài" sẽ tạo thành sức mạnh tổng
lực to lớn và không thể thiếu cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và
giải phóng các dân tộc.
* Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản và chiếm vị trí quan
trọng trong Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác-Lênin vì
- Nó đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể. Nội
dung này khiến cho Cương lĩnh dân tộc không chỉ là một cương lĩnh khoa học luận
giải đúng đắn về quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, mà đồng thời còn là
một cương lĩnh có ý nghĩa chỉ đạo hành động cách mạng nhằm thực hiện cho được
những quyền thiêng liêng của các dân tộc.
- Tất cả các vấn đề như mục tiêu hướng tới, phương pháp xem xét, đường lối,
chính sách, biện pháp giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc
đều bị quy định bởi vấn đề liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc - tức là
đều phải hướng đến mục đích cuối cùng là thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế
giới của giai cấp công nhân. Đồng thời, chỉ có đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân, thực hiện sự đoàn kết rộng rãi giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên bình diện quốc tế, thì các dân tộc mới có thể giành thắng lợi trong cuộc
đấu tranh cho quyền bình đẳng và tự quyết của dân tộc mình. Chính vì thế, nội
dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc được nêu trong Cương lĩnh dân tộc
không chỉ là lời kêu gọi mà còn là giải pháp hữu hiệu bảo đảm cho các dân tộc
thực hiện các quyền cơ bản đó của mình. Với nội dung này, ba nội dung của
Cương lĩnh dân tộc được liên kết một cách chặt chẽ, tạo thành một chỉnh thể của
một cương lĩnh chính trị về vấn đề dân tộc và cao hơn nữa là một cương lĩnh hành
động cách mạng. Nội dung này phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên
tiếng kêu gọi các dân tộc, các quốc gia xích lại gần nhau.
=> Từ đó có thể thấy, nội dung về liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc
trong Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác-Lênin phản ánh sự thống nhất giữa
phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp công nhân. Sự thống nhất nói
trên không chỉ ở chỗ: giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng vĩnh viễn giai cấp
mình khi họ đồng thời giải phóng toàn thể các dân tộc, mà còn vì phong trào đấu
tranh giải phóng của các dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi có đủ sức mạnh dựa trên
cơ sở của liên hiệp giai cấp công nhân quốc tế. Liên hiệp giai cấp công nhân của
các dân tộc có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân
tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời việc thực hiện quyền bình đẳng và quyền
tự quyết cũng tùy thuộc vào sự đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân các dân tộc
trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
4.2. Dẫn chứng thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế để minh
chứng: “Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc” là nội dung tư tưởng cơ bản,
quan trọng nhất trong Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản và chiếm vị trí quan
trọng trong Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nó đóng vai trò liên kết
cả ba nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể. Nội dung này khiến cho
Cương lĩnh dân tộc không chỉ là một cương lĩnh khoa học luận giải đúng đắn về
quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, mà đồng thời còn là một cương lĩnh
có ý nghĩa chỉ đạo hành động cách mạng nhằm thực hiện cho được những quyền
thiêng liêng của các dân tộc
- Dẫn chứng :
Tháng 8/ 1925 Công nhân Bason tại cảng Sài Gòn đã tổ chức bãi công. Cuộc bãi
công này gắn liền với sự tổ chức và lãnh đạo của Công hội do Tôn Đức Thắng
thành lập. Mục đích cuộc bãi công này là làm chậm việc sửa chữa chiếc tàu Misơlê
(Michelet) mà thực dân Pháp dùng chở lính sang đàn áp phong trào cách mạng
Trung Quốc. Ngày 4-8-1925, cuộc bãi công nổ ra với yêu sách "tăng 20% lương,
đưa số thợ bị đuổi trở lại làm việc và giữ lệ nghỉ 30 phút vào ngày lãnh lương".
Để đảm bảo thắng lợi, ban lãnh đạo Công hội đã vận động công nhân, viên chức
trong thành phố ủng hộ vật chất và tinh thần cho công nhân Ba Son. Sau 8 ngày
đấu tranh, cuộc bãi công đã giành được thắng lợi. Ngày 12-8 công nhân trở lại làm
việc, nhưng tiếp lục lãn công làm chậm việc sửa chữa tàu Misơlê đến tháng 1 1-
1925 mới xong.
Như vậy, cuộc bãi công Ba Son tháng 8-1925 là cuộc đấu tranh đầu tiên có tổ chức
và lãnh đạo. Hơn thế nữa, cuộc đấu tranh không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn
nhằm vào mục đích chính trị thể hiện tình đoàn kết vô sản quốc tế của công nhân
Việt Nam.
Hay có thể kể đến đó là Công xã Pari. Công xã Paris là chính quyền vô sản sơ khai
đầu tiên được thiết lập ở nước Pháp; là sản phẩm hiện thực đầu tiên của phong trào
vô sản. Chính quyền Công xã đã có nhiều ưu việt mà các chế độ chính trị - xã hội
từ xưa đến nay chưa từng có. Công xã Paris đã là tấm gương cho việc cổ vũ phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới, góp phần định hướng cho các
cuộc đấu tranh của phong trào vô sản hướng đến xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa
sau đó
4.3. Phân tích cơ sở lý luận khoa học để phản bác quan điểm sai trái: “Việt Nam
đánh Pháp, Mỹ, Nhật là đã đánh đuổi ba nền văn minh”.
- Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia dân tộc độc lập, nên việc Pháp, Mỹ, Nhật
xâm phạm đến độc lập chủ quyền của ta là điều không thể chấp nhận, cần kiên
quyết đánh đuổi. Theo quan điểm của CNXHKH, xét theo nghĩa rộng, dân tộc là
khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về
sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một quốc
gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước. Trong lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam, điều này cũng đã được khẳng định trong các bản tuyên ngôn độc lập bất
hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và
Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Qua đó, có thể thấy, dân tộc Việt Nam là một
dân tộc có nền văn hiến lâu đời (truyền thống văn hoá tốt đẹp), có núi sông bờ cõi
riêng (lãnh thổ riêng), có phong tục tập quán riêng (bản sắc văn hoá dân tộc), có
lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng (độc lập về chủ quyền dân tộc)
- Thứ hai, việc Việt Nam đánh đuổi Pháp, Mỹ, Nhật giành quyền độc lập, tự chủ
của dân tộc chính là xu hướng khách quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc. Độc
lập tự chủ của mỗi dân tộc là xu hướng khách quan, là chân lý của thời đại, là sức
mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển của mỗi dân tộc. Theo V.I.Lênin, xu
hướng khách quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc thứ nhất là cộng đồng dân
cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân tộc độc lập. Nguyên nhân là do sự
thức tỉnh, sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, các
cộng đồng dân cư đó muốn tách ra để thành lập các dân tộc độc lập. Xu hướng này
thể hiện rõ nét trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước thực dân
đế quốc. Theo đó, chúng ta cần nhận định rõ, trong lịch sử, Việt Nam là quốc gia
dân tộc thuộc địa, bị phụ thuộc, áp bức và bóc lột bởi các nước thực dân đế quốc
nên việc Việt Nam đánh đuổi Pháp, Mỹ, Nhật là tất yếu.
- Thứ ba, theo quan điểm của CNXHKH, cụ thể, Cương lĩnh dân tộc của V.I Lênin
đã khẳng định một trong những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vấn đề dân tộc
đó là: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng”. Đây là quyền thiêng liêng của các dân
tộc không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân
tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn
hóa. Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế không một dân tộc nào
có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác. Để thực hiện được quyền bình đẳng dân
tộc trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức bóc lột giai cấp, trên cơ sở đó xóa bỏ
tình trạng áp bức dân tộc phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc chủ
nghĩa dân tộc cực đoan.
Tuy nhiên, sau khi xâm chiếm Việt Nam, “văn minh” của thực dân Pháp được thể
hiện ở chỗ, họ đã không áp dụng những thành tựu của cuộc Đại cách mạng Pháp
năm 1789 để thủ tiêu chế độ phong kiến chuyên chế đã lỗi thời, thay bằng một chế
độ chính trị mới tiến bộ hơn, được soi chiếu bởi tư tưởng của những nhà khai sáng
dân chủ tư sản. Trái lại, những “nhà khai hóa” lại duy trì chế độ phong kiến làm
tay sai cho bộ máy thống trị thực dân. Đặc biệt, thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam
Chính sách pháp luật hết sức phản động, phân biệt đối xử giữa người da trắng và
người bản địa.
Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925), Hồ Chí Minh
(Nguyễn Ái Quốc) viết: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt
người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ
tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải
phục tùng, không được kêu ca, vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên
bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng và bị đối xử đúng với tội trạng
ấy”. Để duy trì ách thống trị của mình, thực dân Pháp còn thi hành chính sách
“chia để trị”, hòng “làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng
người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau”. Về
công lý thì càng không được thực thi, “lẽ phải” đương nhiên thuộc về người da
trắng, vì thế mà bất cứ tên thực dân nào cũng có thể giết chết, tàn sát hoặc cưỡng
dâm người bản xứ; nếu có bị đưa ra tòa thì cũng được tha bổng. “Đó là việc áp
dụng nguyên tắc nhằm bảo tồn bằng mọi cách uy tín của người da trắng trước bọn
da vàng”.
- Thứ tư, V.I. Lênin cũng khẳng định nguyên tắc “Các dân tộc được quyền tự
quyết”trong Cương lĩnh dân tộc của mình. Đó là quyền của các dân tộc tự quyết
định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con
đường phát triển của dân tộc mình. Thế nhưng, các nước Pháp, Mỹ, Nhật lại luôn
muốn đô hộ,đặt ách thống trị, họ luôn tìm cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc
Việt Nam,cướp đi quyền tự quyết cơ bản của dân tộc ta.
Điển hình có thể kể đến việc xâm phạm quyền tự quyết của dân tộc ta trong lĩnh
vực phát triển kinh tế, để phục vụ cho mục đích chiến tranh của chính quốc, phát-
xít Nhật bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, buộc người dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt
để chuyển về Nhật. Trước đó, Pháp Cũng tìm cách thu hẹp diện tích canh tác các
hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay, gai hay cây kỹ nghệ. Cũng
chính vì chính sách vơ vét của đế quốc phát xít Pháp - Nhật đã dẫn tới nạn đói
khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ta(1944-1945).
Trong lĩnh vực tôn giáo, Pháp còn xâm phạm quyền tự quyết của dân tộc ta khi
luôn muốn áp đặt công trình của tôn giáo không phải là tôn giáo truyền thống của
người Việt ở một khu đất linh thiêng của Thăng Long cũ như:Nhà thờ Lớn - một
những công trình đẹp mà Pháp để lại vẫn còn đến tận bây giờ cũng được xây dựng
nhờ việc Pháp phá nát, đốt chùa Báo Thiên - vốn là một trong những ngôi chùa cổ
kính, đồ sộ, mang bản sắc lịch sử của toàn bộ các thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Trong chùa Báo Thiên từng có tháp Báo Thiên vốn là một trong “An Nam tứ đại
khí” - những bảo vật của Việt Nam được cho rằng chứa“linh khí” của người Việt.
Chùa Một Cột - một trong những biểu tượng của Hà Nội, công trình ngàn năm
tuổi, cũng đã bị những đội quân người Việt đánh thuê cho Pháp đặt mìn cho nổ
trước khi chúng cút chạy khỏi Hà Nội. Những di sản của những thế hệ cha ông đi
trước (chùa Báo Thiên, chùa Một Cột) đã bị phá hủy. Pháp Sẵn sàng đặt một phiên
bản tượng Nữ Thần Tự Do thay cho Tháp Rùa. Đó là thứ văn minh ngoại lai, dị
hợm đạp đổ lên những giá trị truyền thống dân tộc. Mà còn hàng ngàn bảo vật Việt
Nam, bị Pháp cướp trắng và đem trưng bày tại các bảo tàng tại Pháp hiện tại.
Không những thế,những “nhà khai hóa” còn bộc lộ rõ bộ mặt lừa dối và tàn bạo
khi thực hiện “chế độ lính tình nguyện” bằng cách tiến hành những cuộc lùng ráp
lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương, đẩy hàng chục vạn người dân Việt Nam
phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, trở thành người đóng “thuế máu” cho
chúng. Thậm chí,chính quyền thực dân đã hành hạ, tra tấn những người trong gia
đình họ, cho đến khi những người trốn lính buộc phải nhận “tình nguyện” tham gia
quân đội. Không những thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của người dân, thực dân
Pháp còn thẳng tay chém giết những người Việt Nam yêu nước dám đứng lên
chống lại sự thống trị tàn bạo của chúng
=> Như vậy, khi các thế lực đế quốc,thực dân xâm lược nước ta, nô dịch, áp bức
dân tộc ta thì chúng ta thực hiện đấu tranh để giành độc lập dân tộc, giành lấy bình
đẳng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết của dân tộc mình. Do đó, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, phát-xít Nhật mà Việt Nam tiến hành chính là
cuộc đấu tranh đòi quyền tự quyết của dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và
đưa nước ta trở thành nước độc lập tự do
- Hơn nữa, theo Lênin, mục đích của việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết là
nhằm bảo đảm bình đẳng dân tộc. Bởi lẽ, quyền này chỉ được nói đến khi có áp
bức, bóc lột dân tộc không thể nào chấp nhận được “chỉ quyết định phân lập ra khi
nào sự áp bức dân tộc và những xung đột dân tộc làm cho cuộc sống chung tuyệt
đối không thể chịu được, làm cho mọi thứ quan hệ kinh tế bị trở ngại”, do đó việc
thực hiện quyền dân tộc tự quyết là để xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc đang hiện
hữu, thực hiện bình đẳng dân tộc. Theo đó, quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam
được đặt ra khi ấy là có điều kiện. Điều kiện đó chính là khi các thế lực đế
quốc,thực dân xâm lược nước ta, nô dịch, áp bức dân tộc ta và người dân không thể
chịu đựng được cuộc sống đó. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Đảng ta
cũng đã khẳng định: “Mục đích cuộc kháng chiến của ta hiện nay là thực hiện
quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam: dân tộc Việt Nam tự quyết định lấy
số phận của mình, tự mình định lấy chế độ mà mình ưa thích. Dân tộc Việt Nam,
đa số và thiểu số, tự giác và tự nguyện đoàn kết chặt chẽ thành một quốc gia để bảo
vệ quyền đó. Không thể đặt vấn đề các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tách rời khỏi
nước Cộng hòa dân chủ Việt Nam
- Bên cạnh đó, theo V.I.Lênin, trong điều kiện đang có áp bức dân tộc mà không
nói đến quyền dân tộc tự quyết tức là ủng hộ cho tình trạng áp bức dân tộc này.
Như vậy, những người có quan điểm sai trái, bênh vực cho Pháp, Mỹ, Nhật cũng
chính là đang ủng hộ cho tình trạng áp bức dân tộc Việt Nam, cần phải lên án
mạnh mẽ.Những người không ủng hộ cho quyền dân tộc tự quyết trong điều kiện
đang có áp bức dân tộc bằng bạo lực chính là những người ủng hộ cho giai cấp
thống trị, cho những dân tộc đi áp bức dân tộc khác: “Nếu chúng ta không đề ra và
không cổ động cho khẩu hiệu quyền phân lập, thì chúng ta sẽ làm lợi không những
cho giai cấp tư sản, mà còn làm lợi cho bọn phong kiến và chế độ chuyên chế của
dân tộc đi áp bức nữa”; “Không ủng hộ cuộc khởi nghĩa của những vùng bị thôn
tính thì khách quan mà nói, chúng ta trở thành những kẻ tán thành thôn tính”; “ vì
sự thôn tính vi phạm quyền dân tộc tự quyết, hay nói cách khác, vì nó là một trong
những hình thức áp bức dân tộc”; “Phủ nhận quyền tự quyết hay quyền phân lập
thì trên thực tế tất nhiên có nghĩa là ủng hộ những đặc quyền của dân tộc thống trị”
4.4. Phân tích cơ sở thực tiễn để phản bác quan điểm sai trái: “Việt Nam đánh
Pháp, Mỹ, Nhật là đã đánh đuổi ba nền văn minh”.
- Pháp, Mỹ, Nhật tới Việt Nam không phải để mang tới nền văn minh mà là để đô
hộ, áp bức, bóc lột dân tộc ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, thực chất, người Pháp là
“chất xúc tác” gián tiếp khiến cho chế độ phong kiến Việt Nam đi vào đổ vỡ.
Nhưng người Pháp đến Việt Nam không phải là để “giúp đỡ”, mà đơn giản chỉ
muốn Việt Nam trở thành thuộc địa Pháp, việc chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ
là hệ quả của một chế độ thối nát, yếu kém về quân sự, kinh tế và mất quyền lãnh
đạo đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tố cáo thực chất cái gọi là “khai hóa
văn minh” của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: đó chỉ là bình phong để họ áp
đặt sự thống trị, thực hiện công cuộc khai thác ở một nước thuộc địa.
+ Trong lĩnh vực kinh tế, nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản, làm giàu cho chính
quốc, thực dân Pháp đã đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, đỉnh cao là cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929), làm
cạn kiệt tài nguyên của đất nước ta. Đi kèm với đó, hệ thống giao thông (đường bộ,
đường sắt,đường thủy, cảng biển,…) phục vụ cho việc khai thác thuộc địa được
mở mang;một số công trình dân sinh phục vụ cho nhu cầu của giới thực dân được
xây dựng,chứ không nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân bản xứ. Điển
hình là đường tàu Bắc Nam vẫn còn tồn tại và được sử dụng đến tận ngày nay.
Nhưng thực chất, cái đường tàu Bắc Nam ấy, là một con đường đau khổ, được
Pháp xây dựng để khai thác khoáng sản khắp Việt Nam, di chuyển lực lượng để
đàn áp các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp cả nước. Dân Thanh Hóa có câu: “Ăn rau
má, phá đường tàu” là ngụ ý cho việc người dân xứ Thanh phản đối quân Pháp
bằng cách phá đường tàu. Hoặc như cầu Long Biên, vốn cũng là một công cụ khai
thác thuộc địa của Pháp và cũng là một “chứng nhân lịch sử” cho công cuộc kiến
thiết, bảo vệ Tổ Quốc. Những gì người Pháp đã xây dựng, không có nghĩa là để
giúp người Việt và càng không có nghĩa lý gì trong việc “khai hóa văn minh”.
+ Trong lĩnh vực văn hóa- xã hội, thực dân Pháp đã thể hiện sự “khai hóa” bằng
“chính sách ngu dân” để trị. Tuy người Pháp có mở một số trường dạy chữ, dạy
nghề, nhưng không phải vì mục tiêu nâng cao dân trí, mà chủ yếu nhằm đào tạo ra
một đội ngũ người Việt có thể giúp việc đắc lực cho việc khai thác, bóc lột và duy
trì lâu dài nền thống trị thuộc địa của mình. Điều này được Hồ Chí Minh dẫn ý
kiến của ngay chính những người Pháp có “tâm địa thực dân” về nền giáo dục ở
Đông Dương và Việt Nam: “Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam,
dạy cho họ biết đọc, biết tính toán chút ít thôi; biết hơn nữa chỉ là thừa vô ích”. Với
mục đích hạn chế thanh thiếu niên Việt Nam đến trường, chính quyền thực dân quy
định, hệ tiểu học gồm 5 lớp từ thấp đến cao, học sinh phải thi lấy bằng Sơ học yếu
lược sau khi học được 3 năm và phải học bằng tiếng Pháp ở hai năm cuối. Các quy
định khắt khe đó đã khiến nhiều học sinh nông thôn bỏ học, nên tình trạng mù chữ
vẫn là phổ biến trong dân chúng. Theo thống kê năm 1914, bình quân cả ba xứ, chỉ
có 20% số trẻ em đến tuổi đi học được đến trường, 80% trẻ em Việt Nam bị thất
học.
- Các nước Pháp, Mỹ, Nhật lại luôn muốn đô hộ,đặt ách thống trị, họ luôn tìm cách
kìm hãm sự phát triển của dân tộc Việt Nam,cướp đi quyền tự quyết cơ bản của
dân tộc ta.
Điển hình có thể kể đến việc xâm phạm quyền tự quyết của dân tộc ta trong lĩnh
vực phát triển kinh tế, để phục vụ cho mục đích chiến tranh của chính quốc, phát-
xít Nhật bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, buộc người dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt
để chuyển về Nhật. Trước đó, Pháp Cũng tìm cách thu hẹp diện tích canh tác các
hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay, gai hay cây kỹ nghệ. Cũng
chính vì chính sách vơ vét của đế quốc phát xít Pháp - Nhật đã dẫn tới nạn đói
khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ta(1944-1945).
Trong lĩnh vực tôn giáo, Pháp còn xâm phạm quyền tự quyết của dân tộc ta khi
luôn muốn áp đặt công trình của tôn giáo không phải là tôn giáo truyền thống của
người Việt ở một khu đất linh thiêng của Thăng Long cũ như:Nhà thờ Lớn - một
những công trình đẹp mà Pháp để lại vẫn còn đến tận bây giờ cũng được xây dựng
nhờ việc Pháp phá nát, đốt chùa Báo Thiên - vốn là một trong những ngôi chùa cổ
kính, đồ sộ, mang bản sắc lịch sử của toàn bộ các thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Trong chùa Báo Thiên từng có tháp Báo Thiên vốn là một trong “An Nam tứ đại
khí” - những bảo vật của Việt Nam được cho rằng chứa“linh khí” của người Việt.
Chùa Một Cột - một trong những biểu tượng của Hà Nội, công trình ngàn năm
tuổi, cũng đã bị những đội quân người Việt đánh thuê cho Pháp đặt mìn cho nổ
trước khi chúng cút chạy khỏi Hà Nội. Những di sản của những thế hệ cha ông đi
trước (chùa Báo Thiên, chùa Một Cột) đã bị phá hủy. Pháp Sẵn sàng đặt một phiên
bản tượng Nữ Thần Tự Do thay cho Tháp Rùa. Đó là thứ văn minh ngoại lai, dị
hợm đạp đổ lên những giá trị truyền thống dân tộc. Mà còn hàng ngàn bảo vật Việt
Nam, bị Pháp cướp trắng và đem trưng bày tại các bảo tàng tại Pháp hiện tại.
Không những thế,những “nhà khai hóa” còn bộc lộ rõ bộ mặt lừa dối và tàn bạo
khi thực hiện “chế độ lính tình nguyện” bằng cách tiến hành những cuộc lùng ráp
lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương, đẩy hàng chục vạn người dân Việt Nam
phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, trở thành người đóng “thuế máu” cho
chúng. Thậm chí,chính quyền thực dân đã hành hạ, tra tấn những người trong gia
đình họ, cho đến khi những người trốn lính buộc phải nhận “tình nguyện” tham gia
quân đội. Không những thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của người dân, thực dân
Pháp còn thẳng tay chém giết những người Việt Nam yêu nước dám đứng lên
chống lại sự thống trị tàn bạo của chúng
- Thực tiễn lịch sử đã để lại cho chúng ta rất nhiều bài học xương máu.Có rất nhiều
đồng minh khác, từng theo Mỹ, như anh bạn hàng xóm Philippines và Thái Lan
hiện giờ vẫn chưa thể trở thành những cường quốc. Hay như Iraq, Iran, Palestine,
từng rất thân Mỹ, nhưng rồi lại trở thành những kẻ thù. Đài Loan cũng từng có
quan hệ với Mỹ nhưng rồi Mỹ cũng đẩy Đài Loan ra cho Trung Quốc thế chân
trong "Liên Hợp Quốc". Là một quốc gia nhỏ bé, Việt Nam cũng muốn hợp tác và
phát triển. Nhưng đáp lại lời mời mong muốn trở thành bạn bè từ chủ tịch Hồ Chí
Minh, các quốc gia như Pháp và Mỹ, đã đem quân đến đốt phá, đem chất độc màu
da cam đến, dùng bom Napalm, ném bom rải thảm miền Bắc, rồi chia cách Việt
Nam. Hiện nay, vẫn còn hơn chục quốc gia châu Phi phải nộp "thuế thuộc địa" cho
Pháp, họ vẫn là "lục địa đen" - lục địa có một lịch sử đen tối, bị nô lệ và đến giờ
vẫn phải chịu áp bức.
- Từ những phân tích trên đây, ta có thể thấy quan điểm “Việt nam đánh đuổi
Pháp,Mỹ, Nhật là đánh đuổi ba nền văn mình” là quan điểm hoàn toàn sai trái, cần
đấu tranh phản bác và loại bỏ tới cùng.
4.5. Những cơ sở để xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Cơ sở kinh tế - xã hội
- Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
- Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư
liệu sản xuất từng bước hình thành và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Từ đó, nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội
và trong gia đình dần dần bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ
bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong trong xã hội.
V.I.Lênin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về
ruộng đất, công xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được
con đường giải phóng hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ
nô lệ gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã
hội hóa quy mô lớn”
Sự thống trị của người đàn ông trong gia đình là kết quả sự thống trị của họ về kinh
tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế của đàn ông không
còn. Do đó, xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên
tình trạng thống trị của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và
nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động
tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia
lao động xã hội hay tham gia lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho
sự vận động và phát triển, tiến bộ của xã hội
Như Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung,
thì gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư
nhân biến thành một ngành lao động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở thành công
việc của xã hội”. Do vậy, phụ nữ có địa vị bình đẳng với đàn ông trong xã hội. Xóa
bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực
hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một
sự tính toán nào khác
* Cơ sở chính trị - xã hội
- Cơ sở chính trị - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân
lao động được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và
nữ. Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng
lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh
phúc gia đình.
Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền Xô-viết là chính quyền đầu tiên và
duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện,
những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng không bình đẳng với nam giới,
đã dành đặc quyền cho nam giới… Chính quyền Xô-viết, một chính quyền của
nhân dân lao động, chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giớ đã hủy bỏ tất cả
những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ông
trong gia đình…”
- Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trong đó có quy định về chế độ hôn nhân và
gia đình ngày càng được hoàn thiện và được thể hiện sinh động trong thực tiễn
cuộc sống là điều kiện và tiền đề chính trị-xã hội tiên quyết để thực hiện hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, tạo cơ sở cho hạnh phúc bền vững của các
gia đình
Hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thống
chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của công dân, các thành viên trong gia đình, đảm
bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… Hệ
thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình
hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào
và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình
và đảm bảo hạnh phúc gia đình còn hạn chế
* Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản trong
đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng biến
đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của
giai cấp công nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò chi phối nền tảng
văn hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán,
lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.
- Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đảm bảo việc kế thừa có chọn lọc và phát
huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp trong quan hệ tình yêu, hôn nhân,
gia đình của mỗi dân tộc; đồng thời phát triển những nhân tố mới, tích cực của hôn
nhân và gia đình hiện đại tạo cơ sở văn hóa quan trọng, cần thiết cho việc xây dựng
gia đình.
- Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng
cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng
cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng
cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia
đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế,
chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao
* Cơ sở chế độ hôn nhân tiến bộ
- Chế độ hôn nhân tự nguyện trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
+ Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là
khát vọng của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây
dựng trên cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia
đình sẽ bị hạn chế. Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự
nguyện. Đây là bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ và là yếu tố nền tảng,
cơ sở đầu tiên để xây dựng gia đình hạnh phúc.
Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “…nếu nghĩa vụ của vợ và chồng là phải thương yêu
nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau há chẳng phải là kết hôn với nhau và
không được kết hôn với người khác”16. Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam
nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt
của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm,
hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hôn.
+ Tuy không khuyến khích việc ly hôn, nhưng chế độ hôn nhân tiến bộ còn bao
hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa vợ và chồng không còn nữa.
Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo
đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới là hợp đạo đức
mà thôi… và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm
mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội” . Tuy
nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả
nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn
chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền
ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
- Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng:
+ Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng
là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện chế độ hôn nhân
một vợ một chồng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là điều kiện đảm bảo
hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm
lý, tình cảm, đạo đức con người.
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài
người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy.
Tuy nhiên, trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối
với người phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải
vào tay một người, - vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy
lại cho con cái của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế,
cần phải có chế độ một vợ một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía
người chồng” .
+ Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ
một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng.
Trong đó, vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề
của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng,
chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác...
Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia
đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
+ Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau.
Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có
nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa
cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do
sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết
mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được mọi người. quan tâm, chia sẻ.
- Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý:
+ Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp,
nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng
bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu
hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Do đó, quan hệ hôn nhân, gia đình thực
chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan hệ xã hội và được
đảm bảo về pháp lý.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình
yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội
và ngược lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự
do kết hôn, tự do ly hôn để thảo mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ
hạnh phúc của cá nhân và gia đình.
+ Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và
tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một
cách đầy đủ nhất.

4.6. Dẫn chứng thực tiễn về sự biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình ở Việt Nam
hiện nay và tác động của sự biến đổi này đến các quan hệ gia đình.
*Sự biến đổi về quy mô gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại.
“Gia đình đơn” (hay còn gọi là gia đình hạt nhân) đang trở nên rất phổ biến ở các
đô thị và ở cả nông thôn, thay thế cho kiểu “gia đình truyền thống” (gia đình bao
gồm nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau) từng giữ vai trò chủ đạo trước đây.
Như vậy, sự giải thể hình thái cũ và hình thành hình thái mới là một điều tất yếu.

Quy mô gia đình ngày nay tồn tại theo xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể
tồn tại đến ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô
gia đình ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ
cùng sống chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như
trước mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con, cá biệt còn số ít gia đình đơn thân, nhưng
phổ biến nhất vẫn là loại gia đình hạt nhân quy mô nhỏ. Mỗi thành viên trong gia
đình đều muốn được có khoảng không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình
thích, không phải bận tâm đến sự nhận xét của người khác. Do có công ăn việc làm
ổn định, con cái đến tuổi kết hôn cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha
mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng cho thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc
duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự do, làm cho cái tôi, cá tính riêng,
năng lực của con người không có cơ hội phát triển, dẫn đến sự thiếu hụt về lực
lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa.

Quy mô gia đình Việt Nam ngày càng được thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và
điều kiện thời đại mới đặt ra: Sự bình đẳng nam- nữ được đề cao hơn, cuộc sống
riêng tư của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời
sống gia đình truyền thống. Sự biến đổi của quy mô gia đình cho thấy chính nó
đang làm chức năng tích cực, thay đổi chính bản thân gia đình và đây là thay đổi
hệ thống xã hội, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình
mới, thời đại mới.

*Sự biến đổi về kết cấu gia đình


Gia đình Việt Nam hiện đại có sự thay đổi về kết cấu so với gia đình ở thời kì
phong kiến, người đàn ông làm trụ cột gia đình và có quyền quyết định toàn bộ các
công việc quan trọng trong gia đình, trong khi đó, người phụ nữ phải nghe theo
chồng, họ không hề có quyền đưa ra quyết định. Nguyên nhân gây ra là do thời kì
này bị ảnh hưởng bởi nho giáo, người phụ nữ trong gia đình luôn phải tuân theo “
tam tòng tứ đức”. Trong đó:

“Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Tức là khi ở nhà
thì phải theo cha, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng mất thì phải theo con trai.
Như vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ cũng chịu cảnh bị lệ thuộc và không có
tiếng nói trong xã hội phong kiến.

“Tử đức”: Tứ đức là các tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ xưa: công

dung, ngôn, hạnh. Người phụ nữ phải biết khéo léo trong công việc; nhan sắc phải

xinh đẹp; lời ăn tiếng nói phải biết đúng mực; phải biết nết na, thùy mị.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu gia đình thay đổi, ở thời kì nảy,
sự bình đẳng giới giữa nam và nữ được nâng lên nhiều so với thời kỳ trước, người
phụ nữ được giải phóng khỏi những “xiềng xích vô hình” của xã hội cũ. Một minh
chứng rõ ràng đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng thay vì đàn ông năm thê
bảy thiếp. Vậy nên quyền quyết định trong gia đình sẽ thay đổi theo chiều hướng
tích cực hơn. Họ ngày càng được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để
phát triển, nâng cao vị thế xã hội của mình; vai trò của họ trong cuộc sống, trong
sản xuất,... ngày càng trở nên quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần được
chia sẻ từ hai phía. Bình đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng
làm cho mỗi người được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc bởi
các định kiến xã hội truyền thống.
Ngoài ra, ở thời kỳ này, các “gia đình khuyết" trở nên phổ biến hơn so với thời kỷ
trước. Một gia đình khuyết tức là gia đình không có đầy đủ cả bố mẹ và con cái.
Kết cấu của gia đình khuyết có thể thiếu đi bố hoặc mẹ, kiểu gia đình khuyết này là
gia đình đơn thân. Còn một loại gia đình khuyết khác đó là gia đình có vợ chồng
nhưng không thể sinh con hoặc không có ý định sinh con vì một lý do nào đó.

Tuần 5
5.1. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam hiện nay minh chứng cho quan niệm của Chủ
nghĩa xã hội khoa học về nguyên nhân chính trị - xã hội dẫn đến sự tồn tại và phát
triển của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo có những điểm còn phù hợp với đường lối, chính
sách của đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa nên còn tiếp tục được chấp
nhận; đồng thời, dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để
thích nghi với điều kiện chính trị - xã hội mới.
Đảng, Nhà nước ta khẳng định, động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đoàn kết
dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định
“chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước như ngày nay”,
là do sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
từ quan điểm "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" do Nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị (1990) nêu ra, đến Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước
mới, khẳng định rõ hơn tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi
lên chủ nghĩa xã hội".
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân,đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước ta
hiện nay có khoảng 16 tôn giáo, với trên 13,2 triệu tín đồ, chiếm khoảng 13,7%
dân số và nhiều tổ chức tôn giáo; hơn 80 hiện tượng tôn giáo mới; hơn 85% dân số
có đời sống duy tâm. Tín ngưỡng tôn giáo hiện đang là đứa con tinh thần của một
bộ phận đông đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc và cùng với chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, tín ngưỡng tôn giáo đang có những thay đổi vô
cùng mạnh mẽ trước biến động của thế giới và sự phát triển đi lên của đất nước. Vì
vậy,quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: Chủ quan, duy ý chí,
phiến diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo
- Thứ hai, ngày nay, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ,... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến
tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối đe dọa khác trong cuộc sống là
điều kiện thuận lợi để tôn giáo tiếp tục tồn tại và phát triển.
Ở Việt Nam, đại dịch đã làm thay đổi căn bản các hoạt động tôn giáo. Trước đại
dịch tín đồ thực hiện nhu cầu tôn giáo một cách thường xuyên ở phạm vi gia đình,
cơ sở tôn giáo. Tuy nhiên, trong đại dịch thì sự tập trung hàng trăm, hàng nghìn
người tại các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là một hiểm họa khôn lường nếu có tín đồ
nhiễm bệnh. Trường hợp sinh hoạt tôn giáo tập trung của “Hội thánh truyền giáo
Phục hưng” tại Thành phố Hồ Chí Minh đã lây nhiễm cho 653 F0 (riêng Tại Thành
phố Hồ Chí Minh có 635 F0) ở 21/22 quận, huyện của TP. Hồ Chí Minh và 15
tỉnh, thành phố khác bị ảnh hưởng; trường hợp lây nhiễm COVID-19 liên quan đến
Viện Thánh kinh Thần học thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) theo
thống kê ban đầu có 301 ca F0, chủ yếu các tín đồ là học viên; Điều này không chỉ
là bài học cho sự chủ quan trong công tác phòng chống dịch mà còn là lời nhắc nhở
tới các tổ chức và cá nhân tôn giáo về dịch bệnh không phân biệt thành phần, tôn
giáo nào trong xã hội. Chỉ niềm tin tôn giáo là không đủ để phòng chống sự lây lan
của bệnh dịch, mà cần sự quyết tâm hành động chung của toàn xã hội.

- Thứ ba, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng
phức tạp, trong đó, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội vẫn chưa từ bỏ âm
mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của mình.
Từ tháng 6 năm 1965, tại miền Nam Việt Nam, dựa vào lực lượng trong một số tổ
chức đã có thời làm tay sai cho thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã tổ chức thành lập
"Mặt trận thống nhất đấu tranh của các chủng tộc bị áp bức", viết tắt là FULRO
(viết tắt 5 chữ đầu của tổ chức này theo tiếng Pháp: Front Unifié Libération Races
Opprimées). Mục tiêu trước mắt của đế quốc Mỹ là dùng FULRO để gây sức ép
với chính quyền tay sai và chống phá cách mạng, mục tiêu lâu dài là dựng ngọn cờ
FULRO để tiến tới lập khu "tự trị" ở Tây Nguyên, hòng chia cắt sự thống nhất của
đất nước ta.
Tuyên truyền kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, lợi dụng triệt để vấn đề tôn giáo
đế truyền đạo "Tin lành Đê Ga" - một tổ chức chính trị phản động của FULRO, và
coi đây là ngòi nổ để thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ ở Tây
Nguyên.
Kích động, lừa bịp đồng bào dân tộc thiểu số vượt biên trái phép sang Campuchia,
vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tự do dân chủ, nhân quyền.
Lợi dụng những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận đồng
bào dân tộc thiểu số, tiến hành lôi kéo, khống chế, mua chuộc họ thực hiện các kế
hoạch chống phá cách mạng.
Dùng tiền để kích động nhân dân chặt phá rừng, mua chuộc một số cán bộ thoái
hoá biến chất, thổi phồng một số khuyết điểm, yếu kém của ta nhằm làm suy giảm
niềm tin, gây sự nghi ngờ trong dân chúng, đẩy tới các hoạt động khiếu kiện; đồng
thời tìm cách móc nối, cài cắm người của chúng vào bộ máy Đảng, Nhà nước.
Liên kết với các thế lực phản động người nước ngoài, bọn phản động lưu vong
người Việt, ngụy quân, ngụy quyền cũ... để chống phá cách mạng nước ta.

5.2. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam hiện nay minh chứng cho quan niệm của Chủ
nghĩa xã hội khoa học về nguyên nhân tâm lý và nguyên nhân nhận thức dẫn đến
sự tồn tại và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
- Nguyên nhân nhận thức: giới hạn sự hiểu biết của con người => dùng thế giới
tâm linh để thỏa mãn sự hiểu biết
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trình độ tri thức của nhân dân chưa thật
cao; cùng với đó, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải
thích thấu đáo... những vấn đề đó tạo cơ hội cho sự nhận thức sai lệch của con
người, trong đó bao gồm cả nhận thức tôn giáo, là cơ hội để tôn giáo tiếp tục tồn
tại và phát triển.
VD : con người tin vào việc có ma quỷ khiến người ta bị bệnh

- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong đời sống nhân loại, đã ăn
sâu vào tiềm thức, nếp nghĩ, lối sống của nhiều người dân, trở thành tập quán, thói
quen... của một bộ phận không nhỏ nhân dân.
Trạng thái dẫn đến sự ra đời của tôn giáo :
(1) sợ hãi lo lắng trước khi làm việc gì trọng đại sẽ thắp hương ông bà tổ tiên . Tôn
giáo là điểm con người bấu víu vào khiến con người đỡ lo sợ
(2) sự kính trọng biết ơn : cưới vợ gả chồng xem ngày làm lễ . Tư tưởng của các
tôn giáo khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu trong
giáo dục tín đồ, phù hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam trong xây dựng văn
hóa gia đình, tế bào của xã hội.

VD: Tôn giáo du nhập, hình thành ở Việt Nam từ rất sớm, được người dân đón
nhận bởi những giá trị nhân bản mà tôn giáo mang lại phù hợp với đạo lý, văn hóa
truyền thống tốt đẹp của người Việt. Trải qua chiều dài lịch sử dân tộc, tôn giáo
luôn gắn kết chặt chẽ, đồng hành cùng dân tộc, mà biểu hiện rõ nét nhất là các giá
trị đạo đức, văn hóa.

Phật giáo hơn 2.000 năm có mặt tại Việt Nam với phương châm nhập thế “Đạo
pháp bất ly thế gian pháp” đã phát huy giá trị văn hóa Phật giáo trong xã hội Việt
Nam qua các thời kỳ. Đạo đức, văn hóa Phật giáo đã làm sâu sắc và phong phú
thêm các giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam, như quan niệm về tinh thần từ bi,
hỷ xả, vô ngã vị tha, lục hòa cộng trụ hay về luật nhân quả. Phật giáo đã chỉ ra mọi
nỗi khổ đau của con người và bất bình đẳng xã hội chính là tham, sân, si, làm nảy
sinh những tà kiến, tranh chấp, làm điều ác; đề cao quy luật nhân quả, nghiệp báo,
nâng cao trách nhiệm đối với cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội, thúc đẩy con
người điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân.

5.3. Dẫn chứng thực tiễn ở Việt Nam hiện nay minh chứng cho quan niệm của Chủ
nghĩa xã hội khoa học về nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân văn hóa dẫn đến sự
tồn tại và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
- Nguyên nhân kinh tế:
Trong xã hội XHCN, nhất là ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo
nhưng chưa xóa bỏ hoàn toàn sự bất bình đẳng về kinh tế , còn nhiều thành phần
kinh tế khác nhau vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau nên
vẫn còn sự bất bình đẳng về kinh tế, văn hoá, xã hội...; người dân vẫn đang chịu tác
động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi do của cơ chế thị trường tạo
ra. Do đó, họ vẫn có tâm lý nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên;
đời sống vật chất không ngừng được nâng cao cũng là điều kiện để con người
chăm lo đến các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo hơn.
VD: con người vẫn tin vào lực lượng siêu nhiên, cầu xin công việc làm ăn gặp
nhiều may mắn : tại Việt Nam, việc thờ cúng “Búp bê Kuman Thong” xuất hiện tại
một số địa phương chủ yếu là ở một bộ phận nhỏ doanh nhân, người buôn bán,
thậm chí có cả những đối tượng là trộm cướp, lừa đảo,… Người thờ “Búp bê
Kuman Thong” chủ yếu là giới kinh doanh, buôn bán với nhiều mục đích như: tăng
ích (chiêu tài, câu khách, buôn may bán đắt); kính ái (tạo tình cảm),hàng phục (phá
phách đối thủ); câu triệu (gọi người đi xa)… Việc mua, bán “Búp bê Kuman
Thong” không khó khăn khi có hàng chục hội, nhóm kín được thành lập ra trên
mạng xã hội chuyên trao đổi, buôn bán và chăm sóc “Búp bê Kuman Thong”. Do
lợi nhuận từ việc buôn bán “Búp bê Kuman Thong” không nhỏ, trong khi chất
lượng không thể kiểm chứng nên các đối tượng xấu có ý thổi phồng sự thật về
“Búp bê Kuman Thong”, buôn bán “Búp bê Kuman Thong” giả, lừa gạt những
người cả tin nhằm trục lợi.
VD: sự bất bình đẳng về kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo nên cần những sự bổ trợ
về mặt tâm linh để giúp chúng ta trong việc làm ăn kinh tế

- Nguyên nhân về văn hoá:


Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó
nhu cầu văn hoá tinh thần của một bộ phận nhân dân và vẫn còn có ý nghĩa nhất
định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc tôn
trọng, kế thừa (có chọn lọc, có định hướng) những giá trị văn hoá trong sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo là cần thiết. Đó là một trong những nguyên nhân để tín
ngưỡng, tôn giáo tiếp tục tồn tại và phát triển.
VD: Truyền thống đi lễ rửa tội , đi chùa vào ngày rằm thờ cúng ông bà tổ tiên, đi
cầu khấn đầu năm => nét đẹp văn hóa là sự lưu giữ bảo vệ tôn giáo ăn sâu vào
trong đời sống nề nếp người Việt

5.4. Dẫn chứng thực tiễn cho mỗi khía cạnh của từng tính chất của tôn giáo.
- Tính lịch sử
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa là nó có sự hình thành, tồn
tại và phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có khả năng biến đổi
để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội. Khi các điều kiện kinh tế - xã hội,
điều kiện lịch sử thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong quá trình vận
động của các tôn giáo, chính các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể đã làm
cho các tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, nhiều hệ phái khác
nhau.
VD: Phật giáo khi mới du nhập vào VN đã sớm ăn sâu vào tiềm thức người việt
phù hợp với mong muốn ng việt , có giai đoạn thời lý thời trần phật giáo phát triển
hưng thịnh người dân có hiểu biết nhất định về phật giáo chùa được xây dựng ở
nhiều nơi, thời kì pháp xâm lược phật giáo bị đàn áp nặng nề . Hiện nay phật giáo
được phục hồi việc tiếp cận phật giáo càng ngày phát triển khi có mạng xã hội ,
chùa chiền ở nhiều nơi
Tôn giáo không phải là một hiện tượng vĩnh hằng. Đến một giai đoạn lịch sử nhất
định, khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức
được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách khoa học đầy đủ, thì tôn
giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức,
niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá trình
phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.
VD: Ngày nay, chúng ta không còn tìm đến tôn giáo bởi sự thiếu hiểu biết hay nỗi
sự về thiên nhiên, kinh tế hay chính trị nhưng còn nguồn gốc tâm lý, cảm xúc của
con người mà điển hình chính là sự sợ hãi

- Tính quần chúng


Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ rất đông đảo
(khoảng 4/5 dân số thế giới); mà còn thể hiện ở chỗ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt
văn hoá, tinh thần của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
VD: Phật giáo vẫn giữ một vai trò quan trọng trong tín ngưỡng tâm linh của nhiều
quốc gia dân tộc, đặc biệt là các nước khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam. Số
lượng phật tử ngày càng tăng cao. Con người tìm đến Phật giáo như một cách để
họ giải tỏa tâm hồn được an yên với mong muốn đem đến sự thanh tịnh,bình an,
tránh xa sự xô bồ của đời sống vật chất ngoài kia, để được nương tự dưới cửa Phật.
- Tính chính trị
Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ
của con người về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn giáo chưa mang tính
chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp.
Tôn giáo có tính chính trị là do: 1-Tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh
tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc; 2-Các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn
giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến
bộ xã hội.
VD : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với sự nghiệp đổi mới, trước
hết là đổi mới tư duy, Đảng ta đã từng bước đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác
tôn giáo. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng".
Trong đó, bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn
giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị ngày
16/10/1990 "Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Đồng thời nêu
lên ba quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo. Cụ thể là:
Một là, công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của
quần chúng, vừa cảnh giác kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá
hoại cách mạng;
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng;
Ba là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị

5.5. Dẫn chứng thực tiễn về việc vận dụng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đối
với nguyên tắc “Phải phân biệt rõ mặt tư tưởng với mặt chính trị trong giải quyết
vấn đề tôn giáo”.
* Nguyên tắc “phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn
giáo”
- Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, tín ngưỡng tôn giáo chỉ biểu hiện thuần túy về
tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính trị ít
nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Và từ đó hai mặt chính trị và tư tưởng thường
thể hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn
giáo. VD: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những tầng lớp, giai cấp nô lệ bị áp bức,
bóc lột, bần cùng nặng nề bởi chủ nô (chính trị), vì thế họ tin tưởng rằng có một
thế lực siêu trần thế có thể cứu giúp họ và cho họ tự do,hạnh phúc (tư tưởng)
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thực chất là phân biệt tính
chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và
trong vấn đề tôn giáo:
Mặt chính trị của tôn giáo phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính
trị giữa các giai cấp và những thế lực lợi dụng (đội lốt) tín ngưỡng, tôn giáo chống
lại sự nghiệp cách mạng và lợi ích của nhân dân lao động
Mặt tư tưởng của tôn giáo phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng giữa
những người có tín ngưỡng và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng
như giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau
- Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, mặt chính trị và mặt tư
tưởng của tôn giáo thường đan xen vào nhau trong đời sống xã hội. Mặt khác,
trong xã hội có đối kháng giai cấp, vấn đề tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi
phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần tuý trong
tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả”
hoặc “hữu” trong quá trình quản lý, giải quyết những vấn đề liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo, đến một bộ phận quần chúng trong xã hội (những người theo tôn
giáo).
- Từ việc phân biệt hai mặt này, chúng ta có thể giải quyết chúng theo hướng:
Đối với mặt chính trị, phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động
trong tôn giáo, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác,
kịp thời chống lại âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, bảo vệ và
phát huy thành quả cách mạng và lợi ích của nhân dân;
Đối với mặt tư tưởng, phải tôn trọng, bảo vệ tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do
không tín ngưỡng, tôn giáo (chân chính) của nhân dân, đồng thời, kiên quyết
nghiêm trị những âm mưu, hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phục vụ
cho các mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch, phản động.
Ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến
lược “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp công nhân cần nêu cao cảnh
giác, giải quyết kịp thời, cương quyết đối với những hoạt động lợi dụng tôn giáo
chống chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng phải hết sức khách quan, chính xác, tránh nôn
nóng, vội vàng, chủ quan, định kiến.
* Chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo, tín ngưỡng trong
giai đoạn hiện nay được khẳng định tại Nghị quyết số 25/NQ TW ngày 12/3/2003
của BCHTW (Khóa IX) về Công tác tôn giáo với những nội dung cơ bản sau:
- Một là: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
+ Đảng ta khẳng định, tôn giáo sẽ tồn tại lâu cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực tế ở nước ta, hiện có khoảng 24 triệu người,
chiếm hơn ¼ dân số, đang có tín ngưỡng tôn giáo, cùng hàng triệu người theo các
tín ngưỡng dân gian; nhiều giá trị của các tôn giáo, cả vật thể và phi vật thể, phù
hợp với đạo đức, văn hóa của xã hội mới và đóng góp quan trọng cho công cuộc
xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
+ Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Điều đó thể hiện Đảng và Nhà nước ta nhận
thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo quy luật của quá trình chuyển biến về mặt tư
tưởng của con người vào quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam - đó là
một quá trình chuyển biến tự giác, dân chủ, từ thấp đến cao.
- Hai là: Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
+ Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo
và đồng bào không theo tôn giáo là một nội dung đặc biệt quan trọng của đại đoàn
kết dân tộc.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt
đối xử với người dân vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng; mặt khác, thông qua quá trình
vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất, hoạt động xã hội thực
tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ kiến thức... để tăng
cường sự đoàn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” được coi là điểm tương đồng để
gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
- Ba là: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
+ Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, bao gồm hệ
thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị, do Đảng
lãnh đạo.
+ Cần củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm
công tác tôn giáo các cấp. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tôn
giáo và đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo gây phương hại đến lợi ích Tổ
quốc, dân tộc chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
- Bốn là: Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
+ Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
+ Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tôn giáo,
nhằm nâng cao trình độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào, làm cho quần chúng nhân
dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tích cực, nghiêm chỉnh thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, trong
đó có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Năm là: Về vấn đề theo đạo và truyền đạo.
+ Theo đạo và truyền đạo (truyền bá tôn giáo) là những loại hoạt động tôn giáo
khác nhau, cả về hành vi, mục đích, người thực hiện. Mọi tín đồ đều có quyền tự
do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
+ Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và
được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà
tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo
của mình theo đúng quy định của pháp luật.
+ Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm
các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

5.6. Phân tích tính cấp thiết của việc nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học trong
điều kiện hiện nay.
* Về mặt lý luận
- Nghiên cứu, học tập và phát triển Chủ nghĩa xã hội khoa học giúp trang bị những
nhận thức chính trị-xã hội và phương pháp luận khoa học về quá trình tất yếu lịch
sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa,
giải phóng xã hội, giải phóng con người...
Vì thế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin có lý khi xác định rằng, Chủ
nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng
của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân mình.
Một khi giai cấp công nhân và nhân lao động không có nhận thức đúng đắn và đầy
đủ về chủ nghĩa xã hội thì không thể có niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh cách mạng
vững vàng trong mọi tình huống và mọi khúc quanh của lịch sử, cũng không có đủ
cơ sở khoa học, bản lĩnh để vận dụng sáng tạo, phát triển đúng đắn lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cũng như triết học và Kinh tế chính trị học Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa
học không chỉ giải thích thế giới mà căn bản là ở chỗ cải tạo thế giới theo quy luật
khách quan, phù hợp với tiến bộ, văn minh. Nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa xã hội
khoa học góp phần định hướng chính trị - xã hội cho hoạt động thực tiễn của đảng
cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
- Nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa xã hội khoa học giúp chúng ta có căn cứ nhận
thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống lại những
nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn
phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế độ ta; chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược
lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân tộc và nhân loại tiến bộ.
* Về mặt thực tiễn
Việc nghiên cứu, nắm vững lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học để vận dụng
và phát triển nó là rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta, đặc biệt là
trong tình hình trong nước và thế giới hiện nay.
- Một là, là khoa học về những quy luật, con đường, hình thức và bước đi của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa xã hội khoa học là cơ sở lý luận trực
tiếp giúp cho cho các đảng Cộng sản xác định mục tiêu, đường lối chiến lược, sách
lược của cách mạng. Nếu không nghiên cứu, không nắm vững những nguyên lý
của Chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó, không có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ dễ
mắc sai lầm trong việc xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách và chỉ đạo thực
tiễn quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
- Hai là, nghiên cứu và phổ cập những nguyên lý, quy luật của Chủ nghĩa xã hội
khoa học chẳng những giúp cho tập thể lãnh đạo đất nước hoạch định đường lối,
quan điểm chiến lược cách mạng mà còn giúp cho đông đảo quần chúng tiếp thu
đường lối, quan điểm ấy một cách tự giác.
- Ba là, nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học góp phần tích cực vào việc đề
phòng và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực như suy thoái đạo đức, lối sống; tự
diễn biến, tự chuyển hóa; phai nhạt lý tưởng cách mạng và niềm tin vào sự tất
thắng của chủ nghĩa xã hội
Tiến hành thường xuyên việc giáo dục về Chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ giữ vững
và nâng cao giác ngộ giai cấp, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin
khoa học và cách mạng vào sự nghiệp cách mạng, nhiệt tình, đạo đức và tình cảm
cách mạng…cho bản thân giai cấp công nhân, cho đảng Cộng sản, cán bộ nhà nước
và toàn thể Nhân dân lao động trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở nhận thức khoa học và hoạt động
thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức khoa học, thông qua giáo dục, hoạt động thực tiễn
mà niềm tin được hình thành, phát triển. Niềm tin khoa học là sự thống nhất giữa
nhận thức, tình cảm, ý chí và quyết tâm trở thành động lực tinh thần hướng con
người đến hoạt động thực tiễn một cách chủ động, tự giác, sáng tạo và cách mạng.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cùng với sự thoái
trào của phong trào cách mạng thế giới, lòng tin vào chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa
xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và nhân dân có giảm sút. Đó là một thực tế. Vì thế, nghiên cứu, học tập và
phát triển Chủ nghĩa xã hội khoa học càng khó khăn trong tình hình hiện nay và
cũng có ý nghĩa chính trị cấp bách.
Chỉ có bản lĩnh vững vàng và sự sáng suốt, kiên định chủ động sáng tạo tìm ra
những nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, khủng
hoảng, đổ vỡ và của những thành tựu to lớn trước đây cũng như của những thành
quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới có thể đi tới kết
luận chuẩn xác rằng: không phải do chủ nghĩa xã hội - một xu thế xã hội hoá mọi
mặt của nhân loại; cũng không phải do chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội
khoa học... làm các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng. Trái lại, chính là do các
nước xã hội chủ nghĩa đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với Chủ
nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ nghĩa Mác-Lênin... đã giáo điều, chủ quan duy
ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại,
trong đó có chủ nghĩa tư bản; đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội - phản bội
trong một số đảng Cộng sản và sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến
lược “Diễn biến hoà bình” đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.
Thấy rõ thực chất những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học; đồng thời
được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các
nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên
định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân đã lựa chọn
Do đó, việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, lý luận chính trị - xã hội nói riêng và các khoa học khác... càng là vấn đề
thực tiễn cơ bản và cấp thiết. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống mọi biểu hiện cơ
hội chủ nghĩa, dao động, thoái hoá, biến chất trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý
luận chính trị - xã hội một cách cơ bản khoa học là góp phần củng cố niềm tin thật
sự đối với chủ nghĩa xã hội... cho cán bộ, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên và
nhân dân. Tất nhiên, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở rộng
hợp tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế; xây dựng "kinh tế tri thức", xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... đang là những vận hội lớn,
đồng thời cũng có những thách thức lớn đối với nhân dân ta, dân tộc ta. Đó cũng là
trách nhiệm lịch sử rất nặng nề và vẻ vang của cả thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên đất nước ta.

You might also like