You are on page 1of 24

Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Khoa Lý Luận Chính Trị

BÀI TẬP LỚN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề bài : Tìm hiểu về sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và


Đông Âu để khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Hồ Chí Minh là đúng đắn

Họ và tên : Đỗ Nguyễn Huy Hoàng


Mã Sinh viên : 11201583
Lớp học phần : Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT 01_18)
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hoa

Hà Nội, năm 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 3
1. Sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu ....................................... 3
1.1. Các quan điểm sai trái về sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu ................................................................................................ 3
1.2. Nguyên nhân sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu..................................................................................................................... 4
1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin - những giá trị bền vững không thể phủ nhận .... 8
2. Khẳng định con đường đi lên CNXH của Hồ Chí Minh là đúng đắn ..........11
2.1. Quá trình đưa đất nước đi lên CNXH của Hồ Chí Minh ........................11
2.2. Sự tiếp nối quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhà nước ta 17
3. Nhận xét ........................................................................................................20
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................22
1

LỜI MỞ ĐẦU

Cách mạng Việt Nam đã giành được rất nhiều thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử
quan trọng đối với nền độc lập chủ quyền, đặc biệt là những thành tựu có ý nghĩa
lịch sử của 35 năm đổi mới đất nước. Nền tảng vững chắc tạo nên những chiến
thắng vẻ vang đó là con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đây hoàn toàn là sự lựa chọn đúng đắn và nhất quán; sự lựa chọn này là kim chỉ
nam xuyên suốt trong đường lối của Đảng cho đến hiện nay.

Một trong những luận điểm chứng minh cho luận cứ trên là sự sụp đổ của
chế độ Chủ nghĩa Xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Bằng những kinh
nghiệm quý giá trong suốt cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục, chứng
kiến cuộc sống của các dân tộc bị áp bức Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và
rút ra những nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan dẫn đến sự sụp đổ chế độ này
ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Đặc biệt, Luận cương “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lênin đã giải
quyết trọn vẹn tất cả vấn đề mà Bác đặc biệt quan tâm, đó là cách mạng thuộc địa
được đặt trong quỹ đạo của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa.

Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn giành độc lập cho
dân tộc Việt Nam, tiếp nối vĩ đại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam trên cơ sở sức mạnh mới, sức mạnh của thời đại quá độ lên CNXH được
mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga.
2

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. NXB Chính trị Quốc gia sự thật (2017), giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí
Minh”.

2. . Luận cứ khoa học phê phán quan điểm: “Sự sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác – Lênin”,
Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận,
https://truongchinhtri.ninhthuan.gov.vn/TCT/1239/30509/41164/71741/BAO-
VE-NEN-TANG-TU-TUONG-CUA-DANG/LUAN-CU-KHOA-HOC-PHE-
PHAN-QUAN-DIEM---SU-SUP-DO-CUA-MO-HINH-CHU-NGHIA-XA-HOI-
O-LIEN-XO-VA-DONG-AU-BAT-NGUON-TU-CHU-NGHIA-MAC---
LENIN-.aspx.

3. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân
Việt Nam, Báo Điện tử Chính phủ, https://baochinhphu.vn/con-duong-di-len-
chu-nghia-xa-hoi-dap-ung-dung-khat-vong-cua-nhan-dan-viet-nam-
102293345.htm.

4. Đi lên chủ nghĩa xã hội sự lựa chọn đúng đắn và nhất quán của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta, Lý luận chính trị,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/3831-di-len-chu-nghia-
xa-hoi-su-lua-chon-dung-dan-va-nhat-quan-cua-chu-tich-ho-chi-minh-dang-ta-
va-nhan-dan-ta.html.
3

PHẦN NỘI DUNG

1. Sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu


Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu diễn ra vào
cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990 được coi là chấn động lớn nhất trong
nền chính trị thế giới nửa cuối thế kỷ XX. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác-
Lênin bị thách thức nghiêm trọng. Một số học giả tư sản phương Tây đã quy chụp
nguyên nhân của sự sụp đổ đó là do sự lỗi thời và những sai lầm từ chủ nghĩa Mác
- Lênin.

1.1. Các quan điểm sai trái về sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu
Thứ nhất, nhiều học giả phương Tây, cả cánh tả và cánh hữu, từ tân bảo thủ
đến tân tự do, tin rằng sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đặt dấu chấm hết đối
với chủ nghĩa Mác - Lênin sau hơn 150 năm tồn tại. Đại diện cho quan điểm này
là triết gia tân bảo thủ Francis Fukuyama với công trình nổi tiếng “Sự cáo chung
của lịch sử và người cuối cùng” xuất bản năm 1992, trong đó cho rằng cùng với
sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của bức tường Berlin thì cuộc đấu
tranh giữa các hệ tư tưởng như là động lực của sự tiến bộ nhân loại đã đến hồi kết
với thắng lợi cuối cùng thuộc về nền dân chủ tự do và chủ nghĩa tư bản thị trường.

Có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để phủ định học thuyết Mác - Lênin, các thế lực thù địch cho rằng, học thuyết
Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX và phù hợp trong một chừng mực nào đó
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phương Tây thời đó. Lý luận này
không còn phù hợp với thế kỷ XX và đặc biệt trong điều kiện ngày nay khi Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn
cầu hóa phát triển thì càng không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Từ đó, họ
tuyên truyền xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không phù hợp ở
Việt Nam và cần loại bỏ. Gần đây, trước những khó khăn về kinh tế, xã hội của
đất nước, họ tuyên truyền luận điệu: Việc Việt Nam lựa chọn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm,
là duy ý chí. Họ cho rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác chỉ là
một mớ lý thuyết suông về một chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực
4

hiện được. Do vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở LiênXô, Đông Âu và trên
toàn thế giới là một tất yếu, là sự cáo chung đã được báo trước.

Thứ hai, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng kích thích cuộc đấu tranh
tư tưởng ngay trong lòng các đảng cộng sản do sự trỗi dậy của hàng loạt các quan
điểm mạo danh Mác-xít – Lênin-nít, kêu gọi bảo vệ học thuyết này, nhưng thực
chất gây nghi ngờ, chia rẽ, xói mòn cơ sở lý luận Mác - Lênin. Có quan điểm đem
quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học thuyết”.

1.2. Nguyên nhân sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu
Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã
hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân
dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên
ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội
đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy
xã hội Xô Viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng
và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức,
cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo
cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ
nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực
tiếp. Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính sự
nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin của một số
người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ
yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa
Mác - Lênin. Những nguyên nhân đó tập trung vào:
5

Nguyên nhân khách quan

Chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực
hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và Các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành một cuộc chiến tranh khi bằng
súng đạn, khi bằng "diễn biến hòa bình" chống chủ nghĩa xã hội, chống Liên Xô.
Chủ nghĩa đế quốc đã gây ra cuộc Chiến tranh lạnh sau Chiến tranh thế giới thứ
hai. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra "gót chân Asin" của cải tổ: đó là
đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô
nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở "tư duy chính trị mới". Các
thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách
để lái nó đi theo ý đồ của chúng. Các thế lực bên ngoài tác động vào cải tổ cả về
ý tưởng, chính trị và tổ chức. Việc hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một
thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn.
Chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh thực hiện: "diễn biến hòa bình" trong nội bộ Liên
Xô và Đông Âu. Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Níchxơn
cho rằng "mặt trận tư tuởng là mặt trận quyết định nhất", ông ta viết: "Toàn bộ vũ
khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu
chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng". Chiến lược của Mỹ trước sau như một là
đưa chiến tranh vào bên trong "bức màn sắt".

Ngoài ra còn có các nguyên nhân khách quan khác như xây dựng chủ nghĩa
xã hội là con đường hoàn toàn mới mẻ, khó khăn, phức tạp chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Tiếp theo là do hầu hết các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa có điểm
xuất phát thấp, cơ sở vật chất, kỹ thuật và trình độ phát triển về kinh tế so với chủ
nghĩa tư bản còn hạn chế. Và cuối cùng là ảnh hưởng quá lớn của mô hình Xô Viết
dẫn tới “áp đặt mô hình Xô Viết”, coi đó là mô hình duy nhất của chủ nghĩa xã
hội.

Nguyên nhân chủ quan

Một là, hạn chế trong tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận của Đảng Cộng sản,
nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc tìm kiếm mô hình phù hợp với quốc
gia, dân tộc mình. các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu mắc phải sai lầm chủ quan để cho quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển
6

hóa” diễn ra trong nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho cán bộ, đảng viên suy thoái về
tư tưởng, dao động, hoài nghi về những giá trị của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận chủ
nghĩa Mác-Lênin, hạ thấp và đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Hơn nữa, tất cả điều đó đặt dưới “ngọn cờ” dân chủ vô hạn độ, công khai vô giới
hạn thì tan vỡ là không tránh khỏi. Một thể chế không biết tự bảo vệ mình một
cách hợp quy luật và kiên định, không trước ắt sau sẽ vào tan rã và sụp đổ thì điều
đó không lấy gì làm lạ cả. Qua thực tiễn càng cho thấy, lực lượng bên ngoài là tác
nhân kích thích quan trọng, nhưng lực lượng “ngầm” bên trong nội bộ Đảng, Nhà
nước là “hạt nhân nòng cốt” cho sự “chuyển hóa”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng
Cộng sản bị phân hóa, rối loạn, tự mâu thuẫn, không thế kiểm soát được tình hình;
không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Hai là, những yếu kém, khuyết điểm trong đường lối chính trị, sự vận hành
kém hiệu quả của hệ thống chính trị và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong cải tổ,
Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đuờng lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, xa rời
những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà nguy hiểm hơn lại ở một bộ
phận lớn những người lãnh đạo cao nhất trong bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà
nước. Cuộc cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã kết thúc trong sự đổ vỡ
hoàn toàn vào năm 1991. Đường lối cải tổ ở Liên Xô thực chất là đường lối trượt
dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, đến từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin.
Những tuyên bố ban đầu: "cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều chủ nghĩa xã
hội hơn", "chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài
nó", "chúng ta tìm trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội chứ không phải ở ngoài
giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra", v.v. rốt
cuộc chỉ là những tuyên bố suông nhằm ngụy trang cho ý đồ phản bội. Những
người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công
khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ
chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chủ trương
đưa ra lúc đầu là "tăng tổc" về kinh tế để chấm dứt sự trì trệ. Đẩy mạnh nhịp độ
phát triển không có gì sai mà là tất yếu, bức bách, vấn đề là tăng tốc bằng cách
nào thì không có câu trả lời đúng đắn. Đổi mới công nghệ bằng cách nào cũng bế
7

tắc. Người ta liền quy cho cơ chế quản lý kinh tế nhưng rồi cũng trầy trật; người
ta đã chuyển nhanh sang cải tổ chính trị coi đây là "cái chìa khóa" cho mọi vấn
đề. Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ 19 (năm 1988) chủ trương chuyển trọng
tâm sang cải tổ hệ thống chính trị trên cơ sở cái gọi là "tư duy chính trị mới".
Thực chất, đó là sự thỏa hiệp vô nguyên tắc, là sự đầu hàng, là từ bỏ lập trường
giai cấp, là sự phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin, phản bội sự nghiệp xã hội chủ
nghĩa. Cuộc cải tổ chính trị đánh thẳng vào hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã
hội, trước hết là vào tổ chức Đảng. Nhóm lãnh đạo cải tổ tìm cách loại bỏ khỏi
Ủy ban Trung ương Đảng hàng loạt những người không tán thành đường lối sai
lầm của cải tổ, kiên trì đường lối chủ nghĩa Mác - Lênin. Những người ngấm
ngầm hoặc công khai thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm các vị trí chủ
chốt trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Bằng phát súng lệnh "công khai", "dân
chủ", "không có vùng cấm", cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán,
công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Phủ định sạch trơn mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Nó gây hoang mang,
xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối
với những giá trị của chủ nghĩa xã hội. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện
thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ
định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những
ý đồ, mục đích đen tối của chúng.

Ba là, sự mâu thuẫn, mất đoàn kết, thiếu thống nhất trong nội bộ hệ thống xã
hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch đã tìm mọi cách nhằm “gieo hạt giống thức
tỉnh và hủy diệt chế độ Xô-viết” thông qua sách lược “mưa dầm thấm lâu”. Với
chiêu bài “ngoại giao thân thiện”, các thế lực thù địch đẩy mạnh truyền bá tư tưởng
tự do, dân chủ, nhân quyền, luồn sâu, leo cao, từng bước can thiệp ngày càng sâu
vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao và quốc phòng, an ninh
của Liên Xô. Sức mạnh quốc gia phải đặt trên sự đoàn kết một khối vững chắc thì
lại bị “băm nhỏ” một cách “dân chủ” vô lối và thảm hại. Chủ nghĩa ly khai hoành
hành nằm ngoài sự kiểm soát một cách nguy kịch. Điều tệ hại này thúc đẩy nhanh
chóng quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, làm
cho nội bộ 15 nước cộng hòa và hệ thống chuyên chính vô sản đã được thiết lập
khá vững chắc từ thời V.I. Lênin, từng bước biến đổi về nhận thức, chuyển hóa về
8

tư tưởng, gây mất niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào đất nước và lý tưởng
chủ nghĩa cộng sản, đã rơi vào hỗn loạn và tan rã.

Sau hơn 70 năm tồn tại, sự tan rã của thể chế chính trị ở Liên Xô và Đông
Âu thực chất là sự tan rã của một dạng thức, một mô hình của xã hội xã hội chủ
nghĩa được coi là "mẫu mực" là "duy nhất đúng". Tuyệt nhiên, đó không phải là
sự đổ vỡ, sự "kết thúc lịch sử" của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa
học. Cũng từ đây nhiều trào lưu, xu hướng mới nảy sinh trong nhận thức, lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở một số nước, các
Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân, Đảng Cánh tả đã có những nhận thức mới, phù
hợp hơn về những mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở kế thừa những giá
trị lý luận của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng
vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia - dân tộc.

1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin - những giá trị bền vững không thể phủ nhận
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, phát triển với bao thăng trầm của lịch sử nhưng
vẫn mang trong lòng nó những giá trị bền vững không thể bác bỏ. Chính vì vậy,
chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho chúng
ta nhận thức và giải quyết những vấn đề thực tiễn của thế giới đương đại; xây dựng
chủ nghĩa xã hội và thực hiệnsự nghiệp đổi mới thành công.

Thứ nhất, phương pháp biện chứng duy vật

Phương pháp biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự kết tinh toàn bộ những
thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại. Phương
pháp duy vật biện chứng là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, qui luật cơ bản của
phép biện chứng và lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Đó là: Nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển; Các cặp phạm trù: Cái chung và
cái riêng; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên; Nội dung và hình
thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực,... Các qui luật: Qui luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại;
Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; Qui luật phủ định của phủ
định,... Phương pháp luận này coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái
luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.
9

Thứ hai, quan niệm duy vật về lịch sử

Ph. Ăngghen đã đánh giá công lao vĩ đại của C. Mác đối với sự phát triển
của nhân loại: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu
cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: cái sự thật đơn giản
đã bị những tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người
trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. được; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của
một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể
chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan
niệm tôn giáo của con người ta, cho nên phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích
những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm”.
V. I. Lênin nhấn mạnh: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học”.

Nói chung quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở phương pháp luận giúp con
người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách đúng đắn và còn nguyên giá trị, không
thể lỗi thời cho dù điều kiện hiện nay.

Thứ ba, lý luận hình thái kinh tế - xã hội

Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài
người, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội loài người rất
phong phú, đa dạng, nhưng đó là sự phát triển có quy luật. Những yếu tố cốt lõi
quy định tiến trình phát triển của xã hội chính là mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Toàn bộ lịch sử vận động và phát triển của xã hội loài người là sự thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội sau
bao giờ cũng là một sự phát triển cao hơn hình thái kinh tế - xã hội trước đó. Khi
phân tích quy luật vận động của một xã hội nhất định, học thuyết này chỉ ra những
mâu thuẫn bên trong và khẳng định chính sự vận động của mâu thuẫn này, cuối
cùng, sẽ dẫn đến sự chuyển hóa từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình
thái kinh tế - xã hội khác. Tất cả các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trong
10

lịch sử tạo nên chuỗi phát triển tiến bộ của xã hội loài người. Tuy nhiên, các hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau trong lịch sử vẫn chỉ là những nấc thang nhất thời
trên con đường phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.

Thứ tư, Học thuyết giá trị thặng dư

Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, Ph. Ăngghen coi học thuyết giá trị
thặng dư là phát minh vĩ đại thứ hai của C. Mác. Vì C. Mác là người phát hiện ra
quy luật giá trị thặng dư, cũng như nguồn gốc của giá trị thặng dư, qua đó vén bức
màn bí mật che đậy sự thật về bản chất bóc lột lao động làm thuê của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngày nay chính sự phát triển vũ bão của khoa học –
công nghệ nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý
luận về giá trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu trở nên lỗi thời, mà ngược lại đã
và đang chứng minh cho tính đúng đắn của những lý luận đó.

Thứ năm, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học

Khi C. Mác và Ăngghen nói về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì
đó mới chỉ là dự báo trên những đường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Trên cơ sở quy
luật sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên, tính tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xa hội, sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu như nhau. Về sau,
V. I. Lênin là người trực tiếp vận dụng học thuyết của C. Mác và Ănghen để tiến
hành cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
nước Nga và Liên Xô.

Chủ nghĩa Mác – Lênin mang ý nghĩa cách mạng vĩ đại, vô cùng lớn lao
trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Sức sống của học thuyết Mác trong thời đại
ngày nay thể hiện ở chỗ: các giá trị bền vững trong các học thuyết cơ bản của ông
đã và vẫn sẽ là lý luận và phương pháp luận để nhận thức, cải tạo thế giới; còn
những giới hạn lịch sử trong một số luận điểm cụ thể, dự báo nào đó thì đặt ra yêu
cầu phải bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới. Không thể vì sự sụp
đổ của chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu mà ai đó đã
vội quy kết, coi nó là “sự phá sản”, “sự sụp đổ” của chủ nghĩa Mác - Lênin, của
11

lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học hay sự thất bại của lý tưởng Cách mạng
Tháng Mười Nga.

2. Khẳng định con đường đi lên CNXH của Hồ Chí Minh là đúng đắn
2.1. Quá trình đưa đất nước đi lên CNXH của Hồ Chí Minh
Làm rõ tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
TBCN là nội dung rất cơ bản của công tác lý luận chính trị và tư tưởng hiện nay.
Vấn đề này được nhiều người nhất trí, song không phải là không có tiếng nói
ngược, nhất là trong tình hình quốc tế chuyển biến nhanh chóng và phức tạp như
hiện nay. Đặc biệt là từ sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước
Đông Âu, thì những thế lực phản động và không ít kẻ “ăn theo”, “nói leo” được
thể lu loa đủ điều rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin đã hết thời, chủ nghĩa xã hội đã
chết, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa đã cáo chung, …

Ở nước ta, thời gian qua cũng xuất hiện những luận điệu tương tự. Có người
cho rằng, con đường XHCN mà Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chọn là con đường tốn
xương máu của dân tộc, nếu đi con đường khác thì có thể tránh được mấy cuộc
chiến tranh tàn khốc? Có kẻ rêu rao rằng, Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Mác - Lênin
về Việt Nam quá sớm và dường như đó là nguồn gốc chậm tiến, lạc hậu của Việt
Nam, nếu không thì Việt Nam đã là nước giàu mạnh! Không ít kẻ đòi Đảng ta xem
xét lại con đường XHCN mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn, thậm chí còn đòi bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi trong điều 4 Hiến pháp nước
ta. Thực chất của những luận điệu trên là muốn chúng ta từ bỏ con đường XHCN,
đi theo con đường TBCN.
Quá trình Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội khoa học và quá trình vận
động thành lập Đảng ta là quá trình chọn lựa để xác lập quyền lãnh đạo của giai
cấp công nhân Việt Nam và con đường cứu nước theo phương hướng XHCN.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước bị đế quốc Pháp xâm lược, dân tộc
bị chìm đắm trong vòng nô lệ, từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã trực tiếp thấy
sự áp bức, bóc lột tàn bạo của thực dân, đế quốc, đã sớm tiếp thu truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và đã “có chí đuổi thực dân, giải
phóng đồng bào”. Người còn chứng kiến những phong trào yêu nước chống Pháp
bị đàn áp dã man, đồng thời sớm biết rút kinh nghiệm thất bại của các con đường
12

giành độc lập theo quan điểm cũ để tìm con đường mới. Khác với các sĩ phu yêu
nước lớp trước, Người quyết định đi sang phương Tây, nơi có khẩu hiệu: “Tự do,
bình đẳng, bác ái” tìm con đường cứu nước theo phương hướng mới rồi “trở về
giúp đồng bào”. Đây là quyết định sáng suốt, thể hiện tư duy sắc bén và đầy trách
nhiệm trước vận mệnh và tương lai của dân tộc Việt Nam. Như vậy, “độc lập cho
Tổ quốc, tự do cho đồng bào” là điếm xuất phát, là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh
ra đi tìm chân lý cách mạng.
Trong gần mười năm (1911 - 1920) bôn ba khắp các châu lục, Hồ Chí Minh
thấy rõ sự thống trị vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và cuộc sống cực
khổ, lầm than của những người lao động thuộc mọi màu da. Từ đó, ở Người dần
dần hình thành ý thức và lập trường giai cấp. Trong cuộc hành trình này, Người
đã đến ba nước đế quốc lớn là Mỹ, Anh, Pháp, có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu
kỹ cuộc Cách mạng Mỹ (1776) và cuộc Cách mạng Pháp (1789). Người rút ra
nhận xét: Cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp tuy nêu khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng,
bác ái”, nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng, bác ái thật sự cho quần chúng lao
động; tiếng là cộng hòa, dân chủ, nhưng trong thì tước đoạt công nông, ngoài thì
tăng cường áp bức dân thuộc địa.
Người cho rằng, đó đều là những cuộc cách mạng “không đến nơi”. Sau đó
không lâu, Người viết: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay,
nhưng công nông vẫn cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”, còn Pháp
thì: “Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách mệnh
lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc không thể đi theo cách mạng tư
sản. Nhận xét đó xuất phát từ lập trường giai cấp vô sản, thể hiện tư duy xét đoán
sáng suốt của Hồ Chí Minh. Cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục,
lăn lộn trong cuộc sống của các dân tộc bị áp bức là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917 và việc thành lập Quốc
tế Công sản năm 1919 có ảnh hưởng quan trọng đến tư tưởng và hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin đã làm bừng sáng trong tư
tưởng của Người. Bởi Luận cương đã giải quyết trọn vẹn vấn đề mà Người đặc
13

biệt quan tâm, đó là cách mạng thuộc địa được đặt trong quỹ đạo của cách mạng
XHCN, chứ không phải trong quỹ đạo của cách mạng tư sản. Người tiếp thu Luận
cương với niềm phấn khởi và tin tưởng. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Với trái tim nồng cháy vì độc lập, tự do và
lý tưởng XHCN, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh đấu sự kết hợp dân tộc và giai cấp,
quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng cách mạng
của Hồ Chí Minh. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định để Người chuyển hẳn từ
chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
Từ mục tiêu giành độc lập cho dân tộc đến với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động quốc tế, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội khoa học,
Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn giành độc lập cho dân tộc
Việt Nam, tiếp nối vĩ đại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
trên cơ sở sức mạnh mới, sức mạnh của thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga.
Về khách quan, đó là phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Về chủ quan, đó là
phát hiện khoa học của Hồ Chí Minh. Thiên tài của Người là trong bối cảnh chủ
nghĩa đế quốc thống trị hoàn cầu, chủ nghĩa xã hội còn xa lạ với nhiều dân tộc trên
thế giới và cách mạng Việt Nam đang trong tình trạng “đen tối như không có
đường ra” thì Hồ Chí Minh đã nhận thức được chân lý đó.
Tìm ra con đường cứu nước theo phương hướng XHCN là công lao vĩ đại
đầu tiên của Hồ Chí Minh. Kể từ đây, Người thực hiện một quá trình truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học về Việt Nam, tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi lý luận
của chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra rằng: “Trong cuộc đấu tranh của mình
chống quyền lực liên hợp của các giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi được
tổ chức thành một chính đảng độc lập, đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các
giai cấp có của lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp”.
Những năm 20 thế kỷ XX, trong một số bài viết, Người nhiều lần đề cập đến
sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản theo học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa
14

học để lãnh đạo quần chúng trong nước và ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới để đưa cách mạng đến thành công. Cũng vào những
năm 20 thế kỷ trước, giữa lúc trên thế giới xuất hiện nhiều trào lưu cách mạng,
nhiều khuynh hướng tư tưởng, Hồ Chí Minh đã khẳng định vấn đề có ý nghĩa
quyết định trong việc xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, theo chủ nghĩa
xã hội khoa học. Với nhận thức lý luận đó, sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Pháp,
trực tiếp tìm hiểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và các đảng anh em khác,
Người đã dẫn dắt những thanh niên Việt Nam yêu nước đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, đến với chủ nghĩa xã hội khoa học, tạo tiền đề cho việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Được học tập lý luận Mác - Lênin, học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học kết
hợp với hoạt động thực tiễn trong phong trào yêu nước và cách mạng dưới sự
hướng dẫn của Hồ Chí Minh, các thanh niên Việt Nam yêu nước đã đóng vai trò
nòng cốt trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học
và những tư tưởng cách mạng của Người trong những người Việt Nam yêu nước
một cách sâu rộng. Cụ thể là đã phát triển tổ chức trong công nhân, nông dân ở
các trung tâm công nghiệp, đô thị, hầm mỏ, nông thôn và ảnh hưởng ngày càng
lan rộng, đẩy phong trào đấu tranh chống đế quốc dâng lên mạnh mẽ, có bước phát
triển mới, đáp ứng yêu cầu của phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do.
Những năm 1924 - 1929 là thời kỳ chuyển biến của phong trào cách mạng
Việt Nam, cũng là thời kỳ xuất hiện nhiều tổ chức và khuynh hướng chính trị khác
nhau. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, một
mặt đấu tranh chống lại luận điệu lừa bịp của thực dân Pháp và tay sai, mặt khác
đấu tranh với những quan điểm sai trái của chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi do giai cấp tư sản và tiểu tư sản đề xướng, nhằm xác lập hệ tư tưởng chủ
nghĩa xã hội khoa học trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Qua cuộc
đấu tranh, lập trường đúng đắn và cách mạng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên đã thắng lập trường tư sản và tiểu tư sản.
Thực tiễn trên chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học
và những tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh thông qua những học trò của
Người đã thực sự thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
15

tạo nên làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ mạnh mẽ, dẫn tới thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh cách mạng đúng
đắn do Hồ Chí Minh soạn thảo đã kết thúc thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu
nước của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chỉ rõ: “Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Đó là chủ trương cách mạng triệt để, là sự vận dụng sáng tạo
học thuyết cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của
Việt Nam, một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Cách mạng Việt Nam từ đây có người lãnh đạo đúng đắn là Đảng Cộng sản
Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Quá trình lựa chọn, xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
cách mạng Việt Nam là quá trình đấu tranh gian khổ, thậm chí còn bị hiểu lầm,
hiểu sai đáng tiếc. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phải
trải qua cuộc đấu tranh trong nội bộ chống lại tư tưởng, tâm lý tiểu tư sản, tự do,
đồng thời phải đấu tranh gay go, ác liệt với kẻ thù. Nhiều chiến sĩ cộng sản đã bị
bắt, bị giam cầm, bị giết hại, hy sinh trước họng súng của quân thù, nhưng vẫn tin
tưởng vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng và con đường XHCN mà Đảng và Hồ Chí
Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên
Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong giai đoạn này,
Đảng ta vẫn kiên định về con đường giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội được thể hiện ở đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Xác nhận vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và gắn liền với nó là xác lập liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội được Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện thực tế của
Việt Nam.
16

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới (1954
– 1975) với đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Bước vào thời kì này, đường lối chiến lược là đồng thời giương
cao hai ngọn cờ kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện một
cách độc đáo, chưa có tiền lệ. Đây là một sáng tạo của nhân dân ta, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, theo ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh.

Năm 1975, cả nước được độc lập, thống nhất, non sông thu về một mối,
toàn thể dân tộc Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
phạm vi cả nước. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, lần đầu tiên sau bao năm
gian khổ và hy sinh, mất mát, người dân Việt Nam được tự do thực hiện ước mơ
là xây dựng một xã hội có triển vọng với tương lai tươi sáng, một cuộc sống
xứng đáng với con người - đầy đủ ý nghĩa, nội hàm của từ Công dân.

Thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam trong 45 năm (1930 – 1975)
đã chứng minh hùng hồn và đầy thuyết phục rằng: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển tất yếu, làm nên thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng và đó cũng là sự nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và
của nhân dân ta trong việc lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam - con đường hợp xu thế phát triển thời đại.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, đúng
quy luật của lịch sử nhân loại, là sự lựa chọn sáng suốt có ý nghĩa thời đại, thể
hiện trí tuệ anh minh, sáng suốt, tình cảm giai cấp và dân tộc của Hồ Chí Minh.
Mục tiêu và con đường XHCN được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận
thức và vận dụng trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ, bước đi
và phương pháp phù hợp. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta trong hơn 90 năm qua là quá trình thực hiện và hoàn thiện dần mục tiêu
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những thắng lợi vẻ vang của
cách mạng Việt Nam đã chứng minh tư tưởng và sự lựa chọn đúng đắn và sáng
suốt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - mục tiêu của nhân loại tiến bộ trong
thời đại ngày nay.
17

2.2. Sự tiếp nối quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhà nước
ta
Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa
chọn dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta do Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đặt ra ngay từ
đầu và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là quy luật của
cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc.

Con đường XHCN mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn
nhất thiết phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt
để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Thực chất đó là một cuộc cách mạng
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nước
ta.
Để xác định đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi không chỉ
xác định đúng xu thế phát triển của lịch sử, xác định đúng mục tiêu, mà còn phải
phác thảo được những đường nét cơ bản mô hình hay còn gọi là đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội, đồng thời phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu
thế phát triển của thời đại. Trên cơ sở nhận thức về xu thế phát triển của lịch sử,
dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và từ thực
tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ hơn việc xác định những đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì đây là định hướng để Đảng và Nhà
nước ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách nhằm hiện thực hóa mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thắng lợi mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đất nước được
độc lập, hòa bình, thống nhất, cả nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong 10 năm đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1986), đất nước
đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các mặt. Xây dựng vững chắc chính quyền
dân chủ nhân dân; chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước; giữ vững trật tự an ninh chính trị và làm tròn nghĩa vụ
18

quốc tế. Xây dựng được nhiều cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
hoàn thành các công trình trọng điểm về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí…. Thu
nhập quốc dân bình quân hàng năm đều có sự gia tăng. Trên các lĩnh vực văn
hóa xã hội đạt được những thành tựu to lớn, góp phần làm thay đổi bộ mặt của
đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong 10 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế. Sản xuất có tăng
nhưng tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra. Hiệu quả sản xuất và
đầu tư thấp tài nguyên thiên nhiên đất nước chưa được khai thác tốt, thậm chí
còn lãng phí. Lưu thông, phân phối không thông suốt, giá cả và lạm phát tăng
nhanh. Trong một thời gian này chúng ta nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã
hội, hệ quả là đất nước rơi vào khủng hoảng về kinh tế - xã hội trầm trọng.

Đứng trước những hạn chế, khó khăn trên cùng với những biến động chính
trị ở Liên Xô và Đông Âu, con đường cách mạng vô sản – sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn. Xuất phát từ
thực tiễn đó, Đảng ta đã nhận thức lại chủ nghĩa xã hội khoa học phù hợp với
điều kiện cụ thể của đất nước. Kiên định với con đường cách mạng do Chủ tịch
Hồ Chí mình đã lựa chọn, Đảng ta, nhân dân ta tiến hành công cuộc Đổi mới
toàn diện. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986), con đường đổi mới đã được
thông qua. Sự đổi mới ở đây không có nghĩa là từ bỏ con đường chủ nghĩa xã hội
hoặc thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà đổi mới để nhận thức đúng, đầy
đủ hơn về chủ nghĩa xã hộiở Việt Nam. Đổi mới ở đây là đổi mới tư duy, mà
trước hết là tư duy kinh tế, không ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước
để xác định con đường cách mạng đi lên xã hội chủ nghĩa xã hội bằng những
hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đại hội lần thứ VI (năm 1986) khẳng
định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem
hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội” và “Trong khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định: toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và
19

an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của
địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy,
Cách mạng vô sản ở Việt Nam trong bối cảnh Đổi mới về bản chất vẫn kiên định
hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ nhân dân; trong đó nhiệm vụ dân chủ nhân dân
với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu bên cạnh nhiệm vụ đảm bảo an
ninh quốc phòng, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định tám đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội, đó là: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới".
Tám đặc trưng trên là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa
xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam, là thành quả kết hợp hài hòa giữa "cái phổ
biến" và "cái đặc thù", thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
xây dựng, mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và sẽ được
từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống.
Tuy nhiên, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp khó
khăn, tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, trong đó nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn rất cơ bản được đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và giải quyết một
cách thấu đáo. Sự chuyển biến của tình hình quốc tế hiện nay và thực tiễn xây
dựng CNXH ở nước ta trong thời gian tới sẽ cung cấp thêm những căn cứ để Đảng
ta bổ sung những nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường xây
dựng CNXH ở Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát để khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
20

tưởng và văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.Để
thực hiện thành công các mục tiêu trên, cần quán triệt các phương hướng và nhiệm
vụ cơ bản sau: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; xây dựng Đảng thật sự trong
sạch, vững mạnh.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
chính là làm cho mục tiêu này thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng
đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp,
tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, sửa chữa những sai lầm, khuyết
điểm nhằm đạt những thành tựu to lớn và vững chắc hơn trong việc thực hiện
những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ mà Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã nêu.

3. Nhận xét
“Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử”. Thật vậy, Đây là luận điểm hết sức khoa học, bởi vì, cả
về lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Chủ nghĩa xã hội và sự lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp
ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội có mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải
21

phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn
diện; là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái
giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì
con người. Là một xã hội như đồng chí Tổng Bí thư đã viết: “… phát triển kinh
tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa để
bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”. Rõ
ràng, đây là những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt
Nam mà của cả nhân loại.
22

PHẦN KẾT LUẬN

Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu diễn ra vào
cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990 được coi là chấn động lớn nhất trong
nền chính trị thế giới nửa cuối thế kỷ XX. Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ
nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính,
mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan
và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật
của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn
tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô Viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường
lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh
tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội
chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động
“diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch
là những nguyên nhân trực tiếp.
Được học tập lý luận Mác - Lênin, học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học kết
hợp với hoạt động thực tiễn trong phong trào yêu nước và cách mạng dưới sự
hướng dẫn của Hồ Chí Minh, các thanh niên Việt Nam yêu nước đã đóng vai trò
nòng cốt trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học
và những tư tưởng cách mạng của Người trong những người Việt Nam yêu nước
một cách sâu rộng. Cụ thể là đã phát triển tổ chức trong công nhân, nông dân ở
các trung tâm công nghiệp, đô thị, hầm mỏ, nông thôn và ảnh hưởng ngày càng
lan rộng, đẩy phong trào đấu tranh chống đế quốc dâng lên mạnh mẽ, có bước phát
triển mới, đáp ứng yêu cầu của phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do.
Trên đây là toàn bộ phần tìm hiểu của em về đề tài này, mong cô đóng góp ý
kiến để em có thể hiểu rõ hơn về vấn đề và trao đổi để làm rõ vấn đề ở đây!

You might also like