You are on page 1of 22

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ quan điểm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ tiếp tục
là vấn đề thu hút sự quan tâm của các chính đảng, các nhà nghiên cứu thuộc những xu
hướng chính trị khác nhau. Việt Nam nhận thấy rõ được tính tất yếu của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội hiện thực. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo
đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Các-Mác và Lênin đã tiếp thu
được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong
phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi,
cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là
các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu
khách quan của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức,
bước đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư
tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác
định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm
dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay. Để làm rõ thêm những điều trên,
nhóm chúng em chọn đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề đặt ra với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay”.

2. Mục tiêu nghiên cứu


Tìm hiểu về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về những vấn đề đặt ra với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
2

3. Mục đích nghiên cứu


Về kiến thức: Sinh viên nắm được kiến thức cơ bản những quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ qúa
đo lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam và sự vận dụng
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào điều kiện cụ thể Việt Nam
Về kỹ năng: Sinh viên biết vận dụng những tri thức đã học vào phân tích những vẫn
để cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về tư tưởng: Sinh viên có niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn tin và ủng hộ
đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu được sự phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học trong
hoàn cảnh lịch sử mới. Nêu lên được những luận điểm khái quát những vấn đề đặt ra
với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xác định được rằng Việt nam đã vận dụng
được gì về lí luận về sở hữu của Chủ Nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mô hình hóa: Là phương pháp giúp nhóm có cái nhìn khái quát và
toàn diện những nội dung, kiến thức một cách khách quan từ đó đưa ra những lí luận
thực tiễn cho đề tài.
Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết: Nghiên cứu các tài liệu, lý luận
khác nhau bằng cách phân tích thông tin tham khảo.Từ đó tổng hợp, liên kết nội dung
một cách có chọn lọc.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: Sắp xếp nội dung một cách khoa
học theo từng nội dung cụ thể và hệ thống hóa lý thuyết một cách chi tiết để có thể bám
sát đề tài.
Phương pháp lịch sử: Đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển của quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin từ đó rút ra bản chất và quy luật của đối tượng.
6. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
những vấn đề đặt ra với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế kỷ 19
bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Chủ nghĩa xã hội bao gồm một loạt các
khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh chính trị và các đảng công nhân có
tinh thần cách mạng, những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh chóng và bằng
bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận Thể chế Đại nghị và dân chủ như chủ
nghĩa xã hội dân chủ, thậm chí phát xít Đức cũng tự nhận mình là những người theo
chủ nghĩa xã hội. Theo đó, có sự phân biệt giữa những khuynh hướng chủ nghĩa cộng
sản, dân chủ xã hội và vô chính phủ. Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn
mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, công bằng và đoàn kết và đề cao mối quan hệ chặt
chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết phê phán xã hội. Họ theo đuổi mục tiêu
tạo ra một trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến công bằng xã hội.
1.2. Khái niệm quan điểm chủ nghĩa Mác lênin thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô
sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng
thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. V.I. Lê-nin chỉ rõ đặc điểm kinh tế nổi bật
nhất của thời kỳ quá độ lên chủ ngĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. V.I. Lê-nin nhấn mạnh: Nền kinh tế trong thời kỳ quá
độ là nền kinh tế quá độ, không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa
hoàn toàn là nền kinh tế chủ nghĩa xã hội. V.I. Lê-nin vạch rõ: “Danh từ quá độ có
nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có
những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa
4

xã hội không? Bất cứ ai cũng phải thừa nhận là có” (1). Song không phải mỗi người thừa
nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau
hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ
đó. Những thành phần, những bộ phận, những mảnh đó của cả hai kết cấu kinh tế - xã
hội hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất và có quan hệ tương tác với nhau
tạo thành nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa dần dần giữ địa vị thống trị và chi phối nền kinh tế, khi kết thúc
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ quan điểm của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thu
hút sự quan tâm của các chính đảng, các nhà nghiên cứu thuộc những xu hướng chính
trị khác nhau. Với Việt Nam, khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
nước ta hiện nay. Đối với nước ta điều này là một tất yếu lịch sử. Lịch sử vận động và
phát triển của cách mạng nước ta, thực tiễn phát triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng
như thập niên đầu thế kỷ XXI, đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, đồng
thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và
điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
1.3. Quan điểm, nội dung của chủ nghĩa Mac-Lenin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
1.3.1. Quan điểm chủ nghĩa Mac-Lenin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã
hội mới xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và chính đảng của nó muốn xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản thì
tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì Chủ nghĩa xã hội với tư
cách là một chế độ không thể ra đời tự phát trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các
xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Các xã hội trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để

(1) V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr. 362
5

giai cấp công nhân thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn bản thân công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ được thực hiện khi có cơ sở vật chất - kỹ thuật cũng như
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng. Sau khi giành
được chính quyền, giai cấp công nhân cũng không thể đem áp dụng ngay tức khắc
những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, những nguyên tắc xây dựng và
bản chất của chủ nghĩa xã hội khác với các xã hội trước; những tàn dư của xã hội cũ
còn in vết trong xã hội mới. Do đó cần có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư
của xã hội cũ, từng bước xây dựng các nhân tố mới.
1.3.2. Nội dung của chủ nghĩa Mac-Lenin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
Trong lĩnh vực kinh tế

Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội cải tạo quan
hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối
của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể theo
ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật
kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ
nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm
của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa
diễn ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến
hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt
quan điểm lịch sử cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi
trong tiến trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá .
Trong lĩnh vực chính trị
6

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quvền làm chủ trong hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa của nhân dân lao động xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự
là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động xây dựng Đảng Cộng sản ngày
càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng
của giai cấp công nhân trong toàn xã hội khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh
hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội xây dựng nền văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại từng bước khắc
phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp trong xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu bình đẳng xã hội xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người
theo mục tiêu lý tưởng của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
1.4. Tính tất yếu, đặc điểm , đặc trưng và nguyên tắc của Chủ Nghĩa Mác-
Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.4.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ
lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu,
thậm chí có thể kéo dài. Nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực
7

hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” (2) này còn có thể rất
dài với nhiều bước quanh co.
Thứ hai, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra.. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp
xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó
cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp
hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể đốt cháy giai đoạn được.
Thứ ba, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những
điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy
cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Thứ tư, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có
thời gian nhất dịnh.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh
tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát
triển chỉ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát
triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều
khó khăn, phức tạp.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
t.19, tr.47, 36
8

1.4.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội
trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế

Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa
trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách
quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ
chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân
phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai
trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị

Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ
này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản
xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể
của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư
sản, tâm lý tiểu nông, ... Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết
sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai” (3). Trên
9

lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu
tranh với nhau.
1.4.3. Đặc trưng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Giai cấp công nhân và chính đảng của nó muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội với tư cách là một chế độ ưu việt, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản thì tất yếu phải trải
qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế
độ xã hội không thể ra đời tự phát trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các xã hội
tiền tư bản chủ nghĩa. Các xã hội trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để giai
cấp công nhân thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn bản thân công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội chỉ được thực hiện khi có cơ sở vật chất – kỹ thuật cũng như với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng. Sau khi giành được
chính quyền, giai cấp công nhân cũng không thể đem áp dụng ngay tức khắc những
nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, những nguyên tắc xây dựng và bản chất
của chủ nghĩa xã hội khác với các xã hội trước giai cấp thống trị cũ mới bị đánh bại về
chính trị nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn những tàn dư của xã hội cũ còn in vết trong
xã hội mới. Do đó cần có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư của xã hội cũ,
từng bước xây dựng các nhân tố mới.
1.4.4. Nguyên tắc thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, các vấn đề dân tộc cần phải được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm. Bất kể cộng đồng dân tộc nào cũng đều có quyền lợi và nghĩa vụ như
nhau; không thể có đặc quyền đặc lợi cho riêng một dân tộc nào về các mặt: kinh tế,
chính trị, văn hoá, ngôn ngữ....Trong phạm vi một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật đồng thời
nhà nước cần phải có chính sách phù hợp trong việc khắc phục sự chênh lệch về trình
độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc. Trong phạm vi quan hệ giữa

(3) Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin (Lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa xã hội)
10

các quốc gia - dân tộc trên thế giới, quyền bình đẳng dân tộc cần phải được gắn kết với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của các nước tư bản phát triển đối
với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế nhằm đạt được sự bình đẳng giữa các
quốc gia - dân tộc trên phạm vi quốc tế.

Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.

Quyền tự quyết của các dân tộc là nói đến quyền làm chủ của mỗi dân tộc mà
trước hết và cơ bản là quyền các dân tộc có thể tự mình quyết định con đường phát
triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình, không chịu sự ràng buộc, cưỡng bức
của dân tộc khác. Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách,
hình thành nên cộng đồng quốc gia - dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của các dân
tộc và quyền liên hiệp các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng của các dân tộc.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.

Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong cương lĩnh
dân tộc của V.I. Lênin nó thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và phản ánh
mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp phản
ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc
tế vô sản trong sáng.
11

CHƯƠNG 2 : NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ


NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1.Tính tất yếu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam
Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Ở Việt
Nam là hình thái quá độ gián tiếp với đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ
năm 1954 ở Miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp
hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu đặc biệt của đặc biệt. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa
trên những căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước
nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Căn cứ vào xu thế phát triển
của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga
vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều
nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt
Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta,
trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, con đương quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta ngay từ Cương lĩnh
chính trị năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong  thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh
chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Những nội dung cơ bản của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các
giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã
hội. Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở
12

liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, để Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh
thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng
và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Phương hướng phát triển và nhiệm vụ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
2.3.1 Phương hướng phát triển trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm, nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập tưng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa,
làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị tri chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất
cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã
hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
13

Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình,
hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước,
nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.3.2 Nhiệm vụ kinh tế cơ bản thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi nước ta
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có hoàn
thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa từng
có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ biến, nhờ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước mới thực hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Phát triền lực lượng lao động xã hội

Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta, chế độ sở
hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
14

tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội
lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là xu thế tất yếu của thời đại, là
vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế,
thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực
phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về
công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm ... mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng
cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất
trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau
và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
2.4. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam mà chúng ta sẽ xây dựng là do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Với sự phát triển về
kinh tế và xã hội của đất nước, thời đại, những đặc trưng sẽ được tiếp tục bổ sung, phát
triển trong tiến trình phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
15

2.5. Những thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
2.5.1. Thuận lợi
Đối nội
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông
minh. Sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có
nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất Kĩ thuật đã
được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Đối ngoại
Với việc gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với
EU (7 - 1995), tham gia APEC (11- 1998) , Tổ chức thương mại thế giới WTO (2007)
Việt Nam đã và đang từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực
và thế giới(4)
Đối với nguyện vọng nhân dân
Thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
2.5.2. Khó khăn
Vốn là nước nông nghiê ̣p lạc hâ ̣u.Có thời gian dài bị chiến tranh tàn phá.Phải đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới. Bỏ qua mô ̣t bước phát triển của Tư bản chủ nghĩa nó làm
cho công nghiê ̣p kém phát triển. Kết luận: Phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội để có tính chất quá độ.
2.5.3 Tính lâu dài
Để từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua rất nhiều “những bước quá
độ nhỏ”, những hình thức trung gian quá độ đan xen giữa các thành phần và các mảnh
của chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội
2.6. Nhiêm
̣ vụ
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
16

xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
2.7. Những định hướng phát triển
Kinh tế
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và
bảo vệ tài nguyên, môi trường. Thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm,
đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Quan hệ phân
phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển
Văn hóa – xã hội
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến
bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triểnKế
thừa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Viê ̣t Nam, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân
loại. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã
hội.Sử dụng hiê ̣u quả các thành tựu khoa học, theo kịp thời đại. Bảo vệ môi trường là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân.
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy
mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân theo quy định của pháp luật.
17

Quốc phòng – an ninh


Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam giàu
mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp
phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên thế giới.
2.8. Thành tựu trong giải quyết những vấn đề đặt ra trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém
phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010,
kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm
2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm
2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5-
2%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn
9,5%, năm 2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%. Thành tựu về giảm
nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao. (5)
2.9. Thực trạng và những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, nhận thức sâu sắc hơn những khó khăn còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội khoa học. Chúng ta dễ có những nhận thức không toàn
diện, lệch lạc Một là, xem nhẹ, không tính đến đầy đủ chiều hướng suy tàn, tiêu vong
của hình thái kinh tế - xã hội cũ, từ đó không thấy hết tính chất khó khăn, phức tạp của
sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ, lỗi thời, lạc hậu với những cái mới đang hình
thành, có xu hướng tiến bộ và phải trải qua một quá trình lâu dài, cái mới tiến bộ khẳng
định xu hướng phát triển hợp với điều kiện mới. Hai là, ngộ nhận về thắng lợi, chỉ có
18

phát triển đi lên của những nhân tố mới, nhất là khi nó đang trong giai đoạn hình thành,
đang phải trải qua những bước “quá độ”, không thấy những khó khăn, thoái trào, thậm
chí có thể thụt lùi tạm thời để củng cố và phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội.
Thứ hai, nhận thức đúng đắn, cụ thể hơn về “con người mới xã hội chủ nghĩa”
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội khoa học. Viê ̣t Nam đang trong giai đoạn
đầu của thời kỳ quá độ, con người Việt Nam, dù ở địa vị nào cũng còn mang dấu vết
của thời kỳ quá độ. Vì thế, không thể đưa ra yêu cầu quá cao đối với họ, thì cần phải
tạo lập những yêu cầu, tiêu chí phù hợp với sự nghiệp đổi mới và thời đại. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hô ̣i thì phải có con người mới xã hội
chủ nghĩa”.Trên thực tế, với nhiều nước trên thế giới và cả ở khu vực Đông Nam Á,
con người và lao động Việt Nam hiện tại còn thấp về nhiều chỉ số. Nguồn nhân lực chất
lượng cao nước ta hiện nay đang thiếu hụt về số lượng, chất lượng. Cơ cấu “dân số
vàng” nếu không được sử dụng, phát huy tốt sẽ là gánh nặng cho kinh tế và xã hội.
Thứ ba, nhận thức bổ sung về thực hiện công bằng, bình đẳng trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa. Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là hai khái niệm có nội hàm quan
hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không thể đồng nhất là một. Trong Chủ nghĩa xã hội khoa
học, nhất là thời kỳ quá độ, bình đẳng xã hội hoàn toàn là chưa thể thực hiện được; cái
mà xã hội có thể đạt được là công bằng xã hội. Hồ Chí Minh chỉ ra “Chủ nghĩa xã hội
là bình đẳng”, “Chủ nghĩa xã hội là công bằng, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng
ít, không làm, không hưởng”. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ, những người thuộc
nhóm xã hội yếu thế, người không còn khả năng lao động, hay bị bệnh tật bẩm sinh, tai
nạn không thể lao động để nuôi sống bản thân, thì xã hội phải có trách nhiệm đảm bảo
lợi ích thiết thân cho họ, đó mới là Chủ nghĩa xã hôi khoa học. Vì thế, “bình đẳng” theo
nghĩa “sự ngang nhau hoàn toàn” trên mọi phương diện trong thời kỳ quá độ là chưa
thể thực hiện được.
Thứ tư, nhận thức bổ sung, phát triển luận điểm “dân chủ mới” trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội khoa học. Theo đó, cần nhận thức sâu sắc hơn về “Dân chủ
mới” trong thời kỳ quá độ với tính cách là một chế độ chính trị - xã hô ̣i đang được xây
dựng theo những nguyên tắc và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ mới” có sự ẩn
19

chứa những thuộc tính xã hội chủ nghĩa đang được hình thành, khẳng định, trên cơ sở
kế thừa những giá trị của “dân chủ cũ”, đồng thời từng bước bồi đắp những giá trị dân
chủ mới ưu việt, tạo tiền đề để đi đến Chủ nghĩa xã hội khoa học.
20

KẾT LUẬN
Trong các đặc trưng về xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta tập trung xây dựng, hướng
tới, việc kế thừa những thành tựu mà xã hội loài người đã đạt được dưới chủ nghĩa tư
bản thể hiện rõ qua các đặc trưng về thể chế kinh tế và mô hình nhà nước, (hai lĩnh vực
quan trọng, ảnh hưởng quyết định nhất đến cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội).
Đổi mới thể chế kinh tế được Đại hội VI chính thức nêu ra qua yêu cầu cần trở lại
quan điểm của V.I.Lênin về một “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” trong thời kì
quá độ. Quan điểm này được bổ sung, phát triển qua nhiều kỳ đại hội và được Đại hội
XII khẳng định, cần: “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường”,
“đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước” được Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII nhấn mạnh là“một nhiệm vụ
quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị”, là “nhiệm vụ chiến
lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững”....
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng và phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện cũng đã vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học, những bài học kinh nghiệm của các đảng , của chính bản thân cách mạng Việt
Nam vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách
mạng nước ta trước kia, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa hiện nay. Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể
tóm tắt trên một số vấn đề cơ bản sau. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
một tính quy luật của cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời đại hiện nay; Kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, đảm bảo giữ vững sự ổn định chính
trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội; Xây
21

dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tăng cường vai
trò quản lý của Nhà nước. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đối với giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; Mở rộng và phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi giai cấp và tầng lớp nhân
dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi công dân Việt Nam ở trong nước hay ở
nước ngoài, tạo cơ sở xã hội rộng lớn và thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã
hội mới; Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khai
thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quan trọng
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then chốt để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng là phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Như vậy, từ quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhận thức của Đảng ta
về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Điều này chính là kết
quả của quá trình đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn và sự vận dụng sáng tạo, bổ sung,
phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam trong
mỗi thời kỳ phát triển. Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Viê ̣t Nam đã thể
hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Viê ̣t Nam. Thực tiễn luôn vận
động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá
độ của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều
kiện mới.
22

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giá trị của chủ nghĩa Mác - Bài viết của PGS. TS. Trần Văn Hải và PGS.TS. Trần Hải
Minh
https://ajc.hcma.vn/Pages/nghien-cuu-khoa-hoc.aspx?CateID=679&ItemID=10869

2. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về Chủ Nghĩa Xã Hội - Bài viết của PGS.TS
Nguyễn Trọng Phúc

https://ajc.hcma.vn/Pages/nghien-cuu-khoa-hoc.aspx?ItemID=11669&CateID=679
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội và thành tựu
của công cuộc đổi mới - Bài viết của PGS.TS. Nguyễn Viết Thông
https://ajc.hcma.vn/Pages/nghien-cuu-khoa-hoc.aspx?CateID=679&ItemID=11606

4. Bộ giáo dục và đào tạo giáo trình môn Chủ Nghĩa Xã hội Khoa Học, Nhà xuất bản
Quốc Gia, Hà Nội, 2019.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011,Nhà xuất bản sự thật,Hà Nội 2011)

6. GS.TS Phùng Hữu Phú, GS.TX Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Vũ Văn Hiền, PGS.TS Nguyễn
Viết Thông, Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới-Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia,Hà
Nội, 2016

7. GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ
biên): Những quan điểm cơ bản của C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I. Lênin về chủ nghĩa xã
hội và thời kỳ quá độ. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. tr. 155

8. Nguyễn Linh Khiếu PGS, TS –“Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tinh thần
Đại hội XI của Đảng”, TẠP CHÍ CỘNG SẢN - 20:53, ngày 23-12-2011

https://tapchicongsan.org.vn/noi-dung-co-ban-va-moi-cua-cac-van-kien/-2018/14139/qua-
do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-theo-tinh-than-dai-hoi-xi-cua-dang.aspx

You might also like