You are on page 1of 25

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ


BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI…………………………………………….5
1.1. Khái niệm thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội …….5

1.2. Phân loại thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội …………………………...6

2. TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ


NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI………………………........... 8

2.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội..8

2.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội... 10

3. TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN


LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM……………………………..12
3.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam….... 12
3.2. Một nhiệm vụ cơ bản để xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam……………….19

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Sau khi giành được độc lập và bắt đầu thành lập, Đảng ta đã
xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bằng thực tiễn hơn 30 năm
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã không ngừng đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã khẳng định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" ( Đại hội IX). Như
vậy, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức
thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Tuy nhiên, nhận thức
được vấn đề sự lung lay, mơ hồ về tư tưởng của một bộ phận nhân
dân cũng như sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh
vi, gay gắt, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của chế độ, em xin
chọn đề tài “Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” với mong muốn được hiểu cũng
như làm rõ hơn về vấn đề này trong sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước hiện nay. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu
nhưng do kiến thức còn hạn chế, em mong nhận được thêm sự đóng
góp của thầy cô để bài tiểu luận được hoàn thiện nhất !
2. Những công trình nghiên cứu có liên quan
Nghiên cứu về vấn đề này, có một số các nghiên cứu tiêu biểu
như PGS.TS. Vũ Văn Phúc với bài viết “Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội - Một tất yếu lịch sử” đăng Tạp chí Tuyên giáo Trung ương với
3

nhiều phân tích khách quan khẳng định lịch sử vận động và phát
triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế giới suốt
thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn
những luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan,là
hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ
thể của cách mạng, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt
Nam.
Hay PGS, TS. Phạm Văn Chúc, Thư ký khoa học Hội đồng
Lý luận Trung ương cũng có bài viết “Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn trên thế giới
một thế kỷ qua” đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam để
chia sẻ và phân tích rất nhiều quan điểm đúng đắn, đi đến kết luận
rằng thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ
quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực
tiễn thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thu hút sự
quan tâm của các chính đảng, các nhà nghiên cứu thuộc những xu
hướng chính trị khác nhau. Với Việt Nam, khẳng định tính tất yếu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước ta hiện
nay.
Ngoài ra còn có rất nhiều tiểu luận, luận án nghiên cứu về
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ thông quá các môn học như Triết
học, Chủ nghĩa xã hội khoa học hay Hình thái Kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa được sinh viên, thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu nhằm phục
vụ công việc học tập và giảng dạy dựa trên tư tưởng lý luận của
Các Mác - Ăngghen và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4

Đối tượng nghiên cứu : vấn đề tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội nói chung và thực tiễn tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu : Phạm vi không gian là xã hội chủ nghĩa.
Phạm vị thời gian là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu : Làm sáng tỏ lý luận về tính tất yếu của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để áp dụng vào thực tiễn mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu : Làm sáng tỏ các khái niệm và phân loại;
tính tất yếu của thời kỳ quá độ; đặc điểm và nội dung của thời kỳ
quá độ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận : Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh
Phương pháp nghiên cứu : Đề tài sử dụng phương pháp lôgic, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
3 chương 6 tiết.
5

NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội
Để định nghĩa về thời kỳ quá độ, ngay trong tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức, Các Mác và Ăngghen đã đưa ra một luận điểm có thể
coi là nguyên tắc duy vật lịch sử, đặt nền móng xác định nội hàm
cũng như ngoại diên của khái niệm “thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản” khi các ông khẳng định rằng: “…mỗi
thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng
sản xuất do tất cả các thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt
tiếp tục cái hoạt động được truyền lại, trong hoàn cảnh đã thay đổi,
mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động
hoàn toàn thay đổi”. Trên cơ sở đó, trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” các ông cho rằng trong giai đoạn thứ hai của tiến trình
cách mạng, giai cấp vô sản phải sử dụng quyền lực nhà nước của
mình, tước đoạt lấy toàn bộ tư bản … để phát triển thật mạnh lực
lượng sản xuất, điểm khởi đầu của quá trình ấy là giành chính
quyền. Đến “Phê phán cương lĩnh Gôta”, Các Mác và Ăngghen đã
hoàn thành cơ bản lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản khi trình bày một cách cơ bản quan niệm của
mình về nội hàm của khái niệm ấy, theo ba điểm cơ bản: một là,
thắng lợi của cách mạng vô sản, giành chính quyền về tay giai cấp
công nhân là mở đầu cho một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
có tính chất quá độ trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã
hội; hai là, những cải biến cách mạng sâu sắc có tính chất quá độ ấy
được diễn ra do tác động của nhà nước chuyên chính vô sản; ba là,
trong thời kỳ ấy luôn tồn tại đan xen sự chuyển biến phức tạp giữa
6

cái cũ và cái mới, cái lạc hậu và cái tiến bộ…làm nên tính khó
khăn, phức tạp của sự chuyển biến, sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản.
Trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới vào những
năm cuối thế kỷ XIX, nhất là những năm đầu thế kỷ XX của Châu
Âu và của nước Nga…, Lênin đã tiếp tục bảo vệ, phát triển sáng tạo
quan niệm của Các Mác và Ăngghen về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Những nội dung cơ bản mà Lênin
phát triển sáng tạo, bổ sung vào lý luận ấy được thể hiện tập trung
trong nhiều tác phẩm như Nhà nước và cách mạng; Kinh tế và
chính trị trong thời đại chuyên chính chính vô sản; Bàn về thuế
lương thực… Và quan điểm của ông được thể hiện tập trung vào
các vấn đề sau: thứ nhất, luận chứng cho khái niệm “thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”; thứ hai, luận chứng và
phát triển các quan niệm về bản chất, sự tồn tại, phát triển, vai trò
của nó đối với những chuyển biến có tính chất quá độ như là nội
dung chính trị chủ yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội; thứ ba, tính tất yếu khách quan và các đặc điểm
cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của
đời sống xã hội, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao
động tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa giành được chính
quyền nhà nước cho đến khi chủ nghĩa xã hội được phát triển trên
những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa – tư tưởng và xã hội của
chính nó.
1.2. Phân loại thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác viết:“Giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
7

ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy


không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản” (1).Theo đó, thời kỳ này có đặc điểm: Do xã hội
vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, nên mọi mặt của nó, về
kinh tế, đạo đức và tinh thần,... vẫn còn mang những dấu vết của xã
hội cũ- xã hội tư bản chủ nghĩa; là thời kỳ cải biến sâu sắc và triệt
để từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội XHCN, nên công cụ để
thực hiện điều này là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản; Do tính khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ, nên đây
là thời kỳ của “sau những cơn đau đẻ kéo dài”.(2)
Trên cơ sở kế thừa các quan niệm cơ bản của Mác và
Ăngghen, phân tích tình hình cách mạng Nga và cách mạng thế
giới, Lênin đã luận chứng cho các kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Dựa vào điểm xuất phát của các nước khi quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, V.I.Lênin đã chia các thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của các nước thành 2 kiểu quá độ cơ bản.
Một là, quá độ trực tiếp (quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội). Theo C. Mác, quá độ chính trị của chủ nghĩa tư bản
không phải chỉ là sự thể hiện ra ở một, hay một số cuộc cách mạng
chính trị. Đây là cả một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài và khó
khăn, từ chủ nghĩa tư bản phát triển cao trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là một quá trình cách mạng không ngừng thực hiện không
chỉ một điểm quá độ, mà là một giai đoạn quá độ tất yếu. Trong đó,
chính trị (chuyên chính vô sản) là điều kiện tiên quyết để thực hiện
quá độ trong mọi lĩnh vực khác của xã hội.

Chú thích (1), (2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.47, 36.
8

Hai là, quá độ gián tiếp (quá độ từ tiền tư bản chủ nghĩa lên
chủ nghĩa xã hội). Theo V. I. Lênin, từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa
tư bản có nhiều biến chuyển quan trọng: độc quyền thay thế cạnh
tranh, việc mở mang thị trường thế giới đã đạt đến giới hạn địa lý
toàn cầu. Mâu thuẫn giữa các nước phương Tây trở nên gay gắt.
Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Xuất hiện cơ hội cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi ở một nước riêng biệt không
phải là nước tiên tiến, và đó chính là nước Nga. Tiếp theo, nước
này có thể bước vào thời kỳ quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các hình thức quá độ trên đây được coi như những kiểu hay
hình thức khác nhau của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản trên thế giới mà Mác và Ăngghen đã nêu ra và được
Lênin phát triển sáng tạo, làm đầy đủ hơn lý luận về hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa nói chung và lý luận về thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản nói riêng. Dù là các
kiểu khác nhau về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những
đặc điểm, bước đi, quy mô khác nhau nhưng mục tiêu và bản chất
là thống nhất với tính quy luật thép của nó mà nội dung cơ bản là:
phải trải qua một cuộc cách mạng có ý thức của giai cấp công nhân
và nhất thiết không được bỏ qua các bước đi, nhiệm vụ lịch sử cần
thiết cho sự quá độ, mà chỉ có thể rút ngắn các bước đi, rút ngắn
thời gian thực hiện các nhiệm vụ đó trong những điều kiện cho
phép mà thôi
2. TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội
9

Tính tất yếu chung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
như C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, đều xuất phát từ bản chất của
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một là, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu để
cải biến cách mạng xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa (mà đặc biệt là cần có thời gian cải biến cách mạng đối với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vì quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa không thể tự nảy sinh trong chủ nghĩa tư bản). Do sự đối lập
về chất giữa chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa hoặc tiền tư bản chủ
nghĩa với chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa nên trong lòng xã hội cũ
(tư bản chủ nghĩa hoặc tiền tư bản chủ nghĩa) không thể nảy sinh
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa như một quan hệ sản xuất hoàn
chỉnh. Vì vậy, trước hết giai cấp công nhân phải tiến hành cách
mạng trên lĩnh vực chính trị nhằm thiết lập nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Việc giai cấp công nhân giành chính quyền chưa có nghĩa là
đã có chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh. Muốn có chủ nghĩa xã hội đầy
đủ và hoàn chỉnh (cả chính trị, kinh tế, văn hóa), giai cấp công nhân
phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ
nghĩa – nền tảng cho sự phát triển xã hội, cho quá trình củng cố và
hoàn thiện kiến trúc thượng tầng mới và cho sự nghiệp xây dựng
nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.
Hai là, việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (xã hội xã
hội chủ nghĩa) là một sự nghiệp cực kỳ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi
phải có thời gian cần thiết. Thời gian cho công cuộc cải tạo và xây
dựng ấy chính là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Mác và
Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ được ra
đời thông qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản với "Những
cơn đau đẻ kéo dài".
Ba là, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu để
bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội trước mọi âm mưu, hành động
10

chống phá của các loại kẻ thù trong và ngoài nước, Vì vậy nó đòi
hỏi phải có thời gian cần thiết để thực hiện công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đánh bại mọi kẻ thù chống phá nó. Thời gian đó
chính là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu để
bản thân giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác
quen dần với kỷ luật lao động mới và trật tự xã hội mới- xã hội xã
hội chủ nghĩa. Do sinh ra và bị ảnh hưởng của chế độ áp bức bóc
lột nên sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác chưa thể khắc phục ngay được
một số hạn chế trong lao động và tổ chức đời sống xã hội xã hội
chủ nghĩa. Chỉ thông qua quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai
cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao khác mới nâng cao
được tính tự giác và kỷ luật nghiêm minh của mình nhằm đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
2.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ hình thành
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (thời kỳ cải tạo xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu
của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa). Xã hội trong thời
kỳ này bao gồm những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội là sự đan giữa những bộ phận của xã hội
cũ với những bộ phận của xã hội mới. Chúng vừa thống nhất, vừa
đấu tranh và chuyển hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Lênin
đã viết: “Vậy danh từ quá độ có nghĩa là gì?…có phải nó có nghĩa
là trong chế độ hiện nay có những thành phần, có những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội
11

không?”(3) . Ngoài ra còn chỉ ra rằng: "Về lý luận không thể nghi
ngờ gì được giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một
thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm
những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế-xã hội
ấy”(4).
Hai là, thời kỳ quá độ là thời kỳ khó khăn, lâu dài và phức
tạp "đau đẻ kéo dài và đau đớn", thời kỳ cách mạng phải trải qua
những khó khăn vô cùng to lớn, cả khó khăn khách quan kinh tế lạc
hậu, chiến tranh, nội chiến, sự phản kích quyết liệt của kẻ thù, sự
phá rối của thế lực tự phát triển tư sản, lẫn khó khăn chủ quan là
những sai lầm, vấp váp, thất bại tạm thời do thiếu kinh nghiệm, do
yêu cầu lớn lao của nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa và cải
thiện đời sống nhân dân. Do đó, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là thời kỳ khó khăn, phức tạp và lâu dài nhưng do phù hợp với quy
luật phát triển khách quan của lịch sử, nên khó khăn cũng chỉ là khó
khăn trong sự trưởng thành, khó khăn có thể và phải vượt qua. Như
Lênin đã khẳng định : “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không
phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết
và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác giữa
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ
nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu"(5)
Ba là, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt và có những đột biến cách
mạng. Đây là thời kỳ đấu tranh giai cấp với nội dung mới, trong
điều kiện mới và với những hình thức mới nhằm xóa bỏ chế độ cũ,

Chú thích (3): V.I.Lênin Sđd, H.1976, tập 36 trang 362.


Chú thích (4),(5) : Lênin toàn tập, Nxb Tiến Bộ,1977,Tập 39,
trang 309-310.
12

xây dựng chế độ mới từ gốc đến ngọn, thời kỳ hình thành những
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội để, chủ nghĩa xã hội sau đó có thể
phát triển trên cơ sở của chính nó. Các đột biến trong thời kỳ quá
độ là toàn diện và liên tục: nhân dân lao động từ địa vị làm thuê
từng bước xác lập địa vị làm chủ, từ chế độ tư hữu sang chế độ
công hữu, từ văn hoá cũ, con người cũ sang văn hoá mới, con người
mới xã hội chủ nghĩa… Các bước nhảy vọt trong các lĩnh vực gắn
bó chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau phát triển .
Bốn là, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là thời kỳ biểu hiện rõ nét tính đặc thù dân tộc ở mỗi quốc gia.
Trong thời kỳ quá độ tính đặc thù dân tộc được biểu hiện rõ nét
nhất. Nguyên nhân có những đặc thù là do các nước, các dân tộc
bước vào thời kỳ quá độ có xuất phát điểm về trình độ phát triển
không giống nhau: Điều kiện lịch sử, truyền thống lịch sử…khác
nhau. Tính đặc thù thể hiện ở bước đi, hình thức, nhịp độ, ở con
đường phát triển… giữa các nước không hoàn toàn giống nhau. Do
đó hơn bất cứ thời kỳ nào, trong thời kỳ quá độ các Đảng cộng sản
phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các quy luật chung,
nguyên lý chung vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình, dân tộc
mình.
3. TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT
NAM
3.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối
những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công
kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
Mác - Lênin được dấy lên trên khắp thế giới bởi các thế lực thù
địch với chủ nghĩa xã hội. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội này để
13

tổng tấn công hòng “chôn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa xã hội.
Từ khi hòa bình lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1975, sau khi
hoàn thành độc lập và thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ đã
hoàn thành thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trong lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta đã xác định: “Nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên của nước
ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản”. Ngoài ra, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định:
“Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa
hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân
tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn,
thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến
hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội”(6). Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt
Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là lựa.
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá

Chú thích (6), (7): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H
2011, trang 69-70
14

trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan
xen”(7).
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta phù hợp với lý luận cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài tính tất yếu chung về sự quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội như Mác và Ăngghen chứng
minh “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng
với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...”(8). Kết hợp với học thuyết
Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh
thể nhất thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Nhưng, do đặc
điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều
kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi
phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung.
Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế xã hội
nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch
sử cụ thể đặc thù của từng nước.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại ngày nay -
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội của cả
nhân loại và đặc biệt là với Việt Nam. Nhìn lại quá trình lịch sử đấu
tranh giải
phóng dân tộc khỏi ách áp bức của các thế lực ngoại xâm dài hơn

Chú thích (8): Các Mác và Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia sự thật, H, 1995, tập 19, trang 47
15

bốn nghìn năm của dân tộc ta, đã định sẵn Việt Nam không thể nào
trở thành một nước đi xâm chiếm, bóc lột nước khác; người dân
Việt Nam cũng không thể nào tiếp tục chấp nhận một chế độ xã hội
bóc lột, bất công và phân biệt. Nhất là với những sự phàn phá nặng
nề của đế quốc xâm lược, của chủ nghĩa tư bản, để lại một Việt
Nam bị bao vây bởi nạn đói, nạn mù chữ, kiệt quệ tài nguyên, tệ
nạn xã hội tràn lan… thì nước ta cũng tất yếu sẽ không lựa chọn
con đường tiến lên tư bản chủ nghĩa. Quan trọng hơn, sau thắng lợi
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước ta đã có đủ điều kiện
để chúng ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Một là, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã
được thử thách, được khẳng định và trở thành nhân tố quan trọng
hàng đầu cho quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta; Hai là, nhà nước chuyên chính cách
mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đã được thiết lập
và củng cố qua công cuộc kiến quốc và cứu quốc (1945 - 1954) và
kháng chiến chống Mỹ cứu nước(1954-1975); Ba là, liên minh giai
cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức đã được thiết lập, được củng cố, được phát huy ngay trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân và do đó nó sẽ tiếp tục phát huy
vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; Bốn là,
chúng ta đã hoàn thành căn bản những nhiệm vụ của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân một cách triệt để; Năm là, có sự giúp đỡ
của phong trào cách mạng thế giới và nhân loại tiến bộ mà trước
hết và trực tiếp là của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Mặt khác, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự
16

cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là:
chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất
hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ
thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát
chuyển thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , trên cơ sở phân hóa
những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị
thì sẽ hình thành chủ nghĩa tư bản, dẫn đến những hậu quả như:
chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam sẽ bị mất và nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị
người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực hiện được mục tiêu
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, sự
phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ
cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo
ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để
nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ
sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một
xã hội mới của nền văn minh cao hơn. Do đó, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Chúng ta
không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vì thời đại ngày nay
không phải là thời đại của chủ nghĩa tư bản và cho dù có phát triển
vượt bậc, nó vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất
công xã hội thuộc về bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa khi lợi
ích, tài nguyên, tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ chỉ thuộc về một nhóm
người nhất định trong xã hội. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi
phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở
17

củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy
động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít
khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động.
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh
tế, của toàn xã hội...”(9).
Nhưng nước ta đã thành công, đã giành được độc lập dân tộc,
có chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với
những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi
mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển,
bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa có quan hệ quốc tế rộng
rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới.
Trong quá trình Đổi mới, nhận thức của Đảng ta về dân chủ
xã hội chủ nghĩa đã được phát triển ngày càng đầy đủ và toàn diện.
Cương lĩnh 2011 của Đảng nhấn mạnh: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước”; từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ được thực thi một cách toàn

Chú thích (9): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, trang 21.
18

diện, đầy đủ trong thực tế cuộc sống; dân chủ đồng thời gắn với kỷ
luật, kỷ cương xã hội và phải được thể chế hóa và bảo đảm bằng hệ
thống pháp luật. Nhà nước bảo đảm các quyền con người, bảo đảm
cho cuộc sống hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi người dân.
Đồng thời, nhận thức lý luận của Đảng về con người được bổ sung,
hoàn thiện sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Con người được Đảng xác định
là “trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển”, là mục tiêu quyết định duy nhất của phát triển, đồng thời
cũng là động lực quan trọng nhất của phát triển. Đảng cũng đã phát
triển những cơ sở lý luận cho việc giải quyết những vấn đề xã hội,
chủ trương “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước
và từng chính sách” trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Yêu cầu “tiến bộ và công bằng” được triển khai bao quát toàn
diện các lĩnh vực xã hội, từ giáo dục, y tế, gia đình, môi trường, xóa
đói giảm nghèo, đến an sinh, phúc lợi xã hội, thể dục thể thao, văn
hóa giải trí, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quyền con người,
phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Nhà nước giữ vai trò trung
tâm, đồng thời động viên mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia việc
giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo cho mọi người dân được thụ
hưởng xứng đáng, công bằng những thành tựu của phát triển, Đổi
mới, tạo lập một xã hội văn minh, hài hòa, mang lại hạnh phúc
ngày càng nhiều hơn cho nhân dân. Về lĩnh vực đối ngoại, Đường
lối nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh. Trong điều kiện thế giới đã có nhiều thay đổi,
Đảng ta cũng chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước
trên trường thế giới gia nhập nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như
ASEAN, WTO, Liên hợp quốc… với tiêu chí là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp
19

phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
3.2. Một nhiệm vụ cơ bản để xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam

Căn cứ Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua
30 năm đổi mới, Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã
nêu một cách tổng quát những thành tựu và hạn chế của 30 năm đổi
mới:“Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời
cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần
phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững”. Từ đó, nước ta rút ra được một số bài học.
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng
tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù
hợp với Việt Nam. Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan
điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc. Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn,
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết
kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Bốn là, phải đặt
lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình
đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh
20

thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với
nhân dân”(10)

Đứng trước tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi,
thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới,
yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát
triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam cần thực hiện các nhiệm vụ để tiếp tục phát triển đất nước
vững mạnh trong thời kỳ quá độ dài và gian khổ.

Về kinh tế, cần phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng
trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông
thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học,
công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc

Chú thích (10): Đảng cộng sản Việt Nam(2016): Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà nội trang 65-70 .
21

lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị
toàn cầu. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện thể chế, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong quản
lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị
doanh nghiệp.

Về giáo dục, thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên
cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò
quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ
đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Về văn hóa - xã
hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Và quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội,
nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có
công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, chất lượng
dân số, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách
lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh,
văn minh, an toàn.

Đối với đường lối đối ngoại thì chủ trương độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Và kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
22

Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng.

Quan trọng nhất là hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh;
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có
phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ,
tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội
phạm. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên
phong, sức chiến đấu, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất
của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng
công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng
cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám
sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
23

KẾT LUẬN
Như vậy, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con đường phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là có tính tất yếu khách quan đối
với sự phát triển của toàn nhân loại. Nó không chỉ là một lý luận
biện chứng mà còn được chứng minh tại thực tiễn nhiều nước trên
thế giới. Đặc biệt là đối với Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa
chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ
gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy
luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của cách mạng Việt
Nam, là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói, mặc dù thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình khó khăn, phức
tạp và tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ”. Nhưng cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực
tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu
thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng,
xây dựng đất nước ở Việt Nam thì đề tài “ TÍNH TẤT YẾU CỦA
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ” đều có tính cấp thiết, ứng dụng cao trong
đời sống, nhất là với sự phát triển toàn cầu hóa, hội nhập thế giới
như hiện nay. Khi tình hình thế giới ngày càng trở nên phức tạp,
nhiều mâu thuẫn mới xuất hiện thì việc vô cùng quan trọng là hiểu
rõ bản chất của các hình thái kinh tế xã hội, các luận điệu mới và
thậm chí là ứng phó với sự chống phá để luôn luôn kiên định, tỉnh
táo, giữ vững lập trường và khẳng định sự phát triển bền vững,
thành công trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
chủ nghĩa cộng sản.
24

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình môn “Lý luận về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa”.
2. “Lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, TS Nguyễn Dương Hùng (Viện
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh), Lyluanchinhtri.vn, đăng ngày 26/4/2018.
3. “Những thành tựu về nhận thức lý luận của Đảng trong thời kỳ đổi
mới” , GS.TS Tạ Ngọc Tấn (Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung
ương), Tuyengiao.vn, đăng ngày 3/2/2020.
4. “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Một tất yếu lịch sử”, PGS.TS. Vũ
Văn Phúc, Tuyengiao.vn, đăng ngày 3/7/2018
5. “Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và thực tiễn trên thế giới một thế kỷ qua”, PGS, TS. Phạm
Văn Chúc (Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương), Báo
điện tử Đảng cộng sản Việt Nam Tulieuvankien.dangcongsan.vn,
25/6/2020
6. Tiểu luận môn Triết học: “Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tính
tất yếu của Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam”, Tailieu.vn, đăng
08/12/2012.
7. Tiểu luận “Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và liên hệ với Việt Nam”, 123doc.net.
8. Tiểu luận “Tính tất yếu, đa dạng, đặc thù về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sự vận dụng sáng
tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, 123doc.net.
9. Tiểu luận “Vấn đề “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam”, Thegioiluat.vn.
10. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam-Giá trị và những luận điểm cần bổ sung, phát tiển”,
PSG.TS. Lê Xuân Thủy, đăng 26/8/2019.
25

You might also like