You are on page 1of 34

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI 2:
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT
TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LỚP DT04--- NHÓM 03 --- HK 203
NGÀY NỘP 14/06/2021

Giảng viên hướng dẫn: Đoàn Văn Re

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Võ Bùi Hải Đăng 1913101
Phạm Nguyễn Hồng Đào 1913005
Hà Phương Điền 1913106
Nguyễn Thị Xuân Diệu 1912854
Trần Hương Diệu 1912855

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................2
2. PHẦN NỘI DUNG........................................................................................5
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...................................................5
1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội..................................................................................................5

1.2. Đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................................8

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN


KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................10
2.1. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam..............10

2.2. Những vấn đề khoa học công nghệ trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam............................................................................12

2.3. Thực trạng đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua................19

2.4. Giải pháp đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.................24

3. KẾT LUẬN..................................................................................................31
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................32

1
1. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 . Tính cấp thiết của đề tài

Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện rõ như một quá
trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển của lịch sử loài người như là sự biến đổi và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định phương thức sản xuất chắc chắn
sẽ bị thay thế bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa như một quy luật khách
quan của lịch sử hay chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng
sản. Ở Việt Nam, thời kì quá độ đã, đang và sẽ là vấn đề thu hút của Đảng và các nhà
nghiên cứu, khẳng định vị thế của mình đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin cần được tiến hành đễ dễ dàng liên hệ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Vì về cơ bản, việc hiểu rõ quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn.

Hiện nay, tuy hệ thống chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới đang sụp đổ. Nhưng
Việt Nam vẫn đi theo con đường chủ nghĩa xã hội với sự kiên định và quán triệt mục
tiêu lý tưởng phải tiến hành công cuộc đổi mới. Cứ như vậy tiếp tục vươn lên và phát
triển mạnh mẽ.

Trong thời kỳ trước đổi mới ở Việt Nam và các nước thuộc chế độ xã hội chủ
nghĩa đã bỏ qua vài chỉ dẫn của C. Mác và Ph. Ph.Ăngghen đặc biệt là khi nói đến việc
xóa bỏ tư hữu. Trong thời gian đó, ta chỉ mong muốn xóa bỏ tư hữu và kinh tế tư nhân
trong một thời gian ngắn dẫn đến hệ luỵ với phong cách làm việc một cách chủ quan,
vội vàng và duy ý chí. Vì vậy, trước những yêu cầu của thực tiễn cuộc sống hiện nay,
chúng ta cần tiếp tục nâng cao vấn đề làm chủ trong thời kỳ Việt Nam quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

Như đã nói, quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta là tính tất yếu của thời đại. Ngay cả chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa
ra kết luận sâu sắc rằng “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải

2
quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no
và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.

Đặc biệt là vấn đề đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, trong thời đại 4.0, thời đại mà khoa học và
công nghệ phát triển như vũ bão trên thế giới, việc xác định rõ tầm quan trọng của
khoa học và công nghệ từ rất sớm trong quá trình phát triển đã giúp ích rất nhiều Đảng
và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Bằng việc
thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ,
Đảng ta đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học công nghệ đối với phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân. Tuy nhiên, đây là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Đến
nay, vẫn còn nhiều hạn chế cần phải kể như là việc đầu tư cho khoa học công nghệ còn
ở mức thấp, lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu, sự phân bố lực lượng lao động
khoa học không hợp lý, những bất cập giữa khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế ở
Việt Nam,… Vì vậy, từ việc nghiên cứu chính xác đề tài này, chúng ta sẽ đánh giá,
xem xét và đưa ra những thực trạng và giải pháp đúng đắn để tiếp tục đẩy mạnh phát
triển khoa học công nghệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay.

1.2 . Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

Thứ hai, thực trạng và giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh phát triển khoa học công
nghệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

1.3 . Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp đẩy mạnh phát triển khoa học công
nghệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

1.4 . Mục tiêu nghiên cứu


Thứ nhất, Làm rõ vấn đề lý luận quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3
Thứ hai, Đánh giá thực trạng nền đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam trong thời gian qua.
Thứ ba, Đề xuất giải pháp tiếp tục xây dựng nền đẩy mạnh phát triển khoa học
cộng nghệ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian tới.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, tập trung chủ yếu vào các
phương pháp nghiên cứu như thu thập số liệu, phân tích và tổng thích lý thuyết.

1.6. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:

Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội

Chương 2: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

4
2. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ


ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
1.1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn
bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang
xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã
hội, tạo ra các tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết để tạo nên một xã hội mới mà trong
đó những nguyên tắc căn bản của xã hội ‘xã hội chủ nghĩa’ từng bước được thực hiện.
Thời kì này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây
dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã
hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai kiểu:

Một là, thời kỳ quá độ trực tiếp: là từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thời kỳ quá độ gián tiếp: là từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay
các nước tư bản trung bình lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa).
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ: lịch sử
xã hội đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã
hội đã xuất hiện trong lịch sử thì hình thái cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất.
Vì vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C.Mác khẳng định: “Giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và

5
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản” 1. V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga Xô-Viết cũng khẳng định:
“Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”2.

Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Còn chủ nghĩa xã hội xây dựng trên cơ
sở công hữu tư liệu sản xuất là chủ yếu, không còn các giai cấp đối kháng, không còn
chế độ áp bức, bóc lột. Muốn có được xã hội như vậy thì giai cấp vô sản cần phải có
thời gian để cải tạo xã hội cũ do giai cấp bốc lột dựng nên và xây dựng trên nền móng
ấy lâu dài của chủ nghĩa xã hội.

Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa
xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản:

Quá độ trực tiếp: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên
chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra.
Quá độ gián tiếp: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những
nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên thế giới một thế kỉ qua, kể cả Liên
Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ
nghĩa khác ngày nay, theo lý luận Mác – Lênin, đều trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp
với những trình độ phát triển khác nhau.

Hiện nay, mặc dù hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới đã bị sụp đổ, phong trào xã
hội chủ nghĩa nhìn chung đang trong giai đoạn thoái trào nhưng một số nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến
hành cải cách, đổi mới, giành được những thắng lợi to lớn, tiếp tục trỗi dậy, phát triển
mạnh mẽ; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước phục hồi. Còn đối
với chủ nghĩa tư bản dù còn tiềm năng phát triển nhưng về bản chất vẫn là chế độ áp
bức bóc lột và bất công; những mâu thuẫn như là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân của tư bản chủ
1
C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập 19. (1983). NXB: Chính trị quốc gia, tr.47.
2
Bộ Giáo dục và đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.48.
6
nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc; khủng hoảng
kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.

Chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển trên nền sản xuất đại công nghiệp
có trình độ cao. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề vật chất, kỹ thuật nhất định cho chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cần phải có thời gian lâu dài để tổ chức, sắp xếp lại, quản lý
và điều tiết nền đại công nghiệp đó cho phù hợp với điều kiện của chủ nghĩa xã hội.
Đối với những nước chưa trải qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên xã hội chủ
nghĩa thì thời kỳ quá độ có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong chế độ tư bản
chủ nghĩa mà đó là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tư bản đã mở đường và tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất xã hội nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành "xiềng xích" kìm
hãm sự phát triển của nó vì vậy phải có một thời gian nhất định để xóa bỏ hoàn toàn
quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công cuộc hoàn toàn mới mẻ, khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ; vì vậy, việc xây dựng này phải được thực hiện một cách thận trọng,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa điều chỉnh và cần phải có thời gian để giai cấp công
nhân từng bước làm quen với những công việc đó. Việc cải tổ sản xuất thay đổi căn
bản mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng là một công việc vừa phức tạp, vừa phải
đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa các lực lượng xã hội có lợi ích và
quyền lợi đối lập nhau…; vì thế mà thực trạng này sẽ diễn ra một cách lâu dài trong
đời sống xã hội.

Xuất phát từ quan điểm cho rằng: chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng
thái cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo mà là kết
quả của phong trào hiện thực, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng:
Các nước lạc hậu với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng có thể rút ngắn
được quá trình phát triển. Thời ky quá độ ở những nước có trình độ phát triển kinh tế
xã hội khác nhau thì khác nhau. Nước đã phát triển lên trình độ cao thì tương đối ngắn,
7
còn những nước lạc hậu, kém phát triển thì phải kéo dài hơn và gặp nhiều khó khan,
phức tạp hơn.

Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: với lợi thế của thời đại,
trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi
giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

1.2. Đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế

Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa
trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là
những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất
yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.

1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị

Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp,
nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Thời kỳ này
thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản
xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể
của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.

Và đặc biệt thời kỳ này là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều bước
trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là luôn luôn vấp phải sự phản kháng

8
nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của giai cấp tư sản
vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt giai cấp công nhân có thể bị thất bại
và mất chính quyền công nông.

Phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ. Đổi mới xã hội chủ nghĩa
đó là sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm phù hợp và đáp ứng kịp thời những
nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của thời kỳ quá độ. Đồng thời, quan tâm xây dựng,
củng cố và nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng nhằm đưa các tổ chức này
thiết thực góp phần xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và bảo vệ lợi ích chính đáng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và
văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản,
tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công
khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường
xuyên đấu tranh với nhau.

Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai
cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là
giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu,
bằng hành chính và luật pháp.

1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội

Trong thời kỳ quá độ, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen lẫn
nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa cái mới và cái cũ, trong khi cái

9
cũ vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn ở dạng mầm mống, yếu ớt, phát triển chậm
chạp.

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KHOA
HỌC CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam

Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời
chia hai miền: miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – hậu phương lớn của cách mạng miền
Nam… Đảng ta đã xác định rõ: đặc điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ
nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Những thành tựu của miền Bắc trong những năm chống
Mỹ, cứu nước đã thực sự xứng đáng là hậu phương lớn của miền Nam và có vai trò
quyết định nhất đến toàn bộ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước: giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lời vừa khó khan
đan xen, có những đặc điểm cơ bản:

Một là, xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng
sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kéo dài nhiều thâp kỷ, hậu quả
để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch
thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta.
Hai là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống
xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển
lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho
các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.
Ba là, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Các nước

10
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách
thức, song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy
nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan của cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa
chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc,
nhân dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợi với quan điểm khoa học,
cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Như đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự mở đầu chính thức
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới toàn diện,
nhưng trọng điểm đúng là trên cơ sở ổn định, phát triển kinh tế, cả thiện từng bước đời
sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới hệ thống chính trị… để phát triển đất
nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Hay đến đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học
và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” 3.

Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được
hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:

3
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB: Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.84.
11
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
con đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, trong thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, song sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không
chiếm vai trò chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối
theo lao động vẫn là chủ đạo còn phân phối theo mức đóng góp vào quỹ phúc lợi xã
hội; thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bốc lột và bị bóc lột, song quan hệ bóc lột tư bản
chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về
quản lý để phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế
hiện đại, phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
Thứ tư, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn
của toàn Đảng, toàn dân.

Những đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang tính
chất định hướng lâu dài vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt tới trong
từng bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả thời kỳ quá độ. Điều này mang ý
nghĩa phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với thực tiễn mà cả lý luận.

2.2. Những vấn đề khoa học công nghệ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam

2.2.1. Khái niệm khoa học công nghệ

Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
quá trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã
hội của đất nước lên trình độ mới.

“Khoa học” là hững hoạt động nhằm xây dựng và tổ chức kiến thức dưới
những lời giải thích là tiên đoán có thể kiểm chứng được về thế giới xung

12
quanh. Thông qua các thông tin đó, các nhà khoa học sử dụng các quan sát dấu
hiệu để biểu hiện ra tính vật chất và bất thường rồi sắp xếp chúng thành những
dữ liệu để phân tích các hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng.

“Công nghệ” là sự phát minh và thay đổi việc vận dụng, sử dụng kiến thức
về các công cụ máy móc kỹ thuật, các tính năng nhằm giải quyết một vấn đề
hoặc cải tiến những giải pháp đã tồn tại nhằm đạt mục đích hoặc chức năng cụ
thể, ảnh hưởng lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người.

Vậy “khoa học công nghệ” là tổng hợp toàn bộ những hoạt động có tính
sáng tạo và hệ thống giúp phát triển được những kiến thức liên quan đến tự
nhiên và xã hội của con người. Sử dụng những kiến thức đó để sáng tạo ra
những ứng dụng mới giúp ích cho xã hội.

2.2.2. Tính tất yếu và tác dụng của khoa học công nghệ

Ðối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò
tạo ra điều kiện, tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi
thời kỳ lịch sử và trong từng bối cảnh kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội
dung và con đường thực hiện cụ thể. Ðối với Việt Nam trước kia, đó là quá trình
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này
được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ðây là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn
diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ
nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày
càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.

Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ
90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Ðại hội
XIII của Ðảng đề ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo".

13
Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nó quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói
chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng của mỗi quốc gia. Tiềm lực
khoa học và công nghệ của nước ta dù đã đạt được một số thành tựu nhưng vẫn
còn những yếu kém cần phấn đấu đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu
vực trên một số lĩnh vực quan trọng.

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến cho đến nay, bốn cuộc cách mạng công
nghiệp, cũng là các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc thứ
nhất, vào cuối thế kỷ XVIII, khai sinh ra nền công nghiệp cơ khí, tạo ra dây
chuyền sản xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường... Cuộc thứ hai,
vào cuối thế kỷ XIX, ra đời nền công nghiệp và xã hội điện khí hóa; tạo tiền đề
để chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc quyền đế quốc. Cuộc thứ
ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin học hóa.
Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt chuyển đổi số của toàn bộ
đời sống vật chất và tinh thần của con người. Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một
trình độ công nghệ ngày càng hiện đại cho quá trình công nghiệp hóa lâu dài của
nhân loại.

Các chuyên gia trên thế giới đã khái quát bốn trình độ công nghiệp hóa từ
thấp đến cao. Thấp nhất là trình độ lắp ráp (Assemblement). Tiếp đó là trình độ
sản xuất với kỹ thuật riêng (Own Engineering Manufacturing-OEM). Cao hơn là
trình độ sản xuất với thiết kế riêng (Own Design Manufacturing - ODM). Cao
nhất là trình độ sản xuất với thương hiệu riêng (Own Brand Manufacturing -
OBM).

Ðể tiến lên trình độ công nghiệp hóa ngày càng cao, mỗi quốc gia nhất thiết
phải có một số ngành sản xuất công nghiệp nền tảng, mà thiếu chúng thì không
thể triển khai các ngành công nghiệp khác. Các ngành luyện kim, cơ khí, chế
tạo, năng lượng, hóa chất… chính là những nền tảng cho các ngành công nghiệp
khác có điều kiện, tiền đề xây dựng, phát triển. Trên thực tế, không ít quốc gia
14
đã không dành sự quan tâm ở tầm chiến lược cho các ngành công nghiệp này.
Hệ quả trực tiếp là nền sản xuất công nghiệp quốc gia về cơ bản dừng lại ở trình
độ lắp ráp và các ngành công nghiệp phụ trợ cũng không thể phát triển, nền công
nghiệp quốc gia ngày càng lép vế trước các cơ sở công nghiệp FDI. Trước thực
trạng này, văn kiện Ðại hội XIII xác định: "Xây dựng nền công nghiệp quốc gia
vững mạnh… tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là
công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ".

Trong thế giới ngày nay, quá trình công nghiệp hóa của mỗi quốc gia
không thể tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh
doanh toàn cầu. Ðối với Việt Nam, đòi hỏi này trở nên bức thiết gấp bội vì nền
kinh tế nước ta đã hội nhập rất sâu với nền kinh tế thế giới: Giá trị tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu bằng 160% đến 200% GDP trong những năm vừa qua.
Trên ý nghĩa rất lớn, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng là
quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh tranh; bảo đảm tự chủ kinh tế
quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
sản xuất - kinh doanh. Ðể định hướng cho quá trình chuyển đổi quan trọng này,
văn kiện Ðại hội XIII chỉ rõ: "Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công
nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số..., nâng cao tính tự chủ của nền
kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu".

Các quốc gia công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa mới
đều thành công trên con đường công nghiệp hóa nhờ biết xác định kịp thời mô
hình công nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thế giới và điều kiện cụ thể của đất
nước. Chỉ tính từ giữa thế kỷ XX đến nay, đã có hai mô hình công nghiệp hóa
rất thành công. Mô hình thay thế nhập khẩu đã biến các quốc gia Bra-xin,

Mê-hi-cô, Ác-hen-ti-na và Chi-lê thành các "con hổ" Mỹ la-tinh. Sau đó, mô
hình hướng xuất khẩu đã đem lại sự phát triển thần kỳ cho các "con hổ" Ðông
Á: Xin-ga-po, Hàn Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) và Ðài Loan (Trung Quốc).
Ðến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
15
đại hóa theo phương châm hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu ở
những lĩnh vực, mặt hàng có lợi thế. Quá trình này đã góp phần đem lại cho đất
nước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; tuy nhiên, như văn kiện Ðại hội
XIII kiểm điểm: "Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được mục tiêu đề ra".

Xét trên quy mô thương mại toàn cầu, thế giới ngày nay đã bị các hiệp định
thương mại tự do, nhất là các hiệp định thế hệ mới biến thành một thị trường
liên hoàn, thống nhất. Ở đó, đã và sẽ nhanh chóng mất đi sự phân biệt giữa thị
trường quốc nội và thị trường quốc tế. Trong bối cảnh mới như vậy, các mô hình
công nghiệp hóa nêu trên hiển nhiên là không còn chỗ đứng. Việt Nam cũng như
các quốc gia khác, rất cần xác định mới mô hình công nghiệp hóa, vừa thích ứng
với chuỗi giá trị toàn cầu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư... và phù hợp với
điều kiện, mục tiêu, yêu cầu... của nước nhà. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm (2021 - 2030) được thông qua tại Ðại hội XIII nêu rõ mô hình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới: "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Ðẩy
mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế
và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến
cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới".

Một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao được
xác định là những ưu tiên phát triển bao gồm: Công nghệ thông tin và truyền
thông, công nghiệp điện tử - viễn thông, công nghiệp sản xuất rô-bốt, ô-tô, thiết
bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm,
sản phẩm số, công nghiệp an toàn thông tin, công nghiệp dược phẩm, sản xuất
chế phẩm sinh học, công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ
nông nghiệp và vật liệu mới...

16
2.2.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đẩy mạnh phát triển khoa học
công nghệ ở Việt Nam thời gian qua

Khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ có khả năng nắm bắt và vận
dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công
nghê. Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng
hình thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ
cho việc hoạch định các chính sách chiến lược và quy hoạch phát triển.

Định hướng chung cho chiến lược khoa học và công nghệ là:

Một là, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị vǎn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu
sắc quá trình đổi mới đất nước. Xây dựng, không ngừng phát triển và hoàn thiện
hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cung cấp
luận cứ khoa học cho việc tiếp tục bổ xung, hoàn thiện đường lối, chủ trương
chính sách của đảng và Nhà nước nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ trong tất cả các nghành sản xuâts, kinh doanh, dịch vụ, quản lý quốc
phòng - an ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Coi
trọng nghiên cứu cơ bản. làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ nước ngoài,
tiến tới sáng tạo ngày càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối
với sự nghiệp phát triển của đất nước trong thề kỷ 21.
Ba là, nâng cao nǎng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa
học và công nghệ của nước nhà: đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ
khoa học và công nhân lành nghề, trẻ hoá và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ có đủ đức, tài, kiện toàn hệ thống tổ chức, tǎng cường cơ sở vật
chất - kỹ thuật, mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng bước hình thành
một nền khoa học và công nghệ hiện đại của Việt Nam có khả nǎng giải quyết
17
phần lớn những vấn đề then chốt được đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.

Mục tiêu và nhiệm vụ về phát triển khoa học và công nghệ: nâng cao mặt
bằng khoa học và dân trí để tiếp thu và vận dụng các thàmh tựu khoa học, tiến
bộ kỹ thuật trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm luận cứ khoa
học cho việc xây dựng các định hướng chiến lược, chính sách, chủ trương, kế
hoạch, quy hoạch phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Lựa chọn, tiếp thu
và làm chủ các công nghệ nhập từ bên ngoài, kết hợp với cải tiến và hiện đại hoá
công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ trong các lĩnh vực sản
xuất, dịch vụ, tạo bước chuyển biến mới về nǎng xuất, chất lượng, hiệu quả của
sản xuất; đặc biệt là chất lượng các sản phẩm xuất khẩu để có sức cạnh tranh
trên thị trường khu vực và thế giới.

Còn về nhiệm vụ tập trung phát triển các vấn đề sau:


Một là, khoa học xã hội và nhân vǎn cần nghiên cứu một số vấn đề
như: Tǎng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tǎng cường đoàn kết dân tộc trong
điều kiện kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Tổng kết kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cứu nước, giữ nước
trong lịch sử dân tộc, xây dựng, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt
Nam trong điều kiện mới.
Hai là, khoa học tự nhiên nghiên cứu một số vấn đế lý thuyết thuộc
lĩnh vực mũi nhọn và ứng dụng có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện đại
nhằm tạo cơ sở cho đổi mới công nghệ, định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Ba là, công nghệ: lấy ứng dụng, chuyển giao công nghệ là chính. Tạo
được khả nǎng lựa chọn, thích nghi và làm chủ các công nghệ nhập; đi thẳng
vào các công nghệ tiên tiến nhất, trước hết ở những ngành, những lĩnh vực có

18
tác động chi phối nền kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tǎng cao,
ngành công nghiệp mới xây dựng, ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực.
Bốn là, tài nguyên và môi trường: sử dụng các giải pháp khoa học,
công nghệ nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng chống,
giảm nhẹ tác hại thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng dụng những công
nghệ mới trong điều tra tài nguyên, dự báo khí tượng htuỷ vǎn, kiểm soát và xử
lý ô nhiễm môi trường; tiếp tục xây dựng chiến lược phát triển vùng. Bố trí hợp
lý không gian lãnh thổ và dân cư; bảo vệ đa dạng sinh học, giữ cân bằng sinh
thái.
Năm là, quốc phòng an ninh: tổ chức điều tra, nghiên cứu các vấn đề
khoa học kỹ thuật phục vụ quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo
đảm an ninh, trật tự và an toàn xã hội; ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong
sản xuất, sửa chữa, bảo trì các loại vũ khí, quân trang, quân dụng. Nghiên cứu kế
hoạch phòng thủ bảo vệ vững chắc biên giới lãnh thổ của tổ quốc.

2.3. Thực trạng đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua
2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân

Đảng và Nhà nước ta đã xác định được tầm quan trọng của Khoa học – công
nghệ từ rất sớm, đó là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững,
góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế;
nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng. Nhờ vào đường
lối, chính sách phù hợp cũng như sự chú trọng vào việc phát triển Khoa học công nghệ
của Đảng và nhà nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu vô cùng nổi bật về Khoa
học công nghệ trong nhiều lĩnh vực, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất
nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dưới đây là những thành tựu khoa học
công nghệ nổi bật trong các lĩnh vực khác nhau của nước ta trong thời gian qua:

Một là nông nghiệp: Trong chiến tranh, chúng ta đã nghiên cứu và tìm tòi ra
những giống mới và quy trình gieo cấy tiên tiến để cung cấp them nguồn lương thực
cho cả nước nói chung và miền Nam nói riêng. Ở thời bình, ta đã chọn lọc và sang tạo

19
ra những giống cây trồng mới làm tiền đề cho sự phát triển nền nông nghiệp của đất
nước. Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã chọn tạo và đưa vào sản xuất
114 giống lúa, trong đó 45 giống được công nhận chính thức, đồng thời cũng đã kịp
thời chọn tạo và phóng thích các giống lúa mới có khả năng chống chịu với rầy nâu và
bệnh vàng lùn, lùn xoắn đã đáp ứng nhu cầu của sản xuất và hạn chế đến mức thấp
nhất thiệt hại do bệnh dịch gây ra như giống lúa lai TH7-2, lúa thuần T65, lúa lai
VL20,… Gạo ST25 của Việt Nam được bình chọn là “Gạo ngon nhất thế giới” năm
2019 và được ICI (International Commodity Institute) cấp chứng nhận. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng rất thành công trong việc chế tạo ra các giống vật nuôi có năng suất
cao như giống lợn đực Piétrain kháng stress và các loại vacxin phòng nhiều bệnh cho
vật nuôi điển hình như: cúm gia cầm A/H5N1, heo tai xanh, lở mồm long móng, tả lợn
châu Phi,… Đồng thời áp dụng các tiến bộ kĩ thuật trong nông nghiệp như công nghệ
xử lý môi trường chăn nuôi, công nghệ sản xuất khoai tây sạch bệnh bằng công nghệ
khí canh, phân viên nén nhả chậm cho các loại cây trồng,…

Hai là y học: Đây là một lĩnh vực mà Đảng và nhà nước ta chú trọng rất
nhiều trong việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trong xã hội. Chúng ta đã nghiên
cứu và sản xuất thành công vacxin phòng bệnh cho trẻ em. Văcxin “ Rotavin-M1” là
vacxin sống giảm độc lực, uống phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ em dưới 5 tuổi, được sản
xuất từ chủng virut rota G1P trên tế bào Vero tại cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP
thuộc Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất vacxin và Sinh phẩm Y tế - Bộ Y tế. Đặc biệt,
chúng ta đã sản xuất vacxin Covid-19, nghiên cứu, sản xuất thành công bộ KIT phát
hiện SARS-CoV-2 ,đây là một trong những thành tựu to lớn đối với nền y học của Việt
Nam. Thành công trong việc ghép tạng người hay phương pháp phẫu thuật nội soi cắt
các khối u tuyến tụy cũng là một dấu ấn đáng nhớ của y học nước nhà, qua đó ta thấy
được sự cố gắng của mọi người trong việc phát triển khoa học công nghệ ở nước ta lúc
bấy giờ. Đặc biệt hơn gần đây đã có 2 dự án đã có những đóng góp lớn lao cho nền y
học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đó là dự án Công trình Keo chống
chảy máu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiệp hay dự án “ 14 dẫn chất kháng ung thư” của 2
học sinh là Vũ Thị Nam Anh và Trần Đan Khuê.

20
Ba là thiết bị cơ khí công nghệ cao: Sản xuất và ứng dụng công nghệ mới
tại Nhà máy thủy điện Sơn La, là công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, gồm 6 tổ
máy, công suất lắp máy 2400MW, sản lượng điện bình quân hàng năm 9,4kWh. Đây
là công trình có khối lượng công việc lớn nhất với nhiều công nghệ, giải pháp kỹ thuật
mới, tiên tiến do các đơn vị tư vấn, thiết kế, sản xuất thiết bị, thi công Việt Nam làm
chủ và ứng dụng thành công từ trước đến nay. Sản xuất các sản phẩm cơ điện tử made
in Vietnam. Máy công cụ điều khiển số (CNC) do Việt Nam chế tạo. Máy soi cắt lớp
điện toán trong công nghiệp. Dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông. Các
viện, trường đại học tại TP. HCM cũng có nhiều đóng góp vào nghiên cứu chế tạo các
thiết bị công nghệ cao, Đại học Bách khoa TP. HCM nghiên cứu xe gắn máy sử dụng
đa nhiên liệu, tàu đệm khí BKVEE hoạt động cả trên nước và mặt đất, thiết bị điều trị
cắt cơn nghiện và cai nghiện ma túy bằng laser bán dẫn công suất thấp,…

Bốn là công nghệ vệ tinh: Vệ tinh siêu nhỏ Pico-Dragon là vệ tinh pico đầu
tiên do Việt Nam tự nghiên cứu, thiết kế và chế tạo. Vệ tinh có thể ứng dụng trong các
lĩnh vực như: liên lạc và nhận lệnh điều khiển từ trạm mặt đất; gửi các dữ liệu về thu
thập được từ vệ tinh về trái đất; chụp ảnh trái đất với độ phân giải thấp; gửi dữ liệu ảnh
về trạm mặt đất. Năm 2018, vệ tinh Macro Dragon “Made by Vietnam” do 36 thạc sĩ
công nghệ vệ tinh của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam chế tạo dưới sự hướng dẫn của phía
Nhật Bản được hoàn thiện, và được phía Nhật Bản hỗ trợ phóng lên không gian bằng
tên lửa Epsilon.

Năm là năng lượng nguyên tử: Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt tái hoạt động,
nó đã hoạt động 3 lần trong nửa thế kỷ vừa qua, một lần vào năm 1963, một lần vào
năm 1984, và lần gần đây nhất là vào năm 2011. Lần hoạt động thứ ba này diễn ra vào
ngày 30/10/2011, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của lò phản
ứng hạt nhân Đà Lạt. Điều này một lần nữa đã chứng minh rằng Việt Nam có khả năng
cung cấp một nguồn năng lượng nguyên tử ổn định; nó cũng đánh dấu một bước phát
triển trong việc sản xuất năng lượng trong nước nói chung. Ứng dụng đồng vị phóng
xạ phục vụ kinh tế-xã hội. Trong y tế, Viện đã sản xuất và cung cấp hầu hết các dược
chất phóng xạ cần thiết quan trọng của y học hạt nhân như I-131, Tc-99m, P-32…góp
phần duy trì và phát triển mạng lưới y học hạt nhân trên cả nước. Trong công nghiệp

21
dầu khí, Viện đã thành công trong nghiên cứu di chuyển của nước bơm ép trong mỏ
dầu nhằm kiểm soát công nghệ khai thác, nâng cao hệ số khai thác, giảm chi phí sản
xuất, tiết kiệm khối lượng nước bơm vào và nâng cao hệ số quét đẩy dầu mỏ.

Sáu là các công trình quan trọng của nền công nghiệp: Giàn khoan tự nâng
90m nước, là giàn khoan đầu tiên của Việt Nam có thể đạt tới độ sâu 90m nước, thuộc
sở hữu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, có chất lượng nằm trong top 3 khu
vực châu Á và top 10 trên thế giới. Công trình khí Cửu Long là viên gạch đầu tiên xây
dựng nên nền công nghiệp khí Việt Nam, là mốc son đưa Việt Nam đến với các công
nghệ hiện đại, các thiết bị kỹ thuật tinh vi, tiên tiến. Công trình khí PM3 - Cà Mau - là
điểm nhấn khẳng định sự trưởng thành về mọi mặt của ngành khí Việt Nam khi những
kỹ sư của Việt Nam đã nắm bắt được khoa học kỹ thuật và tự lực thiết kế, xây dựng
công trình.

Bảy là công nghệ thông tin: Phần mềm đánh giá rủi ro động đất, ArcRisk
phục vụ đánh giá độ rủi ro động đất và ước lượng thiệt hại ở phạm vi đô thị. Ngoài
chức năng là một công cụ mạnh trong việc đánh giá độ nguy hiểm và rủi ro động đất
bằng công nghệ GIS, ArcRisk còn được thiết kể để có thể sử dụng như một hệ thống
hỗ trợ ra quyết định trong công tác phòng ngừa, ứng cứu và giảm nhẹ thiệt hại do động
đất gây ra đối với cộng đồng đô thị tại Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam còn ra mắt nền
tảng dữ liệu bản đồ số Việt Nam – Vmap. Hệ thống tự động hóa quản lý, giám sát và
điều khiển tàu thuyền.

Theo thống kê, hiện nay hệ thống các tổ chức khoa học công nghệ tại Việt Nam
có sự phát triển mạnh, cả nước đã có hơn 4.000 tổ chức khoa học công nghệ thuộc mọi
thành phần kinh tế. Đội ngũ nhân lực phát triển cả về số lượng và chất lượng với
khoảng 67 nghìn cán bộ nghiên cứu, đạt tỷ lệ 7 người/vạn dân. Số lượng công bố quốc
tế của các nhà khoa học Việt Nam tăng trung bình 26%/năm, lĩnh vực toán học và vật
lý luôn đứng ở tốp đầu các nước ASEAN. Có thể thấy, sự phát triển của hoạt động
khoa học công nghệ thời gian qua đã từng bước được đáp ứng với hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật được hoàn thiện, tập trung hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp khoa học công nghệ; khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao vào những ngành,
lĩnh vực ưu tiên và ngăn chặn nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ lạc

22
hậu; xây dựng hệ thống sở hữu trí tuệ phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, phát huy tốt nhất vai trò của sở hữu trí tuệ là công cụ thúc đẩy hoạt động đổi mới
sáng tạo, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nguyên nhân: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển
khoa học công nghệ hiện đại là “quốc sách hàng đầu” và giữ vai trò then chốt trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá,
HĐH đất nước hiện nay, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học công nghệ,
điểm nổi bật được chú trọng là ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp
hoá-HĐH và từng bước phát triển kinh tế tri thức; sử dụng công nghệ mới gắn với yêu
cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết
hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tăng đầu tư ngân
sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học công nghệå; kết hợp phát triển cả
bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả; kết hợp
các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng
hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội. Thứ nhất, ưu tiên phát triển
nguồn nhân tài chất lượng cao, chú trọng việc vận dụng kiến thức, kinh nghiệm khoa
học của đội ngũ trí thức trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học
công nghệ, cải cách giáo dục theo hướng tích cực nhằm rút ngắn thời gian đào tạo và
trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học. Thứ hai, phát huy có hiệu quả chính sách thu hút, sử
dụng nhân tài, đồng thời . Chú ý đến việc xây dựng những tập thể và nhóm nghiên cứu
của các nhà khoa học trẻ. Quan tâm và sử dụng có hiệu quả các nhà khoa học tài năng
ngoài Đảng vào các vị trí then chốt trong bộ máy chính quyền. Thứ ba, ,đẩy mạnh phát
triển khoa học công nghệ, chú trọng vào việc việc ứng dụng, sáng tạo công nghệ cao
làm động lực cho đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế
tri thức. Thứ tư, nghiên cứu đưa các sáng chế khoa học công nghệ hiện đại vào sản
xuất, phát triển các nhóm ngành công nghiệp cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, chế
biến tinh lương thực - thực phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng
ngày càng cao. Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
quản lý để cung cấp cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế - văn hóa -
23
xã hội của đất nước, nhất là các giải pháp trên lĩnh vực về giáo dục, văn hóa, y tế, xã
hội, giảm nghèo bền vững và hội nhập quốc tế.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

Mặc dù đã có những cải thiện nhất định về tiềm lực khoa học công nghệ, song
đến nay hoạt động khoa học công nghệ nước ta còn nhiều hạn chế, thách thức. Trong
đó, mặc dù hiện các sản phẩm khoa học công nghệ của Việt Nam đã được cải tiến và
đổi mới nhiều, song phần lớn vẫn sử dụng những công nghệ cũ, lạc hậu. Việc đổi mới
công nghệ so với mặt bằng chung vẫn còn chậm. Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam có
quy mô nhân lực đông, có sức khoẻ song lại thiếu kỹ năng và năng lực đổi mới sáng
tạo. Đây là điểm bất lợi của lao động Việt Nam để hội nhập với lao động thế giới. Cơ
cấu và việc phân bố cán bộ khoa học và công nghệ chưa cân đối. có nhiều bất hợp lý.
Nông thôn và miền núi còn thiếu nhiều cán bộ khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất -
kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu khoa học quá nghèo nàn, lạc hậu; thông tin khoa học
và công nghệ quá thiếu và không kịp thời. Bức tranh đổi mới sáng tạo của Việt Nam
khá mờ nhạt so với các nước trong khu vực khi số bằng phát minh sáng chế, số sáng
chế áp dụng để thương mại hoá ở Việt Nam đều ở khoảng cách khá xa so với các
nước. Trong đó phải kể đến việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
của Việt Nam còn khá hạn chế. Theo tính toán chi cho hoạt động R&D của Việt Nam
năm 2018 chỉ khoảng 0,4% GDP so với con số 3,3% GDP của Nhật Bản, 2,2% GDP
của Singapore, 2,1% GDP của Trung Quốc. Tại Hàn Quốc, chi cho hoạt động R&D
hiện nay chiếm đến 4,2% GDP, số bằng sáng chế được áp dụng thương hiệu vượt cả
Nhật Bản với 4378 sáng chế/ triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 29.891USD.
Nguồn vốn đầu tư cho khoa học công nghệ hiện chưa được chú trọng nhiều. Đầu tư
của doanh nghiệp Việt Nam cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ còn khá
thấp, chủ yếu là từ ngân sách nhà nước.

Nguyên nhân: Một là, các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền chưa thật sự coi
phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, chưa tập trung trí tuệ, công
sức cho sự lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhiều chủ trương
đúng đắn về khoa học và công nghệ trong các vǎn kiện của đảng chậm được thể chế
hoá về mặt nhà nước và chưa được thực hiện nghiêm túc. Hai là, quản lý khoa học và

24
công nghệ trong cơ chế thị trường còn lúng túng, bất cập. Việc tổ chức phân bổ lực
lượng còn phân tán. Việc quản lý các chương trình còn mang nặng tính hành chính,
còn dàn trải; chưa gắn chương trình nghiên cứu với chức nǎng và nhiệm vị của cơ sở
nghiên cứu, chưa đề cao tinh thần trách nhiệm và phát huy tính chủ động của cơ sở;
thiếu sự kết hợp giữa chương trình kinh tế - xã hội với chương trình khoa học và công
nghệ. Ba là, Công tác đảng, công tác chính trị - tư tưởng trong một số viện nghiên cứu,
trường đại học còn yếu. Tác dụng lãnh đạo của tổ chức đảng ở những nơi này còn hạn
chế. Việc phát triển đảng trong trí thức chưa được quan tâm đầy đủ.

2.4. Giải pháp đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một là, tạo lập thị trường cho khoa học và công nghệ

Hiện nay nền khoa học và công nghệ ngày càng phát triển và có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì thế trước hết cần phải tạo lập thị trường cho khoa
học và công nghệ. Nhằm mục đích phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu
thế của cách mạng khoa học và kinh tế tri thức trên thế giới. Cố gắng đi ngay vào công
nghệ hiện đại với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế.
Tập trung phát triển công nghệ cao để đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để
có thể giải quyết việc làm.

Ưu tiên các hoạt động đem lại lợi ích to lớn của những thành tựu khoa học công
nghệ cho đất nước về các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, … Đồng thời
đưa ra các chính sách khen thưởng, tuyên dương các cá nhân, tổ chức, công ty có
nhiều ứng dụng đạt được thành tựu khoa học công nghệ.

Trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp thực hiện các chính sách miễn giảm
thuế đối với các sản phẩm được ứng dụng sản xuất thử bằng công nghệ mới. Tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, thử nghiệm các sản phẩm. Quan tâm chặt chẽ và
giúp đỡ bằng cách cử các cán bộ về giúp đỡ nếu trong quá trình nghiên cứu có khó
khăn.

25
Ngoài ra, nhà nước đã và đang hoàn thiện hệ thống luật pháp về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ. Đây là một điều hết sức cần thiết
vì sẽ bảo vệ được quyền cho cá nhân, tổ chức phát minh ra được đồng thời cũng là
thành quả, công sức mà họ đạt được sau thời gian dài nghiên cứu.

Hai là, chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ

Nhà nước luôn có chế độ đãi ngộ và lương thỏa đáng đối với cán bộ nghiên cứu
khoa học và triển khai, chính sách khen thưởng đối với những người có công trong
việc nghiên cứu đạt được các thành tựu. Hơn hết là quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo
quyền lợi của họ khi tham gia nghiên cứu.

Đầu tư vào các trung tâm thí nghiệm trọng điểm, các trường đại học đạt mức tiên
tiến trong khu vực để phát huy đội ngũ nghiên cứu đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay. Các
trang thiết bị, hóa chất được đầu tư kĩ càng từ khâu chuẩn bị đến vận chuyển và cuối
cùng đến tận nơi. Tất cả phải được giám sát chặt chẽ đảm bảo chất lượng nghiên cứu
cũng như là tiến độ nghiên cứu. Đây là việc làm thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến các
cán bộ nói riêng cũng như là khoa học công nghệ hiện nay nói chung, nhắm khẳng
định vai trò to lớn của các cán bộ trong công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ về làm việc tại các vùng nông thôn,
vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn để phát triển nền kinh tế ở các
vùng đó, đồng thời đem lại kiến thức, sự hiểu biết cho người dân vùng đó, khắc phục
tình trạng lạc hậu, sản xuất kém hiệu quả, đem lại công việc và nguồn thu nhập ổn
định cho người dân vùng đó. Đồng thời phân bổ các cán bộ đồng đều và trải dài hầu
hết các tỉnh trên cả nước để đảm bảo khoa học công nghệ ngày càng phát triển và gần
gũi với con người trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Ba là, phát động phong trào quần chúng tiến quân ứng dụng khoa học, đồng thời
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh, áp dụng khoa học và công
nghệ vào mọi mặt của sản xuất, đời sống. 

Phát động phong trào ứng dụng những thành tựu là đem những gì đã được nghiên
cứu vào ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Nhưng hầu hết
là ở lĩnh vực giáo dục và nông nghiệp vì từ xa xưa người nông dân luôn lao động chân
tay ít khi áp dụng máy móc hoặc sử dụng các biện pháp nuôi trồng mới vì họ còn chưa
26
quen vẫn giữ quan niệm xưa cũ, về giáo dục thì ít áp dụng công nghệ vào gây cảm giác
nhàm chán cho học sinh chính vì thế cần phải thay đổi áp dụng hiệu quả khoa học
công nghệ vào giáo dục sẽ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như sự tiếp thu
bài của học sinh cũng cao hơn. Các phong trào thi đua tǎng nǎng xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy, làm việc trong toàn xã hội
bằng cách áp dụng các thành tựu công nghệ mới vào đã và đang được triển khai.
Thông qua đó các hình thức khen thưởng, cũng như là giá trị sản phẩm kiếm được
ngày càng cao sẽ là động lực giúp các hộ dân cố gắng dốc hết sức mình vào sản xuất.

Trong lĩnh vực giáo dục, nền công nghiệp 4.0 đã được chúng ta phát huy và kết
hợp giữa hình thức dạy học trực tiếp và trực tuyến để học sinh, sinh viên có thể tiếp
thu bài một cách hiệu quả nhất. Hiện nay việc truy cập lên internet là không quá xa lạ
đối với chúng ta đặc biệt là học sinh, sinh viên nên tiếp thu và phát huy điều này để
giúp cho việc học tập, tìm hiểu, nghiên cứu hiệu quả và chất lượng hơn.

Trong nông nghiệp, cấp vốn cho người dân vay để trang bị các máy móc hiện đại
như máy gặt, máy xới, máy cuốc, … để giảm bớt phần làm việc bằng chân tay đồng
thời tăng thêm năng suất, … Cung cấp cho người dân vốn hiều biết về mô hình
VietGAP không sử dụng thuốc hóa học làm giảm ô nhiễm môi trường cũng như chi
phí thu lại cao, có lợi cho sức khỏe người sử dụng, … Hầu như mô hình này khá ít
người làm vì tốn chi phí cũng như lạ lẫm. Thế nên cần phát động phong trào trồng cây
theo mô hình để tạo động lực cũng như vốn hiểu biết cho người dân.

Bốn là, tǎng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn vốn
trong nhiều lĩnh vực.

Vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ
ngày càng nhiều, nhưng vốn này không cần phải chịu thuế. Sở dĩ số vốn đầu tư ngày
càng nhiều là do Nhà nước nhận thấy rằng nền khoa học công nghệ là xu thế; nền khoa
công nghệ ngày càng phát triển thì kinh tế ngày càng phát triển; ứng dụng nền khoa
học công nghệ càng nhiều, năng suất và chất lượng ngày càng cao; chính vì thế cần
phải đầu tư đặc biệt là các thế hệ trẻ - các mầm non của đất nước. Khi nghiên cứu luôn
chú trọng các lĩnh vực đặc thù của Việt Nam để các ứng dụng được phát huy một cách
hiệu quả nhất.

27
Đầu tư cơ bản (hạ tầng nền tảng và giải pháp công nghệ lõi cho các cơ sở giáo
dục), chính sách huy động xã hội hóa, tạo cơ chế cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư,
triển khai công nghệ giáo dục cùng tham gia với nhà trường trong hoạt động giáo dục
đạo tạo; thực sự coi giáo dục là bộ phận của nền kinh tế tri thức, áp dụng một cách linh
hoạt, khoa học một số nguyên tắc và tiếp cận hoạt động của hình thái kinh tế chia sẻ;
Xây dựng các khung pháp lí phù hợp nhằm hỗ trợ thúc đẩy và đánh giá tính hiệu quả
các quá trình ứng dụng công nghệ trong giáo dục trước bối cảnh công nghiệp 4.0 hiện
nay.

Năm là, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.

Có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ
chức quốc tế; thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến nước ta hợp tác mở trường,
lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật, lập các cơ sở nghiên cứu khoa học
và chuyển giao những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại.

Sinh viên hiện nay luôn có những sáng kiến, ý tưởng về khoa học về công nghệ
chính vì thế mà giành được học bổng để được đi sang các nước trau dồi kiến thức, kinh
nghiệm và phát huy hết những tài năng của mình. Đây là một việc hết sức tự hào cho
thế hệ trẻ hiện nay nhưng nhà nước cũng lo ngại về tình trạng chảy máu chất xám.
Chính vì thế cần phải có chính sách, mức lương hợp lí cho những du học sinh có công
nghiên cứu khi trở về nước.

Ngoài ra, nhà nước luôn muốn phát triển công nghệ, kết hợp việc đẩy mạnh có
chọn lọc nhập khẩu công nghệ để kết hợp với công nghệ nội sinh nhanh chóng nâng
cao trình độ sinh nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ các ngành có lợi thế cạnh
tranh, có tỉ trọng lớn trong GDP như phát triển công nghệ cao nhất là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học hay công nghệ vật liệu mới.

Sáu là, tǎng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm

Một trong những điều lo lắng hiện nay đó chính là môi trường vì nếu một khi gọi
là thành tựu khoa học công nghệ thì cần phải đảm bảo là được ứng dụng và hạn chế
đến mức tối thiểu nhất việc ô nhiễm môi trường cũng như là ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe người sử dụng. Chính vì thế cần phải tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ

28
và chất lượng sản phẩm, không để sai sót về chất lượng hay gây ra tình trạng ô nhiễm
môi trường cao hơn lúc đầu.

Vì vậy cần có ngăn chặn kịp thời và đình chỉ sản xuất lưu thông hàng giả, hàng
kém chất lượng, các hình thức sản xuất gây ô nhiễm môi trường, có hại cho sức khỏe
đối tượng sử dụng. Tuyên truyền các tác hại cho người tiêu dùng biết cũng như cách
nhận biết và phòng tránh một cách hiệu quả, báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền nếu
phát hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường quá mức hoặc phát hiện, nghi ngờ những
nhà máy, phân xưởng không sản xuất sản phẩm đúng chất lượng như đã ghi trên sản
phẩm hoặc sử dụng nguyên liệu không rõ nguồn gốc ảnh hưởng đến sức khỏe người sử
dụng.

Về phía ban kiểm soát chất lượng cần tiến hành nghiêm ngặt công tác thanh tra,
kiểm tra môi trường sinh thái. Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ
sạch. Ngǎn ngừa và sử lý nghiêm các trường hợp nhập và sử dụng các công nghệ gây ô
nhiễm môi trường. Có biện pháp phạt nặng để rang đe cho các doanh nghiệp để giảm ô
nhiễm môi trường cũng như là bảo vệ sức khỏe con người.

Tất cả các dự án đầu tư, các quy hoạch phát triển sản xuất, quy hoạch đô thị, khu
công nghiệp đều phải thực hiện nghiêm chỉnh báo cáo đánh giá tác động môi trường và
phải có một phần vốn đầu tư cho các giải pháp bảo vệ môi trường.

Bảy là, đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và công nghệ.

Kiểm soát nguồn vốn đầu tư vào khoa học công nghệ và lợi ích thu được. Nếu
hiệu quả thì tiếp tục phát huy, không hiệu quả thì cần triển khai phương án khác giúp
phát huy một cách triệt để nhất năng suất và chất lượng sản phẩm. Nhằm mục đích để
phát triển khoa học tự nhiên theo hướng cần tập trung nghiên cứu cơ bản là định
hướng các ứng dụng đặc biệt là vào những lĩnh vực nước ta có nhu cầu và có thế
mạnh. Có chính sách đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên
quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới của khoa học và công
nghệ để từ đó đưa ra được một chiến lược đúng đắng trong việc ứng dụng vào các
ngành kinh tế xã hội, khai thác sử dụng một cách hợp lí và bảo vệ tài nguyên của quốc
gia.

29
Tiếp thu nhiều ý kiến phản hồi về những tiêu cực của khoa học công nghệ cũng
như hiệu quả để có thể khắc phục tiêu cực và phát huy tích cực nhằm mục đích ngày
càng nâng cao chất lượng và năng suất. Nhà nước đưa ra các phương án, chính sách hỗ
trợ cho người dân ứng dụng khoa học công nghệ đồng thời cùng nhau đồng hành, giúp
đỡ khi cần thiết, đưa ra những kiến thức, vốn hiểu biết cho người dân.

Tám là, đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức khoa
học và công nghệ.

Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ cập tri thức khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, khoa học xã hội và nhân vǎn nói chung, những hiểu biết thường thức về khoa
học tự nhiên và công nghệ, bảo vệ môi trường trong nhân dân, đặc biệt là vùng nông
thôn, vùng núi, vùng dân tộc ít người, hình thành lối sống vǎn minh và sự lành mạnh
của môi trường xã hội.

Nhà nước luôn luôn mở rộng vòng tay người dân có nhu cầu ứng dụng thành tựu
khoa học công nghệ vào sản xuất, mở lớp hướng dẫn về vai trò và lợi ích của thành tựu
khoa học công nghệ đối với người dân giúp nâng cao vốn hiểu biết của người dân và
định hướng việc làm.

Phát triển và quản lý tốt mạng lưới thu thập, xử lý thông tin về khoa học và công
nghệ nước ngoài, ứng dụng một cách có hiệu quả thành tựu khoa học công nghệ. Và
đặc biệt đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ về các thành tựu khoa học công nghệ.

Trong giáo dục, Nhà nước luôn có những chính sách khen thưởng những học
sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc trong việc học tập, đặc biệt là nghiên cứu khoa
học công nghệ. Thậm chí trao học bổng cho những nghiên cứu có ứng dụng hiệu quả
một số lĩnh vực để nghiên cứu sinh tiếp tục phát huy và đóng góp cho nền khoa học
công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại hơn.

Chín là, tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ

Đổi mới và tǎng cường sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định làm cho khoa
học và công nghệ trở thành nền tảng và động lực mạnh mẽ của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Khoa học và công nghệ là một bước phát triển mạnh mẽ và
có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, giáo dục, quốc phòng, …

30
Các cấp đảng ủy từ trung ương đến cơ sở ngày càng phát huy vai trò trong điều
phối định hướng việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ có một cách hiệu quả
nhất.

Đảng bộ các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ, các cơ sở đào tạo có
trách nhiệm phát triển đảng sâu rộng trong đội ngũ trí thức, đặc biệt đối với những nhà
khoa học nghành đầu và những trí thức trẻ để góp phần làm sáng tỏ hơn những nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; giải đáp
những vấn đề về kinh tế thị trường; xây dựng Nhà nước pháp quyền; phát triển con
người và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới.

31
3. KẾT LUẬN

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội về chất là tạo ra một kiểu xã hội mới cũng chính là xu thế tất yếu của thời đại. Chủ
nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển trên cơ sở sản xuất công nghiệp trình độ cao.
Tuy nhiên, phải mất nhiều thời gian để tổ chức, sắp xếp lại, quản lý và chỉnh đốn nền
công nghiệp cho phù hợp với điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam trước
kia chưa thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến lên chủ nghĩa xã
hội, thời kỳ quá độ có thể bị kéo dài với nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong công cuộc đó, nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước trong phát triển khoa học và công nghệ, Việt Nam đã đạt được những thành công
trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Những thành tựu đó đã góp
phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững và ổn định. Mặt
khác, bên cạnh những thành tựu, hoạt động khoa học và công nghệ nước ta vẫn còn
nhiều khó khăn, thách thức, cần được đầu tư phát triển hơn nữa để tiếp tục có những
đóng góp thiết thực vào việc thúc đẩy cùng nhau phát triển, tiến tới phát triển mạnh mẽ
khoa học công nghệ, biến khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

32
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB:
Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Bộ Giáo dục và đào tạo. (2006). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB:
Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Nguyễn Linh Khiếu. (30/09/2015). Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
theo tinh thần Đại hội XI của Đảng. Truy cập từ:
tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-
dang/qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-theo-tinh-than-dai-hoi-xi-cua-
dang-pgs-ts-nguyen-linh-khieu-tap-862
4. Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội…(10/04/2014). Truy cập từ:
https://123docz.net/document/2431873-tieu-luan-phan-tich-quan-diem-cua-chu-
nghia-mac-lenin-ve-thoi-ki-qua-do-len-chủ nghĩa xã hội-dang-cong-san-viet-
nam-da-van-dung-quan-diem-nay-vao-thoi-ky-qua-do-l.htm
5. Lê Quốc Minh. (16/05/2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập từ:
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-
nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305
6. Công nghiệp hóa hiện đại hóa trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Truy cập từ https://khotrithucso.com/doc/p/cong-nghiep-hoa-hien-dai-
hoa-trong-thoi-ki-qua-do-len-chu-215912
7. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học, công nghệp
và đổi mới sáng tạo. Truy cập từ https://nhandan.vn/dang-va-cuoc-song/ay-
manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-tren-nen-tang-khoa-hoc-cong-nghe-va-
doi-moi-sang-tao-641488/
8. Nguyễn Quý Thanh - Tôn Quang Cường. (13/10/2020). Những xu thế mới của
công nghệ trong giáo dục. Truy cập từ: http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-
doi/dai-hoc-40/nhung-xu-the-moi-cua-cong-nghe-trong-giao-duc-6543

33

You might also like