You are on page 1of 251

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Bản thảo Giáo trình

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN


CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Các thành viên tham gia:


1. PGS.TS. Đinh Thế Định
2. PGS.TS. Trần Viết Quang
3. TS. Vũ Thị Phương Lê
4. Ths. Phan Văn Bình
5. Ths. Nguyễn Thị Diệp
6. Ths. Nguyễn Thị Hải Yến
7. TS. Phạm Thị Bình

NGHỆ AN, THÁNG 9/2017

0
1
LỜI MỞ ĐẦU

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Trường Đại
học Vinh đã xây dựng và phát triển chương trình đào tạo theo CDIO nhằm
phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên tất cả các ngành đào tạo đại học
chính quy.
Trong chương trình các ngành đào tạo cử nhân và kỹ sư đều có học phần
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để góp phần thực hiện
nhiệm vụ giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên - đội ngũ trí thức trẻ, nguồn
nhân lực chất lượng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên cơ sở mục tiêu đào tạo và chuẩn đầu ra của chương trình, chúng
tôi biên soạn Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nội dung của Giáo trình được cấu trúc thành 3 phần, 9 chương:
Chương mở đầu: Nhập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin
Phần thứ nhất: Thế giới quan, phương pháp luận triết học Mác- Lênin
Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chương 2: Phép biện chứng duy vật
Chương 3: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Phần thứ hai: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Chương 4: Học thuyết giá trị
Chương 5: Học thuyết giá trị thặng dư
Chương 6: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước
Phần thứ ba: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội

1
Chương 7: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa
Chương 8: Những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chương 9: Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
Nội dung của Giáo trình nhằm trang bị cho sinh viên những quan điểm
cơ bản, mang tính chân lý bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin trong ba bộ
phận lý luận cơ bản cấu thành nó. Trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và
lý tưởng cách mạng cho sinh viên; hướng dẫn các em vận dụng sáng tạo
những quan điểm cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng
đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

2
Chương mở đầu. NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
GIỚI THIỆU
Chương mở đầu giới thiệu khát quát về chủ nghĩa Mác - Lênin và một số
vấn đề chung của môn học.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương mở đầu sẽ giúp người học:
- Nhận biết được khái lược về chủ nghĩa Mác – Lênin, ba bộ phận cấu
thành, sự ra đời và phát triển.
- Nắm được đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.1:
- Nhận biết khái lược về chủ nghĩa Mác - Lênin: khái niệm, 3 bộ phận
cấu thành, sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Nắm được đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin.
G5: Hình thành ý thức tự giác trong học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin.
GIỚI THIỆU
Chương mở đầu giới thiệu khát quát về chủ nghĩa Mác - Lênin và một số
vấn đề chung của môn học.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương mở đầu sẽ giúp người học:
- Nhận biết được khái lược về chủ nghĩa Mác – Lênin, ba bộ phận cấu
thành, sự ra đời và phát triển.
- Nắm được đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin.

3
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.1:
- Nhận biết khái lược về chủ nghĩa Mác - Lênin: khái niệm, 3 bộ phận
cấu thành, sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Nắm được đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin.
G5: Hình thành ý thức tự giác trong học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
GIỚI THIỆU
Chương mở đầu giới thiệu khát quát về chủ nghĩa Mác - Lênin và một số
vấn đề chung của môn học.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương mở đầu sẽ giúp người học:
- Nhận biết được khái lược về chủ nghĩa Mác – Lênin, ba bộ phận cấu
thành, sự ra đời và phát triển.
- Nắm được đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.1:
- Nhận biết khái lược về chủ nghĩa Mác - Lênin: khái niệm, 3 bộ phận
cấu thành, sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Nắm được đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin.
G5: Hình thành ý thức tự giác trong học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và ba bộ phận cấu thành

4
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học
của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin, được hình thành và
phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực
tiễn thời đại, là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa
học và thực tiến cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô
sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải
phóng con người.
Với ý nghĩa như vậy, nội dung của Chủ nghĩa Mác – Lênin bao quát các
lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn mang nhiều giá trị khoa học và thực tiễn bao
gồm: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác – Lênin và Chủ nghĩa xã
hội khoa học. Đây là 3 bộ phận lí luận cơ bản, có đối tượng nghiên cứu cụ thể
khác nhau nhưng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Cụ thể:
- Triết học Mác - Lênin là bộ phận lí luận nghiên cứu những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới
quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn
cách mạng.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã
hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn
của phương thức sản xuất TBCN và sự ra đời, phát triển của phương thức sản
xuất mới – phương thúc sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới
quan, phương pháp luận Triết học và Kinh tế chính trị Mác - Lênin vào
nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ CNTB lên CNXH và tiến tới
CNCS.
Cả 3 bộ phận lý luận này đều nằm trong một hệ thống lí luận khoa học
thống nhất – đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải
phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng
con người.

5
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Bao gồm 2 giai đoạn chính:
- Giai đoạn hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác: Do C.Mác và Ph.
Ăngghen thực hiện;
- Giai đoạn bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác –
Lênin: Do Lênin thực hiện.
a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
+ Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất TBCN trong điều
kiện cách mạng công nghiệp.
Chủ nghĩa Mác ra đời vảo những năm 40 của thế kỉ XIX. Đây là thời kỳ
phương thức sản xuất TBCN ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ và
được củng cố vững chắc trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp được
thực hiện trước tiên ở nước Anh (Cuối tkỷ 18 - đã hoàn thành cuộc cách mạng
công nghiệp và trở thành nước công nghiệp lớn nhất, Pháp đang đi vào giai
đoạn hoàn thành, Đức: Cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho nền sản
xuất xã hội phát triển mạnh ngay trong lòng xã hội phong kiến. Nhận định về
sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp như vậy, C.Mác và Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản,
trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy 1 thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng
sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
kia gộp lại”.
Cuộc cách mạng công nghiệp này đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản
xuất thủ công TBCN sang nền sản xuất đại chủ nghĩa tư bản và làm thay đổi
sâu sắc cục diện xã hội, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của gc vô sản.
+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách 1 lực
lượng chính trị - xã hội độc lập;
Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với
quan hệ sản xuất mang tính TBCN đã bộc lộ qua:
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825;

6
+ Hàng loạt cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.
Đó là những bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một
lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ,
công bằng và tiến bộ xã hội. Trong hoàn cảnh đó, giai cấp tư sản không còn
đóng vai trò là giai cấp cách mạng - không còn là lực lượng cách mạng trong
quá trình cải tạo dân chủ như trước. VD: ở Anh và Pháp, còn giai cấp tư sản
Đức: Mơ ước biến đổi nền quân chủ PK Đức thành nền dân chủ tư sản 1 cách
hòa bình - thỏa hiệp, cải lương…).
Thực tiễn lịch sử ấy vừa đặt ra yêu cầu khách quan là nó cần phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học, mặt khác thực tiễn cách mạng đó chính là
mảnh đất hiện thực cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng:
Triết học theo cách nói của Hêghen là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng.
Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của CNTB đặt ra đã được phản
ánh bởi tư duy lý luận từ những giai cấp, lập trường tư tưởng khác nhau, làm
hình thành những học thuyết với tính cách là một hệ thống những quan điểm
lý luận về triết học, kinh tế và chính trị - xã hội khác nhau - các trào lưu như:
Chủ nghĩa xã hội phong kiến”, “Chủ nghĩa xã hội tư sản”, “Chủ nghĩa xã hội
tiểu tư sản”,…
Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình
thành lý luận tiến bộ và cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan
cách mạng của giai cap cách mạn triệt để nhất trong lịch sử, do đó, kết hợp
một cách hữu cơ tính cách mạng và tính khoa học trong bản chất của mình;
nhờ đó mới có khả năng giải đáp bằng lý luận những vấn đề của thời đại đặt
ra. Lý luận đó được sang tạo nên bởi C.Mác và Ph. Ăngghen, trong đó, triết
học đóng vai trò là cơ sở lý luận chung - cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận.
- Tiền đề lý luận:

7
+ Triết học cổ điển Đức: Đặc biệt là G.W.Ph.Hêghen và L.phoiơbắc đã
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã từng là những người theo học thuyết triết học
của G.W.Ph.Hêghen. Sau này cả khi đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của triết học
Hêghen, các ông vẫn đánh giá cao công lao cuả Hêghen. Công lao của
Hêghen: Phê phán PP siêu hình và diễn đạt được nội dung của phép biện
chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua một hệ thống các khái niệm,
phạm trù. Trên cơ sơ phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học
Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa (cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí) phép
biện chứng của ông - “hạt nhân hợp lý” để xây dựng nên phép chủ nghĩa duy
vật.
Đối với L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán nhiều hạn chế
của cả về phươn g pháp, cả về quan điểm, nhất là những quan điểm liên quan
đến các vấn đề xã hội của L.Phoiơbắc. Nhưng 2 ông cũng đánh giá cao vao
trò tư tưởng của L.Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm,
tôn giáo và khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn, không
phụ thuộc vào ý thức của con người. Chủ nghĩa duy vật, vô thần của
L.Phoiơbắc đã tạo tiền đề quan trọng – suối lửa, cho bước chuyển của C.Mác
và Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật – một tiền
đề lý luận của quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ - cách mạng
sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
+ Kinh tế chính trị cổ điển Anh: Chủ yếu là A.Xmit và Đ.Ricacđô đã góp
phần tích cực vào quá trình hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của chủ
nghĩa Mác.
Cụ thể: Hai ông đã mở đầu xây dựng lí luận về giá trị của lao động trong
lĩnh vực nghiên cứu kinh tế chính trị học. Các ông đã đưa ra những kết luận
quan trọng về giá trị và và nguồn gốc của lợi nhuận, về tính chất quan trọng
hàng đầu của của quá trình sản xuất vật chất, về những qui luật kinh tế khách
quan. Song do những hạn chế về phương pháp nghiên cứu nên hai ông đã

8
không thấy được tính lịch sử của giá trị, không thấy được mâu thuẫn của hàng
hóa và sản xuất hàng hóa, không thấy được tính 2 mặt của lao động sản xuất
hàng hóa cũng như không phân biệt được sản xuất hàng hóa giản đơn với sản
xuất hàng hóa TBCN, chưa phân tích được chính xác những biểu hiện của giá
trị trong phương thức sản xuất TBCN.
Kê thừa những giá trị khoa học trong lí luận về giá trị lao động và những
tư tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, C.Mác đã giải
quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh té chính trị cổ điển Anh không
thể vượt qua được để xây dựng nên lí thuyết về giá trị thặng dư, luận chứng
khoa học về bản chất bóc lột của CNTB và nguồn gốc kinh tế dẫn đến sự diệt
vong tất yếu của CNTB cũng như sư ra đời tất yếu của CNXH.
+ CNXH không tưởng: Có một quá trình ra đời và phát triển lâu dài mà
đỉnh cao là vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng vĩ đại
như H.XanhXimông, S.Phuriê và R. Ôoen. Giá trị của CNXH không tưởng là
thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ CNTB trên cơ sở
vạch trần cảnh khốn cùng của người lao động trong nền sản xuất TBCN và
đưa ra nhiều quan điểm sâu sắc về quá trình phát triển của xã hội loài người
cũng như những dự đoán về đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Nhưng
CNXH không tưởng đã không luận chứng được một cách khoa học về bản
chất của CNTB, không phát hiện được qui luật phát triển của CNTB và không
nhận thức được vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân với tư cách là lực
lượng xã hội có khả năng xóa bỏ CNTB để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Mặc
dù còn những hạn chế lịch sử nhưng CNXH không tưởng đã trở thành một
tiền đề lí luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về CNXH trong
chủ nghĩa Mác.
- Tiền đề khoa học Tự nhiên:
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự
nhiên là những tiền đề cho sự ra đời triết học Mác. Điều đó được cắt nghĩa bởi
mối liên hệ khăng khít giữa triết học và khoa học nói chung, khoa học tự
nhiên nói riêng. Sự phát triển tư duy triết học phải trên cơ sở tri thức do các

9
khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, như Ăngghen đã chỉ rõ, mỗi khi khoa học có
những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể
không thay đổi hình thức của nó.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh
với nhiều phát minh quan trọng. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên
làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình
trong việc nhận thức thế giới. Phương pháp tư duy siêu hình nổi bật ở thế kỷ
XVII và XVIII đã trở thành một trở ngại lớn cho sự phát triển khoa học. Khoa
học tự nhiên không thể tiếp tục nếu không “ từ bỏ tư duy siêu hình mà quay
trở lại với tư duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác” (C.Mác và Ph.
Ăngghen). Mặt khác, những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã cung cấp
cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng thoát khỏi tính chất tự
phát của phép biện chứng thời cổ đại, đồng thời thoát khỏi vỏ thần bí của
phép biện chứng duy tâm.
+ Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: Đã chứng minh khoa
học về sự không tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn các
hình thức vận động của vật chất.
+ Thuyết Tiến hóa: Đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển
đa dạng bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giưa các loài thực
vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
+ Thuyết Tế bào: Là một căn cứ khoa học chứng minh sự thống nhất về
mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và
giải thích quá trình phát triển trong mối liên hệ của chúng.
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất
giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong
tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động
và phát triển của nó.
Đây là những thành tựu to lớn của khoa học tự nhiên bác bỏ tư duy siêu
hình và quan điểm thần học về vai trò của Đấng sáng tạo, khẳng định tính
đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế giới vật chất là vô cùng,

10
vô tận, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hóa; khẳng định tính khoa học của
tư duy biện chúng duy vật trong nhận thức và thực tiễn.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời như 1 tất yếu lịch sử không
những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công
nhân, đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự ra
đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
B. Giai đoạn hình thành và phát triển của CN Mác
Có thể chia làm 2 thời kỳ: + 1842-1843 đến 1847 -1848
+ 1849 đến 1895
Những tác phẩm tiêu biểu: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844
(C.Mác, 1844), Gia đình thần thánh (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845), Luận
cương về Phoiơbắc (C.Mác,1845), Hệ tư tưởng Đức (C.Mác và Ph.Ăngghen,
1845-1846)… Sự khốn cùng của triết học (C.Mác,1847), Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1848)… Trong các tác phẩm này,
nhiều quan điểm cơ bản như chỉ ra quy luật vận động của lịch sử, tư tưởng cơ
bản về lí luận hình thái kinh tế - xã hội… đã được thể hiện sâu sắc. Với những
quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu toàn diện phương
thức sản xuất TBCN, C.Mác đã phát hiện ra rằng: Việc tách những người sản
xuất nhỏ khỏi tư liệu sản xuất bằng bạo lực là khởi điểm của sự xác lập
phương thức sản xuất TBCN… giá trị lao động do công nhân làm thuê tạo ra
lớn hơn giá trị sức lao động của họ, hình thành nên giá trị thặng dư nhưng nó
lại không thuộc về người công nhân mà nó lại thuộc về người nắm giữ tư liệu
sản xuất – thuộc về nhà tư bản. Như vậy, bằng việc tìm ra nguồn gốc của việc
hinh thành giá trị thặng dư, C.Mác đã chỉ ra bản chất của sự bóc lột TBCN, dù
cho bản chất này đã bị che đậy bởi quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Lý luận về giá trị thặng dư được Mác và Ăngghen nghiên cứu, trình bày
sâu sắc trong bộ Tư bản - tác phẩm không chỉ mở đường cho sự hình thành hệ
thống lý luận kinh tế chính trị mới trên lập trường gc vô sản mà còn củng cố,

11
phát triển quan điểm duy vật lịch sử một cách vững chắc thông qua lí luận về
hình thái kinh tế -xã hội; làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và diệt
vong tất yếu của CNTB, sự thay thế CNTB bằng CNXH… Những tư tưởng
duy vật về lịch sử, về CM vô sản được tiếp tục phát triển trong Phê phán
cương lĩnh Gôta của C.Mác năm 1875 như: Vấn đề về nhà nước chuyên chính
vô sản, về thời kỳ quá độ lên CNXH,… là cơ sở khoa học cho lí luận cách
mạng của giai cấp vô sản trong các hoạt động hướng đến tương lai.
C, Giai đoạn bảo vệ và phát triển CN Mác:
- Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ CN Mác:
+ Giai đoạn CN Đế quốc
+ Khoa học tự nhiên phát triển và sự khủng hoảng về thế giới quan ở một
số nhà khoa học, đặc biệt là vật lí học đã bị chủ nghĩa duy tâm lợi dụng, gây
ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào cách mạng cả trong nhận thức và trong
hành động.
+ Chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Do vậy, để bảo
vệ địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại… đã nhân danh
đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Bối cảnh ấy đặt ra nhu cầu phải phân tích, khái quát các thành tựu mới
của khoa học tự nhiên nhằm tiếp tục phát triển thế giới quan và phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác, phải thực hiện cuộc đấu tranh lí luận để
chống sự xuyên tạc và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong tình hình mới.
- Vai trò của Lênin: 3 thời kỳ
+ 1893-1907: Đấu tranh chống phái dân túy (hệ tư tưởng tư sản duy tâm
như: Mikhailôpxki, Bacumin, Plêkhanốp) – Tác phẩm Những “người bạn dân
là thế nào” và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?
1894; Làm gì? 1902; Hai sách lược của đảng dân chủ - xã hội trong CM dân
chủ 1905…
+ 1907-1917: Cuộc khủng hoảng về thế giới quan – phái Makhơ (nhà vật
lí học và triết học duy tâm người Áo) – Tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ

12
nghĩa kinh nghiệm phê phán, 1909; Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành
chủ nghĩa Mác,1913; Bút kí triết học, 1914-1916; Nhà nước và cách mạng,
1917…
+ Cách mạng Tháng Mười Nga thành công 1917: Bệnh ấu trĩ “tả
khuynh” trong phong trào cộng sản, 1920; Về chính sách kinh tế mới, 1921,
Bàn về thuế lương thực, 1921…
D, Chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP,
NGHIÊN CỨU MÔN HỌC “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC
– LÊNIN”
1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu:
- Đối tượng: Những quan điểm cơ bản, nền tảng và mang tính chân lí bền
vững của chủ nghĩa Mác- Lênin trong phạm vi 3 bộ phận cấu thành của nó.
- Mục đích: Nắm vững những quan điểm cách mạng, khoa học và nhân
văn của chủ nghĩa Mác- Lênin, hiểu tốt cơ sở lí luận quan trọng nhất của tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền
tảng tư tưởng của Đảng ta; trên cơ sơ đó xây dựng thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lý
tưởng cách mạng, vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức đáp ứng yêu cầu của con người VN
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập và nghiên cứu
- Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; chống xu hướng kinh
viện, giáo điều.
- Học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin cần
phải đặt chúng trong mối liên hệ với các luận điểm khác, ở các bộ phận cấu
thành khác để thấy sự thống nhất trong tính đa dạng và nhất quán của mỗi tư
tưởng nói riêng, của toàn bộ Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung.

13
- Cần phải gắn những luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin với thực
tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại để thấy sự vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác - Lênin của Bác Hồ và Đảng ta đã thực hiện trong từng giai
đoạn lịch sử.
- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin cũng là quá trình tự giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng rèn luyện…
- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin đồng thời cũng là quá trình nghiên cứu, tổng kết, đúc kết kinh nghiệm
góp phần phát triển tính khoa học, tính nhân văn của nó và đặt nó trong dòng
chảy của lịch sử tư tưởng nhân loại trong điều kiện lịch sử mới.
NỘI DUNG ÔN TẬP
Ôn tập toàn bộ nội dung đã học, tập trung nghiên cứu khái niệm, các bộ
phận cấu thành; sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác– Lênin; đối tượng,
yêu cầu về phương pháp học tập môn học; ghi chép những vấn đề trọng tâm
để khắc sâu kiến thức cơ bản.

14
Phần thứ nhất
THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Chương I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
GIỚI THIỆU
Chương 1 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 1 giúp người học:
- Nhận biết được triết học và các trường phái cơ bản của triết học.
- Hiểu được vấn đề cơ bản của triết học, sự đối lập giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học;
chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật
- Phân tích được quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật
chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
-Vận dụng được nguyên tắc phương pháp luận: tôn trọng tính khách
quan của vật chất đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của ý thức
trong mọi hoạt động.
- Có thái độ tôn trọng các quy luật khách quan, ngăn ngừa thái độ chủ
quan duy ý chí trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Hình thành thế giới quan duy vật khoa học.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.2: Nhận biết được về:
- Triết học.
- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Nguồn gốc và các hình thức của CNDV và CNDT.
- Phái khả tri và bất khả tri trong triết học.
G2.1: Hiểu được những nội dung cơ bản: Vấn đề cơ bản của triết học; các
quan điểm về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
G3.1: Phân tích được quan điểm của CNDVBC về vật chất, mối quan hệ giữa

15
vật chất và ý thức.
G4.1: Vận dụng được nguyên tắc phương pháp luận: tôn trọng tính khách
quan của vật chất đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của ý thức
trong mọi hoạt động.
G5.1: Có thái độ tôn trọng các quy luật khách quan, ngăn ngừa thái độ chủ
quan duy ý chí trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
G6: Trang bị thế giới quan duy vật biện chứng cho người học.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Sự đối lập giữa CNDV và CNDT trong việc giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học
- Triết học: Là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới
và về vị trí của con người trong thế giới đó; nó đã có một lịch sử ra đời và
phát triển trên hai ngàn năm trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
- Ăngghen khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại”, giữa ý thức và
vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên”.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau?
Cái nào quyết định cái nào?
+ Thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
- CNDV: Bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là
tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức của con người được
gọi là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau
của chủ nghĩa duy vật.
- CNDT: Bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là
tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất được gọi là các nhà duy tâm; học
thuyết của họ hợp thành những môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
CNDT có 2 hình thức cơ bản:

16
+ CNDT chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người – mọi
sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác” của cá nhân.
+ CNDT khách quan: cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tinh thần
nhưng ý thức, tinh thần ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức
khách quan có trước và độc lập với giới tự nhiên và con người – thực thể ấy là
“ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối” hay “lí tính của thế giới”…
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là:
Sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính
nào đó của quá trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt khác, CNDT và tôn giáo
cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng
tồn tại và phát triển.
Còn CNDV có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, gắn
với lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. CNDV đã phát
triển qua nhiều giai đoạn và với nhiều hình thức khác nhau – hình thức cao
nhất là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2. CNDVBC – hình thức phát triển cao nhất của CNDV
- CNDV chất phác: Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại.
- CNDV siêu hình: Thế kỷ XV đến XVIII và đạt đỉnh cao vào thế kỷ
XIX
- CNDCBC: Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý
THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.Vật chất
a. Phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2.500
năm. Ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc
đấu tranh không khoan nhượng giữa CNDV và CNDT. Đồng thời, giống như

17
mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn
liền với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người
về giới tự nhiên.
- Thời cổ đại:
+ Lý thuyết Ngũ hành của TQ: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ - những tố chất
vật chất đầu tiên của thế giới.
+ Phái Nyaya Vaisêsika ở Ana Độ: Anu - cơ sở vật chất đầu tiên của thế
giới.
+ Phái Mile ở HiLap: nước - Talet, không khí - Anaximen…
Đỉnh cao của của tư tưởng duy vật cổ đại về vật chất là thuyết nguyên tử
của Lơxíp và Đêmôcrít. Nguyên tử là các phần tử cực nhỏ, cứng , không thể
xâm nhập được, không cảm giác được. Nguyên tử có thể nhận biết được bằng
tư duy. Nử có nhiều loại. Sự kết hợp hoặc tách rời ntử theo trật tự khác nhau
của không gian tạo nên toàn bộ thế giới. Thuyết nguyên tử tuy còn mang tính
chất chất phác nhưng phỏng đoán thiên tài ấy về cấu tạo vật chất đã có ý
nghĩa định hướng đối với lịch sử phát triển khoa học nói chung, đặc biệt là vật
lý học khi phát hiện ra sự tồn tại hiện thực của nt.
- Thời Cận đại ở Tây Âu (XVII-XVIII):
Các nhà triết học như Ph.Bêcơn, Đ.Điđrô, R. Đêcáctơ, T.Hôpxơ… vẫn
quan niệm về vật chất như các nhà triết học cổ đại, chứ chưa có thay đổi căn
bản nào – họ còn tiếp tục đi sâu nghiên cứu cấu trúc vật chất của giới tự nhiên
trong sự biểu hiện cụ thể cảm tính của nó.
Tuy vậy, khoa học thời kỳ này chỉ có cơ học cổ điển phát triển nhất, còn
các ngành khoa học khác như vật lý học, hóa học, sinh học, địa chất học…
còn ở trình độ thấp. Khoa học chủ yếu còn dừng lại ở trình độ sưu tầm, mô tả.
Tương ứng với trình độ trên của khoa học thì quan điểm thống trị trong triết
học và khoa học tự nhiên thời kỳ này là quan điểm siêu hình máy móc. Quan
điểm đó đã chi phối những hiểu biết triết học về vật chất. Niềm tin vào các
chân lý trong cơ học Nưutơn đã khiến các nhà khoa học đồng nhất vật chất
với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ

18
học, nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất. Kế thừa quan điểm nguyên tử
luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi nguyên tử là phần tử nhỏ
nhất, không thể phân chia được, tách rời nguyên tử với vận động, không gian
và thời gian…
Những quan niệm trên tuy có những ưu điểm nhất định nhưng về cơ bản
vẫn còn nhiều hạn chế: Không hiểu chính xác bản chất của các hiện tượng ý
thức cũng như mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, không có cơ sở để xác
định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không có cơ
sở để đứng vững trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội…
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Phát minh của Rơnghen, Beccơren,
Tômxơn… đã bác bỏ quan niệm của các nhà duy vật về những chất được coi
là “giới hạn tột cùng”, từ đó dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong
lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. CNDT đã lợi dụng cơ hội này.
+ Năm 1895, Rơnghen đã phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có
bước sóng từ 0,01 đến 100.10-8cm.
+ Năm 1896, Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan
niệm về sự bất biến của nguyên tử.
+ Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử
là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần
đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã được chứng
minh bằng thực nghiệm.
+ Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là khối lượng tĩnh, mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động
của điện tử => Con người có những hiểu biết căn bản hơn, sâu sắc hơn về
nguyên tử.
Những phát minh của Rơnghen, Beccơren, Tômxơn… là bước tiến mới
của loài người trong việc nhận thức và làm chủ giới tự nhiên, nó đã bác bỏ
quan niệm siêu hình về vật chất. Những quan niệm đương thời về giới hạn tột
cùng của vật chất là nguyên tử hoặc khối lượng đã sụp đổ trước khoa học.
Vấn đề là ở chỗ, trong nhận thức lúc đó, các hạt điện tích và trường điện từ

19
được coi là cái gì đó phi VC. Đây chính là mảnh đất để CNDT lợi dụng. Họ
cho rằng “vật chất” của CNDV biến mất, nền tảng của CNDV đã sụp đổ.
- Trong hoàn cảnh đó, Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa
học tự nhiên (cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20) và chỉ rõ rằng vật chất không bị
tiêu tan, CNDV không bị bác bỏ. Cái bị tiêu tan, bị bác bỏ chính là giới hạn
hiểu biết trước đây về vật chất, là quan điểm siêu hình, máy móc trong nhận
thức khoa học cho rằng giới tự nhiên có tận cùng về cấu trúc, rằng giới hạn
cuối cùng, bất biến của gới tự nhiên là nguyên tử hoặc khối lượng… Từ đó,
Lênin kết luận “Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự nhiên là vô tận”.
Đồng thời, từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống CNDT, Người đã vạch rõ ý
đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của các nhà triết học duy
tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển
về vật chất.
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Theo định nghĩa trên:
+ Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù
triết học - phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi
tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học - với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành – khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những
biểu hiện cụ thể của thế giới tự nhiên hay xã hội.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô
hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất
khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển
hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể,
không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất
như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại và cận đại đã làm.

20
+ Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất
được khái quát trong phạm trù vật chất của CNDV biện chứng là thuộc tính
tồn tại khách quan (thực tại khách quan), tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý
thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người
có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
+ Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây
nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác
quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn
vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Ý nghĩa:
+ Bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất là
thuộc tính tồn tại kháh quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa
khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm vật chất với
tư cách là phạm trù của các khoa học chuyên ngành (vật lí học, hóa học, sinh
học,,,). Từ đó khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của
CNDV cũ, cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc
về VC; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử,
khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về xã hội.
+ Khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan” “được đem lại cho
con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh”, Lênin không những khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ
hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng của con
người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp
lại, phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan.
b, Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:
Trong triết học, bàn về phạm trù vật chất luôn gắn liền với việc bàn tới
các phạm trù liên quan tới sự tồn tại của nó. Đó là phạm trù vận động, không
gian và thời gian. Những phạm trù trên xuất hiện sớm trong lịch sử triết học.
Cùng vớ thời gia, nội dung các phạm trù trên đã được làm phong phú, sâu sắc
thêm nhờ sự phát triển của các khoa học cụ thể. Nhưng khác với khoa học

21
chuyên biệt, triết học không n.cứu những biểu hiện cụ thể của các phương
thức tồn tại của vật chất mà chỉ làm sáng tỏ một số đặc trưng phổ quát nhát
của vận động trong không gian và thời gian.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
Quan điểm của Ph. Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, -
tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố
hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”-Vận động là
mọi sự biến đổi nói chung.
Theo Ph. Ăngghen, có 5 hình thức vận động cơ bản:
+ Vận động cơ giới
+ Vận động vật lý
+ Vận động hóa học
+ Vận động sinh học
+ Vận động xã hội
(Chú ý: Khoa học hiện đại đã phát hiện ra những hình thức tổ chức VC
mới, do đó đã phát hiện ra những hình thức mới của vận động. VD: Khoa học
đã chia hình thức vận động của vật chất thành 3 nhóm tương ứng với 3 lĩnh
vực của thế giới vật chất là nhóm thế giới vô sinh, nhóm hữu sinh và xã hội.
Đồng thời, khoa học phát triển còn phát triển và bổ sung về các hình thức vận
động cơ bản như mối quan hệ giữa vận động cơ học và vật lý, giữa vật lý và
hóa học, bản chất của vận động sinh học, mối quan hệ giữa quá trình vật chất
và tinh thần trong đời sống xã hội…). Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến,
chung nhất cho đến nay vẫn là chia vận động thành 5 hình thức cơ bản nêu
trên.
Các hình thức vận động trên được sắp xếp từ thấp đến cao, tương ứng
với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất
song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp
và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của

22
mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân
nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi bởi hình thức vận động cao nhất mà nó
có.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở
cho việc phân loại, phân ngành, hợp loại, hợp ngành khoa học.
* CNDV khẳng định vận động là “thuộc tính cố hữu của vật chất”, là
“phương thức tồn tại của vật chất”. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng
cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất
biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình, chỉ rõ mình là cái gì. Không thể có vật
chất không có vận động và ngược lại không thể có sự vận động nào lại không
phải là vận động của vật chất, không thuộc về vật chất.
*Với tính cách là “thuộc tính cố hữu của vật chất” theo quan điểm của
triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo
nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật
chất. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về vận
động. Họ không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong bản thân sự vật,
mà đi tìm nguồn gốc ở ngoài sự vật. Quan điểm về sự tự thân vận động của
vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên và
ngày càng được những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại khẳng
định quan điểm đó.
* CNDV không chỉ khẳng định vận động là “thuộc tính cố hữu của vật
chất”, là “phương thức tồn tại của vật chất” mà còn khẳng định vận động là
tuyệt đối và vĩnh viễn. Đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm
thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận
động. Vì:
Trước hết, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan
hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Ta nói con tàu
đứng im là trong mối quan hệ với bến cảng, còn so với mặt trời, các thiên thể
khác thì nó vận động theo vận động của quả đất. Thứ 2, đứng im chỉ xảy ra
với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với với mọi

23
hình thức vận động cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói vận động cơ
học, nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hóa học vẫn diễn ra
trong bản thân nó. Thứ 3, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động,
đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành
một sự vật, một cây, một con… trong khi nó còn chính là nó chưa bị phân hóa
thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự
chuyển hóa tiếp theo. Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào
cả. Do đó, đứng im còn được hiểu hiện như một quá trình vận động trong
phạm vi chất của sự vật còn ổn định chưa thay đổi. Thứ 4 là vận động cá biệt
có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận động nói
chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho
tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm thời.
“Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ
phá hoại sự cân bằng riêng biệt” và “ mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm
thời”.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các
mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên
trái…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được
gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá
trình biến đổi: Nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa… Những hình thức
tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ph. Ăngghen viết: “các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và
thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài
không gian”. Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau,
không có vật chất tồn tại ở ngoài không gian, thời gian cũng không có không
gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất vận động.

24
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên
không gian, thời gian cũng có những tính chất chung như những tính chất của
vật chất – đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
+ Không gian: Có 3 chiều - chiều cao, chiều rộng, chiều dài
+ Thời gian: Có 1 chiều - từ quá khứ đến tương lai
c, Tính thống nhất vật chất của thế giới
Nếu quan sát thế giới vật chất ta thấy, một mặt, các sự vật, hiện tượng
trong nó cực kỳ đa dạng, nhưng mặt khác, chúng lại gắn bó hết sức mật thiết
với nhau, phụ thuộc vào nhau và hoàn toàn thống nhất với nhau.
Trong lịch sử triết học, các trường phái duy vật có khuynh hướng chung
là đi tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới vật chất ngay trong bản thân nó.
Nhưng do ảnh hưởng của quan điểm siêu hình - máy móc nên chưa giải quyết
được 1 cách khoa học khuynh hướng trên. Họ cho rằng mọi hiện tượng của
thế giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau, thống nhất với
nhau, cùng bị chi phối bởi 1 số quy luật nhất định. Quan điểm đó không phản
ánh được tính nhiều vẻ, tính vô tận của Tg hiện thực nên tất yếu dẫn đến
CNDT. Các nhà duy tâm đi tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở “ý niệm
tuyệt đối” hoặc ở ý thức con người và khẳng định rằng sở dĩ thế giới là thống
nhất vì nó được người ta nghĩ về nó như cái thống nhất (Thực ra chỉ khi nào
bản thân các sự vật đã thống nhất với nhau rồi thì người ta mới nghĩ về nó
như cái thống nhất được, mặc dù tồn tại là tiền đề của sự thống nhất của nó
nhưng tính thống nhất thật sự của thế giới là tính vật chất của nó).
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của
khoa học, CNDVBC khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất
là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được
sinh ra và không mất đi.

25
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan,
thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật
chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và
cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới
vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết
quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống của
con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người.
Con người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất mà
chỉ có thể cải biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có của nó.
Sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm của triết học duy
tâm và tôn giáo tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới từ thần thánh, từ những
lực lượng siêu tự nhiên. Khoa học và triết học duy vật đã khẳng định rằng:
Thế giới xung quanh ta từ những vật vô cùng lớn đến vô cùng nhỏ, từ tự
nhiên đến xã hội, từ vô sinh đến hữu sinh, từ thực vật đến động vật, tuy rất
khác nhau, song đều có cùng bản chất vật chất và thống nhất ở bản chất vật
chất ấy. Tính thống nhất vật chất của thế giới bao hàm tính đa dạng, tính
muôn vẻ về chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
VD: Phát minh của khoa học tự nhiên như thuyết tế bào, định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa của các loài đã có ý nghĩa rất
lớn, phá bỏ ranh giới giả tạo do tôn giáo và CNDT tạo ra giữa quả đất và các
thiên thể, giữa thực vật và động vật, giữa các giống loài khác nhau, giữa vô
sinh và hữu sinh.
Những thành tựu của các ngành khoa học hiện đại đã và đang chứng
minh nguyên lý về sự thống nhất vật chất của thế giới bằng những thành tựu
mới trong vật lý học, hóa học, khoa học vũ trụ, khoa học sự sống… Những
thành tựu ấy làm sâu sắc thêm nhận thức của con người về thành phần, về kết
cấu của thế giới vật chất, về những đặc điểm hoạt động và phát triển của nó
trên các trình độ tổ chức khác nhau của vật chất.

26
Khoa học hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất và đã phân
chia các dạng vật chất khác nhau:
Trong giới tự nhiên vô sinh có 2 dạng vật chất cơ bản là chất và trường.
Chất là cái gián đoạn, được tạo ra từ các hạt , có khối lượng, có cấu trúc thứ
bậc từ nguyên tử cho đến các thiên thể cực kỳ lớn. Còn trường là môi trường
vật chất liên tục, không có khối lượng tĩnh. Trường làm cho các hạt của
nguyên tử liên kết với nhau, tác động với nhau và nhờ đó mà tồn tại được.
Ranh giới giữa chất và trường là tương đối, có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự phát hiện ra dạng chất và trường của vật chất và sự chuyển hóa của chúng
càng chứng tỏ không có không gian không có vật chất, không có vật chất dưới
dạng này thì lại có vật chất dưới dạng khác, không thể có thế giới không phải
vật chất nằm bên cạnh thế giới vật chất. Và cũng không chỉ hình dung thế giới
vật chất có quả đất, hệ mặt trời, hay một số thiên hà mà phải là toàn bộ quá
trình tổ chức vật chất từ các hệ thống thiên hà đến các vật thể vi mô.
Trong giới tự nhiên hữu sinh có các trình độ tổ chức vật chất là sinh
quyển, các axít nucleic (AND và ARN) và chất đản bạch. Sự phát triển của
sinh học hiện đại đã tìm ra được nhiều mắt khâu trung gian chuyển hóa giữa
các trình độ tổ chức vật chất, cho phép nối liền vô cơ, hữu cơ và sự sống. Vật
chất sống bắt nguồn từ vật chất không sống. Thực vật, động vật và cơ thể con
người có sự giống nhau về thành phần vô cơ, cấu trúc và phân hóa tế bào, cơ
chế di truyền sự sống…
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho CNDVBC có cơ sở
khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất và thông qua tính vật chất.
Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là cấp độ đặc
biệt của tổ chức vật chất. Xã hội là 1 bộ phận của thế giới vật chất, có nền
tảng tự nhiên, có kết cấu và quy luật vận động khách quan không phụ thuộc
vào ý thức con người. vật chất dưới dạng xã hội là kết quả hoạt động của con
người. Quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác - Lênin đã đóng góp
quan trọng trong việc chứng minh vị trí hang, ưu thế của các quan hệ xã hội

27
đã tạo cơ sở khoa học để nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội, để nghiên
cứu những quy luật khách quan của xã hội.
Như vậy, thế gới về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của
nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số
những biểu hiện muôn hình, muôn vẻ.
2. Ý THỨC
A. Nguồn gốc của ý thức
- CNDT cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra vật chất,
chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất. Học thuyết triết học
DTKQ và triết học DTCQ có quan niệm khác nhau nhất định về ý thức, song
về thức chất họ giống nhau ở chỗ tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức làm
điểm xuất phát để suy ra giới tự nhiên.
- Các nhà duy vật trước Mác đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên
của CNDT, không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, đã chỉ ra mối
liên hệ khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có trước ý thức,
ý thức phụ thuộc vào vật chất. Do khoa học chưa phát triển, do ảnh hưởng của
quan điểm siêu hình – máy móc nên họ đã không giải thích đúng nguồn gốc
và bản chất của ý thức.
- Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý
học thần kinh, CNDVBC khẳng định: Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn
gốc xã hội
* Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người và hoạt động của nó + mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan.
- Về bộ óc người:
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người,
là chức năng của bộ óc, là kết quả của hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc.
Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc
người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, do đó khi óc bị tổn
thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường.

28
Khoa học đã xác định, con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng
thời đã xác định bộ óc của con người là 1 tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc
tinh vi và phức tạp bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này
có mối liên hệ với nhau và với các giác quan, tạo thành vô số những mối liên
hệ thu nhận, điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên
ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Quá trình ý thức và
quá trình sinh lý trong bộ óc không đồng nhất, không tách rời, không song
song mà là 2 mặt của 1 quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức. Khi
khoa học - kỹ thuật tạo ra những máy móc thay thế cho 1 phần lao động trí óc
của con người thì không có nghĩa máy móc có ý thức như con người. Máy
móc là 1 kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là 1 thực thể xã
hội. Máy không thể thay thế hoạt động trí tuệ của con người, không thể sáng
tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó,
chỉ có con người với bộ óc của nó mới có ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc người – 1 tổ chức vật chất - cao lại có thể sinh ra
được ý thức? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ vật
chất giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất ấy hình
thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người.
- Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo:
Là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ
này, thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác
quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất được thể hiện dưới
nhiều hình thức và những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của
vật chất:

29
+ Phản ánh vật lý, hóa học: hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng
cho giới tự nhiên vô sinh - thụ động, chưa có lựa chọn, định hướng.
+ Phản ánh sinh học: Đặc trưng cho giới tự nhiên sống là bước phát
triển mới vè chất trong sự tiến hóa của các hình thức phản ánh. Hình thức
phản ánh của các cơ thể sống đơn giản nhất là biểu hiện ở tính kích thích, tức
là phản ứng trả lời các tác động của môi trường ở bên ngoài có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức phản ánh tiếp theo
của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với
sự thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần
kinh là các phản xạ. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh
trung ương xuất hiện là tâm lý. Như vậy, phản ánh sinh học trong các cơ thể
sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó mà các sinh vật thích nghi với
môi trường để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh học được thực hiện
thông qua các hình thức kích thích ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ
thống thần kinh và tâm lý ở động vật cấp cao. Tâm lý động vật chưa phải là
YT, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh
lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
+ Phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo – phản ánh ý thức. Ý
thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức chỉ nảy
sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện của
con người. Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo – Phản ánh ý thức là sự
phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những
thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Nội dung của ý thức là thông
tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới
bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ
có bộ óc thôi thì chưa có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài
lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung
quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.

30
* Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra đời
của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội - cơ bản và trực tiếp nhất là
nhân tố lao động và ngôn ngữ.
- Lao động:
+ Quan niệm về lao động và vai trò của lao động đối với sự ra đời của ý
thức - do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động?
+ Vai trò:
LĐ là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại – Lao động
cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống đồng thời lao
động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động mà con người tách
ra khỏi thế giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con
người với động vật là ở chỗ động vật sử dụng những vật phẩm có sẵn trong tự
nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà có thể chính phục, cải tạo tự nhiên,
“bắt” tự nhiên phục vụ mục đích của mình. Chính thông qua hoạt động lao
động nhằm cải tạo TGKQ mà con người mới có thể phản ánh được TGKQ,
mới có ý thức về TGKQ - LĐ, con người tác động vào TGKQ, bắt TGKQ bộc
lộc những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động… những hiện tượng ấy tác
động vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức về tự nhiện và xã hội.
- Ngôn ngữ:
+ Khái niệm: Nà hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang
nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
+ Vai trò: Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay
từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động
nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng.
Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao
động. Ngôn ngữ vừa là phương tiện phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng
thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ
ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng

31
kết, đúc rút thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ
này qua thế hệ khác. Ý thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là
một hiện tượng xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là nhân tố lao động. Sau lao động và và đồng thời
với lao động là ngôn ngữ - đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến
bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần chuyển biến thành bộ óc
của con người, khiến cho tâm lý động vật dần chuyển hóa thành ý thức.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức
* Bản chất của YT
- Quan niệm của CNDT: Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra
vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.
- CNDVSH: Đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự
phản ánh sự vật đó. Tuy nhiên do ảnh hưởng bởi quan niệm sieu hình - máy
móc nên họ đã coi ý thức là sự phản ánh sự vật một cách thụ động, giản đơn,
máy móc, không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức, tính biện
chứng của quá trình phản ánh.
- CNDVBC: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo TGKQ của bộ
óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới KQ.
Thứ nhất, để hiểu được bản chất của ý thức, trước hết, chúng ta thừa
nhận cả vật chất và ý thức đều là “hiện thực” nghĩa là đều tồn tại. Nhưng giữa
chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản
ánh; còn Vc là cái được phản ánh. Cái được phản ánh – tức vật chất - tồn tại
KQ, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức. Cái phản ánh - tức ý
thức – là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan hay hình ảnh tinh thần của
sự vật khách quan, lấy cái KQ làm tiền đề, bị cái KQ quy định, không có tính
vật chất. Vì vậy, không thể đồng nhất, hoặc tách rời cái được phản ánh - tức
vật chất, với cái phản ánh - tức ý thức. Nếu coi cái phản ánh - tức ý thức - là

32
hiện tượng vật chất sẽ lẫn lôn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh - tức
lẫn lộn giữa vật chất và ý thức.
Thứ 2, khi nói cái phản ánh - tức ý thức - là hình ảnh chủ quan của
TGKQ, thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về
sự vật. Ý thức của con người, mà con người là 1 thực thể xã hội năng động,
sáng tạo – ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới,
cho nên ý thức của con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu thực tiễn xã hội. C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được
đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
+ Tính năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận
thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở
những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý
nghĩa của thông tin được tiếp nhận; mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới
dạng hình ảnh tinh thần- thực chất đây là quá trình”sáng tạo lại” hiện thực
của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối tượng vật chất = các ý tưởng tinh thần
phi vật chất. Tính chất năng động của Ý thức còn được thể hiện ở quá trình
con người tạo ra những giả thiết, huyền thoại, ý tưởng... trong đời sống tinh
thần của con người hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người (chuyển mô
hình trong tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hóa tư
tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại,
biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp,
phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện
mục đích của mình).
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là hình
ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về
nội dung, cả về hình thức thể hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới
khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, nguyện

33
vọng, tình cảm, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, lợi ích…) của con người. C.
Mác: Ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó”.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và
tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ
của các quy luật tự nhiên mà còn là (và chủ yếu là) của các quy luật xã hội,
được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
* Kết cấu của ý thức: Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp.
- Theo cách tiếp cận kết cấu: Ý thức bao gồm 3 yếu tố cơ bản nhất: Tri
thức, tình cảm và ý chí.
+ Tri thức: Là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ. Tri thức có nhiều loại. Tri thức thông thường được
hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính,
trực tiếp, bề ngoài, rời rạc và tri thức khoa học phản ánh trình độ con người đi
sâu nhận thức thế giới hiện thực gồm tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và điều điều kiện để ý thức phát
triển. Ngày nay- nền kinh tế tri thức…
+ Tình cảm: Là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong
các quan hệ. Tình cảm là một trạng thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực,
được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi
nhận sự tác động của ngoại cảnh.
+ Ý chí: Là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm
vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Đây là mặt
năng động của ý thức – một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con
người tự giác được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và
ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.

34
Tât cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau,
song tri thức là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ
biểu hiện của các yếu tố khác.
Theo chiều dọc: Đó là cách tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm
con người bao gồm các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
+ Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người
đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Tự ý thức
cũng là ý thức, là 1 thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về
bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Chính
trong quan hệ xã hội, các hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, con người phải tự ý thức
về bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà
ý thức đề ra (tự ý thức của cá nhân, của cả xã hội, 1 giai cấp về vị trí, lý
tưởng, mục đích…).
+ Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự
kiểm soát của chủ thể, song lại có liên quan đến trực tiếp đến các hoạt động
tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức
là những tri thức mà chủ thể đã có từ trước nhưng đã trở thành gần như bản
năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới
dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hiện tượng tâm
lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng 1 cách trực tiếp. Tiềm
thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày cả trong tư
duy khoa học. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình
tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy thường lặp đi lặp lại nhiều lần. Ở
đây, tiềm thức góp phần giảm phần quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối
lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra 1 cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm
bảo độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
+ Vô thức: Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh
sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận

35
của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán
của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham
muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, lỡ lời, nói nhịu, trực giác,… mỗi hiện
tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều
có 1 chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt
ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực
hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng
trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế
quá mức như ấm ức.
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt
động của con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng
thẳng không cần thiết khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con
người đặt ra được thực một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai
trò cái vô thức trong cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy
đủ, đúng đắn về con người.
Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức.
Không nên coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn
cảnh xã hội xung quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô
thức nằm trong con người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý
thức chứ không phải vô thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện
tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ. Vô thức là một mắt khâu trong cuộc
sống có ý thức của con người.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự
phản ánh đối với vật chất.
- Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức.

36
+ Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người
là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của
thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức
lâu dài của khoa học về giới tự nhiên, nó là một bằng chứng khoa học chứng
minh quan điểm: Vật chất có trước, ý thức có sau.
+ Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức
đều là chính bản thân TGKQ, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc
người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc
của ý thức.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế
giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Tất nhiên, sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của
ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của mội
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật
chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua thực tiễn của con người.
- Nói đến ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến
vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì
trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực con người phải tiến hành những
hoạt động vật chất. Song mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo
nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật
chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở
ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa
chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện… để thực hiện mục tiêu
của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

37
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo 2 hướng: Tích cực
hoặc tiêu cực.
+ Tiêu cực khi ý thức của con người không phản ánh đúng thế giới khách
quan, bản chất. Quy luật của TGKQ thì ngay từ đầu hướng hành động của con
người đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu
cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
+ Tích cực khi con người có nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có
tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù
hợp với quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách
thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình…
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có
thể quyết định hành động của con người, hoạt động của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả. Sức mạnh của ý
thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức
độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất trong đó con người
hành động theo định hướng của ý thức.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên tắc phương pháp luận luận cơ bản: trong mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ
tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách
quan mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật,
tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với tinh thần của con
người.
- Trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ thực tế
khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế
hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải

38
tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật
chất để hành động.
- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng
động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật
chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Đòi hỏi con người phải coi
trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu làm chủ tri thưc khoa
học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của,
hướng dẫn trong hoạt động.
Phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí + chống chủ
nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo
thủ, trì trệ… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
NỘI DUNG ÔN TẬP,THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập:
Ôn tập toàn bộ nội dung đã học, tập trung nghiên cứu:
1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học; Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình
thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật.
2.Quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận.
II. Nội dung thảo luận:
1. Vấn đề cơ bản triết học
2. Vấn đề vật chất trong triết học trước Mác
3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
4. Nguồn gốc của ý thức

39
Chương II. PHÉP BIỆN CHỨNG
GIỚI THIỆU
Chương 2 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản của phép biện
chứng duy vật gồm: khái niệm và các hình thức cơ bản của phép biện chứng,
đặc trưng của phép biện chứng duy vật; các nguyên lý, các cặp phạm trù và
các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật; vấn đề lý luận nhận thức
duy vật biện chứng.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 2 giúp người học:
- Nhận biết về phép biện chứng và phép biện chứng duy vật.
- Hiểu được những vấn đề của phép biện chứng duy vật: các nguyên lý,
các cặp phạm trù và các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật; vấn đề
lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
- Phân tích được những nội dung cơ bản của hai nguyên lý, ba quy luật, 6
cặp phạm trù và lý luận nhận thức duy vật biện chứng..
- Vận dụng được phép biện chứng duy vật trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn.
- Có thái độ khách quan trong xem xét, đánh giá các sự vật, hiện tượng;
ngăn ngừa thái độ chủ quan, tùy tiện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Trang bị phương pháp tư duy biện chứng, phòng tránh được phương
pháp tư duy siêu hình cho người học.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.3: Nhận biết được về:
- Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng;
- Phép biện chứng duy vật, những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện
chứng duy vật.
G2.2: Hiểu được những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật:
- Khái niệm, tính chất và ý nghĩa phương pháp luận của các nguyên lý;
- Khái niệm, quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận của các cặp
phạm trù;

40
- Khái niệm, nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ bản;
- Lý luận nhận thức duy vật biện chứng về thực tiễn, nhận thức và vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức; con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.
G3.2: Phân tích được những nội dung cơ bản của ba quy luật, 6 cặp phạm trù
và lý luận nhận thức DVBC.
G4.2: Vận dụng được phép biện chứng duy vật trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn: Đó là việc quán triệt quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ
thể, quan điểm phát triển và quan điểm thực tiễn; vận dụng các quy luật, các
mối quan hệ biện chứng giữa các cặp phạm trù và lý luận nhận thức DVBC
vào hoạt động nhận thức và thực tiễn.
G5.2: Có thái độ khách quan trong xem xét, đánh giá các sự vật, hiện tượng;
ngăn ngừa thái độ chủ quan, tùy tiện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
G6: Hình thành phương pháp tư duy biện chứng, phòng tránh phương pháp tư
duy siêu hình cho người học.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
Theo học thuyêt Mác - Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những
mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của
các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan (BCKQ) và biện chứng chủ
quan (BCCQ). BCKQ là biện chứng của TG vật chất, còn BCCQ là sự phản
ánh BCKQ vào trong đời sống ý thức của con người.
Theo Ăngghen: “Biện chứng gọi là KQ thì chi phối trong toàn bộ giới tự
nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là
phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên”.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ
thống các nguyên tắc, phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với

41
nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về BCCQ đồng thời nó cũng đối lập
với phép siêu hình – Phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới
trong trạng thái cô lập và bất biến.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng (PBC) ra đời ngay từ khi triết học ra đời. PBC có ba
hình thức: PBC chất phác thời cổ đại, PBC duy tâm cổ điển Đức và phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
PBC chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của PBC trong lịch sử
triết học. Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa
phát triển, nên các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang
tính trực quan, cảm tính để khái quát nên bức tranh chung của thế giới. Nó là
một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn độ và
Hy lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung
quốc là “Biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi
phổ biến trong vũ trụ) và “Ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc
tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia.
Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết
học của đạo Phật với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”…
Đặc biệt, triết học Hy lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của
PBC tự phát. Ph. Ăngghen viết: “Những nhà triết học Hy lạp cổ đại đều là
những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất
trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất
của tư duy biện chứng… Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn
tại và đồng thời không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không
ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”.
Tuy nhiên, những tư tưởng ấy về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây
thơ, chất phác. Ph.Ăngghen nhận xét: “Trong triết học này, tư duy biện chứng
xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở
ngại đáng yêu… Chính vì người Hy lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích
giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và

42
đứng toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự
nhiên chưa được chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả
của sự quan sát trực tiếp.”
PBC chất phác thời cổ đại nhận thức đúng về tính chất biện chứng của
thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ,
còn thiếu sự chứng minh bởi những thành tựu phát triển của khoa học tự
nhiên. Do PBC này thiếu những căn cứ khoa học, vì vậy, nó đã bị phép siêu
hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XV thay thế.
Cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi sâu vào
phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dẫn tới sự
ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình
trở thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa
học.
Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu đối tượng
riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong
mối liên hệ thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải
chuyển sang một hình thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng (chú ý
mối quan hệ giữa khoa học nói chung, đặc biệt là khoa học tự nhiên và triết
học).
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn
thiện ở Hêghen. Theo Ph. Ăngnghen, “Hình thức thứ hai của phép biện
chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết
học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen”.
Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất
của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong
triết học Hêghen biểu hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển
khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi BCCQ là cơ sở của BCKQ. Theo
Hêghen, “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành
giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. “Tinh thần, tư
tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép

43
của ý niệm”. Thực chất của phép biện chúng DTKQ của Hêghen là biện
chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật.
Các nhà TH cổ điển Đức mà đỉnh cao là HG đã xây dựng phép biện
chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgic chặt chẽ của ý
thức, tinh thần. Lênin cho rằng: “Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện
chứng của sự vật (của những hiện tượng, của thế giới, của giới tự nhiên) trong
biện chứng của khái niệm”. Ph.Ăngnghen: “Ở Hêghen, phép biện chứng bị
lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt
nhân hợp lý của nó đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức là hạn chế cần
phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó và kế thừa
trên tinh thần phê phán để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật.
2. Phép biện chứng duy vật
a. khái niệm phép biện chứng duy vật
Ăngnghen: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy”.
PBCDV được xây dựng trên cơ sở 1 hệ thống những nguyên lý, những
phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển là 2 nguyên lý khái quát nhất. Vì thế có một số định nghĩa khác về phép
biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự phổ
biến”, còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó bao
hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện chứng mà
C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, Lênin đã khẳng định: “Trong số
những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học
thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không
phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận
thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”. Chính vì vậy,

44
phép biện chứng duy vật đã khắc phục được những hạn chế của phép biện
chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng DTKQ
thời cận đại.
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Một là, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng
được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
- PBCDT cổ điển Đức: thế giới quan duy tâm.
- PBC thời cổ đại: trực quan, ngây thơ và chất phác.
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan (DVBC) và PP luận (BCDV), do đó,
nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới.
PBCDV giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nó cũng là thế
giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
- Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mối sự vật,
hiện tượng trong thế giới
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên
hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên
cứu của PBC.
CNDVBC khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. các sự vật, ht tạo thành thế giới, dù có
đa dạng, phong phú, khác nhau bao nhiêu, song chúng đều là những khác

45
nhau của 1 thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống
nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
b. Tính chất của các mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ:
Theo quan điểm BCDV, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác
động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc
trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc
vào ý chí của con người, con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp
suất không khí…, đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người -
1 sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn
bị tác động bởi các sự vật, hiện tượng khác nhau và các yếu tố ngay trong
chính bản thân.. là 1 “bông hoa rực rỡ của tự nhiên”, ngoài sự tác động của tự
nhiên như các sự vật khác, con người còn tiếp nhận sự tác động xã hội và của
những người khác. Và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn quan hệ, mối
liên hệ chằng chịt.
Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào
hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu
cầu, lợi ích của Xh và bản thân con người.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ:
Theo quan điểm BCDV thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác. Đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là
một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên
hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn

46
nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và
làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ:
Quan điểm BCDV không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính đa dạng, phong phú của các mối
liên hệ.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự
vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt
khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển
của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các
mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác
định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản
chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và gián tiếp…
VD: + Cá nhân trong 1 tập thể
+ Sự lĩnh hội tri thức của 1 con người trước hết và chủ yếu được quyết
định bởi chính người đó (trình độ, năng lực, tâm lý…) - mối liên hệ bên trong;
Sự tác động bên ngoài (nghệ thuật truyền thụ tri thức, cơ sở vật chất…) dù có
tốt, có đầy đủ bao nhiêu mà người học “nghe tài này, ra tai kia” thì người đó
cũng không lĩnh hội được tri thức - mối liên hệ bên ngoài.
+ Nền kinh tế tri thức vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với
nước ta: Tranh thủ và tận dụng được cơ hội hay không phụ thuộc vào chính
Đảng ta, sự lãnh đạo của Đảng đúng đắn; sự quản lý của Nhà nước, tích cực
và chủ động của mọi thành phần kinh tế, của nhân tố con người, của nền văn
hóa giàu bản sắc và truyền thống của dân tộc…- mối liên hệ bên trong. Nhưng
mối liên hệ bên ngoài cũng rất quan trọng khi nó tạo ra cơ hội, điều kiện quốc
tế thuận lợi: Trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, xu hướng
hợp tác và chuyển giao…

47
Chú ý:
+ Các cặp mối liên hệ có mối quan hệ có những đặc trưng riêng. Trong
đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, tất nhiên, chủ yếu giữ vai trò quyết định.
Tuy nhiên vai trò của các mối liên hệ trong từng cặp còn phụ thuộc vào quan
hệ hiện thực xác định.
+ Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ có tính chất tương đối (nhưng sự
phân chia đó là cần thiết để con người xác định đúng vai trò, tác dụng của các
mối liên hệ để có cách tác động cho mang lại hiệu quả cao nhất) vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là 1 hình thức, 1 bộ phận, 1 mắt xích của mối liên hệ phổ biến.
Mối loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm
vi bao quát của mối liên hệ đó hoặc do kết quả vận động và phát triển của
chính các sự vật.
VD: + Khi xem xét lĩnh vực đức – trí – thể - mỹ như những lĩnh vực
khác biệt thì mối liên hệ qua lại giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Nhưng
nếu coi chúng là 4 lĩnh vực cơ bản của công tác giáo dục trong nhà trường
nhằm hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh thì mối liên hệ giữa chúng
với nhau lại trở thành mối liên hệ bên trong.
+ Các doanh nghiệp hoạt động độc lập và khi liên kết lại với nhau thành
công ty, tổng công ty…
Quan điểm về tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ còn bao hàm
quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở
các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ
thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống
thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác
động qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác. LêNin: “Muốn thực sự

48
hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả
các mối liên hệ và “quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”; tránh quan điểm phiến
diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở 1 mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản
chất hay về tính quy luật của chúng. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên…
để hiểu rõ bản chất của sự vật và có biện pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong hạt động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức
và hành động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người chúng
ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng người, trong từng không gian,
thời gian … như ông cha ta đã kết luận: “đối nhân, xử thế”.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện đồng thời
cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức xử lý các tình
huống trong trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc
thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong
thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể
trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và
có hiệu quả trong xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy trong nhận thức, trong
thực tiễn phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình và quan
điểm chiết trung, ngụy biện.
VD: + Đường lối của Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng - trên cơ sở
phân tich kỹ tình hình quốc tế và trong nước ở từng thời kỳ, từng giai đoạn.
+ Đánh giá 1 trào lưu văn học nghệ thuật, 1 tác giả, tác phẩm văn học
nào đó…
+ Sự phát triển của khoa học trong từng giai đoạn lịch sử và ảnh hưởng
của nó…
+ Đặc biệt, việc xử lý các tình huống trong cuộc sống…

49
2. Nguyên lý về sự phát triển
A. Khái niệm phát triển
Sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong 1 sự vật hay giữa các sự vật
làm cho sự vật vận động, phát triển. Sự tác động đó diễn ra trong hiện thực
quyết định mối liên hệ hữu cơ giữa nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển.
Xem xét sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập nhau:
Quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
+ Quan điểm siêu hình:
Xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng,
không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật. Những người theo quan điểm
siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn
tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình
tồn tại của nó vẫn giữ nguyên hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự
thay đổi ấy cũng chỉ diến ra theo 1 vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển
chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có, chư không có
sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Họ còn xem sự phát triển như là
1 quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức
tạp.
+ Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự
phát triển là 1 quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần
dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện
thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào
cũng diễn ra đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước
lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường
xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển, dường như sự vật ấy quay
trở về điểm khởi đầu, song trên cơ sở mới cao hơn.

50
Quan điểm BCDV đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn
gốc của sự phát triển. Quan điểm BCDV khẳng định nguồn gốc của sự phát
triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy
định. Nói cách khác đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản
thân sự vật, do đó, cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những
người theo quan điểm duy tâm, tôn giáo thường tìm nguồn gốc của sự phát
triển ở thần linh, thượng đế, ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức con
người.
Trong phép biện chúng, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận
động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quat toàn bộ sự vận động
nói chung. Nó chỉ bao quát xu hướng chung của sự vận động- xu hướng vận
động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển
chỉ là 1 trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của
mình, trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về
chất, sẽ làm thay đổi mlh, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng
vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Như vậy, sự phát triển, trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ, là
hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân
con người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những
vận động đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song
nếu xem xét cả quá trình vận động với không gian rộng và thời gian dài thì
vận động đi lên là khuynh hướng chung của mọi sự vật.
B. Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự
vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện
tượng, là quá trình giải quyết mâu thuẫn của bản thân sự vật, hiện tượng đó.
Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức của con người.

51
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện các quá trình phát triển
diến ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật,
hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó.
Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời
của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: Phát
triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật,
hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn
giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau, sự vật sẽ
phát triển khác nhau (xã hội loài người: Cổ xưa và hiện nay, phương Đông và
phương Tây hoặc cá nhân con người: Thời phong kiến và xã hội hiện đại.
Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều tác động
của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều
kiện lịch sử - cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn
đến sự phát triển của mặt này và thoái hóa ở mặt khác… Đó đều là những
biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của quá trình phát triển.
C. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và hoạt
động thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Lênin: “Logic biện chứng đòi hỏi
phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động”… trong sự biến đổi của
nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến, đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì
trong thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi
lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện
chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hỏi phải nhận
thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát

52
triển của nó, tức là phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải
quyết các vấn đề trong thực tiễn phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng,
phức tạp của nó.
VD: Sinh viên phải nhận thức được hiện tại của bản thân (yếu tố thuận
lợi - khó khăn, mong muốn và khả năng, những mặt tốt, tích cực và hạn chế,
thậm chí là khuyết điểm…) và thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương
lai của xã hội, lĩnh vực nghề nghiệp của mình; thấy được tầm quan trọng của
giai đoạn học Đại học trong quá trình phát triển của bản thân để có những
mục tiêu phù hợp, biện pháp, cách thức có hiệu quả trong học tập, rèn
luyện…
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển,
phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng
trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật,
Ph.Ăngghen viết: “…phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem
xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua
lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu
vong của chúng”.
III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Để nhận thức hiện thực và trao đổi những tri thức, tư tưởng, tình cảm,
kinh nghiệm với nhau, con người phải dùng những khái niệm nhất định, mà
thiếu chúng thì hoạt động không có kết quả được. VD: khái niệm con vật, cái
cây, cái nhà, sinh viên… Những khái niệm này là hình thức của tư duy phản
ánh những thuộc tính căn bản, những mối liên hệ chung vốn có ở nhiều sự vật
trong thế giới.
Tùy theo trình độ phản ánh và phạm vi bao quát mà chúng ta có các khái
niệm cơ bản hay không cơ bản, rộng hay hẹp khác nhau. Các khái niệm cơ
bản và rộng nhất được gọi là phạm trù.
Phạm trù: Là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng
thuộc một lĩnh vực nhất định.

53
Mỗi bộ môn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng của mình phản
ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến
thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.VD: toán học: số, điểm, mặt phẳng,
hàm số… Vật lý: lực, gia tốc, vận tốc… Sinh học - di truyền, biến dị, đồng
hóa… Kinh tế học: sản xuất, kinh doanh, lợi nhuận, tiền tệ giá cả…
Khác với các phạm trù đó, những phạm trù của PBCDV là những khái
niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ một lĩnh vực nào đó của hiện thực mà
của toàn bộ thế giới hiện thực (tự nhiên, xã hội và tư duy).
Phạm trù của PBCDV có quan hệ biện chứng với phạm trù của các khoa
học cụ thể. Đó là quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, PBC
khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản.
1. Cái riêng và cái chung
A. Phạm trù cái riêng, cái chung
- Phạm trù cái riêng: dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình nhất định.
- Phạm trù cái chung: dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
yếu tố, những quan hệ… tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
- Cái đơn nhất: đó là những đặc tính, những tính chất… chỉ tồn tại ở một
sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
VD: Giai cấp công nhân Việt Nam (cái riêng so với cái chung là giai cấp
công nhân thế giới) trước Cách mạng tháng Tám - Đặc điểm chung (giống
giai cấp CNTG) đồng thời có đặc điểm riêng biệt: ra đời trước giai cấp tư sản
dân tộc và trong nội bộ không có tầng lớp công nhân quý tộc - đó là cái đơn
nhất.
TP Hà Nội - cái riêng còn Phố cổ HN, hồ Gươm, Lăng Bác…- cái đơn
nhất.
B, Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:

54
- Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan. Trong đó,
cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn
tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng, tức mỗi sự vật,
hiện tượng, quá trình cụ thể.
VD: + Mỗi con người cụ thể là 1 cái riêng, có những đặc điểm, phẩm
chất riêng khác nhau (ngoại hình, dáng đi, giọng nói, sở thích…) những giữa
họ đều có những thuộc tính chung: có ý thức, có lao động. cái chúng này tồn
tại thật sự trong từng con người cụ thể và thông qua từng con người cụ thể mà
bộc lộ mình ra.
+ Cái cây: Không có cây chung nào tồn tại bên cạch cây cam, cây quýt
cụ thể - cái riêng. Nhưng cây cam, cây quýt… nào cũng có thân, rễ, lá, có quá
trình đồng hóa, dị hóa để duy trì sự sống - cái chung của những cái cây cụ
thể- cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái
riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
VD: + Mỗi 1 cơ thể sống trong thế giới là 1 cái riêng với tất cả đời sống
phong phú của mình (con người đang lao động, con chim đang bay, con mèo
đang ngủ…) song tất cả chúng - cái riêng này đều chịu tác động của các quy
luật sinh học.
+ Nền kinh tế của mỗi quốc gia là cái riêng - cái chung là quy luật kinh
tế (QHSX = trình độ phát triển của LLSX)
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung còn cái
chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng
là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất, còn cái chung biểu hiện tính phổ
biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.
VD: người nông dân VN giống nông dân các nước là tư hữu nhỏ, sản
xuất NN, sống ở nông thôn… Đặc điểm riêng: ảnh hưởng văn hóa làng xã,
các tập quán lâu đời của dân tộc, điều kiện tự nhiên của đất nước nên rất cần
cù lao động, khả năng chịu đựng khó khăn…
C. Ý nghĩa phương pháp luận:

55
- Cần nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Nhưng việc áp dụng cái chung vào cái riêng yêu cầu
cần phải được cá biệt hóa, không áp dụng nguyên xi, tuyệt đối hóa cái chung
(giáo điều và quan liêu). Ngược lại coi thường cái chung và chú ý đến cái
riêng, tuyệt đối hóa cái đơn nhất thì rơi vào sai lầm của tư tưởng hữu khuynh
và xét lại.
VD:
+ Chủ trương phát triển nông nghiệp: chuyển đổi cây trồng, vật nuôi
- Cần cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc
phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ địa phương trong vận
dụng mỗi cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.
VD: Vận dụng chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước- xây
dựng cảng biển, sân bay…
- Biết vận dụng điều hiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất
và cái chung theo những mục đích nhất định (Cái mới- cái lạc hậu).
2. Nguyên nhân và kết quả:
A. Phạm trù nguyên nhân và kết quả:
- Phạm trù nguyên nhân: dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau từ đó
tạo ra sự biến đổi nhất định.
- Phạm trù kết quả: dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động
giưa các mật, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng.
VD: + Sự tác động lẫn nhau giữa dòng điện với dây tóc của bóng đèn là
nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng.
+ Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong những
điều kiện nhất định tất yếu dẫn đến sự bùng nổ của cuộc cách mạng vô sản.
B. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm DVBC: Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là
mối quan hệ khách quan, bao hàm tính tất yếu - không có nguyên nhân nào

56
không dẫn tới kết quả nhất định và ngược lại không có kết quả nào không có
nguyên nhân.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, do vậy, nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự nối tiếp nào về mặt thời gian cũng là
mối liên hệ nhân quả. VD sấm đến sau chớp - nhưng chớp không phải là
nguyên nhân của sấm hoặc quan hệ đêm – ngày, các mùa trong năm… Quan
hệ Nhân – Quả khác các quan hệ khác ở chỗ là quan hệ sản sinh - quan hệ mà
trong đó Nn nhất định sinh ra kết quả (không thể khác được).
- Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả
(có thể diễn ra theo các hướng thuận nghịch khác nhau;) vị trí, vai trò của
chúng là khác nhau: nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp; bên trong, bên ngoài…
Ngược lại một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả
chính, phụ, cơ bản và không cơ bản…
VD: + Nguyên nhân dẫn đến kết quả các em thi đậu Đại học? Thành tựu
của sự nghiệp đổi mới đất nước?
+ Đậu Đại học- kết quả?
- Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu
tiên và kết quả cuối cùng.
Chúng ta chỉ có thể xác định được chúng bằng cách xác định quan hệ cụ
thể với điều kiện lịch sử cụ thể.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tất yếu nên trong nhận thức
và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân quả. Phải tìm ra nguyên nhân
của những hiện tượng đã và đang có để giải thích chúng 1 cách đúng đắn
đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng sắp có để tạo điều kiện
thuận lợi tác động vào nguyên nhân, làm cho nguyên nhân phát triển và sớm
tạo ra kết quả.
VD: + Kết quả học tập (tốt hay xấu - NN?)
+ Hiện tượng bạo lực học đường hiện nay?

57
+ Trước hoặc sau 1 sự kiện vừa diễn ra? Một số DN Nhà nước làm ăn
không hiệu quả - nguyên nhân? Giải thể hay cổ phần hóa? Tác động…
- Mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, da dang nên phải phân biệt chính
xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp
với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
VD: Bạo lực học đường? vấn đề sinh viên khó tìm việc làm sau khi ra
trường?
- Một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết
quả có thể do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần có cái
nhìn toàn diện và lịch sử- cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng dụng quan
hệ nhân quả.
VD: + Chăm chỉ học tập (nguyên nhân) - kết quả: Đậu Đại học + rạng
danh Gia đình, họ tộc + tấm gương cho các em+ cơ hội kiếm việc làm…
+ Đậu ĐH (kết quả) – nhiều nguyên nhân?
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a, Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
- Phạm trù tất nhiên: dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên
trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó
phải xảy ra như thế, không thể khác.
- Phạm trù ngẫu nhiên: dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài,
do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể
xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế
khác.
VD: + Hàng ngày con người phải ăn uống và nghỉ ngơi là tất nhiên do
nguyên nhân cơ bản bên trong cơ thể người quyết định. Còn ăn uống như thế
nào lại là ngẫu nhiên vì nó phụ thuộc vào điều kiện sống của mỗi người.
+ Quan hệ bạn bè…
Chú ý: quan hệ giữa cái tất nhiên với cái chung, cái tất yếu..
b. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

58
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất
định đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất
nhiên đóng vai trò quyết định.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với
nhau, không có cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
Trong đó, cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông
qua vô số cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện sinh động của
cái tất nhiên và bổ sung cho cái tất nhiên. Cái tất nhiên là khuynh hướng chủ
đạo của sự phát triển; khuynh hướng này không tồn tại thuần túy ngoài cái
ngẫu nhiên, mà nó tự vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu
nhiên. Vì vậy, trong hiện thực không có cái ngẫu nhiên thuần túy, mà là cái
ngẫu nhiên đã bao hàm 1phần của cái tất nhiên (tất yếu).
- Tất nhiên và Ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ
mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định
chúng có thể chuyển hóa cho nhau: tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngẫu
nhiên trở thành tất nhiên.
VD: Thời nguyên thủy, việc trao đổi vật này lấy vật khác là ngẫu nhiên.
Nhưng về sau nhờ phân công lao động và sản xuất phát triển mà việc trao đổi
sản phẩm ngày càng trở thành tất yếu.
Chú ý: Phân biệt tất nhiên và ngẫu nhiên là có tính tương đối. VD: Bạn
bè với ai?
c Ý nghĩa PPL
- Về căn bản, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào
cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên không được bỏ qua cái
ngẫu nhiên.
- Tất nhiên và Ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, cần tạo ra
những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng
theo mục đích nhất định (ngẫu nhiên tiến bộ - tất nhiên lạc hậu)

59
4. Nội dung và hình thức
a. Phạm trù nội dung và hình thức
- Phạm trù nội dung: dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những
yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức: dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của
sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa
các yếu tố của nó.
VD: Tác phẩm văn học – Nội dung là tư tưởng chủ đạo, những sự kiện
cuộc sống được phản ánh vào tác phẩm.. . còn hình thức là thể loại tiểu thuyết
hay văn xuôi, hồi ký, thơ, kết cấu tác phẩm, nghệ thuật xây dựng hình tượng,
các thủ pháp… (nghệ thuật trình bày, màu sắc, khổ chữ…)
b. Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với
nhau. Không một hình thức nào không chứa nội dung, đồng thời không nội
dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định.
- Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng,
trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung.
Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức
là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng.
. Ý nghĩa PPL
c- Nội dung và hình thức luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn, không dược tách rời giữa nội dung và hình
thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì
trước hết căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật thì trước hết phải thay
đổi nội dung.
VD: + 1 tác phẩm nghệ thuật (mì ăn liền - sống cùng năm tháng?)
+ Giáo dục và đào tạo: Đổi mới MT, ND và PPGD…
+ Con người?
+ Một mặt hàng đưa ra thị trường: Những yếu tố làm nên chất lượng

60
- Trong thực tiễn cần phát huy vai trò tác động tích cực của hình thức đối
với nội dung.
VD: + Hoạt động nghệ thuật
+ Con người
+ Hoạt động tuyên truyền
+ Hoạt động của đoàn thanh niên
+ Quảng cáo hàng hóa…
5. Bản chất và hiện tượng
a. Phạm trù bản chất và hiện tượng
- Phạm trù bản chất: Dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Phạm trù hiện tượng: Dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
VD: + Bản chất của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư do công nhân làm
ra. Bản chất này biểu hiện qua nhiều hiện tượng như kéo dài thời gian lao
động, áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, đầu tư cho TB người…
+ Con người: bản chất (tính cách, phẩm chất, nhân cách…) còn hiện
tượng (lời nói, cử chỉ, hành động, cách đối nhân xử thế…).
Như vậy, bản chất chính là mặt bên trong, mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định được ẩn giấu ở trong sự vật và bộc lộ ra bên ngoài bằng các hiện
tượng. Hiện tượng là cái bên ngoài, cái luôn biến đổi của sự vật, nó là hình
thức biểu hiện của cái bản chất.
b. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, hai mặt vừa thống nhất
vừa đối lập với nhau.
- Sự thống nhất giữa BC và HT: BC bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện
tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất
định. Không có bản chất tồn tại thuần túy cũng như không có hiện tượng lại
không biểu hiện một bản chất nào đó.

61
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất
mất đi thì hiện tượng cũng mất theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất là cái chung, cái tất
yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng; bản chất là cái
bên trong, còn hiện tượng là cái bên ngoài, bản chất là cái tương đối ổn định,
còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
c. Ý nghĩa PPL
- Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại hiện tượng
bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác
nhau mới nhận thức đúng bản chất.
Theo Lênin: “Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện
tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một…đến bản chất cấp hai…”.
VD: + Nhận thức về 1 con người
+ Bản chất của 1 doanh nhân, doanh nghiệp: Từ thiện nhưng lại lừa đảo,
trốn thuế, phạm pháp… hoặc các tội phạm lừa đảo khác (buôn người, buôn
gian bán lận, kinh doanh trá hình…)
- Mặt khác, bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận
thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện
tượng thì mới có thể đánh giá một cách chính xác về sự vật, hiện tượng đó và
mới có thể cải tạo căn bản sự vật.
VD: + Thay đổi 1 con người
+ Cải cách 1 lĩnh vực nào đó của xã hội: hành chính (bộ máy tổ chức,
chất lượng đội ngũ công chức, viên chức, cơ chế làm việc, hiệu quả công
tác…), giáo dục…
6. Khả năng và hiện thực
a. Phạm trù khả năng, hiện thực: Dùng để phản ánh mối quan hệ biện
chứng giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) với những
gì chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kện tương ứng ( khả năng).

62
VD: SV A đang học năm thứ nhất của ĐH Vinh có phẩm chất cần cù,
chịu khó, thông minh, say mê học tập -hiện thực ... dự đoán - khả năng là tốt
nghiệp loại giỏi.
b. Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, không tách
rời, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau.
Quá trình đó biểu hiện: Khả năng chuyển hóa thành hiện thực và hiện
thực lại chứa đựng những khả năng mới; Khả năng mới trong những điều kiện
nhất định lại chuyển hóa thành hiện thực …VD trên là Sv với hiện thực như
vậy - hiện thực đó làm xuất hiện khả năng (TN loại giỏi). Khả năng đó phát
triển và trở thành hiện thực khi có điều kiện chín muồi. Hiện thực (TN loại
giỏi) lại là điều kiện cho khả năng trở thành người lao động giỏi, chuyên
nghiệp…
Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng, có thể
tồn tại một hay nhiều khả năng: Khả năng thực tế, Khả năng gần, Khả năng
xa, Khả năng tất nhiên, Khả năng ngẫu nhiên…
Trong đời sống xã hội, Khả năng chuyển hóa thành hiện thực phải có
điều kiện KQ và nhân tố CQ (điều kiện cần và đủ):
+ Nhân tố CQ: là tính tích cực xã hội của ý thức chủ thể con người có
thể chuyển hóa khả năng thành hiện thực.
+ Điều kiện KQ: là sự tổng hợp các mối quan hệ về hoàn cảnh, không
gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa đó.
c. Ý nghĩa PPL
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải dựa vào hiện thực để
xác lập nhận thức và hành động.
- Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức toàn diện các khả năng từ trong
hiện thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự phát
triển trong những hoàn cảnh nhất định; tích cực phát huy nhân tố chủ quan
trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục
đích nhất định.

63
IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình, muôn
vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp
lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách
là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm quy luật là sản phẩm của tư duy
khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng.
- Quy luật: Là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ
biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự
vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của TN, XH, TD của con người đều mang tính KQ. Con người
không thể tạo ra hoặc xóa bỏ nó mà chỉ thể nhận thức và vận dụng nó trong thực
tiễn.
- Trong thế giới tồn tại nhiều loại quy luật khác nhau về mức độ phổ
biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình
vận động và phát triển của sự vật trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do
vậy, việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả
các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người.
Căn cứ vào mức độ phổ biến có:
+ Những quy luật riêng: Là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi
nhất định của các sự vật, hiện tượng cùng loại.
+ Những quy luật chung: Là những quy luật tác động trong phạm vi rộng
hơn quy luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau.
Vd: Quy luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng…
+ Những quy luật phổ biến: Là những quy luật tác động trong tất cả các
lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động có:
+ Quy luật tự nhiên: Là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên.
+ Quy luật xã hội: Là quy luật hoạt động của chính con người trong các
quan hệ xã hội; những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt

64
động có ý thức của con người. Nhưng quy luật xã hội vẫn mang tính khách
quan.
+ Quy luật tư duy: Là những quy luật thuộc mối liên hệ nội tại của
những khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá trình phát triển
nhận thức lí tính của con người.
1. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại
Đây là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình
vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
a, Khái niệm:
Bất cứ sv, ht nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống
nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
* Chất: Khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân
biệt nó với cái khác.
- Tạo thành chất của sự vật chính là các thuộc tính khách quan vốn có
của sự vật nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ
những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi
những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt
thuộc tính cơ bản và không cơ bản tùy theo quan hệ cụ thể…
- Chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của
các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng
thông qua các mối liên hệ cụ thể. VD: Kim cương và than chì đều có cùng
thành phần hóa học là nguyên tố các bon tạo nên nhưng phương thức liên kết
giữa chúng khác nhau nên chất của chúng hoàn toàn khác nhau.
Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà có nhiều chất vì mỗi sự
vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện 1 chất của sự
vật, hiện tượng,…

65
* Lượng: Khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại,
tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
- Một sự vậtcó thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định
bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự
vật.
VD: + Lượng được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như vận
tốc ánh sang là 300.000km trong 1 giây, 1 phân tử nước gồm 2 nguyên tử
hydro liên kết với 1 nguyên tử oxy…
+ Lượng được biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ
nhận thúc của 1 SV, ý thúc trách nhiệm của 1 công dân…
- Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện
tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương
diện đó đều tồn tại KQ và sự phân biệt này chỉ có ý nghĩa tương đối.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt
chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách
biện chứng. * Sự thay đổi về lượng tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất:
Nhưng ở 1 giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất
của sự vật chưa chưa thay đổi cơ bản. VD: nung 1 thỏi thép trong lò, hoặc
thay đổi độ dài của 1 cạnh hình CN, nước ở trạng thái lỏng - áp suất bình
thường… Khoảng giới hạn đó gọi là độ.
- Độ: chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là
khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những
thay đổi về chất. Giới hạn đó là điểm nút.
-Điểm nút: chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay
đổi về chất của sự vật.
VD: nước ở …

66
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định
tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật.
- Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự
vật, hiện tượng. Có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau: nhanh và chậm,
cục bộ và toàn bộ- bước nhảy làm thay đổi toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu
thành sự vật, đột biến – vụ nổ nguyên tử do khối lượng Uranium 235 (Ur235)
được tăng đến khối lượng tới hạn hay dần dần - quá trình chuyển hóa từ vượn
thành người diễn ra hàng vạn năm (quyết định bởi bản thân sự vật, điều kiện
cụ thể…).
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời đó
cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình
vận động, phát triển liên tục của sv. Có thể nói, trong quá trình phát triển của
sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của
hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ sv nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do
tác động của những điều kiện KQ và CQ quy định.
VD: + Thời gian để hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH ở mỗi nước là
khác nhau.
+ Thời gian để Tốt nghiệp Đại học?
* Chất mới ra đời lại có tác động trở lại lượng của sv trên nhiều phương
diện: thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển
của sv.
VD: thi đậu đại học- chất mới là Sinh viên- học tập thay đổi…, nước ở
trạng thái lỏng sang trạng thái bay hơi thì vận tốc vận động của các phân tử
nước tăng, thể tích lớn hơn nếu cúng 1 khối lượng, tính chất hòa tan 1 số chất
của nó cũng sẽ khác đi…
c. Ý nghĩa PPL

67
- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do vậy, trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về
phương diện chất và lượng của sv, ht tạo nên sự nhận thức toàn diện về sv.
- Cần tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất và ngược lại.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể làm thay đổi về chất với điều kiện
lượng phải tích lũy tới giới hạn của điểm nút, do đó trong công tác thực tiễn
cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh, ngược lạ cũng cần khắc phục
tưởng hữu khuynh.
- Cần vận dụng linh hoạt các bước nhảy, đặc biệt cần phát huy tính tích
cực, nỗ lực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng
dến chất một cách có hiệu quả nhất. VD: Tác động vào phương thức liên kết
giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi hoặc cơ chế quản lý, lãnh
đạo trong 1 tập thể…
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về
nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát
triển - là “hạt nhân của phép biện chứng”.
a, Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn:
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ
thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sv, ht hoặc
giữa các sv, ht với nhau. Khác với qn siêu hình: mâu thuẫn là cái đối lập phản
logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các
mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
- Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều
kiện, tiền đề tồn tại của nhau.

68
Mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa
và dị hóa; kinh tế thị trường có cung và cầu… Mâu thuẫn biện chứng tồn tại 1
cách KQ và phổ biến trong tự nhiê, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng
trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển
của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan,
cũng không phải là mâu thuẫn trong logic hình thức. Mâu thuẫn trong logic
hình thức là sai lầm trong tư duy.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn:
+ Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến.
+ Mâu thuẫn có tính đa dạng và phong phú.
b. Quá trình vận động của mâu thuẫn
- Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa
đấu tranh với nhau.
+ Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng
buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy
mặt kia làm tiền đề tồn tại.
+ Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác
động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy
thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng
- Như vậy, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập.
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lậpkhông tách rời nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với
đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật - trạng thái vận động của mâu
thuẫn ở 1 giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập do
sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập. Còn sự đấu tranh gắn liền với
tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: Sự thống

69
nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các mặt đối
lập là tuyệt đối. Lênin: “Sự thống nhất (…) của các mặt đối lập là điều kiện,
tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
+ Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến
sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức
phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy
thuộc vào những điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập
là một quá trình. Lúc đầu mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển
thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột gay gắt và
khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được
giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành và quá trình tác
động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn làm cho sự vật, hiện tượng
luôn vận động và phát triển.
Thực chất quy luật: Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt,
những khuynh hướng đối lập tạo thành những mau thuẫn trong bản thân nó;
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận
động, phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế.
c. Ý nghĩa PPL
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động
lực của sự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập,
nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử. Cụ thể, tức là biết phân
tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp (vai
trò, vị trí, đặc điểm từng loại mâu thuẫn …).
3. Quy luật phủ định của phủ định
Là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát
triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là khuynh

70
hướng vận động, phát triển của sv thông qua những lần phủ định biện chứng,
tạo thành hình thức mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”.
a, Khái niện phủ định, phủ định biện chứng
Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự vật,
hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật,
hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của
cùng một sv trong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là
phủ định.
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển.
Trong triết học, tùy theo thế giới quan và PPL, các nhà triết học và các
trường phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ đinh. Có quan niệm
cho rằng, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu như lặp lại toàn bộ quá trình
của sv cũ. Pitago cho rằng: Sự phát triển của xã hội phải qua 1 chu kỳ là 78
vạn năm. Còn triết học Phật giáo lại cho quan niệm kiếp người tuân theo vòng
luân hội “cát bụi lại trở về cát bụi”. Những người theo quan điểm siêu hình
coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn,
chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sv. Họ tìm nội dung của sự
phủ định ở bên ngoài sv, ở 1 lực lượng siêu nhiên nào đó.
Theo quan điểm DVBC, sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm
cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra
đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển
không ngừng của các sv. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật
cũ. Điều đó cũng có nghĩa sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển
liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là PĐBC- dùng để chỉ
sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới
sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
PĐBC có hai đặc điểm cơ bản:

71
+ Tính khách quan: PĐBC có tính khách quan vì nguyên nhân của sự
phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật, tạo
khả năng ra đời của cái mới, thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát
triển của của chính bản thân sự vật. Vì thế, PĐBC cũng là sự tự thân phủ
định.
PĐBC là kết quả của sự phát triển tự thân của SV, nên nó không thể là sự
thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng
của cái cũ, chúng không thể ra đời từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển
tiếp tục cái cũ trên cơ sở loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái
cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, bổ sung những mặt
mới, tiến bộ phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi
trong đó giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai
đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực = kế thừa.
+ Tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luậ và loại bỏ nhân tố trái
quy luật. Đó không phải là PĐ sạch trơn cái cũ mà trái lại cái mới ra đời trên
cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên
tính liên tục của sự phát triển.
VD: Sự phát triển của PBC là quá trình PĐ liên tục – PBC tự phát thời
cổ đại qua PBCDT của triết học cổ điển Đức đến PBCDV hoặc các học thuyết
khoa học; trong sinh vật các giống loài đều có di truyền- các thế hệ con cháu
kế thừa thế hệ bố mẹ “con nhà tông…”, “giỏ nhà ai…”; sự phát triển của XH
loài người – Xã hội mới ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị vật chất và
tinh thần của xã hội trước, đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới.
Những điều phân tích trên cho thấy, PĐBC không chỉ là sự khắc phục cái
cũ, sv cũ,mà còn là sự liên kết giữa cái cũ và cái mới, sv cũ với sv mới, giữa
sự khẳng định và sự phủ định, quá khứ với hiên thực. PĐBC là mắt khâu tất
yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
Quá khứ không bao giờ biến mất hoàn toàn. Trong dòng chảy vô tận của
thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở hiện tại.

72
Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiện tại, tạo nên
sợi dây liên hệ sinh động giữa quá khứ với hiện tại. Một trong những biểu
hiện của sợi dây liên hệ đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chính
truyền thống đó đã tạo nên sức mạnh của dân tộc ta trong sự trường tồn của
mình, đưa dân tộc từng bước đi lên. Đồng thời chính TT đó đã góp phần tôi
luyện con người VN bền gan, quyết chí trước sự tồn vong của dân tộc ở
những thời đại lịch sử khác nhau.
Tuy vậy cũng lưu ý: những nhân tố tích cực của sv cũ giữ lại phải được cải
tạo, phải được biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới. VD: truyền thống yêu
nước…
b. Phủ định của phủ định
VD: Khẳng định (hạt lúa)- phủ định lần 1 (cây lúa)- phủ định lần 2 (hạt
lúa) =hạt lúa- KQ của của PĐ của PĐ có nội dung toàn diện hơn, phong phú
hơn, có cái KĐ ban đầu và KQ của sự PĐ lần thứ nhất.
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, PĐBC là một quá
trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sv từ trình độ thấp đến trình
độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”.
KQ của sự PĐ của PĐ là điểm kết thúc của 1 chu kỳ phát triển và cũng là
điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật tiếp tục PĐBC chính
mình để phát triển. Cứ như vậy, sv ngày càng mới hơn.
-Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình
thức “xoáy ốc”. Đó cũng là tính chất “PĐ của PĐ”. Theo tính chất này, mỗi
chu kỳ phát triển của sv thường trải qua hai lần PĐ cơ bản với ba hình thái tồn
tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng
cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ
phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những
nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định.
VD: + Vòng đời của con tằm: trứng- tằm- nhộng- ngài- trứng (trải qua 4
lần PĐ)

73
+Các nguyên tố trong bản tuần hoàn của Menđêlêép thể hiện rõ điều khái
quát nêu trên. Các nguyên tố hóa học phải trải qua rất nhiều lần PĐ mới hoàn
thành chu kỳ phát triển của chúng.
-Khuynh hướng phát triển theo đường “xoáy ốc” thể hiện tính chất Bc
của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng
mới của đường xoáy ốc, dường như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn.
Sự tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển
vô tận từ thấp đến cao của sv, ht trong thế giới. Trong quá trình phát triển của
sv, PĐBC đóng vao trò là những vòng khâu của quá trình đó.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật PĐ của PĐ trong PBCDV phản
ánh mối quan hệ bc giữa cái PĐ và cái KĐ trong quá trình phát triển của sv.
PĐBC là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa
những nội dung tích cực từ trong sv cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo
nên tính chu kỳ của sự phát triển.
c. Ý nghĩa PPL
- Quy luật này là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu
hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra
theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn,
nhiều quá trình khác nhau… Khẳng định niểm tin khoa học vào xu hướng tất
yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế giới quan
khoa học và nhân sinh quan cách mạng
- Theo quy luật này, trong thế giới KQ, cái mới tất yếu phải ra đời để
thay thế cái cũ… Phải nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi
hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ và đấu tranh cho
cái mới thắng lợi. Khắc phục tư tưởng bảo thủ, giáo điều…
- Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình PĐ cái
cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán…
V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a, Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

74
Phạm trù thực tiễn là 1 trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
CNDVBC nói chung và lý luận nhận thức Macxit nói riêng. Trong lịch sử
triết học có nhiều quan niệm khác nhau:
+ CNDT: hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới
của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử -
xã hội.
+ CNDV trước Mác: đã hiểu thực tiễn là hành động vật chất của con
người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu.
Khắc phục những sai lầm, kế thừa và phát triển sang tạo những yếu tố
hợp lý trong quan niệm của các nhà triết học trước đó về thực tiễn, C.Mác và
P.Ăngghen đã đưa ra 1 quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò
của nó đối với nhận thức - tạo nên bước chuyển biến cách mạng trong triết
học và trong lý luận về nhận thức.
Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo mục đích của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động đặc
trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện 1 cách tất yếu KQ và
không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì
vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính
lịch sử - xã hội của con người.
- Các hình thức của thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: Hình thưc hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của mình và của xã hội- hoạt động nguyên thủy nhất,
tồn tại KQ, là cơ sở cho sự tồn tại của con người…

75
+ Hoạt động chính trị - xã hội: Hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ XH để thúc
đẩy XH phát triển.
+ Thực nghiệm khoa học: Đây là hoạt động được tiến hành trong những
điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái
của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi và phát triển
của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này ngày càng có vai trò quan
trọng.
* Mối quan hệ
b. Nhận thức và các trình độ của nhận thức
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại KQ của TGVC, CNDTCQ cho rằng
nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người. Còn CNDTKQ
lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý
niệm” mà nó đã từng chiêm ngưỡng được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho
rằng nhận thức là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối”.
Khác với CNDT, những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là
trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức
thành 1 nguyên tắc của nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này
phủ nhận khả năng nhận thức được Tg của con người hoặc hạn chế ở cảm
giác bề ngoài của sv.
Đối lập với những quan niệm đó, CNDV thừa nhận khả năng nhận thức
được Tg của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực KQ vào
trong đầu óc con người. Tuy nhiên, do hạn chế bởi tính trực quan, máy móc,
siêu hình của CNDV trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan,
đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa
thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức = sai lầm hoặc phiến diện,
chưa thấy được vai trò của thực tiễn.
- Quan điểm về bản chất nhận thức của CNDVBC: Nhận thức là một
quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo TGKQ vào bộ óc người trên
cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về TGKQ.

76
- Quan điểm này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại KQ độc lập với ý thức của con
người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách
quan, coi nhận thức là sự phản ánh TGKQ vào trong bộ óc của con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không
thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực,
tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết
đến biết, từ biết ít đến biết nhiều; từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc,
toàn diện hơn…
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
- Các trình độ của nhận thức:
->Dựa trên trình độ xâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức, có:
+ Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan
sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí
nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là có những tri thức
kinh nghiệm (tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa
học).
+ Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng và có
tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện
tượng.
* Mối quan hệ - đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và
bệnh giáo điều:
NTKN và NTLL là 2 giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ
sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu
phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ
sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái

77
quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ
chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự
quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó, nó chỉ đem lại những hiểu biết về các
mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối
liên hệ mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức kinh
nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu.
Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm
nhưng nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh
nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ
liệu kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá
trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn,
góp phần làm biến đổi đời sống con người, thông qua đó mà nâng những tri
thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát
có tính phổ biến.
Đấu tranh chống bệnh Kinh nghiệm CN và bệnh giáo điều như thế nào?
> Căn cứ vào tính chất tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất
của sự vật thì nhận thức có:
+ Nhận thức thông thường: là loại NT được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sv, ht xảy
ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của
sv. NTTT mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với quan niệm sống thực tế
hàng ngày.
+ Nhận thức khoa học: Là loại NT được hình thành tự giác và gián tiếp
tự sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgic. Đó là các
khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có
tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và
có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các PP nghiên cứu và sử dụng
cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất
và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai

78
trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại CM
KH- CN hiện nay.
* Mối quan hệ:
c, Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
VD: . Sự ra đời của Toán học- thiên văn học- triết học
. Phát minh khoa học và các ứng dụng của chúng: Bóng đèn điện, xe lửa,
máy công cụ chạy bằng hơi nước…
. Thuốc chữa bệnh cho con người
+ TT là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm
vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức.
VD: Thực tiễn CM VN những năm 20/ TK XX
Phép Biện chứng
+ Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng
được hoàn thiện, năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát
triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng nối dài các
giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
+ TT là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức;
đồng thời, TT không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức.
VD: . Phát minh khoa học
. Đường lối CM của Đảng ta: ĐLDT gắn liền với CNXH
. Thuốc chữa bệnh
- TT là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định
đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức
phải luôn hướng đến để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. LN: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về
nhận thức”.
- Ý nghĩa:

79
Quán triệt quan điểm thực tiễn như thế nào?
3. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý:
a, Quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý
Quan điểm của LN trong Bút ký Triết học: từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn- đó là con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan. Đây
chính là quy luật chung của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách
quan.
- Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
+ NT cảm tính (trực quan sinh động): là giai đoạn mở đầu của quá trình
nhận thức, giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp
vào các sv nhằm nắm bắt sv ấy - được thực hiện qua 3 hình thức cơ bản: cảm
giác, tri giác, biểu tượng.
Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sv, ht khi
chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác của
con người về sv khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của quá
trình nhận thức nhưng nếu không có nó thì sẽ không thể có bất cứ nhận thức
nào về TGKQ.
Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sv khi sv đó đang trực tiếp tác
động vào các giác quan, là tổng hợp của nhiều cảm giác.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai
đoạn trực quan sinh động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh
còn lưu lại trong trong bộ óc người về sv khi sv đó không còn trực tiếp tác
động vào các giác quan (có yếu tố gián tiếp, có sự tham gia của các yếu tố
phân tích, tổng hợp, tc trừu tượng hóa).
Như vậy, CG, TG, BT là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức
nhận thức cảm tính. Trong NT cảm tính đã tồn tại cả cái bc lẫn cái không bc,
cái nn và cái tn, cái bên trong và cả cái bên ngoài của sv. Nhưng con người

80
chưa phân biệt được… Yêu cầu của nhận thức là phải tách nó ra để nắm lấy
cái bc, tất yếu, cái bên trong…= tư duy trừu tượng.
+ NT lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng): là giai đoạn cao của quá
trình nhận thức- phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính,
những đặc điểm bản chất của đối tượng- được thể hiện ở các hình thức như
KN, PĐ, SL.
Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu trượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sv. Sự hình thành kn là kết quả của sự khái quát, tổng
hợp các đặc điểm, thuộc tính của sv hay 1 lớp sv. Các kn vừa có tính kq vừa
có tính cq, vừa có mqh tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận
động, biến đổi= linh động, mềm dẻo, năng động và là điểm nút của quá trình
tư duy trừu tượng và cơ sở hình thành phán đoán.
Phán đoán: là hình thức của tư duy liên kết các kn lại với nhau để kđ hay
pđ 1 đặc điểm, 1 thuộc tính nào đó của đối tượng.
Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra tri thức mới.
Như vậy, ntct và ntlt là có những đặc điểm khác nhau, nhưng chúng
thống nhất biện chứng với nhau. Ntct và ntlt là những nấc thang hợp thành
chu trình nhận thức. Chúng có nhiệm vụ, chức năng + khác nhau nhưng mỗi
giai đoạn có vai trò, vị trí của nó trong quá trình nhận thức. Chúng hỗ trợ, bổ
sung lẫn nhau, đem lại cho con người những hiểu biết sâu sắc về sự vật. Nếu
ntct gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính,
là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao,
lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động
của sv; giúp cho ntct có định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở ntlt thì con người mới chỉ có được những tri
thức về đối tượng. Còn bản thân những tri thức ấy có chân thực hay không thì
con người chưa biết dược. Trong khi đó thì nhận thức đòi hỏi phải xác định
xem những tri thức ấy có chân thực hay không. Để thực hiện được điều đó,

81
nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn,
làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình
nhận thức. Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất không gì thay thế được trong việc
đánh giá tính xác thực của những kết luận của nhận thức của những tri thức
thu được. Chính vì vậy, kết quả của nhận thức lý tính phải được thể nghiệm
trong thực tiễn, một mặt góp phần chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn, phục vụ thực
tiễn, mặt khác chịu sự kiểm tra, đánh giá tính xác thực của thực tiễn, để từ đó
khẳng định, bổ sung, hoàn thiện, phát triển những kết quả nhận thức thu được.
Bởi mọi nhận thức suy đến cùng đều là xuất phát từ thực tiễn và trở lại phục
vụ thực tiễn.`
b, Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn:
- Khái niệm chân lý:
Khái niệm chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp
với thực tế khách quan, sự phù hợp đó được kiểm tra và chứng minh bởi thực
tiễn.
- Các tính chất của chân lý:
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính
cụ thể.
+ Tính khách quan: chỉ tính độc lập về nội dung nó phản ánh đối với ý
chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế
khách quan chứ không phải ngược lại.
+ Tính tuyệt đối và tính tương đối:
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa
nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan.
Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Song khả năng
đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của
từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của
đối tượng được phản ánh. Do đó, chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực KQ mà

82
nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể
được phản ánh chỉ mới đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một
số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Mối quan hệ Bc giữa tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý có ý
nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan
trong nhận thức và trong hành động: quan điểm SH, CN giáo điều, bệnh bảo
thủ, trì trệ hoặc CN tương đối (đề cao, tuyệt đối hóa tính tương đối), CN chủ
quan, xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi, thuyết bất khả tri.
+ Tính cụ thể:
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung
phản ánh với một số đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử - cụ thể.
Lênin khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là
cụ thể”. Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa
PP luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Theo Lênin, bản chất, linh hồn sống của Chủ nghĩa Mác là phân tích cụ
thể mỗi tình hình cụ thể; rằng PP của Mác trước hết là xem xét nội dung
khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định.
- Vai trò của chân lý đối với thực tiễn:
+ Chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành
công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
+ Có quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn:
trong nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý,
phải coi chân lý cũng là một quá trình; tự giác vận dụng chân lý vào hoạt
động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến
giới tự nhiên và xã hội; coi trọng tri thức khoa học và vận dụng sáng tạo vào
trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò, hiệu quả của những
hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học
trong thực tiễn hiện nay.

83
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập:
Ôn tập toàn bộ những nội dung đã học, tập trung nghiên cứu:
1. Khái niệm, các hình thức cơ bản và đặc trưng của phép biện chứng
duy vật;
2. Các nguyên lý, các cặp phạm trù và các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật;
3. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
II. Nội dung thảo luận:
1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn
2. Vấn đề phủ định biện chứng
3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
4. Quan điểm của Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
và tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”.

84
Chương III. CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
GIỚI THIỆU
Chương 3 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử gồm: vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuât; biện chứng của cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội; phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội;
vai trò đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển
của xã hội có đối kháng giai cấp; quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về
con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 3 giúp người học:
- Nhận biết được chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy
vật biện chứng về xã hội, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của
CNDVBC và phép BCDV vào việc nghiên cứu dời sống xã hội và lịch sử
nhân loại.
- Hiểu được những nội dung cơ bản về vai trò của sản xuất vật chất và
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuât; biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội; phạm
trù hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển
các hình thái kinh tế - xã hội; vai trò đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội
đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp; quan điểm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của
quần chúng nhân dân.
- Phân tích được những vấn đề như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuât; biện chứng của cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội; phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và quá

85
trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội; quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử
của quần chúng nhân dân.
- Vận dụng được những quan điểm và lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương
hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
- Có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, vào sức mạnh của con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân.
- Hình thành phương pháp tư duy thực sự khoa học trong nghiên cứu đời
sống xã hội và lịch sử nhân loại.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.4: Nhận biết được chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm
duy vật biện chứng về xã hội, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận
của CNDVBC và phép BCDV vào việc nghiên cứu dời sống xã hội và lịch sử
nhân loại.
G2.3: Hiểu được những nội dung cơ bản về:
- Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuât;
- Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng;
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội;
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự
phát triển các hình thái kinh tế - xã hội;
- Vai trò đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động,
phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp;
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng
tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
G3.3: Phân tích được những vấn đề như nội dung của quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuât; biện chứng

86
của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội; phạm trù hình thái kinh tế -
xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế -
xã hội; quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người.
G4.3: Vận dụng được những quan điểm và lý luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra
phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
G5.3: Có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, vào sức mạnh của con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân.
G6: Hình thành phương pháp tư duy thực sự khoa học trong nghiên cứu
đời sống xã hội và lịch sử nhân loại.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó
a. Sản xuât vật chất và phương thức sản xuất
- Sản xuất vật chất: là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Như vậy, thực chất của quá trình sản xuất vật chất chính là quá trình con
người thực hiện việc cải biến môi trường tự nhiên nhằm mục đích sáng tạo ra
những điều kiện cần thiết để sinh tồn và phát triển.
Sản xuất vật chất có 2 đặc trưng cơ bản:
+ Thứ nhất, đây là hoạt động đặc trưng cho xã hội loài người, là phương
thức sinh tồn đặc trưng cho loài người, Loài vật không sản xuất, chúng chỉ
thích ứng với những biến đổi khách quan, tự phát của môi trường tự nhiên còn
loài người thì chủ động tiến hành cải biến môi trường tụ nhiên cho phù hợp
với nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình.

87
+ Thứ hai, đó là hoạt động có tính mục đích và tính sáng tạo. Tính sáng
tạo này thể hiện ở chỗ: con người có thể trên cơ sở nhận thức bản chất, quy
luật khách quan mà sáng tạo ra những cách thức- phương thức và công cụ vật
chất để làm cải biến các đối tượng khách quan, cải biến môi trường tự nhiên
theo nhu cầu của mình.
Sản xuất giữ vai trò gì đối với đời sống xã hội?
Vai trò của SXVC đối với đời sống XH: Theo quan điểm duy vật về
lịch sử thì SXVC giữ vai trò là nền tảng vật chất của toàn bộ đời sống của xã
hội loài người dù đó là cộng đồng XH nào, sơ khai nguyên thủy nhất hay hiện
đại nhất.
Có 2 lí do chính để luận chứng cho quan điểm này:
Một là, cộng đồng XH nào cũng được tạo nên từ những con người nhất
định, do đó, sự tồn tại, phát triển của con người là điều kiện cho sự tồn tại và
phát triển của XH. Nói cách khác, con người là chủ thể làm ra lịch sử của
chính mình – đó là lịch sử của những công trình vật chất và tinh thần vĩ đại
của các nền văn minh. Thế nhưng để làm ra lịch sử của mình thì con người
trước hết cần đến những tư liệu sinh hoạt cần thiết (cái ăn, cái mặc, cái ở…)
mà tất cả quan điểm của C. Mác: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới
có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết phải có thức ăn,
thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác. Như vậy, hành vi lịch sử đầu
tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản
xuất ra bản thân đời sống vật chất.
Hai là, thực chất của quá trình sản xuất là quá trình con người cải biến
môi trường tự nhiên mà muốn làm được điều đó thì trước hết con người cần
phải liên kết lại với nhau theo những cách thức nhất định – những sự liên kết
xuất phát trực tiếp từ nhu cầu này chính là quan hệ SX, trên cơ sở hình thành
và phát triển của quan hệ này mà có sự hình thành và phát triển hàng loạt
những mối quan hệ xã hội khác như quan hệ chính trị, văn hóa, luật pháp, đạo
đức, tôn giáo… C.Mác từng chỉ ra rằng: Trong sản xuất, người ta không chỉ
quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết

88
hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt
động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và
quan hệ nhất định với nhau, và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc
sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ của những mối liên hệ và quan hệ xã hội
đó.
Mặt khác, nếu hiểu xã hội là tổng thể của những hoạt động xã hội thì
trong đó hoạt động sản xuất vật chất chính là nền tảng hình thành các hoạt
động xã hội khác như: hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước, hoạt động
khoa học, hoạt động văn hóa, giáo dục… Cho dù xét từ giác độ nào logic hay
lịch sử thì cũng đều có thể thấy suy đến cùng, chính sản xuất vật chất là cơ sở
quyết định toàn bộ đời sống xã hội và lịch sử, quyết định sự sinh tồn và phá
triển của xã hội loài người.
Như vậy, lịch sử của nhân loại trước hết là lịch sử của quá trình sản xuất
vật chất, sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội chỉ thực sự có được trên cơ
sở phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội. Cũng chính vì vậy mà C.
Mác cho rằng: bản thân con người, bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay từ
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
- Phương thức sản xuất: cách thức mà con người sử dụng để tiến hành
quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi PTSX đều có 2 phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế:
+ Phương diện kỹ thuật, công nghệ: chỉ quá trình SX được tiến hành
bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối tượng của quá
trình Sx.
+ Phương diện kinh tế: chỉ quá trình SX được tiến hành với những cách
thức tổ chức kinh tế nào.
Hai phương diện này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất với nhau
nhưng đó là mối quan hệ thống nhất có bao hàm mâu thuẫn trong quá trình
vận động của PTSX, trong đó phương diện kỹ thuật, công nghệ của quá trình
SX giữ vai trò quyết định phương thức tổ chức kinh tế của quá trình đó.

89
b, Vai trò của sản xuât vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn
tại, phát triển của xã hội
Theo quan điểm DVLS:
+ SXVC giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con
người và xã hội;
+ Là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã
hội của con người;
+ Nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội
loài người.
Như vậy, sự phát triển của SXVC quyết định sự biến đổi, phát triển các
mặt của đời sống xã hội, quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp lên cao.
Hay nói cách khác, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy
đến cùng có nguyên nhân từ sự phát triển của của nền SX xã hội mà căn bản
là trình độ phát triển phương thức SX của nó.
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của PTSX đối với trình độ phát
triển của nền SX xã hội và do đó là với trình độ phát triển của đời sống xã hội
nói chung, CN MÁC - LÊNIN đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại
theo lịch sử thay thế và phát triển của các PTSX.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
a. Khái niệm
- LLSX: Là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất,
chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức SX làm cải
biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn
làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định
của con người và xã hội.
Theo cách định nghĩa này thì:
Thứ nhất: khi nói tới LLSX là nói tới toàn bộ, tổng thể các yếu tố được
sử dụng trong một quá trình sản xuất nhất định.
Bao gồm:

90
+ Người lao động: Thực chất là sức lao động của người lao động – là
nhân tố giữ vai trò quyết định vì TLSX suy đến cùng về căn bản cũng chỉ là
sản phẩm lao động của người lao động, đồng thời giá trị thực tế của nhân tố tư
liệu sản xuất ntnào trong lực lượng SX cũng là cái được quyết định bởi năng
lực sử dụng của người lao động trong thực tế sản xuất.
+ Tư liệu sản xuất (đối tượng LĐ, công cụ LĐ, các tư liệu phụ trợ của
quá trình SX…). Trong đó công cụ Sx là nhân tố thường đóng vai trò quan
trong nhất và thể hiện rõ nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Trong nhân tố người lao động cũng có thể phân tách thành các yếu tố: Sức lao
động cơ bắp, tri thức, kỹ năng của người lao động và một số nhân tố khác…
tạo thành khả năng thực tế của người lao động. Trong xã hội công nghiệp hiện
đại, thông thường các nhân tố thuộc về tri thức, kỹ năng lao động của người
lao động được đánh giá là những nhân tố ngày càng giữ vai trò, vị trí quan
trọng trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội (Người công nhân)
Thứ hai, khi nói tới LLSX thì không chỉ là nói tới tổng thể số lượng các
nhân tố cấu thành mà còn là và cơ bản là phải phân tích làm sáng tỏ mối quan
hệ giữa các yếu tố dược vận dụng trong quá trình SX thực tế, nhờ đó, nó mới
có thể tạo thành năng lực thực tiến làm cải biến các đối tượng tự nhiên, sức
mạnh cải biến môi trường tự nhiên theo nhu cầu của con người. Đây chính là
phương diện chất của LLSX. Nói cách khác, chính nhờ mối quan hệ kết hợp
này mà số lượng và chất lượng của các nhân tố cấu thành LLSX có thể phát
huy vai trò thực tế với tư cách là sức SX của xã hội. Như vậy với số lượng và
chất lượng các nhân tố LLSX như nhau nhưng lại có thể tạo ra những chất
lượng tổng thể sức sản xuất khác nhau, phản ánh trình độ chinh phục giới tự
nhiên khác nhau.
LLSX là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá
trình SX; không thể có 1 quá trình SX nào có thể diễn ra nếu thiếu một trong
2 nhân tố trên của LLSX.
Vậy có thể hiểu ntnào về mệnh đề “khoa học trở thành LLSX trực
tiếp? ( Có nhiều ý kiến nhưng có 1 nghĩa cơ bản: đó là quá trình sáng tạo tri

91
thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và những ứng dụng tri thức ấy xuất phát
trực tiếp từ nhu cầu phát triển của quá trình sản xuất xã hội và nó được thể
hiện rõ nhất ở các tổ chức kinh tế tri thức - một loại hình tổ chức kinh tế hiện
đại nhất đã và đang hình thành ở nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Ngoài ra mệnh đề này còn được hiểu là sự thâm nhập ngày càng tăng của
những tri thức khoa học và sáng chế kỹ thuật, công nghệ mới vào các nhân tố
của LLSX. Đây là vấn đề còn được nghiên cứu thêm)
- QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
và tái SX xã hội (sản xuất- phân phối- trao đổi- tiêu dùng).
Cách hiểu này đã cho thấy sự khác nhau giữa QHSX, với tư cách là một
loại hình quan hệ giữa người với người trong đời sống xã hội, với các quan hệ
xã hội khác: chính trị, văn hóa, khoa học…Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn
thì có thể thấy cách định nghĩa đó và còn chưa phân biệt mối quan hệ trên
phương diện kỹ thuật và trên phượng diện kinh tế giữa con người ta với nhau
trong quá trình sản xuất, bời vì, trong mỗi quá trình Sx đều luôn luôn diến ra
sự tồn tại song trùng của quan hệ kỹ thuật và quan hệ kinh tế- hai mặt thống
nhất của mỗi phương thức SX nhất định.
Vì vậy, có thể chỉ rõ hơn: khái niệm QHSX dùng để chỉ tổng thể các mối
quan hệ kinh tế của xã hội, nảy sinh tất yếu do nhu cầu khách quan của việc
tiến hành các quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội – tức những quan
hệ tất yếu khách quan cần phải có để thực hiện được những lợi ích kinh tế
giữa con người ta với nhau và do đó mà có thể diễn ra được quá trình sản xuất
và tái sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa đã xác định này thì:
Thứ nhất, không phải toàn bộ các mqh giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất của xã hội đều là những QHSX mà chỉ có những
quan hệ kinh tế của quá trình đó mới thuộc khái niệm QHSX.
Thứ hai, những QHSX trong cách hiểu này là chỉ những quan hệ sản
xuất hiện thực, có tính khách quan, chứ không phải là bao gồm cả những
“quan hệ kinh tế ảo” có thể phát sinh do tính chất pháp lí của nó. Nói cách

92
khác, cần phải phân biệt phương diện pháp lý và phương diện kinh tế hiện
thực của những QHSX. Phương diện pháp lý của những QHSX là chỉ phương
diện thể chế hóa bằng các công cụ pháp luật đốii với những QHSX hiện thực
khách quan, nó có thể mang tính chất chủ quan trong những phạm vi nhất
định, và như vậy, nó là phạm trù thuộc KTTT của xã hội. nó chỉ là sự phản
ánh dưới hình thúc pháp lý đối với những QHSX hiện thục khách qan.
QHSX bao gồm những quan hệ cơ bản nào?
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: quan hệ cơ bản nhất, quyết
định nhất. Đó không phải là mối quan hệ giữa người với TLSX mà là mối
quan hệ kinh tế giữa con người ta với nhau. Về phương diện pháp lý, địa vị và
lợi ích của con người ta với nhau đối với TLSX thường mang một hình thức
là tập hợp của các quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng…các tư liệu đó.
Trong lịch sử nhân loại đã tồn tại hai loại sở hữu cơ bản là sở hữu tư
nhân và sở hữu cộng đồng về TLSX, tương ứng với hai loại đó là hai loại chế
độ kinh tế cơ bản: chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX và chế độ chiếm hữu
cộng đồng về TLSX. Mỗi loại đó lại có những hình thức thích hợp với các
điều kiện xác định. (liên hệ VN hiện nay: đa dạng nhưng sở hữu toàn dân - do
nhà nước thống nhất quản lý và sở hữu tập thể về TLSX chủ yếu được xác
định là chế độ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH).
+ Quan hệ trong tổ chức- quản lý quá trình SX: thực chất là xác định địa
vị chi phối, điều khiển quá trình SX.
+ Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất: với tư cách là
quan hệ kinh tế (QHSX) chính là mối quan hệ giữa con người ta với nhau
trong việc xác định về quy mô cũng như phương thức phân chia lợi ích có
được nhờ quá trình sản xuất- tức lợi ích kinh tế.
QHSX đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất.
Như vậy, khi phân tích khái niệm quan hệ sản xuất cần đặc biệt lưu ý
phân định rõ hai phương diện giữa người với người trong quá trình sản xuất:
phương diện kỹ thuật và phương diện kinh tế. Quan hệ sản xuất là khái niệm
chỉ khái quát phương diện kinh tế của quá trình đó, còn phương diện kỹ thuật

93
quá trình sản xuất thuộc về khái niệm lực lượng sản xuất. Đây là sự phân tích
hết sức tinh tế và chỉ có sự phân biệt được như vậy mới có thể nhận thấy tính
quyết định khách quan của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tính tất
yếu về phương diện kỹ thuật của quá trình sản xuất quyết định tính khách
quan của những quan hệ kinh tế của quá trình đó.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất
của toàn bộ xã hội, quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội
loài người, bởi vì nó là quy luật vận động và phát triển của phương thức sản
xuất mà phương thức sản xuất lại là nhân tố quyết định trình độ phát triển cúa
nền sản xuất xã hội. Hàng loạt các quy luật khác của xã hội, suy đến cùng,
đều có căn nguyên từ sự tác động của quy luật này. Bởi vậy, hiểu rõ mối quan
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là điều kiện cơ
bản để phân tích một cách chính xác đối với các vấn đề khác của đời sống xã
hội.
Có thể phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trên 4 phương diện cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai phương
diện cơ bản, tất yếu của mỗi phương diện sản xuất- mỗi quá trình sản xuất
nhất định, do đó chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất ràng buộc lẫn
nhau, chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất của xã hội. Nói cách khác,
mỗi phương thức sản xuất hay mỗi quá trình sản xuất không thể tiến hành
được nếu như thiếu một trong hai phương diện đó, trong đó lực lượng sản
xuất chính là nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này, còn
quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó. Mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ tất yếu
giữa nội dung và hình thức của cùng một quá trình sản xuất khách quan của
xã hội.

94
Thứ hai: Trong mối quan hệ này, LLSX đóng vai trò mang tính quyết
định đối với QHSX. Tính quyết định của LLSX với QHSX được thể hiện hai
mặt thống nhất với nhau: LLSX nào thì QHSX đó và cũng do đó mà khi
LLSX có những thay đổi thì cũng tất yếu đòi hỏi phải có những thay đổi nhất
định đối với QHSX trên các phương diện sở hữu, tổ chức – quản lý và phân
phối. Sự thay đổi này có thể diễn ra với sự nhanh chậm khác nhau, mức độ
khác nhau, phạm vi khác nhau… nhưng tất yếu sẽ diễn ra những thay đổi nhất
định bởi vì những QHSX chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, còn
LLSX đóng vai trò là nội dung vật chất của quá trình đó, nội dung quyết định
hình thức.
Thứ ba: Với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình SX, QHSX luôn
có khả năng tác động trở lại đối với việc bảo tồn, khai thác- sử dụng và phát
triển LLSX. Sự tác động trở lại của QHSX thể hiện rõ nhất trên phương diện
của quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất của xã hội. Quá trình tác động
trở lại của QHSX đối với LLSX có thể diễn ra với hai khả năng: tác động tích
cực hoặc tác động tiêu cực. Khi mà QHSX phù hợp với nhu cầu khách quan
bảo tồn, khai thác sử dụng và phát triển của LLSX thì nó có tác dụng tích cực
thúc đẩy LLSX phát triển , ngược lại nếu trái với nhu cầu khách quan đó thì
nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực. Trong đời sống hiện thực kinh
tế, có thể dùng tiêu thức nào để đánh giá sự phù hợp hay không của QHSX
với trình độ phát triển của LLSX? Có thể có nhiều cách đánh giá, nhưng có
thể khái quát vào ba tiêu thức từ thấp đến cao sau đây: (1) LLSX hiện có của
xã hội, của mỗi chủ thể kinh tế có được bảo tồn- duy trì hay không? (2)
LLSX của xã hội, của mỗi chủ thể kinh tế có được huy động tối đa (về lượng)
và sử dụng có hiệu quả (về chất) hay không? (3) Do đó, LLSX đó có được
thường xuyên phát triển hay không (tư liệu Sx có đổi mới? Trình độ và cuộc
sống của người lao động có được nâng cao và được cải thiện hay không?
Trong thực tiễn kinh tế các tiêu thức cơ bản này lại có thể được chi tiết hóa và
có thể có những thước đo hoặc các chỉ số đánh giá cụ thể, thí dụ, có thể dùng
chỉ số tăng trưởng kinh tế (GDP) hoặc các chỉ số khác như: GNP, HDI… để

95
xác định theo các thời kỳ nhất định của mỗi quốc gia , chẳng hạn theo chu kỳ
mỗi năm.
Thứ tư: mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn
biện chứng tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng, khả năng vận
động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng này là đi từ sự
thống nhất đến những khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu
phát triển của LLSX với QHSX kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt đầu nhu
cầu của những cuộc cải cách hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm thực
hiện sự cải biến những QHSX hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với
nhu cầu phát triển của LLSX, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của QHSX
với LLSX. Sở dĩ mối quan hệ giữa LLSX với QHSX là MQH thống nhất của
các mặt đối lập là vì tính chất biến đổi của LLSX và QHSX là khác nhau:
LLSX có xu hướng “động”, còn QHSX thì ngược lại có xu hướng “tĩnh”. Xu
hướng “động” và “tĩnh” của hai phương diện LLSX và QHSX đều là khách
quan. Trong điều kiện bình thường thì chỉ có trong sự ổn định tương đối của
những hình thúc kinh tế nhất định LLSX mới có thể được duy trì, khai thác –
sử dụng và phát triển. Nhưng chính sự phát triển không ngừng của LLSX
trong phạm vi ổn định của quan hệ sản xuất lại tất yêu dẫn đến khả năng ngày
càng bộc lộ mâu thuẫn với những hình thưc kinh tế hiện thời mà lâu nay
LLSX phát triển trong đó thì mới có thể có được sự phát triển hơn nữa của
LLSX. Như vậy là, sự vận động của mâu thuẫn BC giữa LLSX với QHSX là
đi từ thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì lại
thiết lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá
trình vậ động và phát triển của PTSX – của nền SX xã hội và sự phát triển của
lịch sử loài người.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất BC,
trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX
+ LLSX và QHSX là 2 mặt cơ bản, tất yếu của quá trình SX, trong đó
LLSX là nội dung vật chất của quá trình SX, còn QHSX là “hình thức xã hội”
của quá trình đó. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của LLSX

96
cũng tất yếu đòi hỏi phải có QHSX phù hợp với thực trạng đó trên cả 3
phương diện: sở hữu - tổ chức, quản lý - phân phối. Chỉ có như vậy, LLSX
mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng - không ngừng phát triển. Ngược
lại, LLSX chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử dụng - không ngừng phát
triển trong một hình thức kinh tế - xã hội nhất định.
+ Mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX tuân theo nguyên tắc
KQ: QHSX phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của LLSX trong mỗi giai
đoạn lịch sử xác định, bởi vì, QHSX chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá
trình SX, còn LLSX là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Tuy
nhiên,với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình SX nên nó luôn
có khả năng tác động trở lại LLSX theo 2 hướng - tích cực hoặc tiêu cực.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất BC có
bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Trong phạm vi phân tích sự phát triển của xã hội, mâu thuẫn và sự vận
động của mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX chính là nội dung cơ bản của quy
luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự tác động của
quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động,
phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó là sự vận động, phát triển của toàn
bộ đời sống xã hội; sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại từ phương
thức sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để giải
thích 1 cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội
và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng đồng người
trong lịch sử.
II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Khái niệm
- CSHT: dùng để chỉ toàn bộ những QH SX hợp thành cơ cấu kinh tế của
xã hội.
Hệ thống QHSX của một xã hội gồm: QHSX thống trị - QHSX tàn dư –
QHSX mới. Vai trò “kép”:

97
+ Với LLSX, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự duy trì,
phát huy và phát triển LLSX.
+ Với các quan hệ chính trị - xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hình thành
kết cấu kinh tế, làm cơ sở hiện thực cho sự thiết lập một hệ thống KTTT của
xã hội.
KTTT: Dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội
cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng được hình thành trên một
cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội gồm: hình thái ý thức chính
trị, pháp quyền, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật…
Các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng gồm: Nhà nước, chính đảng,
giáo hội, các tổ chức đoàn thể…Trong xã hội có giai cấp, HT ý thức chính trị,
pháp quyền cùng thiết chế Nhà nước, chính đảng đóng vai trò quan trọng
nhất.
Nhà nước là bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của
XH trong điều kiện XH có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, NN là hệ thống
tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển mọi
hoạt động của XH và công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng
XH cùng chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ
NN nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai
cấp thống trị, tức là giai cấp nắm giữ được những tư liệu SX chủ yếu của xã
hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực NN.
2. Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
CSHT và KTTT là 2 phương diện cơ bản của đời sống XH- phương diện
kinh tế và phương diện chính trị.
a, Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT
Thể hiện:
+ Tương ứng với một CSHT sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp, có tác
dụng bảo vệ CSHT đó.

98
+ Những biến đổi trong CSHT tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến
đổi tương ứng trong KTTT.
+ Tính chất mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn
trong hệ thống KTTT. Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thứ hệ xã hội và những
xung đột chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu
tranh giành quyền lợi, lợi ích kinh tế trong cơ sở kinh tế của XH (gc nắm tư
liệu SX chủ yếu…).
Như vậy, CSHT quyết định KTTT còn KTTT là sự phản ánh đối với
CSHT, phụ thuộc vào CSHT.
Tính chất phụ thuộc của KTTT vào CSHT có nguyên nhân từ tính tất yếu
kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực của đời sống XH như chính trị, pháp
luật… hoặc các lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại
phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển các LLSX khách
quan của xã hội.
b, Vai trò tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Các yếu tố của KTTT có tính độc lập tương đối của nó và thường xuyên
có vai trò tác động trở lại CSHT của XH.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể thông qua nhiều phương
thức (trực tiếp, trung gian, đường vòng…) vì nó tùy thuộc vào bản chất, vị trí,
vai trò của từng nhân tố trong KTTT và những điều kiện cụ thể. Trong, đó
Nhà nước là nhân tố tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới CSHT kinh
tế của XH.
Sự tác động của các yếu tố thuộc KTTT có thể diễn ra nhiều xu hướng,
có thể khác nhau, thậm chí là đối lập nhau - điều đó phản ánh tính chất mâu
thuẫn lợi ích của các giai cấp, tầng lớp XH khác nhau và đối lập nhau.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể diễn ra theo xu hướng tích
cực hoặc tiêu cực, phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các yếu
tố KTTT đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế.
Nhưng KTTT không thể giữ vai trò quyết định, CSHT của XH vẫn tự mở
đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.

99
III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC
LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THÚC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
a, Khái niệm:
- Khái niệm TTXH dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
- Khái niệm YTXH dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã
hội, nảy sinh từ TTXH và phản ánh TTXH trong những giai đoạn phát triển
nhất định.
Có thể tiếp cận kết cấu của YHXH từ những phương diện khác nhau:
- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội có: YT chính trị,
YT pháp quyền, YT đạo đức, YT tôn giáo, YT thẩm mỹ, YT khoa học…
- Theo trình độ phản ánh của YTXH đối với TTXH:
+ YTXH thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm…
của những con người trong 1cộng đồng người nhất định dược hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được khái quát hóa, hệ
thống hóa thành lý luận.
+ YTXH lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được khái quát hóa, hệ
thống hóa thành các học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù, quy luật. YTLL có khả năng phản ánh hiện thực khách quan
một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của
các sự vật, hiện tượng. YTLL đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo
thành các hệ tư tưởng.
- Theo trình độ và phương thức phản ánh:
+ Tâm lý XH: là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí…
của những cộng đồng người nhất định, là sự phản ánh trực tiếp và tự phát đối
với hoàn cảnh sống của họ.
TLXH là chỉ bộ phận YTXH có đặc tính phản ánh trực tiếp và tự phát
đối với TTXH, được cấu thành từ các nhân tố tình cảm, khát vọng, ý chí…
của các cộng đồng người nhất định.

100
VD: tình cảm yêu nước, ý chí độc lập, tự cường, khát vọng tự do…
những cộng đồng những người VN trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm
qua là thuộc đời sống TLXH.
TLXH một khi trở thành yếu tố bền vững của một cộng đồng người thì
nó được thể hiện trong các phong tục, tập quán.. của cộng đồng đó, khi đó
chúng được văn hóa hóa và trở thành các thành tố quan trọng trong một nền
văn hóa truyền thống.
VD: trong truyền thống của người Vn thì tình cảm yêu nước, khát vọng
độc lập, yêu quê hương xòm làng.. đã dược thăng hoa trở thành 1 nét đẹp
truyền thống được thể hiện qua các biểu tượng văn hóa, các lễ hội, trong văn
hóa thôn dã.. Những yếu tố này giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống hiện thực cộng đồng.
+ Hệ tư tưởng: là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như
chính trị, đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật… là sự phản ánh tự giác và
gián tiếp đối với TTXH.
Trong xã hội có GC, YTXH cũng mang tính giai cấp vì:
# Trong Xh có giai cấp thì các gc có địa vị xã hội khác nhau, vai trò xã
hội khác nhau, điều kiện sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau nên ý thức xã
hội của các giai cấp là khác nhau. Nói khác đi,YTXH mang tính GC
# Tính iai cấp của YTXH thể hiện cả trong hiện tượng tâm lý XH và hệ
tư tưởng. TLXH, mỗi giai cấp có tình cảm, thói quen, tâm trạng… riêng. Về
mặt hệ TT thì tính Gc thể hiện sâu sắc hơn: quan điểm chính trị, đạo đức,
pháp luật… khác nhau, thậm chí là đối lập nhau giữa các GC. Ví dụ: Văn học
PK- bình dân và bác học… Nhưng hệ tư tưởng thống trị XH bao giờ cũng là
hệ tư tưởng của GC thống trị XH, nó có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng, ý thức
của các GC khác trong đời sống XH. VD: XH PK với tư tưởng “thiên mệnh”,
thuyết tam cương, ngũ luân, hôn nhân…
Hình thái ý thức chính trị: xuất hiện và tồn tại trong các XH có giai cấp
và nhà nước, nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai

101
cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với
quyền lực nhà nước.
Hình thái ý thức pháp quyền: là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một
giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà
nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp
của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con
người trong việc thực thi luật pháp của Nhà nước.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ…
Hình thái ý thức đạo đức: chỉ toàn bộ những quan niệm, tri thức và các
trạng thái cảm xúc tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện,
ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng.. và về những quy tắc đánh
giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá
nhân trong xã hội; ra đời sớm – xã hội nguyên thủy.
Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng
tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản qui định
gương mặt đạo đức của mỗi con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của
con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện
tiến bộ xã hội.
Hình thái ý thức khoa học: vừa là 1 hình thái ý thức xã hội vừa là 1 hiện
tượng xã hội đặc biệt. Với tư cách là 1 hình thái ý thức xã hội: là một hệ
thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng logic trừu tượng về thế giới đã
được kiểm nghiệm qua thực tiễn. đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao
quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là 1 trong những khác
biệt giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.
Hình thúc biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học: phạm trù, định luật,
quy luật.
Xét về đối tượng, các khoa học chia thành: Kh tự nhiên, KH xã hội.
Nghiên cứu những quy luật chung nhất: Triết học.
Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển
sản xuất. Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học

102
cũng không ngừng phát triển. Trong quá trình đó vai trò của khoa học trong
đời sống xã hội cũng không ngừng được nâng lên.
Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh
trong mọi nhân tố của LLSX- trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình
công nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người
lao động không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà
chủ yếu là vận dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa
học cho phép hoàn thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý
kinh tế. Hơn nữa khoa học còn trở thành 1 ngành hoạt động sản xuất với quy
mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí
nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu
quả đầu tư ngày càng cao. Do những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học
đối với sản xuất mà khoa học trở thành LLSX trực tiếp.
Hình thái ý thức thẩm mỹ: là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người
troing quan hệ với nhu cầu thưởng thưc và sáng tạo cái đẹp. Trong các hình
thức hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp thì nghệ thuật là hình thức
biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.`
Hình thái ý thức tôn giáo: là 1 hình thái ý thức xã hội thực hiện chức
năng chủ yếu của mình là chức năng đền bù hư ảo trong một xã hội cần đến
sự đền bù hư ảo.
b, Vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH
- Theo quan điểm của CNDVLS, TTXH quyết định YTXH; YTXH là sự
phản ánh TTXH và phụ thuộc vào TTXH (nghệ thuật-thời đại Phục hưng, tư
tưởng, chính trị- thời Xuân Thu, chiến quốc, pháp quyền…); Mỗi khi TTXH
biến đổi (đặc biệt là PTSX) thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan
điển về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức… tất yếu sẽ biến đổi theo-
mức độ nhanh, nhịp độ thay đổi của các bộ phận trong YTXH diễn ra khác
nhau như chính trị, pháp luật (nhanh), nghệ thuật, tôn giáo (chậm). Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư

103
tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống
vật chất quyết định.
- Quan điểm của CNDVLS về nguồn gốc của YTXH không phải dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của YTXH vào TTXH mà còn chỉ ra rằng
TTXH qđ YTXH không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường qua các
khâu trung gian – nhiều khi xét đến cùng chúng ta mới thấy rõ những mối
quan hệ kinh tế được phản ánh cách này hay cách khác trong các tư tưởng,
quan niệm (nghệ thuật, đạo đức…).
2. Tính độc lập tương đối của YTXH
Nội dung tính độc lập tương đối của YTXH được phân tích trên các
phương diện chính sau đây:
Thứ nhất, YTXH thường lạc hậu hơn so với TTXH
Vì:
- Do bản chất của YTXH chỉ là sự phản ánh TTXH cho nên nói chung
YTXH chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của TTXH. Mặt khác, sự
biến đổi của TTXH do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của
hoạt động thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh
kịp. Ví dụ: luật pháp (nhiều điều luật lạc hậu, chậm được điều chỉnh, bổ sung
so với thực tiễn; nghệ thuật, báo chí…)
- Do sức mạnh của tâm lý, thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do
tính bảo thủ, lạc hậu của một số hình thái YTXH (Đạo đức, tôn giáo…)
- YTXH luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những gc nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường
được các thế lực, lực lượng xh phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống
lại lực lượng tiến bộ (đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán, truyền thống…)
Khắc phục? phát triển kinh tế - xã hội (vùng sâu, vùng xa, vùng có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống…), phát triển KH-KT, giáo dục ý
thức tiến bộ, đấu tranh chống những lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ.
Thứ hai, YTXH có thể vượt trước TTXH

104
Tư tưởng con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiến tiến có thể
vượt trước sự phát triển của TTXH, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người…
Thứ ba, YTXH có tính kế thừa trong sự phát triển của nó
- Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH trong sự phát triển
của chúng
Các hình thái YTXH phản ánh TTXH các góc độ khác nhau nhưng giữa
chúng có sự tác động qua lại, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau.
Ví dụ: ý thức chính trị và ý thức pháp luật tác động qua lại, trực tiếp lẫn
nhau; Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật tác động, bổ sung cho nhau.
Ở mỗi thời đại nhất định, có một số hình thái ý thức nổi lên, có vai trò
chi phối, ảnh hưởng đến các hình thái ý thức khác. VD: triết học thời cổ đại,
thần học thời trung cổ, chính trị trong thời cận, hiện đại…
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại TTXH.
- CNDT tuyệt đối hóa vai trò của YTXH
- Quan điểm DV tầm thường – CNDV kinh tế: phủ nhận tác dụng tích
cực của YTXH trong đời sống XH.
Theo AG: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả
chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng tùy thuộc vào:
+ Những điều kiện lịch sử cụ thể,
+ Vào tính chất của các mqh kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh,
+ Vai trò lịch sử của gc mang ngọn cờ tư tưởng,
+ Mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển
xh, mức độ mở rộng tư tưởng trong quần chúng…
Cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản
tiến bộ đối với sự phát triển XH.

105
- Quan điểm macxit về vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH và
tính độc lập tương đối của YTXH là một trong những nguyên lý cơ bản của
CNDV lịch sử, một trong những cơ sở PPL căn bản của hoạt động nhận thức
và thực tiễn.
Theo nguyên lý này, một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời
sống tinh thần XH cần phải căn cứ vào TTXH đã làm nảy sinh ra nó, mặt
khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác
nhau thuộc nội dung của tính độc lập tương đối của YTXH.
Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới cần phải tiến hành
đồng thời 2 mặt, trong đó việc thay đổi TTXH có là điều kiện cơ bản nhất, có
ý nghĩa quyết định nhưng những thay đổi trong đời sống tinh thần Xh với
những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc
trong biến đổi xã hội.
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ
NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1.Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
- Khái niệm:
Phạm trù HTKTXH dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ
nhất định của LLSX và với một KTTT tương ứng được xây dựng trên những
QHSX ấy.
- Cấu trúc:
HT KT-XH là 1 hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, nhưng có 3
mặt cơ bản là: LLSX, QHSX, KTTT - Mỗi mặt này có vị trí riêng nhưng tác
động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó:
+ Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái
kinh tế - xã hội.
+ Các QHSX tạo thành cơ sở hạ tầng của hình thái KT-XH và quyết định
các quan hệ xã hội. QHSX là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã
hội này với chế độ xã hội khác.

106
+ KTTT do CSHT sinh ra và quy định những nó co nhiệm vụ bảo vệ,
duy trì, phát triển CSHT sinh ra nó.
+ Ngoài những mặt cơ bản nói trên, mỗi hình thái KH-XH còn có những
quan hệ: dân tộc, gia đình và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều
gắn bó chặt chẽ với QHSX và biến đổi cùng với sự biến đổi của QHSX.
2.Quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội
Nội dung chủ yếu:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ
quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật
của chính bản thân cấu trúc HTKT-XH, là hệ thống các quy luật XH thuộc các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học… mà trước hết và căn bản nhất
là quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX và quy luật KTTT phù
hợp với CSHT.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của XH, của lịch sử
nhân loại. của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,,, của XH, suy đến cùng
đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp tự sự phát triển của LLSX của xã
hội đó.
Ba là, quá trình phát triển của các HTKT-XH, tức là quá trình thay thế
lẫn nhau của các HTKT-XH trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát triển
của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ
quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các nhân
loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của quy
luật khách quan. Dưới tác động của các quy luật khách quan mà lịch sử các
HTKT-XH: Nguyên thủy, nô lệ, PK, TBCN và tương lai nhất định thuộc về
HTKT-XH CSCN.
Lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người
nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa
dạng của các nhân tố khác nhau như điều kiện lịch sử, tương quan lực lượng
chính trị của các gc, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa, điều kiện tác động

107
của tình hình quốc tế… trong đó đáng chú ý là nhân tố hoạt động chủ quan
của con người. Từ đó, lịch sử phát triển của nhân loại được biểu hiện ra là lịch
sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
3. Giá trị khoa học của lý luận HTKT - XH
- Theo lý luận HTKT-XH, SXVC chính là cơ sở của đời sống xã hội,
PTXS quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố
quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì
vậy, không thể xuất phát từ YT, TT hoặc từ ý chí chủ quan của con người để
giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân
thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát
triển của phương thúc sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát
triển của LLSX hiện thực.
- Theo lý luận HTKT-XH, XH không phải là sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương
diện của đời sống XH tồn tại trong một hệ thống cấu trúc chặt chẽ, tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó, QHSX đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết
định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế
độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử
dụng PP luận trừu tượng hóa khoa học – đó là cần phải xuất phát từ quan hệ
sản xuất hiện thực của XH để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau
(chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học,,.) của đời sống xã hội và mối quan hệ
lẫn nhau giữa chúng.
- Theo lý luận HTKT-XH, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá
trình LS-TN, tức là quá trình diễn ra theo quy luật khách quan chứ không theo
ý muốn chủ quan, do vậy, muốn nhận thức và giải quyết có hiệu quả, đúng
đắn các vấn đề của đời sống XH thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận
động và phát triển của xã hội.
Đây là những giá trị có ý nghĩa PP luận chung nhất của việc nghiên cứu
về xã hội và lịch sử nhân loại, từng cộng đồng người… LN: lý luận đó không

108
bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương
pháp…”duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử.
V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI
KHÁNG GIAI CẤP
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã
hội có đối kháng giai cấp
a.Khái niệm: “Người ta gọi là gc, những tập đoàn người to lớn gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội
nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan
hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất,
về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về
cách thức hưởng thụ phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
- Thực chất của sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã
hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác nhau và đối
lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ xã hội nhất định, do đó, tất yếu
dẫn tới việc “tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn người
khác”.
- Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: gc nào nắm được trong tay tư liệu SX
chủ yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ
quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở
thành giai cấp thống trị xã hội, thực hiện được việc chiếm đoạt lao động của
giai cấp khác và duy trì được tình trạng tương đối ổn định của xã hội trong
tình trạng có phân hóa, đối kháng giai cấp.
- KN gc không đơn thuần là một kn của khoa học chính trị mà còn là một
kh phản ánh mối quan hệ khách quan trong lĩnh vực kinh tế cũng như giữa
lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị; phản ánh mối quan hệ kinh tế - chính trị
của các tập đoàn người trong xã hội.
- KN tầng lớp xã hội: được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân
nhóm giữa những người trong cùng một gc theo địa vị và sự khác biệt cụ thể

109
của họ trong gc đó như: tầng lớp công nhân làm thuê lao động đơn giản, lao
động phức tạp, LĐ chuyên gia… hoặc dùng để chỉ những nhóm người ngoài
kết cấu các gc trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, trí thức,
tiểu nông…
b, Nguồn gốc giai cấp:
- Là hiện tượng có tính lịch sử
- Nguồn gốc trực tiếp: của sự phân hóa gc là do sự ra đời, tồn tại của chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu SX.
- Nguồn gốc sâu xa: do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ
xã hội hóa cao của LLSX.
Sự sinh thành và phát triển GC trong lịch sử có thể diễn ra với những
mức độ, hình thức khác nhau ở các cộng đồng XH khác nhau. Điều đó phụ
thuộc vào sự tác động cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến
trình vận động của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có 2 hình thức cơ bản:
Nhân tố bạo lực (tước đoạt tư liệu sx- “cừu ăn thịt người”, tích lũy tư bản
nguyên thủy: cướp biển, buôn bán nô lệ, chiến tranh cướp bóc thuộc địa) và
sự tác động của quy luật kinh tế (qui luật giá trị - sx hàng hóa và hệ quả là
phân hóa giai cấp) làm phân hóa những người SXHH trong nội bộ cộng đồng
XH.
c, Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã
hội có đối kháng giai cấp
Theo LN: KNĐTGC dùng để chỉ “cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn
áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của ngững người công nhân làm thuê
hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”
Thực chất của đấu tranh GC là cuộc đấu tranh của những người lao động
làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về
kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu
thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị - xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị
ở những phạm vi và mức độ khác nhau.

110
- Hình thức, phạm vi, trình độ khác nhau (có thể mang những hình thức
đấu tranh dân tộc, tôn giáo (Ki tô giáo, Phật giáo…), văn hóa (NT vị NT hay
NT vị Nhân sinh 1930-1945, văn hóa Phục hưng…)
- Vấn đề Nhà nước: trung tâm, cơ bản của các cuộc đấu tranh GC (Cuộc
đấu trang Gc đạt đến trình độ đấu tranh chính trị - đấu tranh giành chính
quyền, lật đổ NN cũ và thiết lập NN mới).
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà
là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết
được – là công cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế cuộc ĐTGC của GC
những người lao động. Bản chất: là công cụ chuyên chính giai cấp của các
GC bóc lột trong lịch sử đối với nô lệ hay lao động làm thuê.
- Vai trò: ĐTGC là một trong những phương thức, động lực của sự tiến
bộ, phát triển XH trong điều kiện XH hội có sự phân hóa thành đối kháng GC.
Trong điều kiện XH có sự phân hóa GC và mâu thuẫn đó được bộc lộ và
biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị - xã
hội thì MT đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông
qua việc giải quyết MTĐKGC trên lính vực chính trị - xã hội. Như vậy,
MTGC và ĐTGC đã trở thành cơ chế chính trị -xã hội để giải quyết mâu
thuẫn trong PTSX, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển LLSX,
thúc đẩy sự phát triển của XH.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phat triển của xã hội có
đối kháng giai cấp
a, CMXH và nguyên nhân:
- Theo nghĩa rộng: CMXH là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản
về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống XH, là phương thức chuyển
từ một HTKT-XH lỗi thời lên một HTKT-XH mới ở trình độ phát triển cao
hơn.
- Theo nghĩa hẹp: CMXH là việc lật đổ một chế độ chính trị lỗi thời và
thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp CM.
Vấn đề cơ bản: Giành chính quyền nhà nước

111
Cải cách XH: những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực
của đời sống XH, trong phạm vi một HTKT-XH nhằm hoàn thiện HTKT-XH
đó như CC thể chế kinh tế, CC nền HC quốc gia, CC giáo dục…
Đảo chính: dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà
nước giữa các lực lượng chính trị (thường là trong cùng 1 GC) và với chủ
trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thể tiến hành dưới
hình thức bạo lực hay phi bạo lực vũ trang.
- NN sâu xa: Mt gay gắt trong nền SXVC của XH – LLSX mâu thuẫn
với QHSX mà biểu hiện về mặt CT-XH đó là cuộc đấu trang GC tất yếu dẫn
đến bùng nổ CM. Đây cũng là NN KQ của CMXH.
- NN chủ quan: Sự phát triển của GCCM – đại diện cho PTSX mới, cả
về nhận thức và tổ chức. Cuộc đấu tranh đó chuyển từ tự phát lên tự giác và
khi có sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức là
tạo được thời cơ CM, thì khi đó tất yếu CM sẽ bùng nổ và có khả năng thành
công.
b, Vai trò của CMXH đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng
giai cấp
CMXH giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự
phát triển XH – “đầu tàu lịch sử”.
VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON
NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG
NHÂN DÂN
1. Con người và bản chất con người
a, Khái niệm:
- Quan niệm về con người trước C.Mác:
+ Trong triết học Trung Hoa cổ đại:
+ Trong triết học Ấn Độ cổ đại
+ Trong triết học Phương Tây:
. Thời cổ đại:
. Thời cận đại:

112
Nhận xét, đánh giá chung:
-Quan niệm của CNDV lịch sử:
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống
nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau:
+ Con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên.
Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của CNDV và khoa ghọc tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đacuyn về
sự tiến hóa của các loài.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng “là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của GTN và
tác động của QLTN trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại
của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa
con người với GTN; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài
người luôn tác động trở lại mô trường tự nhiên làm biến đổi môi trường đó.
Đây chính là MQHBC giữa tồn tại của con người, loài người và các tồn tại
khác của giới tự nhiên.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau:
+ Xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không
chỉ có nguồn gốc của sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có
nguồn gốc Xh của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính
nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và
phát triển thành người. Đó chính là một trong những phát hiện mới của CNM-
LN, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất
cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
+ Xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn
tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố Xh và các quy luật của Xh.
XH biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự đổi thay tương ứng.
Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của
XH. Ngoài mối quan hệ Xh thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một

113
thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa
của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính
thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên
khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của
chính nó. Vì thế, khi lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ
góc độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính Xh của nó thì đều là phiến diện,
không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong
nhận thức và thực tiễn.
b, Bản chất con người:
- Một số quan niệm về bản chất, “bản tính người” của con người trong
lịch sử tư tưởng của con người:
- Trong Luận cương về Phoiơbắc, C. Mác viết: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội.”
- Ý nghĩa PPL:
+ Để lý giải 1 cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể
chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn,
có tính quyết định là phải từ phương diện xã hội xã hội của con người, từ
những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
+ Động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng
lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của
mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng
thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
+ Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch
sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã
hội. Trên ý nghĩa PPL đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của
cuộc CMXHCN là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ KT- XH áp bức và
bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo của con người… thực hiện triết lý đạo
đức nhân sinh cao đẹp: “mỗi người vì mọi người; mọi người vì mỗi người”.

114
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân
a, Khái niệm:
Gồm:
+ Thứ nhất, những người lao động Sx ra của cải VC và các giá trị tinh
thần- đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng QCND.
+ Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc
lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân.
+ Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua
hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b, Vai trò sáng tạo ra lịch sử của QCND và vai trò của cá nhân trong
lịch sử:
- Quan điểm của các nhà tư tưởng trước Mác:
- Quan điểm DVLS: QCND là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực
lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản
là lịch sử hoạt động của QCND trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế -
xã hội. Thể hiện ở 3 giác độ sau đây:
+ QCND là LLSX cơ bản của mọi XH, trực tiếp SX ra của cải Vc đáp
ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội – đây là nhu cầu
bậc nhất quan trọng của mọi XH ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
+ QCND là LL trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của
Xh; là LL trực tiếp hay gián tiếp “kiểm chứng” các giá trị tinh thần đã được
các thế hệ và các cá nhân sáng tạo trong lịch sử… là cơ sở hiện thực, cội
nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa ấy… là để phục vụ hoạt động của
QCND và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất hóa bởi hoạt
động thực tiễn của nhân dân.
+ QCND là LL và là động lực cơ bản của mọi cuộc CM và các cuộc cải
cách trong lịch sử.
Vai trò sáng tạo ra lịch sử của QCND phụ thuộc vào các điều kiện KQ
và CQ: đó là trình độ của sự phát triển PTSX, trình độ nhận thức của mỗi cá

115
nhân, giai cấp, tâng lớp hay lực lượng XH, trình độ tổ chức xh, bản chất của
chế độ xh… Do vậy, khi phân tích vai trò của QCND cần đứng trên quan
điểm toàn diện, phát triển và lịch sử- cụ thể.
* Vai trò sáng tạo ra lịch sử của QCND không bao giờ có thể tách rời vai
trò cụ thể của mối cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ
lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân.
- KN cá nhân: dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cồng
đồng XH nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua
tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một
chỉnh thể thống nhất vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến; là chủ thể
của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức
năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của
lịch sử.
+ Vĩ nhân: là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, khoa học, nghệ thuật…
+ KN Lãnh tụ: dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào CM
của QCND tạo nên, gắn bó mật thiết với QCND – có những phẩm chất cơ
bản: Có tri thức uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch
sử; có năng lực tập hợp QCND, thống nhất ý chí, hành động của QCND vào
việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy tiến bộ và sự phát triển của
lịch sử; gắn bó mật thiết với QCND, hy sinh vì lợi ích của QCND.
*Ý nghĩa PPL:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định của QCND đã
xóa bỏ được sai lầm của CNDT đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về
động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử Xh loài người. Đồng thời đem lại một PPL
khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng ngư việc nghiên cứu và
đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò tạo lịch sử của QCND đã cung cấp 1 PPL
khoa học để các Đảng CS phân tích lực lượng XH, tổ chức xây dựng
LLQCND trong công cuộc CMXHCN. Đó là liên minh gcCn với gc Nd và

116
đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS, trên cơ sở đó tập hợp mọi
LLXH có thể nhằm tạo động lực to lớn cho sự nghiệp CMXHCN.
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập:
Ôn tập toàn bộ những nội dung đã học, tập trung nghiên cứu:
1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuât;
2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng;
3. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội;
4. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của
sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội;
5. Vai trò đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động,
phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp;
6. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng
tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
II. Nội dung thảo luận:
1. Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
3. Các mặt cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội
4. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
5. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về bản chất con người.

117
Phần thứ hai
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Chương IV. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ


GIỚI THIỆU
Chương 4 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về học thuyết
giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin: điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của
sản xuất hàng hóa; hàng hóa; tiền tệ; quy luật giá trị.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 4 giúp người học:
- Nhận biết được các vấn đề về sản xuất hàng hóa, hàng hóa, tiền tê, quy
luật giá trị chi phối hoạt động sản xuất hàng hóa.
- Hiểu được những nội dung cơ bản về: Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu
thế của sản xuất hàng hoá; Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá
trị; Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa; Lượng giá trị hàng hóa;
Nguồn gốc, chức năng của tiền; Nội dung của quy luật giá trị trong nền sản
xuất hàng hóa.
- Phân tích được mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với tính
chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa; các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị hàng hóa; bản chất của tiền; tác động của quy luật giá trị trong
nền sản xuất hàng hóa.
- Vận dụng học thuyết giá trị để phân tích những vấn đề thực tiễn trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Xác lập niềm tin vào đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.5: Nhận biết được các vấn đề về sản xuất hàng hóa, hàng hóa, tiền tê,
quy luật giá trị chi phối hoạt động sản xuất hàng hóa.
G2.4: Hiểu được những nội dung cơ bản về

118
- Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá;
- Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị;
- Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa;
- Lượng giá trị hàng hóa;
- Nguồn gốc, chức năng của tiền; quy luật lưu thông của tiền.
- Nội dung của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa.
G3.4: Phân tích được mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa; các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị hàng hóa; bản chất của tiền; tác động của quy luật giá trị trong
nền sản xuất hàng hóa.
G4.4: Vận dụng học thuyết giá trị để phân tích những vấn đề thực tiễn
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
G5.4: Xác lập niềm tin vào đường lối phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HÓA
1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua 2 kiểu tổ
chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá.
- Sản xuất tự cấp túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo
ra nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
- Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm được sản xuất
ra nhằm để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
- Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ 2 điều kiện sau:
+ Có sự phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao
động xã hội vào các nghành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Do phân công
lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ sản xuất một hoặc vài thứ sản
phẩm nhất định. Nhưng, nhu cầu cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất

119
nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ phải có mối liên hệ phụ thuộc lẫn
nhau, trao đổi sản phẩm với nhau.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Trong lịch sử, sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ đã xác định người sở hữu tư
liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm. Chính quan hệ sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, nhưng họ
lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau
về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm của người khác phải thông qua trao đổi mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu
thiếu một trong hai điều kiện đó thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm
lao động không mang hình thái hàng hóa.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
a. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán chứ không phải là
để người sản xuất tiêu dùng.
- Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mạng tính chất tư nhân, vừa
mang tính chất xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là
cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong kinh tế hàng hóa.
- Mục đích của sản xuất hàng hóa là là giá trị, là lợi nhuận.
b. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
- Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội nên nó
khai thác được những lợi thế trong và ngoài nước. Đồng thời sự phát triển của
sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của phân công lao
động xã hội.
- Tính tách biệt về kinh tế buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn
năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải
tiến mẫu mã và chủng loại hàng hóa, nhằm tiêu thụ được hàng hóa và thu

120
được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Từ đó, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ.
- Sản xuất hàng hóa quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội hiện
đại phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay.
- Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ
hàng hóa tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong
nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa của nhân dân.
- Mặt tiêu cực của sản xuất hàng hóa:
+ Phân hóa người sản xuất thành giàu và nghèo, phát sinh các tệ nạn xã
hội.
+ Khai thác kiệt quệ tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
+ Tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng
II. HÀNG HÓA
1. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa
a. Khái niệm hàng hóa
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nhất định
nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán.
- Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng hữu hình, vô hình.
- Khi nghiên cứu phương thức sản xuất TBCN C.Mác bắt đầu bằng việc
nghiên cứu hàng hóa. Đó là do: hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất
của của cải trong xã hội tư bản; sản xuất hàng hóa là cơ sở ra đời của CNTB;
phân tích hàng hóa là phân tích giá trị - cơ sở kinh tế của tất các các phạm trù
kinh tế học cảu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
b. Hai thuộc tính của hàng hóa
Trong mỗi hình thái kinh tế, sản xuất hàng hóa có bản chất khác nhau,
nhưng hàng hóa đều có 2 thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị
- Giá trị sử dụng
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.

121
Theo C.Mác, với tư cách là giá trị sử dụng, hàng hóa trước hết “là một
vật dụng bên ngoài, là một vật nhờ có những thuộc tính của nó mà thoả mãn
được một loại nhu cầu nào đó của con người
+ Mỗi một vật phẩm có thể có nhiều giá trị sử dụng và chúng được phát
hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật và của lực lượng sản
xuất.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng
hóa quyết định, vì thế nó là phạm trù vĩnh viễn.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay
tiêu dùng. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá
trị trao đổi.
- Giá trị:
Để hiểu được giá trị hàng hóa là gì phải bắt đầu từ tìm hiểu giá trị trao
đổi
+ " Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng,
là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những
giá trị sử dụng loại khác”. (tr 63).
Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc
C.Mác: " Là những giá trị sử dụng, các hàng hóa khác nhau trước hết về
chất; là những giá trị trao đổi, các hàng hóa chỉ có thể khác nhau về lượng mà
thôi” (tr 65). Do đó cả giá trị sử dụng và giá trị trao đổi đều không phải là cơ
sở để trao đổi. Giữa hai thứ hàng hóa đem trao đổi đó phải có một điểm chung
giống nhau về chất. Cái chung đó là gì? Nếu gạt giá trị sử dụng sang một bên
thì hàng hoá chỉ còn có một thuộc tính mà thôi - chúng là sản phẩm của lao
động, đều là sự kết tinh sức lao động của con người. Chính lao động hao phí
để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung cho việc trao đổi, nó tạo nên giá trị của
hàng hóa.
+ Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa.

122
Chất của giá trị là lao động. Giá trị của hàng hóa cao hay thấp phụ thuộc
vào mức hao phí lao động tạo ra hàng hóa đó. Là sản phẩm của lao động thì
nó mới có giá trị, mới có cơ sở để trao đổi giữa những giá trị sử dụng khác
nhau của hàng hóa.
+ Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng
hóa. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình
thức biểu hiện của giá trị.
- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa là sự thống nhất của 2 thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng là sự thống nhất của 2 mặt đối lập nhau.
+ Sự thống nhất biểu hiện ở chỗ: 2 thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại
trong một hàng hóa, tức một vật phẩm phải có đầy đủ hai thuộc tính mới trở
thành hàng hóa.
Vì vậy, để đạt được mục đích của mình là giá trị buộc người sản xuất
phải quan tâm đến giá trị sử dụng của hàng hóa. Đối với người mua điều quan
tâm của họ là giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì trước hết phải
trả giá trị cho người sản xuất ra nó, tức phải thực hiện được giá trị hàng hóa
thì mới chi phối được giá trị sử dụng.
+ Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính: Tuy giá trị và giá giá trị sử dụng cùng
tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau
cả về mặt không gian và thời gian.
Người sản xuất hàng hóa quan tâm đến giá trị còn người mua hàng hóa
lại quan tâm đến giá trị sử dụng. Vì vậy để thực hiện được mục đích của mình
buộc người sản xuất hàng hóa phải quan tâm đến giá trị sử dụng. Ngược lại,
đối với người mua phải trả giá trị cho người SX ( người bán) trước khi sử
dụng hàng hóa. Quá trình thực hiện giá trị được tiến hành trước và trên thị
trường, còn quá trình thực hiện giá trị sử dụng diễn ra sau và trong lĩnh vực
tiêu dùng. Nếu không thực hiện được giá trị thì cũng sẽ không thực hiện được
giá trị sử dụng và dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.

123
2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản
xuất hàng hóa có tính hai mặt quyết định. C.Mác là người đầu tiên phát hiện
ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao
động trừu tượng.
a. Lao động cụ thể
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích,
đối tượng, phương pháp, phương tiện và kết quả riêng.
- Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Các lao
động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát
triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng,
phong phú. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện
không thể thiếu được trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
Lao động cụ thể khác nhau làm cho các hàng hóa khác nhau về giá trị sử
dụng. Nhưng giữa các hàng hóa đó có điểm chung giống nhau, nhờ đó, có thể
trao đổi được với nhau, đó là giá trị do lao động trừu tượng tạo ra.
b. Lao động trừu tượng
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã
gạt bỏ hình thức cụ thể của nó, hay đó chính là sự tiêu phí sức lao động (tiêu
hao sức cơ bắp, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa.
C.Mác:"Nếu như không kể đến tính chất cụ thể nhất định của hoạt động
sản xuất, và do đó, đến tính có ích của lao động, thì trong lao động ấy chỉ còn
lại có một cái là sự tiêu phí sức lao động của con người" ( tr 74)
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự trao đổi
hàng hóa. Chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì lao động sản xuất hàng hóa đó
mới có tính chất là lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một
phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
Là phạm trù lịch sử riêng có của nền sản xuất hàng hóa vì: mục đích sản
xuất ra để bán nên cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau

124
thành một thứ lao động đồng chất, tức lao động trừu tượng. Nếu không có sản
xuất hàng hóa, không có trao đổi thì không cần phải quy các lao động cụ thể
thành lao động trừu tượng. Giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
*Lưu ý: Không phải có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động
của người sản xuất hàng hóa, nhưng lao động đó có tính hai mặt: vừa là lao
động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.
* Ý nghĩa của việc phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa của C.Mác:
+ Đã đem lại học thuyết giá trị - lao động của C.Mác một cơ sở khoa học
thực sự.
Các nhà kinh tế học trước C.Mác: W.Petty, A.Smith, D.Ricacdo đã khẳng
định rằng, lao động tạo ra giá trị, nhưng không biết lao động nào tạo ra nó.
Phát hiện ra mặt lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa tạo ra giá
trị hàng hóa là thiên tài của C.Mác.
+ Là cơ sở để giải thích những hiện tượng thường xảy ra trong thực tế:
sự vận động trái ngược của khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi
liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không đổi.
+ C.Mác đã giải thích được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư, phân
tích được tư bản bất biến và khả biến…do đó ,đem lại cơ sở khoa học vững
chắc cho học thuyết giá trị thặng dư, tích lũy tư bản, tái sản xuất…của mình.
- Tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư
nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: mỗi người sản xuất hàng hóa sản xuất ra cái gì, như
thế nào là việc riêng của họ.Họ là người sản xuất độc lập. Vì vậy, lao động
của họ mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao
động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét
về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn luôn là
một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công xã hội.

125
Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa cả về sản xuất lẫn tiêu dùng. Họ làm việc cho nhau, thông qua
trao đổi hàng hóa. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã
hội.
- Trong nền sản xuất hàng hóa giữa lao động tư nhân và lao động xã hội
có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản
đơn. Mâu thuẫn này biểu hiện:
+ Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa nhỏ tạo ra có thể không phù hợp
với nhu cầu của xã hội. Hoặc không đủ cung cấp cho xã hội, hoặc vượt quá
nhu cầu của xã hội - một số hàng hóa không bán được, không thực hiện được
giá trị.
+ Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp
hơn hao phí lao động mà xã hội chấp nhận.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả
năng "sản xuất thừa" là mầm mống của mọi mâu thuẫn của CNTB.
3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá
trị hàng hóa
a. Thước đo lượng giá trị hàng hóa
- Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra
hàng hóa quyết định. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao
động. Song không phải dựa vào thời gian lao động cá biệt của từng người sản
xuất (người lười biếng, vụng về -người có kỹ năng, kinh nghiệm). Lao động
tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao động giống nhau của con người, là chi
phí của cùng một sức lao động của con người…, tức là sức lao động xã hội
trung bình. Do đó, giá trị xã hội của hàng hóa không phải do mức hao phí lao
động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời
gian lao động xã hội cần thiết.
- Thước đo lượng giá trị hàng hóa là thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, tức là

126
với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ
lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi nên lượng giá trị của
hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tùy thuộc vào
năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của
lao động.
- NSLĐ: là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần
thiết để sản xuất ra một
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa thay đổi theo tỷ lệ nghịch với
năng suất lao động.
Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố: trình độ khéo léo của
người lao động; sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất; hiệu
quả của tư liệu sản xuất; các điều kiện tự nhiên.
CĐLĐ là mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của lao động
trong một khoảng thời gian nhất định. Khi cường độ lao động tăng lên thì
lượng lao động hao phí trong một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản
phẩm tăng lên tương ứng, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không
đổi.
- Mức độ phức tạp của lao động: lao động giản đơn và lao động phức
tạp
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường
không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
thành chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn vì lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân
lên.

127
C.Mác: "Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên luỹ
thừa, hay nói đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử một
lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động
giản đơn lớn hơn" ( tr 75).
c. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa
Giá trị HÀNG HOÁ = LĐ quá khứ + Lao động sống
= Giá trị cũ + Giá trị mới
III. TIỀN TỆ
1. Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
a) Sự phát triển các hình thái giá trị
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội - lao động trừu tượngcủa người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Nó không có một nguyên tử vật
chất nào nên không thể cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ bộc lộ thông qua giá
trị trao đổi, hay thông qua quan hệ trao đổi, mua bán. Lịch sử ra đời của tiền
tệ chính là lịch sử phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao. Có 4 hình
thái biểu hiện của giá trị như sau:
-Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên:
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng:
10 kg thóc
Ví dụ: 1 m vải = 0,5 kg chè
4 kg đường
- Hình thái chung của giá trị:
Ví dụ: 10 kg thóc
0,5 kg chè = 1 m vải
4 kg đường
- Hình thái tiền tệ:
Ví dụ: 1 m vải
10 kg thóc = 0, 1 chỉ vàng (tiền tệ)
0, 5 kg chè

128
- Vàng và bạc nhất là vàng có được vai trò tiền tệ như vậy là vì:
+ Nó cũng từng là một hàng hóa, cũng có giá trị sử dụng và giá trị. Vì
vậy nó có thể trao đổi với các hàng hóa khác.
+ Nó có những ưu thế ( thuộc tính tự nhiên) đặc biệt thích hợp với vai trò
tiền tệ như: thuần nhất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, dễ bảo quản, với một
lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn
Như vậy, tiền tệ xuất hiện là kết quả lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành hai cực: hàng
hóa thông thường và hàng hóa (vàng) đóng vai trò tiền tệ
b. Bản chất của tiền tệ
- Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ thế giới hàng hóa làm vật
ngang giá chung thống nhất cho tất cả các hàng hóa, nó thể hiện lao động xã
hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
2. Các chức năng của tiền tệ và quy luật lưu thông tiền tệ
a. Các chức năng của tiền tệ
- Thước đo giá trị
+ Tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa.
Để đo lường giá trị của hàng hóa bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy
tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Khi đo lường giá trị
hàng hóa có thể so sánh với một lượng vàng tưởng tượng nào đó mà không
nhất thiết phải là tiền mặt-vàng.
+ Khi tiền thực hiện chức năng thước đo giá trị thì giá trị của hàng hóa
được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Nói
cách khác, giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa.
Giá cả hàng hóa phụ thuộc vào giá trị hàng hóa, giá trị của tiền và quan
hệ cung- cầu hàng hóa.
- Phương tiện lưu thông
+ Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền đóng vai trò môi giới
trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa

129
đòi hỏi phải có tiền mặt trên thực tế và khi đó trao đổi hàng hóa vận động theo
công thức: H - T - H.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc
nén - khó khăn phải cân, chia, xác định độ nguyên chất…Sau đó được thay
bằng tiền đúc, tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị, nó chỉ là ký hiệu
giá trị do nhà nước phát hành và buộc xã hội công nhận.
+ Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm cho quá trình lưu
thông hàng hóa diễn ra thuận tiện, nhanh chóng. Nhưng đồng thời nó cũng
làm cho việc mua - bán hàng hóa tách rời nhau cả về không gian và thời gian.
Do đó, nó đã bao hàm khả năng khủng hoảng.
- Phương tiện cất trữ
Thực hiện chức năng này, tiền được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để
khi cần thì đem ra sử dụng ném vào lưu thông. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc mới
thực hiện được chức năng này.
- Phương tiện thanh toán
Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu sẽ nảy sinh
việc mua bán chịu và do đó tiền có chức năng làm phương tiện thanh toán.
- Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả
tiền mua chịu hàng hóa…
Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu
của người SX hoặc của người tiêu dùng khi họ chưa có hoặc chưa đủ tiền.
Nhưng khi chức năng này càng được thực hiện rộng rãi thì khả năng khủng
hoảng càng tăng lên. Vì khi có rất nhiều người vừa là chủ nợ vừa là con nợ
của nhau rất chằng chịt, thì chỉ cần một vài con nợ không thanh toán đúng kỳ
hạn sẽ làm cho toàn bộ dây chuyền thanh toán bị phá vỡ ( khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á - 1997)
d. Tiền tệ thế giới
Chức năng này xuất hiện khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài
biên giới quốc gia, và hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước.

130
Thực hiện chức năng tiền tệ thế giới, tiền làm nhiệm vụ: thước đo giá trị,
phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ
nước này sang nước khác. Làm được chức năng này phải là tiền vàng, hoặc
tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
b. Quy luật lưu thông tiền tệ và vấn đề lạm phát
- Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho
lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định.
- Khi tiền mới chỉ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì số
lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định bởi quy luật lưu thông tiền
tệ:
Tổng giá cả hàng hóa đem ra lưu thông

131
Lượng tiền cần thiết =

132
cho lưu thông Số vòng luân chuyển trung bình của
những đồng tiền có cùng tên gọi
- Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì số lượng
tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:
Tổng giá cả
Tổng giá cả Tổng giá cả Tổng giá cả HH bán chịu
HH cần lưu hàng hóa HH khấu trừ đến kỳ thanh+
+ - +
Số lượng thông bán chịu cho nhau toán
tiền cần
thiết cho lưu =
thông
Số vòng luân chuyển trung bình của
những đồng tiền có cùng tên gọi
- Khi số lượng tiền giấy đưa vào lưu thong vượt quá số lượng tiền vàng
hay bạc mà nó đại biểu sẽ dấn tới lạm phát.
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một
thời gian nhất định.
- Các cấp độ lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm
phát.
Lạm phát vừa phải: dưới 10%
Lạm phát phi mã: dưới 100%.
Siêu lạm phát: > 100%
- Tác động của lạm phát:
+ Tác động đến sự phân phối thu nhập và của cải: làm cho người có thu
nhập bằng tiền ổn định và chủ nợ thiệt hại, có lợi cho người nợ tiền.
+ Tác động đến hiệu quả kinh tế: có hại đến tổng sản lượng và hiệu quả
kinh tế, tác đông xấu đến hệ thống thuế, tăng tỷ lệ thất nghiệp.
IV. QUY LUẬT GIÁ TRỊ
1. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
- Yêu cầu chung của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hóa
phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Sản xuất: Hao phí lao động cá biệt <, = Hao phí lao động xã hội cần
thiết.

133
+ Trao đổi: theo nguyên tắc ngang giá.
- Sự vận động của quy luật giá trị : biểu hiện thông qua sự vận động của
giá cả hàng hóa trên thị trường. Giá cả phụ thuộc vào giá trị. Ngoài ra, giá cả
còn chịu sự tác động của cạnh tranh, cung cầu, sức mua đồng tiền làm cho giá
cả tách rời giá trị và lên xuống xoay xung quanh trục giá trị của nó. Sự vận
động của giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính
là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
2. Tác động của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
+ Điều tiết sản xuất: quy luật giá trị điều hòa, phân bổ tư liệu sản xuất,
sức lao động vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế để lập nên những
cân đối kinh tế nhất định. Tác dụng này của quy luật giá trị thực hiện một
cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường.
Mục đích của người sản xuất là lợi nhuận. Dựa vào sự biến động của giá
cả hàng hóa trên thị trường người sản xuất biết được hàng hóa nào có giá cao,
bán chạy và lãi cao. Họ sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản
xuất, sức lao động. Bên cạnh đó, những người sản xuất mặt hàng khác cũng
có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này làm cho quy mô sản xuất ngày
càng được mở rộng.
Đối với những hàng hóa có giá cả thấp hơn giá trị, tình hình lại ngược
lại. Người sản xuất sẽ thu hẹp quy mô sản xuất, hoặc chuyển sang sản xuất
mặt hàng khác. Kết quả là ngành này được mở rộng, ngành khác bị thu hẹp,
đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Như vậy, quy luật giá trị điều tiết quy mô sản xuất của các đơn vị sản
xuất hàng hóa thông qua sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị hàng hóa.
+ Điều tiết lưu thông hàng hóa: quy luật giá trị thu hút luồng hàng từ nơi
có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông
suốt.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy LLSX phát triển.

134
SX : Hao phí lao động cá biệt > Hao phí lao động xã hội cần thiết : thua lỗ
SX : Hao phí lao động cá biệt <, = Hao phí lao động xã hội cần thiết : thu lãi
Để thu được lợi nhuận, tránh thua lỗ những người sản xuất phải hạ thấp
hao phí lao động cá biệt bằng cách cải tiến kỹ thuật, thay đổi cách thức tổ
chức quản lý… tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm
cho quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội
được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ.
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành giàu và nghèo
Hao phí lao động cá biệt > Hao phí lao động xã hội cần thiết => Lỗ
vốn - nghèo
Hao phí lao động cá biệt <, = Hao phí lao động xã hội cần thiết => Lãi
– giàu
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập
1. Điều kiện ra đời, tồn tại, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá.
2. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá.
3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hoá
4. Tiền tệ
5. Quy luật giá trị
II. Nội dung thảo luận
1. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá với tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hoá?
2. Tại sao lượng giá trị phải được đo bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết? Sự giống nhau và khác nhau giữa tăng năng suất lao động và tăng
cường độ lao động?
3. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ?
4. Ý nghĩa thực tiễn của quy luật giá trị trong việc phát triển nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay?

135
136
Chương V. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
GIỚI THIỆU
Chương 5 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về học thuyết
giá trị thặng dư: Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, quá trình sản xuất ra giá
trị thặng dư, tiền công trong chủ nghĩa tư bản, tích lũy tư bản, quá trình lưu
thông của tư bản và giá trị thặng dư, các hình thái tư bản và các hình thức
biểu hiện của giá trị thặng dư
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
- Nhận biết được những nội dung cơ bản về học thuyết giá trị thặng dư:
điều kiện để tiền chuyển hóa thành tư bản; quá trình sản xuất giá trị thặng dư,
tiền công trong chủ nghĩa tư bản, quá trình tích lũy tư bản, quá trình lưu thông
của tư bản, các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
- Hiểu được những nội dung cơ bản về học thuyết giá trị thặng dư: Công
thức chung của tư bản và mâu thuẫn của nó, hàng hóa sức lao động; quá trình
sản xuất ra giá trị thặng dư, tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư, hai phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư; tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, tái sản
xuất và khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản; chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, giá cả sản xuất
lợi tức, địa tô;
- Phân tích được nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, quy luật
kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản; bản chất của tiền công trong chủ nghĩa
tư bản, thực chất và động cơ tích luỹ tư bản chủ nghĩa, sự phân chia giá trị
thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
-Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư để phân tích những vấn đề thực
tiễn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
- Xác lập niềm tin vào đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

137
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.5: Nhận biết được những nội dung cơ bản về học thuyết giá trị thặng
dư: điều kiện để tiền chuyển hóa thành tư bản; quá trình sản xuất giá trị thặng
dư, tiền công trong chủ nghĩa tư bản, quá trình tích lũy tư bản, quá trình lưu
thông của tư bản, các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị
thặng dư
G2.5: Hiểu được những nội dung cơ bản về học thuyết giá trị thặng dư:
- Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của nó, hàng hóa sức lao
động;
- Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tỷ suất và khối lượng giá trị
thặng dư, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư;
- Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, tái sản xuất và khủng hoảng kinh
tế trong chủ nghĩa tư bản.
- Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, lợi
nhuận bình quân, giá cả sản xuất, lợi tức, địa tô.
G3.5: Phân tích được nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, quy
luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản; bản chất của tiền công trong chủ
nghĩa tư bản, thực chất và động cơ tích luỹ tư bản chủ nghĩa, sự phân chia giá
trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
G4.5: Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư để phân tích những vấn đề
thực tiễn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam.
G5.5: Trên cơ sở nhận thức được bản chất kinh tế của CNTB, xác lập
niềm tin vào đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN
1. Công thức chung của tư bản
- Tiền với tư cách là tiền thông thường vận động theo công thức: H - T - H
- Tiền với tư cách là tư bản vận động theo công thức: T-H-T

138
- So sánh 2 công thức:
+ Điểm giống nhau:
 Cùng phản ánh quan hệ kinh tế hàng hóa nên đều là sự kết hợp của hai
hành động đối lập, nối tiếp nhau là mua và bán.
 Trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền
và hàng, biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
+ Điểm khác nhau:
 Về trình tự mua bán
 Về mục đích của trao đổi: Công thức đầy đủ: T – H – T’ (T’= T + T)
Khái niệm ban đầu về tư bản: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
 Về giới hạn của sự vận động: T - H - T’ - H - T’’ - H - T’’’...
- Công thức T - H - T' được gọi là công thức chung của tư bản vì sự vận
động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
* Có phải do bản chất của lưu thông đã làm cho T tăng thêm và do đó
hình thành giá trị thặng dư hay không?
- Trong lĩnh vực lưu thông:
+ Trao đổi ngang giá: m = 0
+ Trao đổi không ngang giá:
 Bán hàng hóa cao hơn giá trị: m = 0
 Mua hàng hóa thấp hơn giá trị: m = 0
 Có người chuyên mua rẻ , bán đắt m = 0
Như vậy, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo
ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới.
- Ngoài lưu thông:
Nếu tiền không được ném vào lưu thông, tức là tiền để trong két sắt,
hàng hóa để trong kho thì cũng không thể lớn lên được và giá trị thặng dư
cũng không được tạo ra.

139
- " Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể
xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng
thời không phải trong lưu thông". Đó là mâu thuẫn của công thức chung của
tư bản.
3. Hàng hóa sức lao động
a. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
- Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực tồn tại trong một con
người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
- Điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa:
+ Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức
lao động của mình và chỉ bán nó trong một thời gian nhất định.
+ Người có sức lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, để tồn tại buộc
anh ta phải bán sức lao động của mình.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động
thành hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để
tiền biến thành tư bản.
b. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị hàng hóa sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nó được đo gián tiếp bằng
giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
+ Là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa
thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Điều đó có nghĩa giá trị hàng hóa sức lao động còn phụ thuộc vào:
 Hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ
 Điều kiện địa lý khí hậu của mỗi nước
 Trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ
+ Cơ cấu giá trị HÀNG HOÁSLĐ bao gồm:
 Giá trị TLSH cần thiết để tái sản xuất SLĐ của công nhân.
 Phí tổn đào tạo công nhân.
140
 Giá trị TLSH cần thiết cho con cái công nhân.
“Người sở hữu sức lao động có thể chết đi. Do đó muốn cho người ấy
không ngừng xuất hiện trên thị trường như việc chuyển hóa không ngừng của
tư bản đòi hỏi, thì người bán sức lao động phải làm cho mình sống vĩnh cửu,
giống như một cá nhân đang sống đều làm cho mình trở nên vĩnh cửu bằng
cách sinh con đẻ cái ... Vì vậy, tổng số những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho
việc sản xuất ra sức lao động phải bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho
những người thay thế”. (C.Mác)
65 A + 12 B + 4 C + ...
G SLĐ/ ngày =
365
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện trong quá trình
tiêu dùng sức lao động – quá trình lao động tạo ra hàng hóa.
Điểm đặc biệt của GTSD của HÀNG HOÁ SLĐ: khi sử dụng có khả
năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, tức là tạo ra giá
trị thặng dư. Như vậy, giá trị sử dụng của HÀNG HOÁ SLĐ chính là nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư.
Như vậy, nhờ có sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động mới có sự
chuyển hóa tiền thành tư bản, thông qua lưu thông nhà tư bản mới thu được
lượng giá trị lớn hơn giá trị ứng ra ban đầu mà không vi phạm quy luật giá trị,
vạch rõ nguồn gốc sản sinh ra giá trị thặng dư là lao động của người công
nhân làm thuê.
II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ
HỘI TƯ BẢN
1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị sử dụng và quá trình
sản xuất giá trị thặng dư
- Mục đích của nền sản xuất TBCN không phải là giá trị sử dụng mà là
giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất ra giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản
phải sản xuất ra giá trị sử dụng vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi

141
và giá trị thặng dư . Vì vậy, quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa
quá trình sản xuất giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
- Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư
bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất đã mua nên nó có 2
đặc điểm cơ bản:
+ Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
+ Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không thuộc về
công nhân.
- Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
* Ví dụ:
- Giả định
+ Để SX 10 kg sợi cần 10 bông: 10 $
+ Thời gian LĐ để SX 10 kg sợi là 6 giờ và hao mòn máy móc: 2 $
+ Ngày lao động 12 giờ và giá trị SLĐ/ngày: 3 $
+ Trong 1 giờ LĐ người CN tạo ra một lượng giá trị mới là 0,5 $
+ Quá trình SX đã hao phí theo TGLĐXH cần thiết
- Sau 6 giờ người công nhân đã kéo 10 bông thành sợi với giá trị:
Giá trị 10 kg sợi =10$ (Gtrị sợi) + 2$ (hao mòn máy) + 3$ (Gtrị mới CN tạo
ra) = 15$
Chi phí SX = 10$ (mua bông) + 2$ (khấu hao máy) + 3$ (lương CN) = 15$
Tổng giá trị của 10kg sợi = 15 USD = giá trị ứng ra ban đầu. Nếu bán
đúng giá trị thì nhà tư bản không được gì, vả lại ông ta cũng không chịu như
vậy.
Giá trị SLĐ/ ngày là 3$ =giá trị TLSH để TSX SLĐ đó khác với lao
động sống ( tiêu phí SLĐ) mà sức lao động ấy cung cấp. Nhà tư bản đã trả
tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ ) nên việc sử dụng sức lao động
trong ngày đó là thuộc quyền của ông ta. Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao
động 12 giờ trong ngày như đã thỏa thuận thì:
- Ngày lao động là 12 giờ:

142
Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới (20kg sợi)
- Tiền mua bông 20 kg): 20 $ - Giá trị của bông chuyển vào sợi: 20 $
- Tiền hao mòn máy móc: 4 $ - Giá trị của máy móc chuyển vào sợi: 4$
- Tiền mua SLĐ/ngày: 3$ - Giá trị mới do LĐ của CN tạo ra/12giờ: 6$
Tổng cộng: 27 $ Tổng cộng: 30 $

Như vậy, với 27 $ ứng trước đã chuyển hóa thành 30 $, đem lại giá trị
thặng dư cho nhà tư bản là 3 $. Do đó, số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa
thành tư bản.
C.Mác: mọi bí mật là ở chỗ: "Việc duy trì sức lao động hàng ngày chỉ trị
giá có một nửa ngày lao động, trong khi đó thì sức lao động có thể hoạt động,
có thể lao động trong suốt cả ngày, và vì vậy giá trị do việc tiêu dùng sức lao
động trong một ngày sẽ gấp đôi giá trị hàng ngày của bản thân sức lao động
đó." (Tập 23-tr 290).
- Kết luận:
- Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
- Ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần:
phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với
giá trị sức lao động lao động của mình gọi là thời gian lao động tất yếu (cần
thiết), phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư.
- Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết.
Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hóa đặc
biệt, đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó, nhà tư bản sử dụng hàng hóa này
trong lĩnh vực sản xuất , tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị
thặng dư. Do đó, tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến
và tư bản khả biến
a. Bản chất của tư bản
143
- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê. Như vậy, bản chất của tư bản thể hiện
quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng
dư do giai cấp công nhân tạo ra.
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và
chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi đại lượng giá trị của nó, gọi là
TBBB, ký hiệu là c.
- Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông
qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi
về đại lượng, gọi là TBKB, ký hiệu là v.
- Hai bộ phận của tư bản: tư bản bất biến và tư bản khả biến có qua hệ
chặt chẽ với nhau, phải cùng tồn tại làm tiền đề cho nhau. Trong đó, tư bản
bất biến là tiền đề, điều kiện cho giá trị lớn lên, còn tư bản khả biến là nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư. Vì vậy, muốn bộ phận tư bản nào đó chuyển thành
tư bản khả biến để có sự tự tăng thêm về mặt giá trị thì đồng thời phải có một
bộ phận tư bản khác chuyển thành tư bản bất biến theo những tỷ lệ nhất định
tùy theo tính chất từng ngành, trình độ kỹ thuật.
- Căn cứ phân chia tư bản thành TBBB và TBKB: dựa vào tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa và vai trò của cá bộ phận tư bản trong quá
trình sản xuất giá trị thặng dư.
Ý nghĩa của sự phân chia: chỉ rõ vai trò khác nhau của các bộ phận tư
bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chỉ có lao động của người công
nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó nó vạch rõ
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản .
3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
- Tỷ suất giá trị thặng dư (m’)
+ Khái niệm: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa
giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

144
m t'
+ Công thức: m'  v  100 % hoặc m'   100 %
t

+ Tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện trình độ bóc lột của nhà tư bản đối
với công nhân làm thuê. Nó chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động
tạo ra thì công nhân được hưởng bao nhiêu còn nhà tư bản chiếm đoạt bao
nhiêu.
- Khối lượng giá trị thặng dư (M):
+ Khái niệm: khối lượng giá trị thặng dư là số lượng giá trị thặng dư mà
nhà tư bản thu được trong một thời gian nhất định.
m
+ Công thức: M   V  m'. V
v
+ Khối lượng giá trị thặng dư biểu hiện quy mô bóc lột giá trị thặng dư
của nhà tư bản đối với công nhân.
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời
gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao
động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ,
4h t 4h t'
T. gian lao động tất yếu T.gian lao động thặng dư

4
m'   100  100 %
4

4h t 6h t'
6
2h m'= .100% = 150%
4
- Cách thức SX m tuyệt đối: Tăng thời gian làm việc trong ngày, tuần,
tháng...; Tăng cường độ lao động
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

145
Ví dụ: ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ
4h t 4h t'

Nếu giảm t =2 giờ, trong điều kiện ngày lao động vẫn là 8 giờ, thì t’=6
giờ.
2h t 6h t'

- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do rút ngắn
thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động
vẫn như cũ
- Giá trị thặng dư siêu ngạch:
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng
năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị thị trường của nó.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối vì chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, mặc dù một
bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt còn một bên là dựa vào tăng
năng suất lao động xã hội.
Dù là giá trị thặng dư tương đối hay tuyệt đối đều là bóc lột sức lao động
của công nhân trên cơ sở kéo dài thời gian lao động thặng dư.
5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
- Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa
tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật cơ bản của CNTB bởi vì:
+ Nó phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của CNTB – quan hệ
bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công
nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

146
+ Nó vạch rõ mục đích và động cơ hoạt động của nhà tư bản, của sản
xuất TBCN: giá trị thặng dư .
Họ sản xuất ra hàng hóa không phải vì giá trị sử dụng mà là giá trị thặng
dư. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là động cơ thúc đẩy sự hoạt động của
mỗi nhà tư bản cũng như toàn xã hội tư bản.
+ Nó vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó là tăng
cường bóc lột giá trị thặng dư bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài
ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất .
- Nội dung của quy luật là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị
thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
- Quy luật giá trị thặng dư có tác động mạnh mẽ trong đời sống xã hội tư
bản. Một mặt, nó thúc đẩy sự phát triển kỹ thuật và phân công lao động xã
hội, làm cho lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên nhanh chóng,
nền sản xuất được xã hội hóa cao. Mặt khác, nó làm gay gắt thêm các mâu
thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản mà trước hết là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội mới
văn minh hơn.
- Đặc điểm mới của sản xuất giá trị thặng dư trong điều kiện hiện nay
+ Do kỹ thuật và công nghệ được sử dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị
thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động.
+ Cơ cấu lao động ở các nước tư bản phát triển có sự biến đổi lớn: lao
động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên thay thế lao động giản đơn và có vai
trò quyết định trong việc sản xuất giá trị thặng dư. Do đó, khối lượng giá trị
thặng dư (M) tăng lên rất nhiều.
+ Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày
càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản, trao đổi không
ngang giá…
III. TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Bản chất kinh tế của tiền công

147
Công nhân làm thuê cho nhà tư bản trong một thời gian nào đó để sản
xuất ra hàng hóa hay hoàn thành một số công việc thì được nhà tư bản trả cho
một khoản tiền nhất định gọi là tiền công.
Các học giả tư sản: căn cứ vào hiện tượng bề ngoài của tiền công, đồng
thời nhằm che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản cho rằng, tiền công
đó là giá cả của lao động.
Nếu lao động là hang hóa thì: lao động phải được tạo ra trước khi mua
bán. Thực tế khi công nhân ký kết hợp đồng lao động với nhà TB thì họ chỉ
có SLĐ, chứ chưa.
Lao động là hàng hóa thì nó phải có giá trị. Mà giá trị lại được đo bằng
lao động hao phí. Như vậy, giá trị của lao động lại được đo bằng giá trị. Đó là
một cách nói "luẩn quẩn vô lý "
Lao động là hàng hóa và được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không
thu được giá trị thặng dư, điều đó phủ nhận quy luật giá trị thặng dư của
CNTB; nếu trao đổi không ngang giá thì lại phủ định quy luật giá trị.
- Bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, hay là giá cả của hàng hóa sức lao động.
nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả của lao động.
- Nguyên nhân gây nên sự nhầm tưởng tiền công là giá cả của lao động:
+ Nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động
để sản xuất ra hàng hóa, do đó bề ngoài thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao
động.
+ Đối với công nhân lao động là phương tiện để có tiền sinh sống nên họ
cũng tưởng rằng mình bán lao động, còn nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao
động nên cũng nghĩ rằng cái họ mua là lao động.
+ Tiền công được trả theo thời gian lao động hoặc theo số lượng hàng
hóa được sản xuất ra nên làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả
của lao động.

148
Như vậy lao động không phải là hàng hóa. Cái mà công nhân bán cho
nhà tư bản chính là sức lao động. Tiền công chính là giá cả sức lao động chứ
không phải là giá cả lao động.
2. Các hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
- Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công tính theo thời gian
lao động của công nhân dài hay ngắn( giờ, ngày, tuần, tháng ).
Giá trị (giá cả) hàng ngày của SLĐ
Tiền công giờ =
Ngày LĐ với một số giờ nhất định
- Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công tính theo số lượng
sản phẩm đã làm ra hoặc số lượng công việc đã hoàn thành.
Tiền công trung bình/ ngày/ CN
Tiền công theo sản phẩm =
Số lượng sản phẩm của CN đó/ngày
Tiền công tính theo sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản quản lý,
giám sát công nhân dễ dàng hơn, mặt khác, kích thích công nhân lao động
tích cực hơn, nâng cao NSLĐ và CĐLĐ tạo ra nhiều sản phẩm để có tiền
công nhiều hơn.
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
- Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản.
Tiền công danh nghĩa phụ thuộc vào giá trị hàng hóa sức lao động và sự
biến động của cung cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường.
- Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa
tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh
nghĩa của mình
Tiền công thực tế phụ thuộc vào tiền công danh nghĩa và giá cả tư liệu
tiêu dùng và dịch vụ.
IV. SỰ CHUYỂN HÓA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THÀNH TƯ BẢN
-TÍCH LŨY TƯ BẢN

149
1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản
- Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại không ngừng. Tái
sản xuất gồm: Tái SX giản đơn: là quá trình SX được lặp lại với quy mô như
cũ. Tái SX mở rộng: là quá trình SX được lặp lại với quy mô lớn hơn trước.
Hình thức tái sản xuất điển hình của chủ nghĩa tư bản không phải là tái
sản xuất giản đơn mà là tái sản xuất mở rộng.
- Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất
với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến
một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.
- Thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng
dư trở lại thành tư bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
- Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản
tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.
- Động cơ thúc đẩy tích lũy tư bản, một mặt là do quy luật giá trị thặng
dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, cạnh tranh
buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng
cách tăng nhanh tư bản tích lũy.
b. Những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô tích lũy tư bản phụ
thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng cá nhân nhà tư bản.
Nếu tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng đã được xác định thì quy mô của tích
lũy tư bản phụ thuộc vào M. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới M cũng
chính là nhữnh nhân tố quyết định quy mô của tích lũy. C.Mác chỉ ra 4 nhân
tố sau:
- Trình độ bóc lột giá trị thặng dư:
- Năng suất lao động xã hội:
- Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
- Quy mô tư bản ứng trước
M = m' . V nếu m' không đổi thì M tăng lên khi V tăng
muốn tăng M phải tăng quy mô tư bản ứng trước.

150
2. Tích tụ và tập trung tư bản
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản
hóa giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả ttrực tiếp của
tích lũy tư bản.
Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, khối lượng giá trị thặng dư tăng lên trong quá trình
tái sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách
hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt
khác lớn hơn.
- So sánh tích tụ và tập trung tư bản:
+ Giống nhau: đều tăng quy mô tư bản cá biệt
+ Khác nhau: Nguồn gốc để tích tụ TB là giá trị thặng dư, nên tích tụ
tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư
bản xã hội. Còn nguồn gốc tập trung tư bản là những tư bản cá biệt sẵn có
trong xã hội nên tích tụ tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt mà
không làm tăng quy mô của tư bản bản xã hội.
Tích tụ tư bản biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao
động; còn tập trung tư bản biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với
nhau.
3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản
- Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất
với số lượng lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Cấu tạo kỹ
thuật phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất
biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất .
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến sự
thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó C.Mác
dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.

151
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật tư

c
bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó. Ký hiệu :
v
- Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo hữu cơ tư bản
không ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên, một mặt do mục đích
của nền sản xuất TBCN:để có được giá trị thặng dư tối đa buộc các nhà tư bản
phải ứng dụng KHKT, nâng cao NSLĐ; mặt khác do sự phát triển của KHKT.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng thể hiện ở chỗ bộ phận tư bản bất biến (c) tăng
nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến (v), trong đó c tăng tuyệt đối và tăng
tương đối, v tăng có thể tăng tuyệt nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng làm cho cầu tương đối về
sức lao động có xu hướng ngày càng giảm. Đó là nguyên nhân chủ yếu gây ra
nạn nhân khẩu thừa tương đối, thất nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống của người
công nhân.
IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình
sản xuất và quá trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá
trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất
ra giá trị thặng dư, cần nghiên cứu quá trình lưu thông tư bản để hiểu rõ quá
trình thực hiện giá trị thặng dư cũng như sự vận động của tư bản diễn ra như
thế nào.
1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản
a. Tuần hoàn của tư bản
Phần II: Mọi tư bản đều xuất hiện trước hết dưới hình thái một số tiền
được sử dụng để mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động.
Muốn đạt được mục đích ấy, tư bản phải vận động qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: tư bản xuất hiện dưới hình thái tư bản tiền tệ thực
hiện chức năng mua: mua TLSX và SLĐ. Quá trình này được biểu hiện bằng
công thức: TLSX

152
T-H
SLĐ
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình hình thái tiền tệ và
mang hình thái các yếu tố của sản xuất TBCN tức là hình thái tư bản sản xuất. Như
vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản xuất là quá trình sử dụng những
hàng hóa đã mua, tức là tiến hành sản xuất. Quá trình này được biểu hiện
bằng công thức:
TLSX
H … SX … H'
SLĐ
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thức TBSX, có chức năng
thực hiện sự kết hợp TLSX và SLĐ để sản xuất ra hàng hóa mới khác cả về
giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng hóa này không phải là các
yếu tố sản xuất mà là những giá trị sử dụng cho xã hội. Còn về giá trị nó có
giá trị lớn hơn giá trị của tư bản đã hao phí để sản xuất nó, tức là đã bao gồm
cả giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn của THTB thì giai đoạn này có ý
nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất
TBCN.
Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa
thành tư bản hàng hóa.
-Giai đoạn thứ ba: H' - T'. Trong giai đoạn này tư bản hàng hóa có chức
năng thực hiện giá trị hàng hóa mà quan trọng hơn là thực hiện giá trị thặng
dư đã được tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản
hàng hóa đã biến thành tư bản tiền tệ.
Đến đây, mục đích của tư bản đã được thực hiện. Tư bản quay trở lại
hình thái ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản qua ba giai đoạn, ta có công
thức sau:
TLSX

153
T - H … SX … H' - T'
SLĐ
Trong công thức này, tư bản với tư cách là giá trị đã trải qua một chuỗi
biến hóa hình thái có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó bao gồm hai giai
đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Và
sự vận động đó của tư bản gọi là THTB.
- Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai
đoạn lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau
rồi quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
- Điều kiện để tuần hoàn của tư bản vận động liên tục, bình thường:
+ Các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục
+ Các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hóa một cách đều
đặn.
Hai điều kiện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào tồn tại
hai điều kiện đó thì THTB mới diễn ra liên tục, bình thường.
b. Chu chuyển của tư bản
- Khái niệm: sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ
đổi mới và thường xuyên lặp đi lặp lại, thì gọi là chu chuyển của tư bản.
Chu chuyển của tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư
bản.
- Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian tính từ khi một lượng tư
bản ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình
thái ban đầu, kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển của tư bản bao
gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
TGCC = TGSX + TGLT
- Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Nó
bao gồm:
+ Thời gian lao động: là thời gian người lao động sử dụng tư liệu lao
động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian
hữu ích nhất vì nó tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

154
+ Thời gian gián đoạn lao động: là thời gian đối tượng lao động hoặc bán
thành phẩm chịu sự tác động của tự nhiên ( rượu, gạch, gỗ…)
+ Thời gian dự trữ sản xuất: là thời gian mà các yếu tố sản xuất đã được
mua về nhưng chưa được đưa vào sản xuất.
- Thời gian sản xuất dài hay ngắn phụ thuộc vào các nhân tố sau:
+ Tính chất của ngành sản xuất, quy mô hoặc chất lượng sản phẩm.
+ Vật chịu sự tác động của tự nhiên dài hay ngắn.
+ Năng suất lao động cao hay thấp.
+ Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
- Thời gian lưu thông: là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua và thời gian bán. Nó phụ thuộc
vào các nhân tố sau:
+ Tình hình thị trường tốt hay xấu: cung- cầu, giá cả thị trường…
+ Khoảng cách thị trường xa hay gần
+ Trình độ phát triển của giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
- Tốc độ chu chuyển của tư bản
- Tốc độ chu chuyển của tư bản là khái niệm dùng để chỉ sự vận động
nhanh hay chậm của tư bản ứng trước. Tốc độ chu chuyển của tư bản được
tính bằng số vòng ( lần) chu chuyển của tư bản trong một khoảng thời gian
nhất định, thường là một năm.
CH
- Công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản: n 
ch
Trong đó: - n: số vòng ( lần) CC của TB
- CH: thời gian TB vận động trong 1 năm
- ch: thời gian của 1 vòng chu chuyển TB.
- Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất
và thời gian lưu thông. Muốn vậy, cần phải khai thác những mặt thuận lợi và
hạn chế những mặt không thuận lợi của các nhân tố ảnh hưởng tới thời gian
sản xuất và thời gian lưu thông.
c. Tư bản cố định và tư bản lưu động

155
Trong quá trình chu chuyển của tư bản, các bộ phận của tư bản sản xuất
chu chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm theo những phương thức khác
nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển, người ta chia tư bản sản xuất
thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
- Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng
máy móc, thiết bị, nhà xưởng… tham gia vào toàn bộ vào quá trình sản xuất
nhưng giá trị của nó thì chuyển dần từng phần sang sản phẩm theo mức độ
hao mòn của nó trong sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, tư bản cố định bị hao mòn dần. Có hai loại hao
mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn của tư bản cố định:
+ Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn cả về giá trị và giá trị sử dụng do
việc sử dụng trong sản xuất, do sự phá hủy của tự nhiên.
+ Hao mòn vô hình: là hao mòn thuần túy về mặt giá trịdo sự tác động
của tiến bộ khoa học, kỹ thuật nên máy móc mới ra đời có giá trị thấp hơn mà
tính năng sử dụng cao hơn làm cho máy móc đang sử dụng hoặc máy móc ra
đời trước nhưng chưa sử dụng bị giảm giá trị.
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, giá trị của nó được hoàn lại toàn
bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất, khi hàng hóa được bán
xong.
Tư bản dùng để mua nguyên,nhiên, vật liệu trong quá trình Sx toàn bộ
hình thức vật chất được tiêu dùng, giá trị của chúng được dịch chuyển toàn bộ
sang sản phẩm mới.
Gá trị SLĐ không chuyển giá trị của nó sang sản phẩm, mà bằng lao
động trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị tương đương với giá trị bản
thân nó và giá trị thặng dư trong sản phẩm, nhưng xét phương thức chu
chuyển giá trị của nó cũng giống như nguyên, nhiên liệu.
- Ý nghĩa của việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản:

156
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí
bảo quản, sửa chữa, tránh được hao mòn hữu hình và vô hình, cho phép đổi
mới nhanh máy móc, thiết bị, sử dụng quỹ khấu hao làm quỹ dự trữ để mở
rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.
+ Đối với tư bản lưu động: tăng tốc độ chu chuyển sẽ tăng được lượng tư
bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước
khi quy mô sản xuất như cũ hoặc mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản
phụ thêm.
+ Đối với tư bản khả biến: tăng tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến việc làm, tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng
giá trị thặng dư hàng năm.
2. Tái sản xuất và lưu thông tư bản xã hội
a. Một số khái niệm cơ bản của tái sản xuất tư bản xã hội
- Tái sản xuất tư bản xã hội là sự lặp lại không ngừng của sản xuất tư
bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn xã hội, là tái sản xuất của tất cả tư bản cá biệt
trong mối quan hệ phụ thuộc, đan xen vào nhau.
Nghiên cứu chương II: Tái sản xuất tư bản xã hội - xét về mặt lịch sử và
lôgíc - gồm có tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất
giản đơn tư bản xã hội là tái sản xuất xã hội với quy mô như cũ. Còn tái sản
xuất mở rộng tư bản xã hội là tái sản xuất xã hội với quy mô ngày càng lớn
hơn trước.
- Tổng sản phẩm xã hội: là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản xuất ra
trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
+ Về mặt giá trị: Tổng SPXH = C + V + M
+ Về mặt hiện vật: Tổng SPXH = TLSX + TLTD
- Hai khu vực của nền sản xuất xã hội:
Khu vực I: sản xuất tư liệu sản xuất.
Khu vực II: sản xuất tư liệu tiêu dùng.
- Tư bản xã hội:

157
- Tư bản xã hội là tổng hợp các tư bản cá biệt của xã hội vận động đan
xen nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Tham gia vào sự vận động của tư bản xã hội có cả tư bản công nghiệp, tư
bản thương nghiệp, tư bản ngân hàng…
- Những giả định khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội
Để đơn giản hóa việc tính toán trong khi phân tích tái sản xuất tư bản xã
hội, C.Mác đưa ra 5 giả định sau
+ Toàn bộ nền kinh tế trong nước là nền kinh tế TBCN thuần túy, có
nghĩa là mối quan hệ kinh tế trong xã hội chỉ gồm có mối quan hệ giữa nhà tư
bản với công nhân.
+ Hàng hóa luôn được mua bán theo đúng giá trị, giá cả hàng hóa phù
hợp với giá trị.
+ Cấu tạo hữu cơ tư bản không đổi, tức là không xét đến ảnh hưởng của
tiến bộ kỹ thuật.
+ Toàn bộ tư bản cố định đều chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm
trong một năm.
+ Không xét đến ngoại thương.
b. Điều kiện để thực hiện trong tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng tư bản xã hội
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn
+ Điều kiện thứ nhất: I ( v + m ) = II c
Toàn bộ giá trị mới do lao động sáng tạo ra trong khu vực I phải bằng giá
trị tư bản bất biến đã hao phí ở khu vực II. Đây là điều kiện cần thiết để có thể
thực hiện tái sản xuất giản đơn TBCN. Từ điều kiện này có thể rút ra các điều
kiện thứ hai và ba như sau:
+ Điều kiện thứ hai: I ( c + v + m ) = I c + II c
Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải bằng giá trị tư bản bất biến
đã hao phí ở cả hai khu vực.Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực I đối
với quá trình tái sản xuất giản đơn TBCN.
+ Điều kiện thứ ba:

158
II ( c + v + m ) = I ( v + m ) + II ( v + m )
Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực II phải bằng giá trị mới sáng tạo ra
ở cả hai khu vực.Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực II đối với quá trình
tái sản xuất giản đơn TBCN.
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng
 Điều kiện thứ nhất: I ( v + m ) > II c
 + Điều kiện thứ hai: I ( c + v + m ) > I c + II c
 Điều kiện thứ ba: I ( v + m ) + II ( v + m ) > II ( c + v + m )
c. Sự phát triển của V.I.Lênin đối với lý luận tái sản xuất tư bản xã
hội của C.Mác
- V.I.Lênin chú ý đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ tư bản. Trong cả hai
khu vực, cấu tạo hữu cơ của tư bản đều tăng nhưng trong đó cấu tạo hữu cơ tư
bản của khu vực I tăng nhanh hơn khu vực I. Từ đó rút ra kết luận: “ Sản xuất
TLSX để tạo ra TLSX phát triển nhanh nhất, sau đến sản xuất TLSX để tạo ra
TLTD; và cuối cùng chậm nhất là sự phát triển của sản xuất TLTD”. Đó là nội
dung quy luật ưu tiên phát triển TLSX.
3. Khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa
a. Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ
nghĩa tư bản
- Hình thức khủng hoảng đầu tiên và phổ biến trong kinh tế TBCN là
khủng hoảng sản xuất "thừa". Tình trạng "thừa" ở đây là thừa so với sức mua,
với khả năng thanh toán hạn hẹp của người lao động, chứ không phải thừa so
với nhu cầu thực tế của xã hội.
- Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế TBCN bắt nguồn từ mâu thuẫn
cơ bản của CNTB: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của
lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Mâu
thuẫn này biểu hiện cụ thể thông qua các mâu thuẫn sau:
+ Tính tổ chức, tính có kế hoạch trong từng xí nghiệp >< khuynh hướng
tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.

159
+ Khuynh hướng tích lũy, mở rộng sản xuất vô hạn của tư bản >< sức
mua ngày càng eo hẹp của ngươì lao động do bị bần cùng hóa.
+ Giai cấp tư sản >< giai cấp vô sản.
Do những mâu thuẫn cơ bản đó làm cho nền kinh tế TBCN luôn luôn
xảy ra các cuộc khủng hoảng và vận động có tính chu kỳ.
b. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong CNTB
- Chu kỳ kinh tế của CNTB là khoảng thời gian nền kinh tế TBCN vận
động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng khác. Chu kỳ
kinh tế gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.

160
161
Chu kỳ
+ Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. ở giai
đoạn này hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí
nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt. Tư bản mất khả năng
thanh toán, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
+ Tiêu điều: sản xuất đình trệ, thương nghiệp đình đốn, hàng hóa được
đem bán hạ giá, tư bản nhàn rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Nhà tư bản tìm
cách giảm chi phí bằng hạ thấp tiền công, đổi mới tư bản cố định do đó làm
tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự
phục hồi chung của nền kinh tế.
+ Phục hồi: các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất, tư liệu
sản xuất và sức lao động được sử dụng nhiều cho sản xuất làm cho quy mô
đạt mức cao như cũ, P của tư bản cũng tăng lên.
+ Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt cao hơn chu kỳ trước.
Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, tín dụng, ngân hàng phát triển.
Từ đó tạo những tiền đề cho một cuộc khủng hoảng mới.
Lịch sử của CNTB đã cho thấy quá trình tái sản xuất TBCN phát triển
theo chu kỳ kinh tế.
- Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra vào năm 1825 ở Anh,
cứ khoảng 10 năm lại có một lần khủng hoảng kinh tế 1847; 1857; 1866;
1873; 1882; 1890; 1900 - 1903; 1907; 1920 - 1921; 1929 -1933.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay khoảng cách đó lại rút
ngắn lại: 1948 - 1949; 1954 -1955; 1957 - 1958; 1969 - 1970; 1973 - 1975…
162
- Các cuộc KHKT từ chỗ có tính chất riêng biệt của từng quốc gia trở
thành có tính chất quốc tế: 1825 diễn ra ở Anh, 1837: ở Anh, Mỹ, đến 1857 nổ
ra cuộc khủng hoảng đầu tiên mang tính chất thế giới TBCN, tiếp đó 1873,
1900- 1903; 1907; 1920 - 1921; 1929 - 1933; 1957 - 1958; 1969 -1970; 1973
- 1975.
V. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN
CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
Chúng ta biết rằng để sản xuất ra hàng hóa thì phải chi phí một lượng
lao động nhất định, bao gồm: lao động quá khứ( tư liệu sản xuất: c) và lao
động sống( tạo ra giá trị mới: v + m). Đó là chi phí thực tế để tạo ra hàng hóa.
- Chi phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hóa: W = c + v +m
Nhưng đối với nhà tư bản để sản xuất ra hàng hóa họ chỉ cần chi phí
một lượng tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động tức là chỉ cần chi
phí một lượng tư bản ngang với c + v. C.Mác gọi là chi phí sản xuất TBCN
- Chi phí sản xuất TBCN: k = c + v
Chi phí sản xuất TBCN là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản
xuất hàng hóa.
Khi xuất hiện k thì W = k + m
=> Giữa W và k có sự khác nhau về lượng: W > k (c +v +m> c+v)
chất: W là chi phí về lao động
k chi phí về tư bản
Như vậy nói đến W là nói đến lượng lao động kết tinh trong hàng hóa là
bao nhiêu, còn nói đến K là nói đến chi phí để sản xuất ra hàng hóa là bao
nhiêu. Chi phí này chính là giá thành sản phẩm, là giới hạn thực sự của lỗ lãi
kinh doanh, là mấu chốt quyết cạnh tranh nên nhà tư bản tìm mọi cách "tiết
kiệm" chi phí này.
b. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

163
Do giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCNcó một khoản chênh
lệch nên sau khi bán hàng hóa theo giá trị của nó, nhà tư bản thu được một số
tiền lời ngang bằng giá trị thặng dư gọi là lợi nhuận.
- Lợi nhuận (p) là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư khi được
quan niệm là kết quả của toàn bộ tư bản ứng trước.
Như vậy: W=c+v+m => W= k+ m
So sánh m và p: Lượng: nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì m = p và
đều có chung nguồn gốc là là kết quả lao động
không công của công nhân làm thuê.
Chất: m và p đều là một, p chẳng qua là hình thái
thần bí hóa của giá trị thặng dư
c. Tỷ suất lợi nhuận
- Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và
toàn bộ tư bản ứng trước.
m p
p'  x 100%  x 100%
cv K

Thực tế : thường tính theo tỷ suất lợi nhuận hàng năm. Tỷ suất lợi nhuận
hàng năm là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận ( P) thu được trong năm
và tổng tư bản ứng trước( K)
P
P'  x 100%
K
P m
So sánh m' và P': lượng: P'< m' ( P'  x 100% < m'  x 100% )
K v
chất: m' biểu hiện đúng trình độ bóc lột của nhà tư
bản đối với công nhân, còn P' nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư, cho biết
đầu tư vào đâu thì có lợi.
d. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
+ Tỷ suất giá trị thặng dư: p' tỷ lệ thuận với m'
+ Nếu m không đổi thì p' phụ thuộc vào cấu tạo hữu cơ tư bản: cấu tạo
hữu cơ tư bản( c/v) càng cao thỉ tỷ suất lợi nhuận càng giảm.

164
+ Tốc độ chu chuyển của tư bản: P' tỷ lệ thuận với tốc độ chu chuyển của
tư bản
+ Tiết kiệm tư bản bất biến: nếu m' và TBKB không đổi thì p' càng tăng
khi TBBB càng giảm
Đó là 4 nhân tố ảnh hưởng đến P'. Trong các ngành sản xuất khác nhau,
tác động của 4 nhân tố đó không giống nhau do đó dẫn đến kết quả P' hoàn
toàn khác nhau. Nhưng trong thực tế, các nhà tư bản không chịu " yên phận"
như vậy. Họ cạnh tranh quyết liệt lẫn nhau từ đó hình thành P ' và giá cả sản
xuất.
2. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường
- Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể
trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình.
Dưới CNTB có hai hình thức cạnh tranh chủ yếu: cạnh tranh trong nội
bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hóa, nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận
siêu ngạch.
- Biện pháp: cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, cải tiến mẫu
mã sản phẩm... làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa giảm.
- Kết quả: hình thành giá trị xã hội của hàng hóa( hay giá trị thị trường).
- Giá trị thị trường là giá trị trung bình của của những hàng hóa được sản
xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó hay là giá trị cá biệt của những
hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó
và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm của khu vực này.
b. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân

165
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp kinh
doanh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có
lợi hơn.
- Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành
khác, tức là tự phát phân phối tư bản vào các ngành sản xuất khác nhau.
- Kết quả của cuộc cạnh tranh: hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và
chuyển giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất.
Ví dụ:
Ngành SX Chi phí SX m' (%) M P' (%) P ' (%)
Cơ khí 80 c + 20 v 100 20 20 30
Dệt 70 c + 30 v 100 30 30 30
Da 60 c + 40 v 100 40 40 30

- Tỷ suất lợi nhuận bình quân ( P ' )là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất
TBCN.

P' 
 M 100%
K
- Lợi nhuận bình quân ( P ) là lợi nhuận bằng nhau của những tư bản
bằng nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau, bất kể cấu trạo hữu cơ
của tư bản như thế nào.
P = k x P'
3. Sự chuyển hóa giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất
- Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân hình thành thì giá trị hàng hóa chuyển
hóa thành giá cả sản xuất.
- Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình
quân.
GCSX = k + P
Như vậy, tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân. Điều kiện để giá trị hàng hóa biến thành giá cả sản xuất là nền đại

166
công nghiệp phát triển, sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành, quan hệ tín dụng
phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Sự bình quân hóa P' và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất càng che
dấu quan hệ bóc lột TBCN. Ví dụ trên cho thấy: Cứ đầu tư một lượng tư bản
như nhau vào các ngành sản xuất khác nhau sẽ thu được một lượng lợi nhuận
bằng nhau.Điều đó cho thấy hình như P không có mối liên hệ gì với m, và tư
bản hình như có khả năng tư sinh sôi nảy nở. Giai cấp tư sản căn cứ vào đây
để biện hộ cho sự không bóc lột, cho rằng cứ có vốn thì có lãi. Thực chất P và
m là một. Sự bình quân hóa P' và P chẳng qua là do tác động của cạnh tranh,
là sự phân phối lại m giữa các ngành. Đứng trên góc độ toàn xã hội mà xét
thì: Tổng P = Tổng m
4. Các hình thái tư bản và hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
a. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
- Xét về mặt lịch sử, tư bản thương nghiệp có trước tư bản công
nghiệp.nó tồn tại trên cơ sở lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Lợi
nhuận của nó chủ yếu là dựa trên cơ sở mua rẻ, bán đắt.
- Trong CNTB, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công
nghiệp tách rời ra và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công
nghiệp.
Công thức vận động: T - H - T'
- Đặc điểm của tư bản thương nghiệp: Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư
bản thương nghiệp vừa thống nhất, phụ thuộc vừa độc lập tương đối với tư
bản công nghiệp.
+ Thống nhất, phụ thuộc: tốc độ vận động và quy mô của tư bản thương
nghiệp do tốc độ và quy mô sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định. ( SX
là cơ sở của trao đổi, không có sản xuất không có lưu thông). Mặt khác
TBTN là một khâu của TBCN, đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa cho
TBCN.
+ Độc lập: nhà tư bản thương nghiệp để thực hiện lưu thông hàng hóa
cũng phải ứng tư bản nhằm thu lại số lượng tiền lớn hơn thông qua việc bán.

167
Với mục đích đó, tư bản của họ không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất
mà chỉ hoạt động trong phạm vi lưu thông.
- Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong
quá trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp
để tư bản thương nghiệp tiêu thụ hàng hóa cho mình.
b. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay
- Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời mà người chủ của nó cho nhà
tư bản khác sử dụng trong một thời gian để nhận một số tiền lời nhất định. Số
tiền lời đó gọi là lợi tức, ký hiệu z.
- Đặc điểm của tư bản cho vay:
+ Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư bản.
+ Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt vì: khi cho vay, người bán
không mất quyền sở hữu còn người mua chỉ có quyền sử dụng; khi sử dụng
giá trị của tư bản cho vay không mất đi mà tăng lên; giá cả của nó không do
giá trị mà do giá trị sử dụng của nó quyết định.
- Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả
cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà tư bản cho vay
đã bỏ ra cho nhà tư bản đi vay
- Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền
tệ cho vay trong một thời gian nhất định( ký hiệu z')
z
z'  x 100%
k (TB cv)

Tỷ suất lợi tức phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau:
+ Tỷ suất lợi nhuận bình quân
+ Tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và lợi nhuận của xí nghiệp
+ Quan hệ cung cầu về tư bản cho vay
Do tác động của các yếu tố đó, tỷ suất lợi tức luôn biến động. Giới hạn
vận động của tỷ suất lợi tức là: o < z' < P ' .
c. Quan hệ tín dụng TBCN. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

168
- Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau. Tín dụng TBCN là hình thức
vận động của tư bản cho vay.
- Tín dụng TBCN có 2 loại:
+ Tín dụng thương nghiệp: là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực
tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hóa với nhau.
+ Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi
giới.
- Ngân hàng trong CNTB là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi
giới giữa người đi vay và người cho vay.
- Lợi nhuận ngân hàng
P NH = z cho vay – z nhận gửi – Chi phí nghiệp vụ kinh doanh NH
p ngân hàng

- p’ngân hàng (%) = ------------------------- x 100(%)

∑ TB tự có của
d. Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán
- Khái niệm: CTCP là loại xí nghiệp mà vốn của nó được hình thành từ
sự đóng góp của nhiều người thông qua phát hành cổ phiếu.
- Cổ phần là vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng
nhau. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu.
- Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá do công ty cổ phần phát hành ghi
nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (cổ đông), đồng thời bảo
đảm cho cổ đông có quyền được nhận một phần thu nhập của công ty (cổ tức)
căn cứ vào giá trị c phần và tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
- Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ có mệnh giá, có kỳ hạn, có lãi do các
doanh nghiệp, các tổ chức được phép phát hành nhằm huy động vốn vì mục
đích cụ thể.
Trái phiếu gồm có nhiều loại: trái phiếu của CTCP, trái phiếu kho bạc,
trái phiếu ngân hàng, trái phiếu quốc tế.

169
- Về mặt tổ chức và quản lý của CTCP thì đại hội cổ đông là cơ quan tối
cao nhất. Đại hội cổ động bầu ra HĐQT và quyết định phương hướng kinh
doanh cùng những vấn đề quan trọng khác của công ty.
- Cổ phiếu có thể được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán. Trên
thị trường chứng khoán, cổ phiếu được bán theo thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ
phiếu phụ thuộc vào lợi tức cổ phần và tỷ suất lợi tức ngân hàng.
- Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và
mang lại thu nhập cho người sở hữu chứng khoán đó.
Tư bản giả bao gồm hai loại chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu.
- Đặc điểm của tư bản giả:
+ Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó.
+ Có thể mua bán được. Giá của nó do tỷ suất lợi tức quyết định.
+ Tư bản giả không có giá trị. Nó có thể tăng hay giảm mà không cần
đến sự thay đổi tương đương của tư bản thật.
- Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán các chứng khoán.
Bao gồm: TT sơ cấp: bán các chứng khoán phát hành lần đầu.
TTthứ cấp: mua bán lại các chứng khoán.
- Vai trò của thị trường chứng khoán:
+ Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các công ty cổ phần.
+ Tạo điều kiện để nhà nước quản lý vĩ mô thị trường vốn
+ Đánh giá sự phát triển của nền kinh tế, khả năng kinh doanh của các
doanh nghiệp thông qua sự biến động của giá cả chứng khoán.
- Mặt trái: Tạo tầng lớp trung gian mua bán chứng khoán, đầu cơ lũng
đoạn thị trường. tạo nền kinh tế " bong bóng"( TB giả).
- Thị trường chứng khoán là loại thị trường phản ứng rất nhạy bén đối
với các biến động của kinh tế - xã hội, chính trị, quân sự. Vì thế, thị trường
chứng khoán được coi là " phong vũ biểu" của nền kinh tế.
e. Tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa tô
- Sự hình thành QHSX trong nông nghiệp: chủ yếu bằng hai con đường:

170
+ Duy trì căn bản kinh tế địa chủ và thông qua cải cách dần dần chuyển
sang kinh doanh TBCN, sử dụng lao động làm thuê.( Đức, ý, Nhật ,Nga)
+ Thông qua cách mạng dân chủ tư sản xoá bỏ kinh tế địa chủ phong
kiến và phát triển kinh tế TBCN( Mỹ , Anh, Pháp)
- Đặc điểm nổi bật của QHSX TBCN trong nông nghiệp là chế độ độc
quyền sở hữu và độc quyền kinh doanh ruộng đất. Hai loại độc quyền đó đã
ngăn cản tự do cạnh tranh trong nông nghiệp.
- Bản chất địa tô tư bản chủ nghĩa: là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài
lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp do công
nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho
địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
- Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa
* Địa tô chênh lệch:
- Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số
chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định trên ruộng đất xấu
nhất và giá cả cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.
- Nguyên nhân tồn tại của địa tô chênh lệch là do độc quyền kinh doanh
ruộng đất.
- Địa tô chênh lệch có 2 loại:
+ Địa tô chênh lệch I: Là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất màu mỡ
hay có vị trí thuận lợi như gần đường giao thông, gần nơi tiêu thụ.
+ Địa tô chênh lệch II: là địa tô thu được do thâm canh mà có.
* Địa tô tuyệt đối:
- Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình
quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ tư bản trong nông nghiệp thấp hơn
cấu tạo hữu cơ tư bản trong công nghiệp, nó là chênh lệch giữa giá trị nông
sản với giá cả sản xuất chung.
- Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông
nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Còn nguyên nhân tồn tại của địa tô tuyệt

171
đối là do chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất đã ngăn cản nông nghiệp tham
gia cạnh tranh giữa các ngành để hình thành lợi nhuận bình quân.
* Địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô độc quyền
- Địa tô đất xây dựng: được hình thành như địa tô đất nông nghiệp nhưng
trong đó giá trị, hàm lượng, trữ lượng của khoáng sản, vị trí và điều kiện khai
thác là những yếu tố quyết định.
- Địa tô hầm mỏ: được hình thành như địa tô đất nông nghiệp nhưng
trong đó vị trí đất đai là yếu tố quyết định.
- Địa tô độc quyền là loại lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao
của sản phẩm thu được trên đất đai ấy mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.
- Giá cả ruộng đất:
Giá cả đất đai là địa tô tư bản hoá. Bởi đất đai đem lại địa tô, tức là đem
lại thu nhập ổn định bằng tiền, nên nó được xem như là một loại tư bản đặc
biệt. Còn địa tô chính là lợi tức của tư bản đó. Do đó, giá cả ruộng đất là giá
mua địa tô do ruộng đất mang lại theo tỷ suất lợi tức hiện hành. Nó tỷ lệ thuận
với địa tô và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức của ngân hàng.
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập
1. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản
2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản
3. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
4. Tích luỹ tư bản
5. Quá trình lưu thông của tư bản và giá trị thặng dư
6. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Các hình thái tư bản và lợi
nhuận của chúng.
II. Nội dung thảo luận
1. Tại sao nói hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt? Tại sao nói
hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản?

172
2. Bản chất và nguồn gốc của giá trị thặng dư? Ý nghĩa việc nghiên cứu
các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư?
3. Phân tích ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu tuần hoàn
và chu chuyển của tư bản, tư bản cố định và tư bản lưu động đối với sản xuất
kinh doanh ở nước ta hiện nay.
4. Căn cứ phân chia và ý nghĩa phân chia tư bản thành hai cặp phạm trù:
tư bản bất biến và tư bản khả biến; tư bản cố định và tư bản lưu động?
5. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản? Các nhân tố ảnh hưởng tới
quy mô tích lũy tư bản? So sánh tích tụ tư bản và tập trung tư bản.
6. Các phạm trù lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận bình quân đã che
dấu quan hệ sản xuất TBCN như thế nào?
7. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay,
địa tô TBCN? Sự che dấu quan hệ sản xuất TBCN của các phạm trù nói trên?

173
Chương VI . HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
GIỚI THIỆU
Chương 6 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản của học
thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước; chủ nghĩa tư bản ngày nay và những biểu hiện của nó; vai trò, hạn chế
và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 6 giúp người học:
-Nhận biết được những nội dung cơ bản về chủ nghĩa tư bản độc quyền,
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và chủ nghĩa tư bản ngày nay.
- Hiểu được những nội dung cơ bản về: nguyên nhân ra đời và những đặc
điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền; nguyên nhân ra đời và
bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước; những nét mới trong sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với
sự phát triển nền sản xuất xã hội và những hạn chế của nó.
- Phân tích được quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản qua các giai
đoạn phát triển của nó; xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.
-Vận dụng học thuyết học thuyết kinh tế về chủ nghĩa tư bản độc quyền
và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước để phân tích những vấn đề thực tiễn
trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta.
- Trên cơ sở nhận thức được xu hướng vận động của CNTB, xác lập
niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.7: Nhận biết được những nội dung cơ bản về chủ nghĩa tư bản độc
quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và chủ nghĩa tư bản ngày nay.
G2.6: Hiểu được những nội dung cơ bản về:
- Nguyên nhân ra đời và những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản độc quyền;

174
- Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước;
- Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại
- Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển nền sản xuất xã hội và
những hạn chế của nó.
G3.6: Phân tích được quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản qua các
giai đoạn phát triển của nó; xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.
G4.6: Vận dụng học thuyết học thuyết kinh tế về chủ nghĩa tư bản độc
quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước để phân tích những vấn đề
thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập kinh tế thế giới ở
nước ta.
G5.6: Xác lập niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
1. Nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh
tranh sang độc quyền
Nghiên cứu CNTB tự do cạnh tranh C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chỉ ra
rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung
sản xuất đến một mức nào đó sẽ dẫn đến độc quyền
Sống trong thời kỳ hình thành và phát triển của CNTB độc quyền, Lênin
đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của C.Mác và Ph.Ăng ghen vào điều
kiện mới và khẳng định:“… cạnh tranh tự do đẻ ra tập trung sản xuất và sự
tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc
quyền”
- CNTB độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân sau:
+ LLSX phát triển do sự tác động của KHKT đẩy nhanh quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.

175
+ Sự tác động của các quy luật kinh tế của CNTB như quy luật giá trị
thặng dư, quy luật tích lũy tư bản ngày càng mạnh mẽ làm biến đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
+ Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng
quy mô tích luỹ, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời làm cho những xí
nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản hoặc phải liên kết với nhau thành xí nghiệp lớn
để đứng vững trong cạnh tranh.
+ Khủng hoảng kinh tế làm phá sản những xí nghiệp vừa và nhỏ, đẩy
nhanh quá trình tập trung sản xuất.
+ Tín dụng TBCN mở rộng trở thành đòn bẩy thúc đẩy tập trung sản
xuất, nhất là hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các
tổ chức độc quyền.
2. Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc
quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền.
- Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập
trung vào trong tay một phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng
hóa nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Các hình thức cơ bản của độc quyền: cácten, xanhđica, tơrớt,
côngxoócxiom, từ giữa thế kỷ XX xuất hiện hình thức độc quyền mới là
consơn và cônglômêrat.
+ Cácten: các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy
mô sản lượng, thị trường tiêu thụ và kỳ hạn thanh toán còn việc sản xuất và
thương nghiệp là riêng của từng nhà tư bản.
+Xanh đica: cũng giống như cácten nhưng việc mua bán do một ban
quản trị chung đảm nhận nhằm thống nhất đầu mối mua bán để mua rẻ và bán
đắt thu lại lợi nhuận độc quyền cao.

176
+ Tơ rớt: thống nhất cả việc sản xuất và lưu thông hàng hóa dưới sự
quản lý của Hội đồng quản trị còn các thành viên tham gia trở thành cổ đông,
Về thực chất đây là các công ty cổ phần khổng lồ. => Liên kết ngang
+ Côngxócxiom: Là hình thức độc quyền đa ngành thường tồn tại dưới
dạng hiệp nghị ký kết giữa ngân hàng và các xí nghiệp công nghiệp để tiến
hành phát hành, phân phối đầu cơ chứng khoán hoặc thực hiện những dự án
đầu tư lớn =>Liên kết dọc
- Trên cơ sở nắm giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông các công
ty độc quyền định ra giá cả độc quyền từ đó thu lại P độc quyền cao.
Hiện nay, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và của khoa học, công
nghệ nên đã diễn ra quá trình hình thành những liên kết giữa các độc quyền
theo cả hai chiều dọc và ngang ở trong và ngoài nước. Từ đó xuất hiện các
hình thức tổ chức độc quyền mới: Coson, Cônglômêrat.
+ Consơn: là tổ chức độc quyền đa ngành gồm hàng trăm xí nghiệp ở các
ngành khác nhau được phân bố ở nhiều nước.
+ Cônglômêrat: xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX, là sự kết hợp
của những xí nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu kinh doanh chứng khoán, tài chính.
b. Tư bản tài chính và và bọn đầu sỏ tài chính
- “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của
một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc
quyền các nhà công nghiệp”. (Lênin, Toàn tập, Nxb CTQG 2005, T27, tr489)
- Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ
độc quyền chi phối mọi hoạt động kinh tế - chính trị của xã hội tư bản gọi là
bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình đối
với nền kinh tế thông qua "chế độ tham dự", ngoài ra còn bằng cách lập các
công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh, đầu cơ chứng khoán…
- Từ chỗ thống trị về kinh tế, tư bản tài chính thống trị về chính trị, chi
phối hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ
phục vụ cho lợi ích của mình.
c. Xuất khẩu tư bản

177
- Xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn tự do cạnh tranh còn
xuất khẩu tư bản là đặc điểm của CNTB độc quyền.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài ( đầu tư tư bản ra
nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi
nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
- Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu trong giai đoạn độc quyền vì:
+ Một số nước tư bản phát triển đã tích luỹ được một số tư bản lớn và có
một số "tư bản thừa" tương đối cần nơi đầu tư có lợi hơn so với đầu tư trong
nước.
+ Nhiều nước lạc hậu về kinh tế thiếu vốn, kỹ thuật trong khi lại có
nguồn nguyên liệu dồi dào, giá nhân công rẻ nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp
dẫn đầu tư tư bản.
- Hình thức xuất khẩu tư bản:
+ Xét về hình thức đầu tư gồm: xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu
tư bản gián tiếp.
+ Xét về chủ sở hữu tư bản gồm: xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất
khẩu tư bản tư nhân.
- Xuất khẩu tư bản thực chất là sự mở rộng QHSX TBCN ra nước ngoài,
là công cụ để bành trướng sự thống trị, bóc lột, sự nô dịch của tư bản tài chính
trên phạm vi toàn thế giới.
Tuy nhiên XKTB cũng có những tác động tích cự đến nề kinh tế của các
nước đang phát triển: thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tiến bộ…
d. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản
tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn đến sự phân chia về mặt kinh tế,
đó là sự phân chia về lĩnh vực đầu tư tư bản, thị trường thế giới giữa các tập
đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
e. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

178
- Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc
phân chia thế giới về lãnh thổ. CNTB càng phát triển, nhu cầu về nguồn
nguyên liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn
nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết thì cuộc đấu tranh để xâm chiếm
thuộc địa càng quyết liệt hơn.
- Đến đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia
lãnh thổ thế giới. Anh là nước chiếm được nhiều thuộc địa nhất. Số dân thuộc
địa của Anh = 7 lần của Pháp, và = 12 lần của Nga. Số dân thuộc địa của Pháp
> 3 nước: Đức, Mỹ, Nhật. Do sự phân chia không đều đó giữa các cường
quốc đế quốctất yếu đẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là
nguyên nhân chính của các cuộc chiến tranh lần thứ nhất (1914 - 1918) và lần
thứ hai( 1939 - 1945).
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền có mối liên quan
chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của CNTB độc quyền.
* Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của CNTB. Chủ nghĩa đế quốc về
mặt kinh tế là sự thống trị của CNTB độc quyền; về mặt chính trị là sự xâm lược
nước ngoài, là hệ thống thuộc địa nảy sinh từ yêu cầu kinh tế của CNTB độc quyền.
3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư
trong giai đoạn CNTB độc quyền
a. Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong giai đoạn CNTB độc
quyền
- Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, đối lập với cạnh tranh tự do,
nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh mà còn làm cho cạnh tranh trở nên
đa dạng và gay gắt hơn.
- Trong giai đoạn độc quyền, ngoài sự tồn tại của cạnh tranh giữa những
người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ còn xuất hiện những
hình thức cạnh tranh mới:
+ Cạnh tranh giữa các tổ chức ĐQ – xí nghiệp ngoài ĐQ
+ Cạnh tranh giữa tổ chức ĐQ với nhau
+ Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức ĐQ

179
b. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng
dư trong giai đoạn CNTB độc quyền
CNTB độc quyền Quy luật giá cả ĐQ Quy luật lợi nhuận ĐQ

CNTB tự do cạnh tranh Quy luật GCSX Quy luật P bình quân

Sản xuất hang hóa Quy luật giá trị Quy luật giá trị thặng dư

II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC


1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước
a. Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Gồm có 4 nguyên nhân cơ bản:
- Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung tư bản sản
xuất càng cao, do đó đã đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều
tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sự kế hoạch hoá từ một trung
tâm. Từ đó đặt ra yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho xã hội
quản lý nền sản xuất. Mặt khác, lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá
cao ngày càng mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN, do
đó tất yếu đòi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của CNTB.
Hình thức mới đó là CNTB độc quyền nhà nước.
- Sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện một số
ngành mà các tổ chức độc quyền tư nhân không muốn hoặc không đủ sức
kinh doanh. Vì vậy nhà nước tư sản cần phải đảm nhiệm kinh doanh các
ngành đó để tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các
ngành khác có lợi hơn.
- Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai
cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Vì thế nhà nước phải có

180
những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như: trợ cấp thất nghiệp,
điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội …
- Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của
các liên minh độc quyền vấp phải hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trường thế giới đỏi hỏi phải có sự điều tiết các
quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó không thể thiếu vai trò của nhà
nước.
b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
- CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể
chế thống nhất nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy
cho CNTB.
CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của CNTB độc
quyền.Trong cơ cấu của CNTB độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành
một tư bản tập thể khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu của những xí nghiệp,
cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản
thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ngoài chức năng của một nhà tư bản,
nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân
đội, cảnh sát, nhà tù… Vì vây:
- CNTB độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị xã hội, chứ
không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của CNTB.
2. Những hình thức chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa nhà nước và các tổ chức độc quyền
- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua:
+ Các đảng phái tư sản tư sản như Đảng Dân chủ, Đảng cộng hoà, Công
Đảng, Đảng dân chủ Thiên chúa giáo…
+ Các hội chủ xí nghiệp như Hội công nghiệp toàn quốc Mỹ, Liên đoàn
các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp Đức, Hội đồng
quốc gia giới chủ Pháp…

181
Hai hình thức này tuy bề ngoài có khác nhau nhưng thực chất cũng là
một. Nhiêm vụ của chúng là câu kết lại với nhau thành một cơ chế thống nhất
thông qua nhà nước để chi phối đường lối và điều khiển các chính sách kinh
tế, chính trị của quốc gia.
Các đảng phái tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực
hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà
nước.
Để xâm nhập và chi phối hoạt động của nhà nước tư sản, các hội chủ xí
nghiệp lập ra các Ban tư vấn, vạch ra chiến lược và sách lược kinh tế của đất
nước có lợi cho mình. Chúng cung cấp kinh phí cho các Đảng phái hoạt động
và thông qua đó đưa người của mình vào nắm giữ các vị trí then chốt của nhà
nước. Đồng thời thông qua các nhân vật chính trị tay trong này để đưa ra
những phúc trình và biểu quyết của chúng trong các hội nghị, nhờ đó mà lợi
ích của các độc quyền được thể chế hoá thành pháp luật, buộc xã hội phải
tuân thủ. Vai trò của cá Hội chủ xí nghiệp lớn đến mức dư luận thế giới gọi
chúng là những chính phủ thực quyền đằng sau các chính phủ.
- CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể
chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích cho các tổ chức độc quyền và cứu nguy
cho CNTB
b. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước
- Sở hữu nhà nước tư sản thực chất là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản,
có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự
tồn tại của CNTB.
- Sở hữu nhà nước được hình thành dưới những hình thức sau:
+ Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.
+ Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại.
+ Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân.
+ Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh
nghiệp tư nhân.

182
- Chức năng của sở hữu nhà nước:
+ Mở rộng sản xuất TBCN, đảm bảo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển
của CNTB.
+ Giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành có lãi ít để
đưa sang những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
+ Là chỗ dựa về kinh tế để nhà nước điều tiết nền kinh tế.
c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Trong điều kiện của CNTB độc quyền nhà nước, do cơ chế thị trường tư
do và cơ chế độc quyền tư nhân đều có những mặt tích cực và hạn chế nên tất
yếu đòi hỏi phải có sự bổ sung bằng điều tiết của nhà nước. Nhưng sự điều
tiết của nhà nước cũng có những tích cực và hạn chế. Đôi khi những sai lầm
của trong sự điều tiết của nhà nước mang lại hậu quả tai hại hơn cả tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường tư do và cơ chế độc quyền tư nhân. Vì thế cơ
chế điều tiết kinh tế của CNTB độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ
chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy
mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế.
- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản được thực hiện thông qua các
chính sách: chống khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, chính sách tăng trưởng
kinh tế…, bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính – pháp lý: tài
chính, tiền tệ, kế hoạch hóa, luật pháp…
III. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN
MỚI CỦA NÓ
1. Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chhur nghĩa tư bản
độc quyền
a) Tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền: sự
xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên quốc gia bên
cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ
- Do sự phát triển của lực lượng sản xuất và của khoa học, công nghệ
nên đã diễn ra quá trình hình thành những liên kết giữa các độc quyền theo cả

183
hai chiều dọc và ngang ở trong và ngoài nước. Từ đó xuất hiện các hình thức
tổ chức độc quyền mới: Coson, Cônglômêrat.
- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Nguyên nhân xuất hiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+ Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ cho phép
tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống
gia công, nhất là trong các ngành sản xuất ôtô, máy bay, cơ khí, dệt…
+ Doanh nghệp vừa và nhỏ có nhiều ưu thế trong cơ chế thị trường. Đó
là: nhạy cảm đối với thay đổi trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với biến động
của thị trường;mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đỏi hỏi sự mạo hiểm;
dễ đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung…
b) Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư
bản tài chính
- Phạm vi liên kết và thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư
bản công nghiệp được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tư bản tài
chính thường tồn tại dưới một hình thức tổ hợp đa dạng kiểu: công- nông-
thương- tín- dịch vụ hay công nghiệp- quân sự - dịch vụ quốc phòng… Nội
dung liên kết cũng đa dạng, tinh vi và phức tạp hơn.
- Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời
sống kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc
gia và xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia thâm
nhập vào các nước khác như WB, IMF.
c) Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của tư bản độc quyền nhưng quy mô,
chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển
mới
- Quy mô xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển ngày càng lớn.
Nguyên nhân là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy
sự phát triển của việc phân công quốc tế, việc quốc tế hoá sản xuất và việc
tăng nhanh tư bản “dư thừa” trong các nước; mặt khác là do sự tan rã của hệ
thống thuộc địa cũ sau chiến tranh.

184
- Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước
kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
sang các nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng từ sau những năm 70 của
thế kỷ XX, ¾ tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước phát triển với nhau,
mở đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây Âu. Nguyên nhân chủ yếu của sự
chuyển hướng đầu tư nói trên là:\
+ Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là
những ngành có hàm lượng khoa học cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư
vào nghiên cứu khoa học – kỹ thuật và sản xuất, đồng thời đầu tư vào các
ngành đó trong thời gian đàu thu được lợi nhuận siêu ngạch lớn nên rất hấp
dẫn đầu tư.
+ Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong
tình hình chính trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi;
thiếu đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học – kỹ thuật, công nhân lành nghề;
trình độ dân trí thấp và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân ít, không đủ
mức cần thiết để tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
d) Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của CNTB: xu hướng
quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa
nền kinh tế
- Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền xuyên
quốc gia tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự
phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc
hình thành CNTB độc quyền nhà nước quốc tế.
- Cùng với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế lại diễn
ra hiện tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu
vực như: Liên hợp châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam A (ASEAN),
Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)... Ngày càng
có nhiều nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch tự do (FTA) hoặc các
Liên minh Thuế quan (CU).

185
FTA là khu vực trong đó các nước thành viên cam kết xoá bỏ hàng rào
thuế quan đối với hàng hóa của nhau. CU là liên minh trong đó các nước
thành viên có mức thuế chung đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài
khối. Các liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có
nhiều ưu thế hơn so với tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu.
e) Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những
hình thức cạnh tranh và thống trị mới
- Các cường quốc chuyển sang thi hành chủ nghĩa thực dân mới mà nội
dung chủ yếu của nó là thực hiện" Chiến lược biên giới mềm", bành trướng "
biên giới kinh tế" dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ
thuộc của các nước kém phát triển vào các cường quốc.
- Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi nhưng
lại được thay thế bởi các cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại,
chiến tranh sắc tộc tôn giáo mà đứng sau đó là các cường quốc đế quốc.
Những cuộc tấn công của Mỹ và đồng minh vào Apganixtan, Irắc...
chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc vẫn là một đặc điểm trong giai đoạn phát triển
hiện nay của CNTB.
2 Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của CNTB độc
quyền nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, CNTB độc quyền nhà nước có những biểu
hiện mới sau đây:
- Các hình thức của kinh tế thuộc nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
ngày càng đa dạng, vừa bao gồm các xí nghiệp thuộc nhà nước trong các
ngành sản xuất vật chất, vừa bao gồm các tổ chức tài chính thuộc ngân hàng,
ngành dịch vụ, cùng những công trình cơ sở hạ tầng xã hội mới xây dựng do
nhà nước tư bản chủ nghĩa đầu tư.
- Sự kết hợp giữa kinh tế thuộc nhà nước và kinh tế tư nhân tăng lên
mạnh mẽ.Năm 1979, trong 40 công ty công nghiệp lớn nhất của Tây Âu có 7
công ty hỗn hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân, trong đó vốn nhà nước chiếm
khoảng một nửa. Trong công ty dầu lửa của Mỹ, cổ phần do Chính phủ nắm là

186
46%. ở Cộng hoà Liên bang Đức đã có 1.000 xí nghiệp thuộc Nhà nước và tư
nhân kết hợp.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết
quá trình tái sản xuất xã hội tăng lên. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất,
khoản chi này chiếm khoảng 10% tỷ trọng tổng giá trị sản phẩm quốc dân, thì
đến đầu những năm 1980, khoản chi này đã chiếm hơn 30%, cá biệt có nước
vượt quá 50%.
- Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn với phạm
vi rộng hơn. Biểu hiện: nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng chương trình và
kế hoạch. Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường, hỗ trợ cho các
ngành truyền thống và các ngành mũi nhọn công nghệ cao. Sử dụng linh hoạt
công cụ tài chính tiền tệ nhằm kiểm soát giá cả, kiềm chế lạm phát. Điều tiết
các quan hệ kinh tế đối ngoại.
3. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại
a. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
- Cách mạng công ghệ thông tin và công nghệ cao phát triển mạnh mẽ.
- Giáo dục đào tạo được tăng cường tạo điều kiện nâng cao trình độ cho
người lao động.
b. Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang
kinh tế tri thức.
- Cuộc cách mạng KHKT lần thứ nhất chuyển đổi nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Cách mạng công nghệ thông tin hiện
nay đang thuc đẩy nền kinh tế TBCN từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức.
- Trong nền kinh tế tri thức, cảu cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là
dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy nhiên vốn và tài
nguyên thiên nhiên vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu.
- Nền kinh tế TBCN chuyển dịch theo hướng gia tăng các ngành kinh tế
có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức: công nghiệp thông tin, công

187
nghiệp công nghệ cao, dịch vụ xử lý thộng tin, tài chính ngân hàng, giáo dục
đào tạo...
c. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp
- Quan hệ sở hữu có sự thay đổi: từ sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang
sở hữu cổ phần.
- Kết cấu giai cấp có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp, các đoàn
thể xã hội, tập đoàn cùng tồ tại và tác động lẫn nhau.
- Điều chỉnh về quan hệ phân phối thu nhập.
d. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những
biến đổi lớn
- Doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng
ngang và mạng lưới.
- Sử dụng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất.
- Thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc.
đ. Điều tiết vĩ mô của nhà nước được tăng cường
- Nhà nước kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể nền kinh tế.
- Lựa chọn chính sách thực dụng.
- Vận dụng linh hoạt chính sách tài chính, tiền tệ
e. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong
hệ thống kinh tế TBCN, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh
tế.
- Cùng với tích tụ và tập trung tư bản, xuất khẩu tư bản được đẩy mạnh
đã trở thành cơ sở kinh tế quan trọng cho sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc
tế của các công ty xuyên quốc gia được hình thành từ các tổ chức độc quyền
sau Chiến tranh thế giới thứ II.
- TNCs là những công ty quy mô lớn, sở hữu đa quốc gia và kiểm soát các
hoạt động sản xuất kinh doanh ở nhiều nước.
IV. VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN

188
1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội
- Giải phóng loài người thoát khỏi “ đêm trường trung cổ”, đoạn tuyệt
với kinh tế tự nhiên, chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại.
- Phát triển lực lượng sản xuất: CNTB đã xây dựng được một cơ sở vật
chất - kỹ thuật dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ mới - đó là kinh tế tri thức. Nhờ đó CNTB đã đạt được năng suất lao
động cao, tăng trưởng kinh tế và tạo ra được khối lượng của cải khổng lồ với
chất lượng cao.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
- Thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã xây dựng được tác phong
công nghiệp cho người lao động.
- Xây dựng nền dân chủ tư sản.
2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản
- Quan hệ bóc lột, sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội
- Gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng trăm cuộc chiến tranh cục
bộ
Từ sau Chiến tranh thế giới II: các nước TBCN vẫn ráo riết quân sự hoá
nền kinh tế. Thực hiện chạy đua vũ trang để tìm lối thoát cho những bế tắc về
kinh tế, chính trị, từ đó lối cuốn các nước vào thảm hoạ của các cuộc xung đột
sắc tộc, tôn giáo… dẫn đến các cuộc nội chiến để phục vụ cho các tổ chức độc
quyền. - Tình trạng ô nhiễm môi trường
- Sự nghèo khổ, lạc hậu của nhân dân các nước chậm phát triển
3. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
- Chủ nghĩa tư bản tất yếu diệt vong. Giới hạn mà chủ nghĩa không thể
vượt qua: bắt nguồn từ mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB: mâu thuẫn giữa
tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù chủ nghĩa tư bản
ngày nay đã có sự điều chỉnh nhất định về quan hệ sở hữu, quản lý và phân
phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản này.

189
- Chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình bị diệt vong mặc dù hiện tại vẫn
đang có khả năng thích nghi, tự điều chỉnh. Chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ
nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới - quy luật khách quan của lịch sử.
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập:
1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền: nguyên nhân hình thành, bản chất và đặc
điểm
2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước: nguyên nhân hình thành, bản
chất và những biểu hiện chủ yếu.
3. Chủ nghĩa tư bản ngày nay và những biểu hiện mới của nó
4. Vai trò, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
II. Nội dung thảo luận:
1. Phân tích nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền
nhà nước.
1. Phân tích những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện
đại
2. Bình luận quan điểm: Ngày nay chủ nghĩa tư bản đang có sự tự điều
chỉnh nhưng không thể vượt qua được giới hạn lịch sử của nó?

190
CHƯƠNG VII. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ CÁCH MẠNG XHCN
GIỚI THIỆU
Chương 7 gồm 3 nội dung chính: 1.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân; 2.Cách mạng xã hội chủ nghĩa; 3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 7 giúp người học
- Biết được khái niệm giai cấp công nhân, vai trò của Đảng Cộng sản
trong quá trình thực hiện SMLS của GCCN; khái niệm, nội dung cách mạng
xã hội chủ nghĩa, tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân trong cách mạng XHCN; quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự
phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN.
- Hiểu được những nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân; động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cơ bản của
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng XHCN;
đặc điểm, nội dung thời kỳ quá độ; đặc trưng của XH XHCN
- Phân tích được những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân.
- Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong xây dựng mô
hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.8: Nhận biết được khái niệm giai cấp công nhân, vai trò của Đảng
Cộng sản trong quá trình thực hiện SMLS của GCCN; khái niệm, nội dung
cách mạng xã hội chủ nghĩa, tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân trong cách mạng XHCN; quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN.
G2.7: Hiểu được những nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân; động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cơ bản

191
của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng
XHCN; đặc điểm, nội dung thời kỳ quá độ; đặc trưng của XH XHCN
G3.7: Phân tích được những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
G4.7: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng
mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
G5.7: Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
G6: Hình thànhtư duy phản biện.
G7: Có kỹ năngtổ chức nhóm và triển khai hoạt động nhóm thông qua
hoạt động seminar
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
a. Khái niệm giai cấp công nhân
- Về thuật ngữ giai cấp công nhân
Trong nhiều tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều
thuật ngữ như: giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại,
giai cấp công nhân công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại...như những cum
từ đông nghĩa để chỉ về giai cấp công nhân
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng khi
trình bày khái niệm, các nhà kinh điển dựa vào hai thuộc tính (tiêu chí) cơ
bản. Đó là:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất (nghề
nghiệp),đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công
cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ
thủ công thời Trung cổ thay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác
viết: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người Công nhân
sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải

192
phục tùng máy móc” “Công nhân cũng là phát minh của thời đại mới. Giống
như máy móc vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp
hiện đại”
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp
côngnhân là những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu
sảnxuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Đây là đặc
trưngcơ bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính
vì vậy,C.Mác và Ph.Ăngghen đều gọi giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư
bản là giai cấp vô sản.
“GCVS là một g/c xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào việc bán sức lao
động của mình, chứ không phải sống dựa vào lợi nhuận của bất cứ số tư bản
nào, đó là một g/c mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống
còn của họ đều phụ thuộc vào yêu cầu về lao động, tức là vào tình hình
chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của
cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, g/c VS hay g/c của những
người VS là g/c lao động trong thế kỷ XĨX”.
(Mác-Ăngghen, tuyển tập T1, Nxb St H 1980, tr441,442).
“Giai cấp Vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất
các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để
sống”
( Mác-Ăngghen, tuyển tập T1, Nxb St HN, 1980, tr540).
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, bộ mặt của chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi to lớn và đi
cùng với nó là sự thay đổi nhất định của giai cấp công nhân so với trước
kia. ..Căn cứ vào hai thuộc tính nói ở trên, Hội đồng trung ương lý luận đã
đưa ra định nghĩa như sau về giai cấp công nhân:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và
pháttriển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp
độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là
lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ

193
công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng
sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay”.
b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin, nội dung sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là: Xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ
nghĩa; từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa; xoá bỏ áp bức bóc lột; giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn
nhân loại.
- Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản phát triển của lịch sử. Để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp
nhân dân lao động xung quanh mình, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng
nhằm xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
- Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
đó chính là phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua hai
giai đoạn:
Một là, lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp công nhân.
Hai là, sử dụng chính quyền mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập hợp
quần chúng nhân dân lao động xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản
chủ nghĩa

194
Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng
nhấttrong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản.
Trong nền sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa
là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều
suy tàn và tiêu vong cùng với đại công nghiệp, còn giai cấp công nhân lại là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại có
xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều này có được là do yêu cầu khách
quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ
đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị
thặng dư. Họ bị lệ thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao
động của chính mình. Do vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp
đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều
kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai cấp công nhân chỉ có thể
tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích mà lại được cả
thế giới.
Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của
toàn thể nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông
đảo quần chúng đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu
trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế
độ xã hội tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ
hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát
triển và lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự

195
phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở
thành thị và các khu công nghiệp giúp cho giai cấp công nhân mở rộng các
quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột vì dân
sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp công nhân
có những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai cấp
công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân dân lao động nên họ có đủ
khả năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai
cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, tất cả các giai cấp khác đều là
những tầng lớp trung đẳng ... Đó là do giai cấp công nhân không gắn với tư
hữu, do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và
xây dựng xã hội mới”
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao
Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và
có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ,
làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm
ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai
cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế - kỹ thuật nên giai cấp công
nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế
Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là giải
phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có
chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu
tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã
liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp
công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình. Dựa vào
đặc điểm này, C.Mác - Ph.Ăngghen nhấn mạnh: trong sự nghiệp cách mạng
của giai cấp vô sản “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. V.I. Lênin sau này

196
cũng khẳng định: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại”.
Với những điều kiện khách quan trên, GCCN đảm đương SMLS thế giới
là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng để hoàn thành được, GCCN phải phát huy tốt
các nhân tố chủ quan: như vai trò của ĐCS, liên minh Công – nông và các
giai cấp, tầng lớp lao động khác, phải phát triển mạnh về số lượng, chất
lượng...
3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan,
song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua
những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra
Đảng Cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là
yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
a. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của
giai cấp công nhân
-Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển đảng của giai cấp công
nhân
Trong thực tế lịch sử, phong trào công nhân chống giai cấp từ sản đã
xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày càng mở
rộng nhưng đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ
thống, chưa có lý luận dẫn đường. Khi Đảng Cộng sản ra đời và trực tiếp lãnh
đạo phong trào cách mạng và với tư cách là đội tiên phong chính trị của giai
cấp công nhân và toàn xã hội.
Đảng Cộng sản có nhiệm vụ đề ra cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng,
đường lối, chiến lược, sách lược, các chính sách đúng đắn, phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước, với quy luật vận động khách quan của thế giới;
với quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh

197
đạo giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trở thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình.
Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải luôn luôn hướng mọi
hoạt động vì lợi ích chung của dân tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng, toàn
dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng phải chăm lo xây dựng về tổ chức, nâng cao
năng lực lãnh đạo, vững mạnh về chính trị, gắn bó với nhân dân.
- Quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân
Từ thực tiễn cách mạng ở nước Nga cùng với phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế V.I. Lênin đã khái quát và nêu lên một vấn đề có tính quy
luật về sự ra đời của Đảng Cộng sản, đó là: Chủ nghĩa Mác kết hợp với phong
trào công nhân dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Trong thời đại ngày nay, sự ra đời của ĐCS đó là sản phẩm của sự kết
hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ
sung lực lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những
người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò của đảng đối với giai cấp
công nhân thể hiện ở chỗ: Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt
động được mà lại không thông qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp
công nhân cũng vậy, họ hoạt động, làm cách mạng thông qua đội tiên phong
của mình, đó là Đảng Cộng sản, đảng của giai cấp công nhân. Hai là, để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân cần phải có một chính
đảng chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến lược sách
lược đúng đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể phong trào. Ba là, với
một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo

198
của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý luận
và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc, vì thế không thể lẫn lộn
Đảng với giai cấp.
=>Với vai trò đó, ĐCS là nhân tố đầu tiên quyết định thực hiện thắng lợi
SMLS của GCCN.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó
a. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế
độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách
mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo quần chúng nhân dân lao
động xây dựng một xã hội mới, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiểu
khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc
cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với
nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên
chính vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
động.
- Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ:
cách mạng về chính trị nhằm thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và thời
kỳ sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về
mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng…
b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội là do mâu thuẫn
giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ
sản xuất đã trở nên lỗi thời. Quy luật chung của sự phát triển xã hội chỉ ra
rằng: lực lượng sản xuất không ngừng phát triển dẫn tới quan hệ sản xuất đã
lỗi thời kìm hãm sự phát triển, điều đó đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất
mới cho phù hợp với lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Thực chất đó là một cuộc cách mạng xã hội.

199
Cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra cũng không nằm ngoài quy luật trên.
Nguyên nhân sâu xa là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã
hội hoá cao với tính chất tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa tư
bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn được duy trì
thì nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại.
2. Mục tiêu, động lực và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải phóng giai cấp bị áp bức, bóc lột, các dân tộc bị nô dịch đồng thời
giải phóng xã hội khỏi sự trì trệ để tiếp tục phát triển trên con đường tiến bộ,
văn minh là mục tiêu chung và là mục tiêu cao cả nhất của cáchmạng xã hội
chủ nghĩa.
Mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa trải qua hai giai đoạn:
Trong giai đoạn đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành chính
quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tiếp theo giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp
công nhân tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động, dựa trên bộ máy chính
quyền của nhà nước xây dựng xã hội mới, xã hội không còn áp bức, bóc lột,
nhân dân lao động được tự do, hạnh phúc.
b.Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Động lực chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là các giai cấp và tầng
lớp mà lợi ích của họ có liên quan đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
“Tất cả những phong trào lịch sử từ trước đến nay đều do thiểu số thực hiện,
hoặc là mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của
khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số” Cách mạng xã hội chủ nghĩa
với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi tình
trạng áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân, do vậy thu
hút được sự tham gia của đông đảo nhân dân lao động trong suốt quá trình
cách mạng.

200
- Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo vừa là động lực chủ yếu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là con đẻ của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ngày càng lên tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, nhất là
trong thời đại của nền kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay, công nhân
ngày càng được tri thức hoá, vị trí và vai trò của họ ngày càng được khẳng
định trong cuộc đấu tranh vì một xã hội tiến bộ và văn minh. Giai cấp nông
dân có nhiều lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, do
đó cũng trở thành động lực to lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong dân cư,nhất là đối
với các quốc gia chậm và đang phát triển. Bởi vậy, trong tiến trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình thì nhất thiết phải lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo mình nhằm tạo
thành liên mình công – nông vững chắc để giành và giữ chính quyền cách
mạng. “Nguyên tắc của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa
giai cấp vô sản và giai cấp nông dân” . -- Đội ngũ trí thức cũng là lực lượng
quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa đặc biệt trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội đội ngũ trí thức càng trở nên quan trọng. Trí thức là những
người góp phần nâng cao dân trí,đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tham
gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trí
thức là những người sáng tạo ra các giá trị khoa học, kỹ thuật, tiếp thu những
thành tựu khoa học kỹ thuật mới của nhân loại.Ngày nay, trong thời đại của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lượng giá trị lao động chất xám ngày
càng chiếm tỷ lệ cao trong sản phẩm hàng hoá thì vai trò động lực của đội ngũ
trí thức ngày càng tăng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
- Ngoài những động lực trên, khối đại đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu
nước, truyền thống văn hóa, đường lối cách mạng đúng đắn cũng là những
động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b.Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

201
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội.
- Trên lĩnh vực chính trị: cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa nhân dân lao
động từ địa vị bị áp bức, bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội
để từ đó họ hoạt động như chủ thể tự giác để xây dựng xã hội mới. Để nâng
cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia vào công việc của
nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
thường xuyên chăm lo, nâng cao kiến thức về mọi mặt cho người dân, đặc
biệt là những kiến thức về chính trị, pháp luật. Bên cạnh đó, Đảng và nhà
nước xã hội chủ nghĩa cũng phải thường xuyền quan tâm tới việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, có những chính sách phù hợp để nhân
dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
- Trên lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ làm thay đổi vị trí,
vai trò của người lao động trên cơ sở thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất là chủ yếu bằng chế độ sở hữu công hữu là chủ yếu, và dưới
những hình thức thích hợp; thay đổi điều kiện sống và điều kiện làm việc của
người lao động. Cùng với việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách
phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên
cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.
Dưới chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc phân phối theo lao động được xem là
nguyên tắc chủ yếu nhất, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là
thước đo đánh giá hiệu quả của mỗi cá nhân đóng góp cho xã hội. Đồng thời,
phải chú ý kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể.
- Trên lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự
thay đổi căn bản trong phương thức sinh hoạt tinh thần của xã hội theo xu
hướng tiến bộ trên cơ sở kế thừa và nâng cao những giá trị truyền thống của
dân tộc, tiếp thu những giá trị tiên tiến của thời đại, từng bước xây dựng thế
giới quan, nhân sinh quan mới, xây dựng nền văn hoá mới, những con người
mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa

202
diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị đến kinh tế và
văn hoá – tư tưởng. Tất cả các lĩnh vực trên đều có mối quan hệ, tác động qua
lại với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân
- Tính tất yếu khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân.
Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân là điều kiện cơ bản để
tăng cường lực lượng và nếu không có liên minh này thì giai cấp công nhân
không thể dành chính quyền và giữ vững chính quyền. Kinh nghiệm lịch sử
cho thấy nếu giai cấp công nhân không liên minh với nông dân thì không thể
giành được thắng lợi trong cách mạng xã hội. Để xây dựng xã hội mới, giai
cấp công nhân cũng nhất thiết phải liên minh với nông dân vì đó là lực lượng
đông đảo, là một động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp
côngnhân với nông dân.
Liên minh công - nông là do mối liên hệ tự nhiên, gắn bó và thống nhất
về lợi ích cơ bản của công nhân, nông dân. Giai cấp nông dân cũng là giai cấp
bịbóc lột do đó là người gần gũi với giai cấp công nhân. Liên minh công -
nông là do sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp, đólà hai ngành sản xuất
chính của xã hội. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông
nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho
nhu cầu của toàn xã hội, đồng thời nó cũng tạo ra nông sản phục vụ cho sản
xuất công nghiệp.Liên minh công - nông là yêu cầu khách quan của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội; đó là lực lượng chính trị xã hội cơ bản của cách
mạng, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, nông dân trở thành người bạn tự nhiên, tất yếu
của giai cấp công nhân.

203
b.Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân
- Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
+ Liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dântrong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành chính quyền về
tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội, liên minh công - nông chính là việc cùng tham gia vào
chính quyền nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân không phải là sự dung hoà về lập trường tư tưởng mà giai
cấp nông dân phải đứng trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân.
+ Liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân.Đây là nội dung liên minh quan trọng nhất, chủ yếu trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa công nhân và
nông dân là kết hợp đúng đắn lợi ích của hai giai cấp, vừa đảm bảo lợi ích của
nhà nước, của xã hội vừa quan tâm tới lợi ích của nông dân, có chính sách
phù hợp với nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
+Nội dung về văn hóa, xã hội . Đây là một trong những vấn đề quan
trọng của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện tốt được những nội
dung về văn hoá, xã hội của khối liên minh công – nông chúng ta mới có thể
phát huy hết được động lực của từng giai cấp cũng như sức mạnh của khối
liên minh.
- Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân+ Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp trong khối liên
minhcông - nông. Xây dựng khối liên minh công – nông không có nghĩa là
chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này, mà phải đi theo đường lối của giai
cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất
nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, giai cấp nông dân
chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản
xuất lớn của xã hội mới.

204
+ Hai là, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Có thực hiện được tinh thần tự
nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới
bền vững và lâu dài. Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công
nhân và giai cấpnông dân. Đây là hai giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất
với nhau. Sự thống nhất về mặt lợi ích là điều kiện quan trọng để thực hiện
liên minh.
III. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ
NGHĨA
1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử đề
nghiên cứu xã hội loài người. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự
nhiên, điều đó là do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao
với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất dẫn tới sự kìm hãm lực lượng sản xuất… Tính mâu thuẫn gay gắt trong
lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai
cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc
đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và sự xác lập hình thái
kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những
điều kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất
hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ
phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Những điều kiện cơ bản của
sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản chủ
205
nghĩa trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản phải hội tụ đủ các
điều kiện sau đây:
- Một là, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc,các nước đế quốc không ngừng xâm lược, khai thác thuộc địa, gây ra
chiến tranh…Do đó, đã làm xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của
thời đại như: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa; mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân… Ở các nước
nông nghiệp lạc hậu và thuộc địa mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa
thực dân đế quốc cùng bọn phong kiến tay sai, với một bên là cả dân tộc đang
bị nô dịch, bị áp bức, bóc lột.
- Hai là, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, hệ tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế
quốc và các dân tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong
trào yêu nước, giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như vậy, hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản không phải
là ngẫu nhiên mà dựa vào những điều kiện lịch sử nhất định.
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen
không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình thái
kinh tế - xã hội mà còn chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
thành các giai đoạn khác nhau.
Theo các ông, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ
thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”, trên cơ sở diễn
đạt tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa thành ba thời kỳ: những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ); giai

206
đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội); giai đoạn cao của
xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa cộng sản)
a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
-Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã
hội
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó
những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa
trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên
áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn
có xã hội như vậy cần phải có thời kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình
độ cao. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp nhưng nó chưa phải là
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh
từ chủ nghĩa tư bản, mà chỉ có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo
xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó
khăn phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian.
- Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội
cũ đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ
vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

207
như: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần
trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế có nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách
quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình
thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân
phối thu nhập khác nhau.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này
cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các
gia cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp,
tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác nhau, do đó ý thức
chính trị của các bộ phận khác nhau cũng có sự khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội là sự tồn tại nhiều tư tưởng và
văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác -
Lênin giữ vai trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý
tiểu nông…
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn ra cuộc
đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị
và các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới
là giai cấp công nhân đã cầm quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên truyền vận động là
chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp. Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa,
xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. -Trên lĩnh vực kinh tế: Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản
xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng

208
ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này phải tuân thủ những
đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Đối với những nước chưa
trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đó là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này đòi hỏi phải tuân thủ
quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi
nước và bối cảnh quốc tế để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích
hợp. Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các
thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng,
củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh,
đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân
dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch,
vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử. Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ
bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khắc
phục tệ nạn do xã hội cũ để lại, từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển
giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục
tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
b. Xã hội xã hội chủ nghĩa Xã hội xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã
hội) là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, có các đặc trưng sau:
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền sản xuất công nghiệp với trình độ công
nghệ hiện đại Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của
nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Nếu công cụ
thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí lđặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội thay thế
chủ nghĩa tư bản, cao hơn chủ nghĩa tư bản thì cơ sở vật chất kỹ thuật của nó
phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của

209
xã hội tư bản chủ nghĩa.Đối với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã
hội, lực lượng sản xuất đã phát triển cao là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội Xã hội
xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là hai chế độ xã hội mà ở đó có sự khác
nhau về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa đó
là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu còn trong xã hội tư bản chủ
nghĩa đó là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xãhội không xoá bỏ chế
độ tư hữu nói chung mà chủ yếu là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất chủ yếu, vì đây chính là nguồn gốc của áp bức, bóc lột giá trị
thặng dư.Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt
lấytư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy
vàotrong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất
mới xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sở hữu tư liệu sản xuất
tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, người laođộng
làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội.
-Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao
động mới. Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội
hóa,tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi
íchtập thể và lợi ích toàn xã hội. Trên cơ sở đó tạo ra cách tổ chức lao động
mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội được
xây dựng trên cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở trình độ cao,
do vậy đòi hỏi kỷ luật lao động chặt chẽ. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh thần tự giác, tự
nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có một
kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động

210
tuyên truyền vận động, mặt khác phải đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác
phong của người sản xuất nhỏ.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy sản xuất đã phát triển nhưng chưa đủ khả
năng thực hiện phân phối theo nhu cầu, do đó nguyên tắc phân phối cơ bản
vẫn là phân phối theo lao động. Nguyên tắc phân phối theo lao động là
nguyên tắc phân phối dựa trên kết quả lao động mà người lao động đã đóng
góp cho xã hội. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất trong chủ nghĩa xã
hội nhưng không phải là nguyên tắc phân phối duy nhất. Nguyên tắc phân
phối theo lao động vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, vừa thể
hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, đồng thời là một nội dung quan trọng
trong thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn này.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, có
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích
của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân,
là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp các thế lực phản động, các lực
lượng chống chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân
dân rộng rãi. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân
dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham
gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự
quản. Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân
dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong thời đại
ngày nay, giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có lợi
ích cơ bản thống nhất với lợi ích dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực
hiện đoàn kết các dân tộc, tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc, không ngừng
phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà con người giải phóng, và
thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột; thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã

211
hội tạo ra những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Mục tiêu
cao nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, khỏi sự bóc lột
về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện. Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối
với tư liệu sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội thực hiện
xóa bỏ đối kháng giai cấp, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Đây là một
quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng… Tuy nhiên, trong giai
đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa, sự bình đẳng được xác lập trong điều điện xã
hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước do đó, chưa thể có “bình đẳng thực sự”.
c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác
dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa:
- Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải
xã hội tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển,
lao động của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu.
Trrong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi nào lao
động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó
còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn
diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các
nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt
hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi
lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” -- Về mặt xã hội:
Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có điều kiện phát triển
năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn sự khác biệt
giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc đó,
một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế mới có thể có và
được thực hiện. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
đã tiếp tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho

212
rằng, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực
hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ,
do vậy dân chủ cũng không còn, nhà nước luật pháp tự tiêu vong, pháp luật
trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác
thực hiện. Tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa,
con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương quốc của tất yếu sang
vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển toàn diện năng lực và mang hết
tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội.... V.I.Lênin cho rằng, không phải nhà
nước tiêu vong ngay một lúc, mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói
rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu
dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của
giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản” Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, các ông
đều nêu lên những điều kiện kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện của
giai đoạn này. Các điều kiện đó là:
- Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội
cho sự xuất hiện của giai đoạn này.
- Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục tinh thần tự
giác của con người...
- Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình
khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa
xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng
sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư
sản nhưng không có giai cấp tư sản:”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ

213
nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính giai cấp của
nhà nước, của dân chủ vẫn còn tồn tại.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra các dự báo và luận
giải về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
trên cơ sở phân tích quy luật phát triển khách quan của xã hội, đặc biệt là quy
luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử
phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan và
chủ quan trong những điều kiện xác định, từ đó tạo nên tính phong phú đa
dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũng như của
toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử không bao
giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm
với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước khủng hoảng
và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của
lịch sử. Từ đó, C.Mác đưa ra kết luận: “tôi coi sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I.Nội dung ôn tập:
1. Phân tích khái niệm giai cấp công nhân
2. Phân tích điều kiện khách quan quy định SMLS của GCCN
3. Trình bày mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng XHCN
4. Trình bày các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
II. Nội dung thảo luận:
1.Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện SMLS của GCCN
2. Những giải pháp chủ yếu để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện
thắng lợi SMLS của mình

214
Chương VIII. NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY
LUẬT TRONG TIẾNTRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

GIỚI THIỆU
Chương 8 sẽ cung cấp cho người học các vấn đề chính trị-xã hội cơ bản
của tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nội dung chính gồm 3 tiết: 1. Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN); 2.
Xây dựng nền văn hóa XHCN; 3. Vấn đề dân tộc tôn giáo, và nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo
trong chủ nghĩa xã hội.
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 8 giúp người học:
- Nhận biết được các vấn đề về dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa; về xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; về vấn đề dân tộc và tôn giáo trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Hiểu được các vấn đề về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa,về vấn đề dân tộc, tôn giáo trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Phân tích được đặc trưng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích được nội dung, phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa
- Phân tích được các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn việc xây dựng nền dân chủ, xây
dựng nhà nước, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Vận dụng trong việc thực hiện và giải quyết chính sách dân tộc, tôn giáo ở
Việt nam
- Có thái độ khách quan, khoa học, có bản lĩnh trong việc xem xét, đánh giá
các vấn đề chính trị, xã hội...

CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG


G1.9: Nhận biết được về: các vấn đề về dân chủ, nhà nước xã hội chủ

215
nghĩa; về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; về vấn đề dân tộc và tôn
giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
G2.8: Hiểu được những nội dung cơ bản về:
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa
- Hiểu được khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Hiểu khái niệm văn hóa, nội dung, phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa
- Hiểu khái niệm dân tộc, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác lê nin
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
- Hiểu khái niệm tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác lê nin
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
G3.8: Phân tích được những vấn đề:
- Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chức năng, nhiệm vụ nhà
nước xã hội chủ nghĩa
- Nội dung, phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác lê nin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc,tôn giáo
G4.8: Vận dụng được những quan điểm, lý luận vấn đề dân chủ, nhà
nước, vấn đề văn hóa, dân tộc, tôn giáo để phân tích lý giải các hiện tượng
trong thực tiễn... từ đó có phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn.
G5.8: Có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
nói chung; xây dựng nền dân chủ, nhà nước, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nói riêng.Niềm tin vào việc giải quyết đúng đắn, có hiệu quả
vào vấn đề dân tộc, tôn giáo
G6: Hình thành phương pháp tư duy thực sự khoa học trong nghiên,
đánh giá các lĩnh vực chính trị - xã hội.
G7. Có kỹ năng tổ chức nhóm và triển khai hoạt động nhóm thông qua
Xêmina.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
I. XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN VÀ NHÀ NƯỚC XHCN

216
1. Xây dựng nền dân chủ XHCN
a. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ.
* Quan niệm về dân chủ
- Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, các thành viên công xã đều bình
đẳng tham gia vào mọi công việc của xã hội. Việc cử ra những người đứng
đầu các cộng đồng và phế bỏ những người đứng đầu nếu không thực thi đúng
những quy định chung được giao. Việc cử ra và phế bỏ người đứng đầu đó là
quyền và lực của nhân dân.
Như vậy, ngay từ buổi sơ khai của lịch sử nhân loại, dân chủ được hiểu
với tư cách là quyền lực của nhân dân.
=> Đây được coi là hình thức dân chủ sơ khai, chất phác của những tổ
chức cộng đồng tự quản trong xã hội chưa có giai cấp.
- Chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX ra đời, giai cấp và bất bình đẳng
xuất hiện, xã hội cần đến những những công cụ bạo lực, cưỡng bức để điều
chỉnh hoạt động của xã hội, đó là nhà nước.
- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra cơ quan quyền
lực, đó là nhà nước dân chủ đối với chủ nô.
- Khi đó người ta đã ghép hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ là “Demos” có
nghĩa là “dân” và “Kratos” có nghĩa là “quyền lực”, “ sức mạnh” để diễn đạt
nội dung dân chủ.
- Nhà nước chủ nô chính thức sử dụng thuật ngữ “dân chủ” với nghĩa là
nhà nước dân chủ chủ nô có “ quyền lực của dân”.
- Nhưng cũng từ đây, nhà nước chủ nô nắm giữ đã quy định dân bao gồm
chủ nô, quý tộc, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn tuyệt
đại đa số nô lệ thì không được coi là dân.
Sau hàng ngàn năm lịch sử, các giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản đã
bằng mọi cách tiếp tục chiếm đoạt quyền lực của nhân dân.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một thời đại
mới của xã hội loài người đã được mở ra. Từ thực tiễn ra đời và phát triển của

217
dân chủ, chủ nghĩa Mác- Lê nin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về dân
chủ.
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ:
Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hoá của lịch sử, là nhu cầu khách
quan của con người.
Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị, gắn với một kiểu
nhà nước, một giai cấp cầm quyền ; do vậy, sẽ không có dân chủ phi giai cấp,
dân chủ chung chung
Thứ ba, dân chủ còn được hiểu là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát
triển cá nhân và xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức , bóc
lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo V.I. Lênin, dân chủ là bình
đẳng.
* Quan niệm về nền dân chủ
- Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể
chế hoá bằng chế độ nhà nước, bằng pháp luật…Dân chủ được thực hiện dưới
hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là “ chính thể dân chủ” hay “
nền dân chủ”.
- Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất,
tính chất của nhà nước; là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch
sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nên có các nền dân chủ trong lịch sử: dân
chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản( dân chủ XHCN). Riêng chế độ
PK, nhân loại không chấp nhận là chế độ dân chủ…
- Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hoá bằng pháp
luật.
V.I.Lênin: “ Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong
những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước,chế độ dân
chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta”
(V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bô, Matxcơva, 1976,t.33,tr.123.)

218
b. Xây dựng nền dân chủ XHCN
Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng XHCN cũng là sự tất yếu ra
đời của một nền dân chủ mới- dân chủ XHCN.
Trong quá trình hình thành, phát triển, xây dựng nền dân chủ XHCN với
những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của ĐCS, dân chủ XHCN bảo đảm mọi quyền lực
thuộc về nhân dân.
- Hai là, dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về TLSX
chủ yếu của toàn xã hội. Đặc trưng này được hình thành và thể hiện đầy đủ
cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện của nền kinh tế XHCN.
- Ba là, trên cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích toàn xã hội, nền dân chủ XHCN có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng,
sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân…
- Bốn là, nền dân chủ XHCN là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử
nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Đó là điều kiện cần có và phải
có để tồn tại.
Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân; nhưng
hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và
phản động…và với những người cố tình vi phạm pháp luật.
Sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển
mới về chất của dân chủ.Lần đầu tiên trong lịch sử đã hình thành chế độ dân
chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân.
c. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Dân chủ được xây dựng và mở rộng là yêu cầu khách quan, là động lực
để phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham gia vào
công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. V.I.Lênin: “ Chủ nghĩa xã hội

219
không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống.... Chủ nghĩa xã
hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội;
đồng thời cũng là quy luật của sự hình thành và hoàn thiện của hệ thống
chuyên chính vô sản
Xây xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra
nhằm xây dựng, phát triển, hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân
dân.
Xây xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình tất
yếu thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân thông qua chính đảng của nó.
Tóm lại, xây xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một qá trình tất
yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến
dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực...
2. Xây dựng nhà nước XHCN
a. Khái niệm “nhà nước xã hội chủ nghĩa”
Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính
trị XHCN, nhà nước XHCN là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí quyền lực
của nhân dân. Đó là một công cụ quản lý do chính đảng của GCCN lãnh đạo
nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân, và
cũng thông qua nó, GCCN và chính đảng của mình thực hiện sự lãnh đạo đối
với toàn xã hội trong quá trình bảo vệ và xây dựng CNXH.
b. Đặc trưng nhà nước NNXHCN
Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã
hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Nhà nước XHCN có các đặc
trưng cơ bản sau đây:
Một là, nhà nước XHCN là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của
nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

220
Hai là, nhà nước XHCN có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà
nước tư sản, đó là vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân. Đồng thời,thực hiện
sự trấn áp những kẻ chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN.
Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà
kinh điển của CN Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc trưng
cơ bản của nhà nước XHCN, của chuyên chính vô sản.
Bốn là, nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN, ngày càng hoàn
thiện các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông
đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Năm là, nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước đặc biệt, “ nhà nước
không còn nguyên nghĩa”, là “ nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế -
xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà
nước “tự tiêu vong”.
 Nhà nước XHCN vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành
chính, vừa là tổ chức quản lý kinh y tế, văn hoá, xã hội của nhân dân, được
thể hiện tập trung qua hai chức năng chủ yêu của nó, đó là chức năng thống trị
giai cấp và chức năng xã hội.
c. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước XHCN
Những đặc trưng trên cho thấy chức năng, nhiệm vụ c ủa nhà nước xã hội chủ
nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp
luật.
- Chức năng : Nhà nước XHCN có chức năng cơ bản là:
+ Chức năng bạo lực - trấn áp: bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà
nước, do đó, bạo lực, trấn áp cũng là cái vốn có của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
+ Chức năng tổ chức xây dựng XH mới: Đây là chức năng cơ bản và lâu
dài nhất. Nhà nước tổ chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội
mới.
+ Ngoài ra còn thực hiện chức năng đối ngoại.

221
- Nhiệm vụ: từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những
nhiệm vụ chính là: tổ chức thực hiện trên các lĩnh vực đời sống xã hội: quản
lý, xây dựng và phát triển kinh tế, cải thiện không ngừng đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân; quản lý văn hóa-xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa, phát triển giáo dục- đào tạo... Bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội; giải quyết các vấn đề an sinh xã hội....
d. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước XHCN
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình ...thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao động
“phá hủy nhà nước tư sản”, chiếm lấy chính quyền, thiết lập chuyên chính vô
sản. Bởi vì “ giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập nhà nước chuyên chính vô sản, xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của
thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng
hoạt động chống lại sự nghiệp xây dựng CNXH.
Thời kỳ quá độ cũng tồn tại các giai cấp, tầng lớp trung gian khác, họ
thường dao động, ngã nghiêng, không tự mình đi lên CNXH. Do đó, giai cấp
công nhân phải tuyên truyền, vận động, lôi cuốn họ đi theo mình trong công
cuộc xây dựng xã hội mới.
Để mở rộng dân chủ, đấu tranh chống lại mọi hành trái dân chủ, vi phạm
những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, đòi hỏi phải có một thiết chế
nhà nước phù hợp...
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng...do vậy,
nhà nước XHCN là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
II. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XHCH

222
1. Khái niệm nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm văn hoá
Văn hoá làtoàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình;
biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
- Văn hoá vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và
kết tinh trong sản phẩm vật chất.
- Văn hoá tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng
tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
Như vậy, nói văn hoá là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những
năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện
xã hội. Do đó, văn hoá có mặt trong mọi hoạt động của con người…
Hình ảnh đẹp do con người tạo ra
b.Khái niệm nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
- Nền văn hoá:nền văn hoá là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất
của văn hoá được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế- chính trị của mỗi
thời kỳ lịch sử, trong đó, ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương
hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các
hoạt động văn hoá.
- Nền văn hoá XHCN là nền văn hoá được xây dựng và phát triển trên
nền tảng hệ tư tưởng của GCC, do ĐCS lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu
không ngừng tăng lên về đời sống tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao
động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Nền văn hoá XHCN ra đời là một tất yếu vì:
- Thể hiện tính toàn diện, triệt để của cách mạng XHCN
- Giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức
của xã hội cũ, đưa họ trở thành chủ thể sản xuất,tiêu dùng, sáng tạo và hưởng
thụ văn hoá tinh thần.
- Nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân lao động.

223
- Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng
CNXH.
c. Đặc trưng của nền văn hóa XHCN
Nền văn hoá XHCN là nền văn hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Hệ tư tưởng của GCCN là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ
đạo, quyết định phương hướng phát triển nền VHXHCN
Thứ hai, nền VHXHCN là nền VH có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc.
Thứ ba, nền VHXHCN là nền VHđược hình thành, phát triển một cách
tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của GCCN thông qua tổ chức ĐCS, có sự quản
lý của Nhà nước XHCN.
Nền văn hóa XHCN không hình thành và phát triển một cách tự phát.
Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý
của nhà nước và sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân...
2.Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa XHCN
Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa XHCN xuất phát từ những
căn cứ sau đây:
Thứ nhất, tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất
tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xây dựng nền văn hóa XHCNlà tất yếu trong quá trình cải tạo
tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng
nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc
hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hóa XHCN còn là một yêu cầu cần thiết
trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa tinh thần. Về thực chất, đây cũng là cuộc đấu tranh giai
cấp trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư
tưởng vô sản trong quá trình phát triển xã hội.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu trong quá trình nâng cao
trình độ văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động. Đây là điều kiện cần

224
thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao
trình độ đáp ứng sự nghiệp xây dựng xã hội mới và nhu cầu văn hóa của quần
chúng.
Thứ tư, xây dựng nền văn hóa XHCN là một tất yếu khách quan, bởi vì
văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội mới.
Văn hóa vừa là kết quả phát triển của nền kinh tế XHCN, đồng thời vừa
là động lực của sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Văn hóa mới XHCN tạo những tiền đề quan trọng nâng cao phẩm chất,
năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần chúng nhân dân lao động, tạo
cơ sở nâng cao năng suất lao động...Văn hóa XHCN với nền tảng là hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trở thành điều kiện tinh thần của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, và là đông lực, mục tiêu của CNXH. Do vậy, xây
dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu của quá trình xây dựng CNXH.
3.Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa XHCN
a.Nội dung cơ bản xây dựng nền văn hóa XHCN
Xây xây dựng nền văn hóa XHCN với những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, Phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội
mới.
- Trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc
xây dựng CNXH. Do đó, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng, hình thành và phát triển dội ngũ trí thức XHCN vừa là nhu cầu cấp
bách, vừa là nhu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH.
-V.I. Lênin “ Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản
thân quần chúng nhândân”.
Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư
tưởng...càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó, việc nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở
thành nội dung quan trọng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

225
Do đó, việc nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn lực lao động có chất
lượng, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa vừa
là nhu cầu cấp bách, vừa là nhu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hai là, xây dựng con người phát triển toàn diện
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, nhưng cũng là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử. Do vậy, mỗi xã hội đều cần đến những mẫu người nhất định có
năng lực đáp ứng nhu cầu của sự phát triển…
Con người xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người mới phát triển
toàn diện gồm:
+ Là con người lao đông mới
+ Có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh
+ Có năng lực đáp ứng sự nghiệp xây dựng CNXH
+ Con người lao động mới: lao động có kỷ luật, có kỷ thuật, năng suất
cao
+ Có tinh thần yêu nước chân chính
+ Có tinh thần quốc tế trong sáng
+ con người sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao…
Ba là, Xây dựng lối sống mới XHCN
Lối sống là một phạm trù khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân
tộc, các giai cấp,các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một
hình thái kinh tế -xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực đời sống…
- Xây dựng lối sống mới XHCN là một trong những đặc trưng mang tính
nguyên tắc. Nội dung cơ bản của nó phải dựa trên những điều kiện cơ bản
sau:
+ Dựa trên việc thực hiện chế độ công hữuvề tư liệu sản xuất
+ Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
+ Hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của GCCN giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội
+ Xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính

226
+ Thể hiện công bằng, mở rộng dân chủ.
Bốn là, xây dựng gia đình văn hoá XHCN
- Gia đình là một hình thức cộng đồng đặc biệt, ở đó con người chung
sống với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống.
C.Mác: “ hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt
đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở- đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”
(C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,1995,
t3,tr41)
Gia đình văn hoá mới XHCN là gia đình tiến bộ, đánh dấu bước phát
triển của các hình thức gia đình trong lịch sử nhân loại.
Xây dựng gia đình văn hoá mới XHCN là một yêu cầu tất yếu của quá
trình xây dựng CNXH.
Trên cơ sở:
- Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc: như văn hoá
giao tiếp, hội hè, ăn, mặc…
- Xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và
gia đình phong kiến, tư bản chủ nghĩa.
- Tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.
Nội dung xây dựng gia đình văn hoá mới XHCN
Xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình:
Xây dựng quan hệ vợ chồng:bình đẳng, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau,
tôn trọng nhau…
Xây dựng mối quan hệ cha mẹ- con cái: Cha mẹ thương yêu, chăm sóc,
giúp đỡ con cái…con cái phải có hiếu với cha mẹ…
Xây dựng mối quan hệ giữa các anh, chị em trong gia đình: thương yêu,
quan tâm nhau, có trách nhiệm với nhau…
- Xây dựng mối quan hệ giữa gia đình- xã hội

227
Gia đình là một giá trị văn hóa của xã hội. Văn hóa gia đình luôn gắn bó,
tương tác với văn hóa cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội...Thực tế
lịch sử cho thấy, những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau là nhân tố quy định
nên các hình thức tổ chức gia đình khác nhau.
Muốn xây dựng gia đình văn hóa, trước hết phải xây dựng các điều kiện,
cơ sở kinh tế - xã hội của nó.
Gia đình là tế bào xã hội. Xã hội muốn tốt, phải xây dựng hạt nhân gia
đình tốt: Phải xây dựng gia đình văn hoá,gia đình bình đẳng, ấm no, hoà thuận
và hạnh phúc bền vững.
Trình độ phát triển kinh tế-xã hội quyết định quy mô, kết cấu, hình thức
tổ chức và tính chất của gia đình. Do vậy, phải xây dựng môi trường xã hội
tốt.
Mối quan hệ gia đình –xã hội là mối quan hệ biện chứng, cùng tương tác,
thúc đẩy nhau phát triển…
Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hóa là nhằm góp phần xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
b.Phương thức xây dựng nền văn hóa XHCN
Để thực hiện được những nội dung cơ bản của nền văn hóa XHCN, cần
thực hiện các phương thức cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai
cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội
Trong quá trình xây chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là
giai cấp cầm quyền, phải bằng mọi phương pháp để tác động, chi phối các
quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng nhằm giữ vững và tăng cường vai trò chủ
đạo hệ tư tưởng của mình trong đời sông tinh thần của xã hội. Đây là phương
thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn hóa XHCN.
Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò
quản lý của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn hoá.

228
Sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước XHCN
đối với hoạt động văn hoá là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết
định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đãoây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính
sách văn hóa của mình, và sự lãnh đạo của đảng phải được thể chế hóa trong
hiến pháp, pháp luật, chính sách.
Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan
điểm, chủ trương của đảng cộng sản thể hiện qua hệ thống pháp luật, các văn
bản quy phạm của nhà nước...
Thứ ba, Xây dựng nền văn hoá XHCN phải theo phương thức kết hợp
giữa việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hoá dân tộc với tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa của văn hoá nhân loại.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở kế thừa những
giá trị văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc là cơ sở, là nền móng, và trên cơ sở
đó, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hoá nhân loại.
Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hóa dân tộc với tiếp thu những tinh
hoa của văn hoá nhân loại tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữa
gìn và sáng tạo văn hóa.
Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và
sáng tạo văn hoá.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng CNXH, nhân
dân lao động trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để
phát huy tối đa tính chủ thể sáng tạo của quần chúng, đảng cộng sản và nhà
nước xã hội chủ nghĩa cần tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động sáng tạo văn hóa.

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG


CNXH

229
1. Dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc
a.Khái niệm dân tộc.
Khái niệm dân tộc thường hiểu theo 2 nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp, dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đocs
những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn
ngữ chung của cộng đồng, sinh hoạt văn hoá có những nét đăch thù…
Theo nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia, là tộc người như dân tộc
Kinh, Tày, Nùng, Thái, Mường.
- Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người
ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung,
nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hoá, truyền
thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước…
b. Hai xu hướng phát triển của dân tộc
Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.
Lê nin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của
nó:
Xu hướng thứ nhất, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các
quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh
chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có
tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng
đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc
độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong
chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các
dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc

230
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan
trọng có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn
đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định,
phát triển hay khủng khoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.
- Theo quan điểm củachủ nghĩa Mác- Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ
phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Do vậy, giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng trên lập trường của GCCN, vì lợi
ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
- Thực chất của việc giải quyết vấn đề dân tộc là xác lập quan hệ công
bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia-dân
tộc.
- Trên các cơ sở trên, V.I.Lênin đã nêu “ Cương lĩnh dân tộc” với 3 nội
dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng các quốc gia dân tộc tất cả các dân tộc,
dù đông hay ít người, có trình đọ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và
nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế...
Trong quan hệ giữa các quốc gia- dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền; chống
sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu,
chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự phát triển
kinh tế, chính trị-xã hội của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự
do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện
liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc

231
Đây là nội dung quan trọng trong cương lĩnh. Tư tưởng này thể hiện bản
chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính
thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có vai trò quyết định đến việc
xem xét, thực hiện bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời
đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
d. Chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay
- Một số đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế
riêng.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử nên trình độ phát triển không
đều giữa các dân tộc; Các dân tộc đều có đời sống văn hoá mang bản sắc
riêng. Các dân tộc thiểu số thường cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược
quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh…
Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng
giềng và khu vực…
Các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế
riêng.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay
Căn cứ vào cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lê nin và đặc điểm
tình hình dân tộc Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra các chính sách dân
tộc cơ bản như sau:
1. Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc ít người …
2. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín
ngưỡng của đồng bào dân tộc.Từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân
tộc…
3. Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của
các dân tộc

232
4. Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp phát triển giáo dục miền núi, tăng
cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc ít người và giáo dục tinh
thần đoàn kết, hợp tác cho đội ngũ cán bộ các dân tộc.
2. Vấn đề tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
a.Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường, xuyên
tạc hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh của tự
nhiên và xã hội trở thành thần bí.
+ Xét về bản chất tôn giáo là một hiện tượng xã hội tiêu cực.
+ Trong chừng mực nhất định tôn giáo có những mặt tích cực.
“Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, tinh thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân (Ph.Ăngghen).
Các tôn giáo lớn
Hiện nay, trên thế giới có nhiều loại hình tôn giáo tồn tại:
-Thiên chúa giáo ( Đạo Công giáo):
Vì tôn thờ đức Chúa Trời nên gọi là Thiên Chúa giáo… Jesus được tôn
sùng là đấng Christ con của Ðức Chúa Trời.
Đến năm 523 Giáo Hoàng John I cho một tu sĩ ở toà thánh làm lịch và
lấy mốc năm sinh của chúa Jesus là năm 1 của Dương lịch- còn gọi là Tây
lịch hay công nguyên.
Hiện nay TCG là tôn giáo lớn nhất, hơn 1,3 tỷ tín đồ.
- Phật giáo ra đời khoảng TK V TCN
- Thờ: Thích ca Mâu Ni
Hiện nay, Phật giáo có hơn 920 triệu tín đồ
Hồi giáo còn gọi đạo Islam, là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, và là
tôn giáo đang phát triển nhanh...

233
Hồi giáo ra đời vào thế kỷ th7 tại bán đảo Ả Rập do Thiên Sứ
Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên
thần Jibrael . Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah- Đấng Tối Cao
Đạo Cao Đài:1926 có khoảng gần 3 triệu tín đồ trong cả nước
Đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật
giáo do Huỳnh Phu Sổ khai lập năm 1939. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính
khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ
b. Nguồn gốc và tính chất của tôn giáo:
- Nguồn gốc:
+ Nguồn gốc kinh tế- xã hội:
+ Nguồn gốc nhận thức:
+ Nguồn gốc tâm lý:
=> Nên con người cần một lực lượng siêu tự nhiên che chở, giúp đỡ…
- Tính chất của tôn giáo:
+ Tôn giáo mang tính lịch sử
+ Tôn giáo mang tính quần chúng: Tôn giáo được đại đa số nhân dân tin,
theo . Bởi TG có nhiều điểm tiến bộ, giá trị:
. về đạo đức
. Về văn hóa, tinh thần
+ Tôn giáo mang tính chính trị: Các giai cấp thống trị thường lợi dụng…
. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH
c.Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa:
+Nguyên nhân nhận thức.
+ Nguyên nhân tâm lý, tinh thần( thoả mãn nhu cầu tinh thần)
+ Nguyên nhân chính trị - xã hội.
+ Nguyên nhân kinh tế.
+ Nguyên nhân văn hóa: Giá trị VH vật chất
+ Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tiến bộ
+ Thoả mản nhu cầu về tinh thần

234
+ Chức sắc giáo hội tuyên truyền cho sự tồn tại
+ Trùng hợp ngẫu nhiên trong cầu xin, ước nguyện, càng khích lệ niềm
tin tôn giáo
+ Ý thức hệ tôn giáo bảo thủ, trì trệ nên khó mất…
- Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo , cũng như khắc
phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải
gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới…
- Hai là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của công dân.
- Ba là, đoàn kết giữa những người theo hoặc không theo tôn giáo, đoàn
kết giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết toàn dân tộc để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Bốn là, cần phân biệt 2 mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo.
- Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
d Chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
- Khái quát tình hình tôn giáo Việt Nam
Hiện nay ở Việt nam có 5 tôn giáo lớn:
Thiên chúa giáo ( Đạo Công giáo).Hiện nay TCG ở VN hơn 6 triệu tín
đồ.
Phật giáo ra đời khoảng TK V TCN
Hiện nay, ở Việt Nam Phật giáo có hơn 10 triệu tín đồ
Hồi giáo, còn gọi đạo Islam,là tôn giáo đang phát triển nhanh ở Việt
Nam có khoảng hơn 50 ngàn, chủ yếu sinh sống ở Nam Trung bộ
Đạo Cao Đài: ra đời năm1926, là đạo nội sinh, ở vùng Tây Nam Bộ
khoảng năm 1927
Hiên nay, ở Việt Nam, đạo Cao Đài có khoảng gần 3 triệu tín đồ trong
cả nước

235
Đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật
giáo do Huỳnh Phu Sổ khai lập năm 1939. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính
khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ
Chính sách tôn giáo ở Việt Nam
1. Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của
công dân trên cơ sở pháp luật
2. Vận động đồng bào các tôn giáo đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng
cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”
3.Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật.
4. Cảnh giác, kịp thời chống lại những am mưu và thủ đoạn lợi dụng tôn
giáo chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân, chống CNXH.
5.Quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo
phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tếđối ngoại của Nhà
nước.
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
II.Nội dung ôn tập:
1. Xây dựng nền dân chủ XHCN
2. Xây dựng nhà nước XHCN
3.Khái niệm nền văn hóa XHCN
4. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề
dân tộc
5. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo
II.Nội dung thảo luận:
1. Văn hóa XHCN và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam
2. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc và sự vận dụng của Đảng, Nhà nước ta.
3. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo và sự vận dụng của Đảng, Nhà nước ta.

236
Chương IX
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

GIỚI THIỆU
Chương 9 gồm 3 tiết: tiết 1: Chủ nghĩa xã hội hiện thực, tiết 2: Sự khủng
hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội XôViết, tiết 3: Triển vọng của
chủ nghĩa xã hội
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Chương 9 giúp người học:
- Biết được sự ra đời, tồn tại, những thành tựu và khủng hoảng của
CNXH hiện thực
- Hiểu được triển vọng của CNXH
- Phân tích được nguyên nhân thành tựu, khủng hoảng của CNXH hiện
thực
- Đánh giá, nhận thức khách quan về chủ nghĩa xã hội hiện thực
- Tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
G1.10. Biết được sự ra đời, tồn tại, những thành tựu và khủng hoảng của
CNXH hiện thực
G2.9. Hiểu được triển vọng của CNXH
G3.9. Phân tích được nguyên nhân thành tựu, khủng hoảng của CNXH
hiện thực
G4.9. Đánh giá, nhận thức khách quan về chủ nghĩa xã hội hiện thực
G5.9. Tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
G6. Có kỹ năng tổ chức nhóm và triển khai hoạt động nhóm thông qua
Xêmina
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG
Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ lý thuyết không
tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học
đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
237
nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội
hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành
tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người.
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào
tình trạng thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách,
mở cửa, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra vấn đề về
tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có
thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh
cụ thể của thời đại ngày nay.
I. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
1. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện
thực đầu tiên trên thế giới
-a.Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)
Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga,
đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi,
giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Cách
mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ
phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội
mới không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã
hội từ học thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động
xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá
bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế
giới.

238
b.Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc
biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ
hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế
độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng
nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can
thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình
đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là
V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu
hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa
chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921, sau khi
nội chiến kết thúc, Đại hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện
Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới,
việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là
một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì
chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những hình thức thích hợp để giúp
nước Nga Xôviết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến
tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ - mầm mống của sự
phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng, thông qua việc sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có
chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong
kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa
học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà
nước vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống
các chính sách, công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp
tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử
dụng, vừa cải tạo bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế
tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước
còn có thể coi là một trong những phương thức, phương tiện, con đường có
hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất

239
của chủ nghĩa xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã
không được quán triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện
chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ
XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối
cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây
dựng tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện
như vậy, nhà nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập
trung cao. Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10
năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến
tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Do đó, không thể phủ
nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa
xã hội.
2. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và nhữngthành
tựu của nó
a.Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra
đời bao gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani,
Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung uốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm
Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước
tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của
thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố
quyết định sự phát triển của xã hội loài người”.
b.Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
- Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm
chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế
giới. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân

240
dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn
áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân.
- Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình
độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
- Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế
giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. - Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò
quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa.
II. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và
nguyên nhân của nó
1 Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết
Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào
cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái
trào. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở
đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến
tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu
đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư.
2.Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ
a. Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của
chủ nghĩa xã hội Xôviết Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách
kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập
trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác
dụng, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau

241
chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong
mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay
gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao
cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Từ giữa
những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973,
các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình
mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình
phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát
triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu, đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công
nghệ, dần dần tụt hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ
chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói chung là chậm đổi mới mô hình chủ
nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua kém rõ rệt trong nhiều lĩnh
vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư bản chủ nghĩa.
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như đã nói trên chính là
nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng
hoảng. Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu
không phải xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa mà là do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm
1991 của Đảng ta chỉ rõ: “ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình
cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ”
đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng.
b. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất
nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu
khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất.
Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm
1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn
toàn chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ
trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị một

242
cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công khai”,
“dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ nghĩa xã
hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của
quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần những người
không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm
được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng
trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước
Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì
bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra
cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia
phương Tây đã sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét
lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc
với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống
chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó
theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tóm
lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong là
nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt
vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh
như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội.
Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh
giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ
nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình chủ
nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ, cải
cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước vào
thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên tắc
nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Bài học của Liên Xô và Đông Âu có
ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ
nghĩa trong quá trình đổi mới hiện nay

243
III. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội
1.. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
- Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân
loại. Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời
sử dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các
nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn
khả năng phát triển. Song dù thế nào, chủ nghĩa tư bản cũng không thể là chế
độ tương lai của nhân loại. Bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của
chủ nghĩa tư bản không thay đổi.Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là
chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo, mù chữ, bất
bình đẳng do phân hóa thu nhập và mức sống ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa tư
bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục mặc dù nó luôn
được tô vẽ bằng những lối xưng danh mới như: “phi hệ tư tưởng hóa”, “xã hội
tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội kinh tế tri thức hóa”...
- Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua những cuộc
khủng hoảng, những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính là
quá trình quá độ sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản
đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh
hậu công nghiệp: kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của
sở hữu ngày càng tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với kinh tế thị trường
ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên. Việc giải
quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng tốt hơn. Với
những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những xã hội quá độ vì nó chứa
đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai.
2. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người
a.Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa
là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

244
Sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các
thế lực chống chủ nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền rêu rao về “cái chết của
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin”. Song sự phân tích ở các phần trên
cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội thực tế chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với
tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Tương lai
của loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát
triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi,loài người vẫn ở
trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu
thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu
cầu mới phải giải quyết
b.Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới
và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác
động mạnh mẽ đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn
thực hiện đổi mới tương đối thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mình, Trung Quốc và Việt
Nam đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp. Tuy
hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị trí trên trường quốc tế, về văn
hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc và Việt Nam cũng có
nhiều nét tương đồng với nhau:
- Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều thực hiện đa
dạng hóa sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc) hoặc
công hữu là nền tảng (Việt Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo, sở hữu cổ phần
được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc) hoặc
doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa

245
dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối theo lao động, đảm bảo
quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; giá cả, tỷ giá,
lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước; phát triển đồng bộ
các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị trường chứng khoán;
thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm nghèo, giữ
gìn môi trường...
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng
hệ thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù
hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ mô; gia
tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là
ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các
cấp, của công luận, của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức
xã hội, thực hiện cải cách hành chính...
- Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội
nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội...khuyến khích sự phát triển của các tổ
chức này hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ... - Hội nhập quốc tế
sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc,
WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội ASEAN,Đông Á và trở thành thành
viên tích cực của các tổ chức này.
- Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của
Đảng cũng dần được đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp
với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải cách của
Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam đều tôn trọng
những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng dụng chúng phù hợp
với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung Quốc và

246
Việt Nam sẽ góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ
nghĩa xã hội.
c. Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
Trong tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều
nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện
xu thế thiên tả và phát triển lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ
1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các Chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên
cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong đó có nhiều nước tuyên bố đi lên chủ
nghĩa xã hội. Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chavez nhiều lần
công khai tuyên bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Sau khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2006,
Tổng thống Hugo Chavez một lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp tục con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô Môralét
nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo và
Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội.Sự xuất hiện
của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề cần phải tiếp
tục nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh liệt
của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước
tiến mới của chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng chứng
minh cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười
Nga đến nay có thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài
học thành công và thất bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy luật
phát triển khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội.
NỘI DUNG ÔN TẬP, THẢO LUẬN
I. Nội dung ôn tập:
1. Trình bày sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước XHCN
2. Trình bày những thành tựu của CNXH hiện thực

247
3. Phân tích nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của mô hình
CNXH XôViết
4. Nhận định về triển vọng của CNXH
II. Nội dung thảo luận :
. Phân tích nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở
Đông Âu và Liên Xô
*TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin (dùng cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên
ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trìnhTriết học Mác – Lênin (Dùng
trong các trường đại học và cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin
(Dùng cho khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các
trường đại học, cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

…………………………………………

248

You might also like