You are on page 1of 41

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG QUẢN LÍ

Giáo viên giảng dạy: PSG.TS Nguyễn Thị Thanh Hương


Người thực hiện: Lê Công Trang
Lớp: Quản lí kinh tế K25B
Đề tài: Vận dụng tư tưởng của C.Mác và Ăngghen trong quản
lý kinh tế

Chữ ký GVC :.................... ĐIỂM


............................................. Bằng số:.....................................................
Bằng chữ:..................................................

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu:.............................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:........................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu:......................................................................................4
5. Kết cấu đề tài:.........................................................................................................4
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ ĂNGGHEN........5
1.1. Tư tưởng của C.Mác.............................................................................................5
1.2. Tư tưởng của Ăngghen.........................................................................................7
CHƯƠNG II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ................15
2.1. Khái niệm quản lý kinh tế...................................................................................15
2.2. Đặc điểm quản lý kinh tế.....................................................................................16
2.3. Nội dung cơ bản của quản lý kinh tế..................................................................18
2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý kinh tế............................................................18
CHƯƠNG III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG C.MÁC VÀ ĂNGGHEN VÀO QUẢN
LÝ KINH TẾ...............................................................................................................20
3.1. Vận dụng tư tưởng C.Mác vào quản lý kinh tế.................................................20
3.2. Vận dụng tư tưởng Ăngghen vào quản lý kinh tế.............................................25
KẾT LUẬN..................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................39

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

C.Mác và Ăngghen là hai nhà tư tưởng lớn phương Tây. Cả hai tư tưởng đều
hướng tới việc quản lý và ổn định xã hội. Mỗi tư tưởng đều có những mặt tích cực
và hạn chế khác nhau, nhưng cho đến hiện tại hai tư tưởng này vẫn đem đến những
bài học quý giá, đặc biệt là trong công tác quản lý ở xã hội hiện tại.

Kinh tế là cơ sở hạ tầng của đất nước, kinh tế ổn định sẽ tạo nền tảng giúp chính trị,
văn hóa, xã hội của đất nước phát triển, nhưng nếu kinh tế suy yếu sẽ kéo theo
những hệ lụy khôn lường. Vì vậy, việc quản lý tốt kinh tế là nhiệm vụ hết sức quan
trọng. Để quản lý kinh tế hiệu quả cần vận dụng những tư tưởng, quan điểm phù
hợp. Ngoài những quan điểm quản lý kinh tế hiện đại, những quan điểm quản lý cổ
điển nhưng vượt trước thời đại vẫn được các nhà kinh tế vận dụng, trong đó có tử
tưởng của C.Mác và Ăngghen. Dù những quan điểm này đã rất lâu đời, nhưng có
những triết lý, tư tưởng vẫn còn có ích cho đến hiện tại.

Chính vì lý do này, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng
C.Mác và Ăngghen trong Quản lý kinh tế” để tiến hành nghiên cứu. Chỉ ra được
những điểm tiến bộ của hai tư tưởng đem lại hiệu quả khi vận dụng quản lý kinh tế.

2. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu những tư tưởng, quan điểm có thể vận dụng vào
trong vấn đề quản lý kinh tế của hai nhà tư tưởng lớn của phương Tây là C.Mác và
Ăngghen đối với quản lý kinh tế ở Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng của C.Mác và Ăngghen vào trong quản
lý kinh tế.

Phạm vi nghiên cứu: Ở Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu:

3
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp: Thu thập, nghiên
cứu tài liệu từ sách báo, tạp chí và nguồn internet; thống kê, xử lý , phân tích thông
tin thu thập.

5. Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Tổng quan về tư tưởng của C.Mác và Ăngghen.

Chương 2. Những vấn đề cơ bản của quản lý kinh tế.

Chương 3. Vận dụng tư tưởng của C.Mác và Ăngghen vào quản lý kinh tế.

4
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ ĂNGGHEN
1.1. Tư tưởng của C.Mác

Các Mác sinh ngày 5/5/1818 ở Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ; mất ngày 14/3/1883. Ông
đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động trên toàn thế giới.

Các Mác kế thừa và hoàn chỉnh một cách thiên tài 3 trào lưu tư tưởng chủ yếu của
thế kỷ XIX, thuộc 3 nước tiên tiến nhất của loài người: triết học cổ điển Đức, kinh tế
chính trị học cổ điển Anh và CNXH không tưởng Pháp. Ông đã để lại hệ thống di sản
lý luận đồ sộ và sâu sắc.

Các Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế
giới, xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Triết học duy vật biện chứng của Mác đã
đập tan mọi thứ triết học duy tâm, siêu hình, coi thế giới là do thần linh sáng tạo ra,
vĩnh viễn không thay đổi, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào số mệnh, may rủi,
lịch sử xã hội là do ý muốn của thượng đế, hay của vua chúa, anh hùng tạo nên.

Triết học duy vật biện chứng vạch rõ thế giới bao gồm vô số sự vật và hiện tượng
muôn hình muôn vẻ, vốn có một cách khách quan, không do một sức huyền bí nào
sáng tạo ra, luôn luôn ở trong sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, ở trong sự vận động và
biến đổi, theo những quy luật khách quan.

Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào việc xem xét xã hội, Các Mác đã sáng
lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người.

Bằng cách vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào
việc nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, học thuyết kinh tế của Các Mác vạch ra
những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, quá trình phát sinh, phát triển và
diệt vong của nó.

Một trong những phát hiện vĩ đại của Các Mác, đó là quy luật giá trị thặng dư - quy
luật chung của xã hội tư bản. Các Mác chứng minh về mặt lý luận rằng, giai cấp vô sản
nhất thiết phải đấu tranh chống giai cấp tư sản và nhất định giai cấp vô sản sẽ chiến
thắng, CNXH nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.

5
Với 2 phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị
thặng dư, Các Mác đã đặt nền móng cho CNXH khoa học, học thuyết về sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc
lột và tha hóa.

Lê-nin khẳng định: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó
hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không
thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào
bảo vệ sự áp bức của giai cấp tư sản”.

Kế thừa sự nghiệp của Các Mác và Ăng-ghen, dựa trên các nguyên lý cơ bản, Lê-
nin đã phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại cách mạng
vô sản và do đó gọi là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là đỉnh cao
của trí tuệ loài người bởi tính khoa học và tính cách mạng triệt để của nó.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là khoa học về những quy luật phát triển của tự nhiên và xã
hội, về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, về thắng lợi của CNXH
trong tất cả các nước, về việc xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Cách mạng tháng Mười Nga thành công
và hình thành hệ thống XHCN thế giới. Đối với Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
ngọn đuốc dẫn đường cách mạng Việt Nam đi đến mọi thắng lợi. Đi tìm con đường
cứu nước, Hồ Chí Minh là người cách mạng Việt Nam đầu tiên nhìn thấy ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi tỏ con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, tạo ra một bước
ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn
lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
mình.

Trong bối cảnh hiện tại, Đảng ta càng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ góp
phần lớn giúp toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu

6
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.

1.2. Tư tưởng của Ăngghen

Năm 1844, tác phẩm đầu tiên của Ph. Ăng-ghen là “Phê phán chính trị kinh tế học”
được đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức”. Đây được coi là tác phẩm mở đầu cho tư
duy phê phán của Ph. Ăng-ghen khi xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của
các nhà tư tưởng cùng thời. Điều này được C. Mác, người chủ của tờ “Niên giám Pháp
- Đức” lúc bấy giờ, đánh giá rất cao và coi đây là “một cuốn đại cương tài tình về khoa
học chính trị của giai cấp vô sản”. Có thể nói, đây cũng chính là mối lương duyên cho
cuộc gặp gỡ và tình bạn vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen sau này. Cuối năm 1844,
Ph. Ăng-ghen sang Đức gặp C. Mác. Dù đây là lần đầu gặp nhau nhưng hai ông nhanh
chóng có những điểm tương đồng về lập trường, tư tưởng. Sau đó, Ph. Ăng-ghen cùng
với C. Mác viết chung một loạt tác phẩm tiêu biểu, như “Gia đình thần thánh” (năm
1845), “Hệ tư tưởng Đức” (năm 1846), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848),
“Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (năm 1851 - 1852),…

Ngoài việc đồng hành cùng C. Mác, Ph. Ăng-ghen còn tự tìm cho mình một hướng
nghiên cứu riêng là khoa học tự nhiên và nâng cao khả năng ngoại ngữ. Đó là tiền đề
để Ph. Ăng-ghen là tác giả của một số tác phẩm nổi tiếng, như “Biện chứng của tự
nhiên” (năm 1873 - 1883), “Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn
thành người” (năm 1876), “Chống Đuy-rinh” (năm 1877), “Nguồn gốc của gia đình,
chế độ tư hữu và nhà nước” (năm 1883), “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung và triết
học cổ điển Đức” (năm 1888)….

Trong các tác phẩm của mình, Ph. Ăng-ghen bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
trên những phương diện cơ bản như sau:

Thứ nhất, xây dựng và phát triển chủ nghĩa Mác trên cả ba bộ phận cấu thành là
triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học.

Trong lĩnh vực triết học, cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen tuy xuất thân từ phái Hê-
ghen trẻ nhưng ông có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện
chứng thông qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật.

7
Mặc dù khẳng định những quan điểm duy vật lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại
của C. Mác, nhưng Ph. Ăng-ghen cũng có công rất lớn trong việc cung cấp những luận
chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong
lĩnh vực lịch sử, xã hội; làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận
thức vĩ đại” của con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự
nhiên, Ph. Ăng-ghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà
còn làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Từ đó, Ph.
Ăng-ghen đã cùng với C. Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn
chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, Ph. Ăng-ghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế
học xuất sắc khi chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Đặc biệt, khi giúp C. Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn dang dở của
bộ “Tư bản”, Ph. Ăng-ghen cũng góp phần quan trọng trong việc luận giải những tư
tưởng lớn của C. Mác về đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực chủ nghĩa xã hội khoa học, với những trải nghiệm trong thời gian dài
ở các nước Anh, Pháp, Đức, cùng thời gian cộng tác với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã tạo
lập và hoàn thiện những quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học, mà linh hồn của lý
luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp
có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua đảng cộng sản, tiến hành cải biến xã
hội từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên
phạm vi từng nước và trên toàn thế giới. Nhờ có lý luận này, giai cấp công nhân đã
từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai trò to lớn của mình. Cùng với
C. Mác, Ph. Ăng-ghen có công lao trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục để
biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy,
“những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và sự hình
thành các chính đảng vô sản mà ông đưa ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc
đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho
tàng chủ nghĩa xã hội khoa học”.

8
Như vậy, có thể nói, “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó,
từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo
trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công,
xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa
học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ph. Ăng-
ghen”(2).

Thứ hai, không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn
đã có nhiều thay đổi.

Cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen luôn khẳng định hệ thống lý luận do các ông xây
dựng lên có tính phê phán. Tính phê phán đó không chỉ bao hàm sự phê phán đối với
các nhà tư tưởng có quan điểm phiến diện, sai lầm về thế giới khách quan, mà còn bao
hàm cả sự phê phán đối với chính tư tưởng của các ông qua mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó,
Ph. Ăng-ghen không bao giờ coi lý luận của mình cũng như của C. Mác là học thuyết
hoàn hảo, là chân lý vĩnh hằng và buộc mọi người phải rập khuôn, sao chép, mà luôn
đòi hỏi phải phát triển lý luận ấy thông qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Chẳng
hạn, với tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, ông và C. Mác chỉ rõ, nếu được
viết lại thì cũng cần bổ sung và yêu cầu những người cộng sản “bất cứ ở đâu và bất cứ
lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời,
và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối
chương II”(3). Đó là lý do giải thích tại sao trong khoảng hơn 20 năm (1872 - 1893),
ông cùng C. Mác đã 7 lần viết “Lời tựa” cho những lần tái bản tác phẩm “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản”. Sau khi C. Mác qua đời (năm 1883), những “Lời tựa” cho những
lần xuất bản kế tiếp của “Tuyên ngôn” chỉ còn một mình Ph. Ăng-ghen đứng tên.
Những “Lời tựa” đó chính là sự bổ sung, phát triển tư tưởng của “Tuyên ngôn” trên
quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển, làm cho “Tuyên ngôn” trở thành tác
phẩm kiểu mẫu của việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn sinh động,
mà chính Ph. Ăng-ghen là người tiên phong đi đầu.

Thứ ba, đấu tranh không khoan nhượng với những phe phái phi mác-xít để bảo vệ
chủ nghĩa Mác.

9
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen
nhiều lần bị chính quyền tư sản các nước trục xuất, kiện ra tòa vì tội “nói xấu”, “phỉ
báng” chính quyền. Không chỉ có vậy, tư tưởng của các ông luôn bị chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa xét lại xuyên tạc, bôi nhọ, phản bác. Vì vậy, bên cạnh việc viết những tác
phẩm có tính chất tuyên ngôn hay chính sự, lý luận thuần túy, Ph. Ăng-ghen còn viết
một số tác phẩm bút chiến để vạch trần các luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của những kẻ
cơ hội, tư sản, trong đó, tiêu biểu nhất là tác phẩm“Chống Đuy-rinh”. Với tác phẩm
này, Ph. Ăng-ghen đã trình bày một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác và qua đó, không chỉ nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển nó lên
một tầm cao mới. Một điều đáng trân trọng là trong bất cứ điều kiện, tình huống nào,
Ph. Ăng-ghen cũng luôn tuyệt đối trung thành với hệ tư tưởng mà ông và C. Mác đã
xây dựng.

Ph. Ăng-ghen đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận, mà còn thông qua hoạt động thực tiễn rất sôi nổi và tích cực trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đấu tranh không
khoan nhượng chống lại những khuynh hướng cải lương và biệt phái (của Pru-đông,
Lát-xan, Bac-u-nin...) để thống nhất hàng ngũ quốc tế cộng sản. Ngoài ra, Ph. Ăng-
ghen là người đỡ đầu của Đảng Dân chủ Xã hội Đức và có ảnh hưởng to lớn đến hoạt
động của đảng này. Những nhà xã hội chủ nghĩa ở Pháp, Áo, Hung-ga-ry, Anh, Ba
Lan, Tây Ban Nha, I-ta-ly, Nga, Hà Lan và ở nhiều nước khác đều nhận được sự giúp
đỡ vô giá của Ph. Ăng-ghen. Vì vậy, đúng như V.I. Lê-nin nhận xét: “Sau bạn ông là C.
Mác (mất năm 1883), Ph. Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai
cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”(4). Từ những đóng góp to lớn của
mình đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Ph. Ăng-ghen xứng danh là
“người thầy vĩ đại” của giai cấp công nhân toàn thế giới.

Có thể thấy, Ph. Ăng-ghen không chỉ cùng C. Mác xây dựng nên những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác, mà còn có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác, bất chấp mọi sự xuyên tạc, công kích của các thế lực thù địch. Vì thế,
không thể nói rằng: “Ph. Ăng-ghen chỉ là người đi sau C. Mác” hay “hệ thống lý luận
chỉ được đứng tên C. Mác, không có tên Ph. Ăng-ghen”,… Những quan điểm đó là sự

10
xuyên tạc, bóp méo và cố tình phủ nhận những công lao to lớn của Ph. Ăng-ghen đối
với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác. Đúng như V.I. Lê-nin khẳng định:
“Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác,
nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ph. Ăng-ghen”(5).

Những kinh nghiệm của Ph. Ăng-ghen trong đấu tranh bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác gợi mở cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay

Việc Ph. Ăng-ghen đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có nhiều nét
tương đồng với cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Đó đều
là cuộc đấu tranh của những người mác-xít nhằm bảo vệ những giá trị cốt lõi, bền
vững của chủ nghĩa Mác. Nếu ở thời đại của Ph. Ăng-ghen, chủ nghĩa Mác chính là
nền tảng tư tưởng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở nhiều nước châu
Âu, thì ngày nay, chủ nghĩa Mác là cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc Ph. Ăng-ghen ra sức đấu tranh
bảo vệ chủ nghĩa Mác đã để lại những kinh nghiệm quý giá mà chúng ta cần tiếp thu,
kế thừa và vận dụng vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Một là, trong bất cứ điều kiện và tình huống nào, phải luôn giữ vững lập trường,
quan điểm mác-xít, có thái độ kiên quyết, triệt để đối với âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch.

Thực tiễn cho thấy, ngay sau khi chủ nghĩa Mác ra đời, các phe phái phi mác-xít
liên tục tấn công bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Do đó, Ph. Ăng-ghen
và sau này là V.I. Lê-nin luôn giữ vững lập trường của người cộng sản chân chính, đấu
tranh không khoan nhượng với những tư tưởng phi mác-xít, bảo vệ chủ nghĩa Mác
bằng mọi cách. Tinh thần đấu tranh đó cho thấy bản lĩnh kiên định, vững vàng của Ph.
Ăng-ghen. Sự kiên định về lập trường tư tưởng cũng chính là ngọn lửa thử vàng, là
nguyên tắc tối cao của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay trong việc bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù
địch. Nếu không có bản lĩnh ấy, chúng ta rất dễ bị lung lay bởi sự xuyên tạc, công kích
của các thế lực thù địch.

11
Thực tiễn hoạt động cách mạng của Ph. Ăng-ghen cho thấy, ông luôn có thái độ rõ
ràng, cứng rắn, kiên định trước mọi sự tấn công của các phe phái phi mác-xít, nhất là
của chủ nghĩa cơ hội dưới các hình thức khác nhau. Do đó, bất chấp các luận điệu
công kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-
ghen vẫn luôn giữ vững bản lĩnh kiên định của những người mác-xít chân chính. Sự
kiên định đó của Ph. Ăng-ghen là bài học kinh nghiệm quý giá cho chúng ta trong việc
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Hai là, phải luôn kết hợp giữa việc khẳng định những giá trị đúng đắn, trường tồn
với việc bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen không coi lý luận do các ông xây dựng là hoàn
chỉnh, là công cụ vạn năng, nên trong quá trình xây dựng hệ thống lý luận của mình, cả
C. Mác và Ph. Ăng-ghen không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý, luận điểm
của hệ thống đó cho phù hợp với thực tiễn. Các ông cũng luôn kêu gọi những người
mác-xít khi vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác cần tránh tư tưởng dập
khuôn, máy móc, giáo điều, bởi điều đó tất yếu dẫn đến những sai lầm. Kế thừa tinh
thần đó của Ph. Ăng-ghen, để bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng ta, cần
kết hợp cùng một lúc cả hai quá trình. Một mặt, tiếp tục khẳng định, lan tỏa những giá
trị cốt lõi, trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; mặt khác, không ngừng bổ sung,
phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với thực tiễn. Đây
là hai mặt của một nhiệm vụ, vừa là sự bảo vệ, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vừa
bao hàm trong đó sự bổ sung, phát triển theo quan điểm biện chứng. Khi tổng kết thực
tiễn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta coi sự kiên định, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin là bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa sống còn đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào
cũng phải luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi đó là nền tảng tư tưởng của
Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động”(6). Điều này tiếp tục được Đảng ta nhấn
mạnh thêm ở Đại hội XIII: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh”(7). Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính
nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta,

12
không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(8). Nguyên tắc này là điều kiện tất
yếu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
hiện nay. Bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là “xét lại” hoặc “quy
kết” nó như nhiều người lầm tưởng, mà là làm cho nó ngày càng “thêm da thêm thịt”
và có thêm sức sống mới từ thực tiễn sinh động. Điều này đã được V.I. Lê-nin - người
kế tục xuất sắc sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi
lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã
hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu đối với cuộc sống”(9).

Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 35 năm tuy còn nhiều khó
khăn, thử thách nhưng đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến
phức tạp. Đặc biệt, “các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà
nước và đất nước ta”(10), “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động
ngày càng tinh vi hơn”(11). Đây được nhận định là một trong những nguy cơ đe dọa
trực tiếp đến sư tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Tại Đại hội Đảng lần thứ XIII,
Đảng ta đã chỉ rõ, một mặt phải kiên định, vững vàng với nền tảng tư tưởng của Đảng;
mặt khác phải không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới: “Kiên định, vững
vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không
ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(12).

Ba là, phải có nội dung và phương thức đấu tranh phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử.

Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa Mác luôn vấp phải sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, với nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau. Do đó, trong mỗi thời điểm, giai
đoạn lịch sử, Ph. Ăng-ghen có những nội dung, cách thức đấu tranh khác nhau để bảo
vệ chủ nghĩa Mác. Khi thì ông đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận bằng những tác
phẩm luận chiến, bút chiến; lúc lại đấu tranh bằng hoạt động thực tiễn khi lãnh đạo

13
phong trào cách mạng vô sản thông qua tổ chức Quốc tế Cộng sản. Vì thế, song song
với quá trình xây dựng, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác là quá trình Ph.
Ăng-ghen hoạt động thực tiễn cách mạng, giúp cho những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác ngày càng thâm nhập vào đời sống của giai cấp công nhân, trở thành vũ khí lý
luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình và
lợi ích của nhân dân lao động.

Quá trình đấu tranh đó của Ph. Ăng-ghen gợi mở cho chúng ta một bài học kinh
nghiệm quý giá, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay cũng cần có những nội dung, phương
thức phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, các
thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng in-tơ-nét, mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc
nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy, ngoài hình thức đấu tranh truyền thống (viết bài
đăng tải trên các sách, báo, tạp chí), chúng ta cần bổ sung những hình thức đấu tranh
khác như, đấu tranh trên không gian mạng bằng những bài viết lý luận chuyên sâu
hoặc xây dựng những tin, bài, video, clip, hình ảnh… để đăng tải trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội. Cùng với đó, phải đoàn kết, tập hợp lực lượng ở trong
Đảng và ngoài Đảng, trong giới nghiên cứu lý luận nói riêng và giới nghiên cứu khoa
học xã hội nói chung, đồng thời, phối hợp với cả những nhà mác-xít chân chính ở
nước ngoài, bởi đây là cuộc đấu tranh có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo vệ nền
tảng tư tưởng của đảng cộng sản chân chính nói chung, của Đảng ta nói riêng. Điều
này từng được V.I. Lê-nin chỉ rõ như sau: “Không có việc gì quan trọng bằng việc
đoàn kết tất cả những người mác-xít hiểu rõ tính chất sâu sắc của cuộc khủng hoảng và
hiểu rõ sự tất yếu phải khắc phục cuộc khủng hoảng ấy để bảo vệ những cơ sở lý luận
và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác”(13). “Cuộc khủng hoảng” mà V.I. Lê-
nin nhắc đến ở đây là sự “khủng hoảng” về tư tưởng của những người mác-xít khi bị
các thế lực thù địch công kích, chống phá. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước là
một trong những lý do chính khiến các thế lực thù địch ngày càng điên cuồng chống
phá nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản. Song đó cũng là lý do quan trọng dẫn
đến việc các đảng cộng sản phải tăng cường đoàn kết, siết chặt đội ngũ trong cuộc đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình.

14
CHƯƠNG II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ
2.1. Khái niệm quản lý kinh tế
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, phát sinh khi cần
có sự nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ
phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp.

Với ý nghĩa phổ biến thì quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức
và định hướng của chủ thể quản lý lên một đối tượng quản lý để điều chỉnh các quá
trình xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối
tượng quản lý theo những mục tiêu đã định. Quản lý bao gồm các yếu tố sau:

- Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là một cá
nhân hoặc tổ chức.

- Khách thể quản lý: chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản lý, đó
là hành vi của con người và các quá trình xã hội.

- Đối tượng quản lý: tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy theo từng loại
đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý khác nhau.

- Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ
thể quản lý định trước.

Quản lý là một hoạt động phức tạp và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Các yếu tố đó là: con người; hệ thống và tư tưởng chính trị; tổ chức; thông tin; văn
hóa...

Quản lý kinh tế là quá trình phân tích, lựa chọn và thành lập hệ thống nguyên tắc,
phương pháp, cơ chế, công cụ, cơ cấu tổ chức quản lý.

Một nền kinh tế hay một doanh nghiệp đều được xem như một hệ thống với hai
phân hệ chủ yếu: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Trong nhiều trường hợp mỗi
phân hệ có thể được coi như một hệ thống phức tạp.

15
Quản lý kinh tế là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong quá
trình tiến hành các hoạt động kinh tế, trong đó chủ thể quản lý là những tổ chức và cá
nhân quản lý cấp trên còn đối tượng quản lý hay khách thể quản lý là những tổ chức,
cá nhân, nhà quản lý cấp dưới, như các tập thể, cá nhân người lao động.

Mục tiêu của quản lý kinh tế là huy động tối đa các nguồn lực, trước hết là nguồn
lực lao động và sử dụng hiệu quả để phát triển kinh tế phục vụ lợi ích con người.

Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức, có sự can thiệp của pháp luật
thông qua hệ thông các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế.

– Mục tiêu của quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm phát triển đất nước, đưa kinh tế
đất nước đi lên dựa trên cơ sở các nguồn lực tiềm năng trong và ngoài nước để đất
nước có thể mở cửa và hội nhập.

– Đây là một dạng của quản lý xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội.

– Nhà nước sử dụng các hệ thống cũng như các công cụ thích hợp để quản lý cũng
như thực hiện chức năng của mình để thay đổi cũng như quản lý nền kinh tế nước ta
hiện nay.

– Việt Nam hiện nay đang được thực hiện cơ chế quản lý kinh tế dưới sự điều khiển
của nhà nước, đất nước đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp, tập trung sang nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa.

– Nền kinh tế thị trường đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu
to lớn đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng đói kém, từ nước chưa phát triển sang nước
đang phát triển và có xu hướng phát triển đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Các chính sách quản lý kinh tế của nhà nước hiện nay bao gồm: Chính sách tài
khóa, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.

2.2. Đặc điểm quản lý kinh tế


Quản lý kinh tế có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, quản lý kinh tế là một hoạt động mang tính khoa h c, có thể rút ra những
khái niệm, phạm trù, tính quy lu t và quy lu t về s hình thành và phát triển của các

16
quan hệ quản lý kinh tế. Do phải sử dụng các khoa học học khác nhau vào quản lý
kinh tế, hệ thống các mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp...về quản lý kinh tế được hình
thành trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, đường lối kinh tế của
Đảng, pháp luật nhà nước, các trào lưu phát triển kinh tế và thực tiễn đất nước...Từ đó
giúp cho các nhà quản lý kinh tế các cấp đề ra những giải pháp tăng trưởng kinh tế.
Qua đặc điểm này cho thấy nhà quản lý kinh tế phải chịu lắng nghe và biết nghe, đó
phải là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc lựa chọn cán bộ làm công tác quản lý kinh tế.

Thứ hai, quản lý kinh tế mang tính nghệ thu t: Quản lý kinh tế là một hoạt động
mang tính chất thực hành. Vì thế, trong nhiều trường hợp nhà quản lý phải xử lý
những công việc, tình huống mà kiến thức và sách vở không chỉ ra, nghĩa là phải có
nghệ thuật quản lý. Như vậy, tính nghệ thuật của quản lý kinh tế được quyết định bởi
những đặc thù của nó so với các hoạt động khác. Tính nghệ thuật trong quản lý kinh tế
thể hiện ở cách thức giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý các cáp cũng
như phương pháp “đối nhân xử thế” trong phạm vi doanh nghiệp. Ngoài ra, nền kinh tế
thị trường đòi hỏi nhà quản lý phải xử lý thường xuyên những thông tin về thị trường
để kịp thời đưa ra các quyết định quản lý có cơ sở khoa học. Điều đó cần đến một tác
phong năng động, linh hoạt và quyết đoán của nhà quản lý. Cũng trong nền kinh tế ấy,
quy luật cạnh tranh đòi hỏi các chủ thể kinh doanh dám chấp nhận rủi ro, dám mạo
hiểm để khai phá những lĩnh vực mới thu lợi nhuận cao. Những tác phong và đức tính
nói trên thuộc về năng khiếu, sở trường và tài nghệ của từng nhà quản lý.

Thứ ba, quản lý kinh tế là hoạt động d a vào quyền uy của chủ thể quản lý. Để thực
hiện được các chức năng tổ chức lãnh đạo quản lý, cá nhân người quản lý phải có
quyền lực nhất định, bao gồm: quyền lực về tổ chức hành chính; quyền lực về kinh tế;
quyền lực về trí tuệ; quyền lực về đạo đức. Một cơ quan quản lý mạnh, một nhà quản
lý giỏi phải hội đủ bốn yếu tố quyền lực trên đây.

Thứ tư quản lý kinh tế là hoạt động mang tính thông tin. Hoạt động Quản lý kinh tế
gắn v i thu th p thông tin và xử lý thông tin, gắn v i truyền tin và bảo vệ tin. Trong quá
trình lao động quản lý, đối tượng lao động không phải là các yếu tố vật chất thông
thường mà là các thông tin kinh tế. Bằng hoạt động lao động của mình, lao động quản

17
lý thu nhận và biến đổi các thông tin để phục vụ mục đích quản lý ở các cấp quản lý
trong xí nghiệp.

Thứ năm , quản lý kinh tế là hoạt động mang tính phức tạp. Đây là một đặc điểm
nổi bật của hoạt động lao động quản lý và là một khó khăn cho công tác tổ chức lao
động. Do nội dung công việc đa dạng, khó xác định và kết quả lao động không biểu
hiện dưới dạng vật chất trực tiếp. Nên hoạt động lao động quản lý khó theo dõi, khó
đánh giá và khó định mức. Gắn với bản lĩnh, gắn với sự chịu đựng; gắn với sự hiểu
biết và trải nghiệm.

2.3. Nội dung cơ bản của quản lý kinh tế


Quản lý kinh tế có các nội dung chủ yếu sau:

- Cơ sở lý luận và phương phap luận của quản lý: Lý thuyết hệ thống; Thực chất,
bản chất, đối tượng, nội dung quản lý; Vận dụng các quy luật trong quản lý; Các
nguyên tắc quản lý; Các phương pháp quản lý; Đường lối chủ trương chiến lược phát
triển; Quan hệ giữa quản lý macro và micro.

Cơ sở tổ chức quản lý: Chức năng quản lý; Cơ cấu tổ chức bộ máy; Cán bộ quản lý.

Tổ chức quá trình quản lý: Mục tiêu quản lý; Thông tin kinh tế; Quyết định quản lý.

Cải tiến v đổi mới quản lý: Hiệu quả quản lý; Phân tích quản lý; Cải tiến và đổi mới
quản lý.

2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý kinh tế


Trong quản lý kinh tế, có các yếu tố ảnh hưởng , tác động đến công tác quản lý kinh
tế, cụ thể như sau:

Thứ nhất Chính sách đối với kinh tế. Kinh tế tồn tại và phát triển phụ thuộc vào
chính sách kinh tế. Sự tác động của chính sách kinh tế đối với kinh tế diễn ra trên
nhiều khía cạnh, phương diện, như địa vị pháp lý, phạm vi hoạt động, sự bình đẳng và
cơ hội phát triển… Về mặt pháp lý, pháp luật Việt Nam không có bất cứ sự phân biệt
nào về cạnh tranh và cơ hội kinh doanh, phát triển giữa các thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, trên thực tế, một số hạng kinh tế vẫn gặp nhiều khó khăn, trong đó có kinh tế tư
nhân gặp các khó khăn như: thủ tục thành lập, hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa

18
vụ về tài chính… Điều 51 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Quy định này ít nhiều hàm
chứa những lợi thế của kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận cấu
thành của kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế này nhận được nhiều sự quan tâm,
hỗ trợ từ phía Nhà nước hơn những thành phần kinh tế khác. Kinh tế tư nhân ở Việt
Nam mới được tái thiết trong ba thập niên gần đây, nên còn nhiều hạn chế về quy mô,
nguồn vốn, trình độ quản trị, nhưng thành phần kinh tế này chưa nhận được sự quan
tâm, hỗ trợ cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ nhiều lĩnh vực, ngành
nghề kinh tế có vị trí quan trọng và gần như không có sự tham gia của các thành phần
kinh tế khác. Điều này làm hạn chế những cơ hội kinh doanh, phát triển của khu vực tư
nhân. Kinh tế tư nhân chỉ có thể phát triển khi có một thị trường mở, bình đẳng về cơ
hội cho tất cả các thành phần kinh tế.

Thứ hai, Cải cách hành chính, thể chế kinh tế. Quá trình đổi mới và chuyển đổi kinh
tế đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ đối với bộ máy hành chính nhà nước. Mặc dù
có rất nhiều chủ trương được đưa ra nhằm biến cải nền hành chính từ quan liêu, bao
cấp sang nền hành chính phục vụ phát triển kinh tế, nhưng sự thay đổi về chất trong
nền hành chính diễn ra chậm. Do thói quen và cung cách làm việc của đội ngũ công
chức, khu vực tư nhân vẫn phải gánh chịu những hậu quả quản lý còn thiên về mệnh
lệnh hành chính, quan liêu.

Thứ ba, chất ượng đội ngũ công chức, nguồn nhân lực và môi trường kinh doanh.
Để phát triển kinh tế, cần có những điều kiện nhất định, trong đó, chất lượng đội ngũ
công chức và nguồn nhân lực là những điều kiện quan trọng. Xét trên nhiều phương
diện, đội ngũ công chức chính là lực lượng giữ vai trò quyết định kết quả thực hiện
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế. Trong quá trình này, nền kinh tế cần một đội
ngũ công chức có đủ năng lực, phẩm chất, trình độ, kỹ năng và đạo đức công vụ. Tuy
nhiên, xuất phát từ hạn chế về trình độ và nhận thức, nhiều công chức chưa đáp ứng
được những yêu cầu đặt ra và không ý thức được trách nhiệm đối với Nhà nước và xã
hội. Khi công chức trong bộ máy công quyền không có đủ kiến thức về kinh tế, kỹ

19
năng thực thi công vụ, thì hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân còn gặp nhiều khó
khăn, trở ngại.

CHƯƠNG III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG C.MÁC VÀ ĂNGGHEN VÀO QUẢN


LÝ KINH TẾ
3.1. Vận dụng tư tưởng C.Mác vào quản lý kinh tế
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được nhiều quốc gia lựa chọn phát triển, trong
đó có Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường của Việt Nam
từng bước phát triển, tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa liên tục được đổi mới.

Hệ thống cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn với luật pháp quốc
tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu,
các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các yếu tố thị
trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu
vực và thế giới. Với những kết quả đạt được, có thể khẳng định, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hướng đi đúng đắn của Việt Nam.

Nền kinh tế thị trường theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ sản xuất
vật chất, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.

C. Mác khẳng định, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa ở
giai đoạn cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa (kinh tế thị
trường) cũng không còn tồn tại. Lênin cũng cho rằng: Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sản
phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu “không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy

20
mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại... thì
không thể nói đến CNXH được”. Tuy nhiên, trước khi không còn cơ sở tồn tại, bản
thân nhà nước và kinh tế thị trường lại cần thiết cho quá trình xây dựng thành công
một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Logic này được Lênin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước Nga. Khi
Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, ngay bản thân Lênin, trong giai đoạn đầu
cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó ông nhận ra sai lầm,
nóng vội nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền
kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Lênin đã chỉ ra con đường khắc phục thông qua
triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới, tức chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang
khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận mức độ nhất định cơ chế thị
trường. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành còn nhiều khó
khăn, cần phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần…

Phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển
mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình
đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và
con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế
mới.

Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô hình kinh
tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương mại trì trệ,
năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản xuất lạc
hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

21
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI
khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại hội
IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được
sử dụng trong Văn kiện của Đảng.

Đến Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể.

Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc
trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong
những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức
kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.

Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có
những bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành
nền kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế
Việt Nam, đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu,

22
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ
yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Như vậy, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà vẫn là
“nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự
do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh
tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành
nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả
sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô,
“định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật
của kinh tế thị trường.

Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia
tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ nhiều
cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển;
chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội,
phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt
với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.

Một số vấn đề đặt ra

Nhìn lại trong hơn 30 năm đổi mới có thể thấy, lý luận về mô hình kinh tế đã được
đổi mới liên tục theo thời gian. Nhờ đó, đã tạo ra xung lực mới cho sự phát triển và đã
làm cho nền kinh tế từ nghèo khó từng bước được cải thiện và khởi sắc đi lên. Cùng
với việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cần quan tâm một số vấn đề sau:

23
Một là, nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là không đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều
giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận, vừa phải linh
hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết
tâm và đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một lựa chọn tất yếu và không có cách lựa chọn
khác để đi lên CNXH.

Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chính là nền kinh tế
thị trường hiện đại, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này có
nghĩa là những yếu tố thị trường của nền kinh tế thị trường hiện đại thì đều được phát
huy và phát triển ở mức cao như tính tích cực của nền kinh tế thị trường, năng động và
hiệu quả, đồng thời, nền kinh tế thị trường cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam để hạn chế các mặt trái tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cũng như những tác
động làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về cách thức và phương thức mới theo
hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn.

Ba là, để có một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi phải
có môi trường công khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng lực điều
hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chất
lượng và hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm nền kinh tế phát triển
bền vững một cách thật sự.

Bốn là, để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, cần tạo lập một môi
trường kinh doanh thông thoáng, hòa nhập với thị trường thế giới. Nền kinh tế thị
trường không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên thị trường.
Và để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác cần được xem như mọi
thành phần kinh tế khác, được đối xử bình đẳng, không có sự ưu tiên hay phân biệt.
Các khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, hoạt động bình đẳng, đúng pháp luật, được luật pháp bảo vệ và khuyến khích
phát triển như nhau.

Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng
theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động

24
sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh
tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải được cân nhắc
tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả
mà bền vững; gắn mục tiêu tăng tưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về cơ hội
phát triển cho mọi thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng,
công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "không một ai
bị bỏ lại phía sau”…

Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà vẫn là “nền kinh
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường” như
quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự do hoá
thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế
được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt.

3.2. Vận dụng tư tưởng Ăngghen vào quản lý kinh tế


Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có tư tưởng thiên tài của
Ph.Ăngghen, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước
tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và ngày nay là công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Những tư tưởng của Ph.Ăngghen về triết học, kinh tế chính trị,
CNXH khoa học,… đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự và có giá trị sâu sắc, to lớn
đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, nhất là trong việc nhận thức và làm sáng tỏ
quy luật vận động tất yếu của cách mạng Việt Nam, giúp chúng ta nhận thức đầy đủ
hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện phát triển kinh tế.

Thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, Ph.Ăngghen nói riêng
về con đường đi lên CNXH, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung
và phát triển năm 2011) nêu rõ: CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng là xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế

25
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Qua 35 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp
cách mạng, vấn đề có ý nghĩa sống còn; đổi mới mang đến cho đất nước ta những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ
nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải
thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay. Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ nhận sạch trơn thành tựu cách
mạng và cách làm trước đây, mà là khẳng định những gì trước kia chúng ta hiểu đúng,
làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai và làm sai, hoặc là những gì trước kia đúng nhưng
nay không còn phù hợp, bổ sung nhận thức đúng và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn cách mạng. Đổi mới không phải là loại bỏ mục tiêu CNXH, mà là làm
cho CNXH được nhận thức đúng đắn, đầy đủ, xây dựng hiệu quả hơn. Quá trình này
không phải là rời xa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức
đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, nắm vững bản chất
khoa học, cách mạng của nó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng. Đồng thời, dùng lý luận đó làm cơ sở để đánh giá tình hình, với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, làm cơ sở xuất phát để hoạch
định đường lối đổi mới.

Trong công cuộc đổi mới, xây dựng CNXHở nước ta, khi thực tiễn đất nước nảy
sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta luôn luôn đứng trên
lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tổng kết những kinh
nghiệm thực tiễn và đưa ra được đường lối, chủ trương, chính sách cùng với bước đi
và cách làm cụ thể phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Trong quá trình đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư
duy chính trị về CNXH là khâu đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm và phải đi

26
trước một bước. Đảng ta cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải
gắn kết với nhau, nhưng đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế
và phục vụ cho tiếp tục đổi mới kinh tế; ngược lại, đổi mới kinh tế phải đúng định
hướng chính trị, phải góp phần tăng cường ổn định chính trị.

Đảng ta đã tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH, nhận thức của Đảng về CNXH, con
đường đi lên CNXH ngày càng sáng rõ hơn, trên cơ sở đó Đảng ta không ngừng bổ
sung, hoàn thiện toàn diện đường lối đổi mới đất nước. Kinh nghiệm và những bài học
được tích lũy để Đảng ta từng bước hoàn thiện lý luận đổi mới, phát triển đất nước
theo định hướng CNXH. Nhờ đó, nội lực của đất nước và dân tộc được huy động vào
các mục tiêu phát triển, cùng với các nguồn ngoại lực bên ngoài ngày càng được tận
dụng, khai thác có hiệu quả, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH của
nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi.

Để công cuộc đổi mới ở nước ta tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa,
cần chú trọng một số vấn đề cụ thể sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về vai trò của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Quán triệt
và thực hiện tốt Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 09-02-2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên định và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở trung thành với nguyên
tắc cách mạng, khoa học và nhân văn, đồng thời vận dụng sáng tạo, phát triển phù hợp
lý luận mác-xít với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại. Đây là đòi
hỏi khách quan, là yêu cầu có tính nguyên tắc, giữ vai trò nền tảng, then chốt đối với
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

Hai là, tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để vận dụng phù hợp
vào tình hình thực tiễn đất nước. Tiếp tục nghiên cứu các học thuyết xã hội hiện đại,
những vấn đề lý luận và thực tiễn mới của thời đại để tiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ
của nhân loại, bổ sung và làm giàu thêm hệ giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng

27
thời, đấu tranh không khoan nhượng với mọi quan điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa
học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần thúc đẩy khoa học
và thực tiễn phát triển đúng hướng.

Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ. Cần làm cho chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống xã hội, bảo đảm thế hệ trẻ Việt Nam luôn trung thành với mục tiêu,
lý tưởng của Đảng và với chế độ. Việc học tập lý luận chính trị phải được tiến hành
thường xuyên, trở thành nhu cầu, nguyện vọng của mỗi cán bộ, đảng viên trong quá
trình công tác.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh phòng, chống âm
mưu “diễn biến hòa bình” và các quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ vững chắc
nền tảng tư tưởng của Đảng. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
bằng nhiều hình thức và biện pháp phù hợp, sáng tạo; đấu tranh trên cơ sở bảo đảm
tính khoa học, tính lý luận và giàu sức thuyết phục. Muốn vậy, phải đào tạo, rèn luyện
đội ngũ chuyên gia, cán bộ có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết phát triển, do đó cần có sự đổi mới và sáng tạo
liên tục để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đời sống xã hội. Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều
mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[1].V.I.Lênin cũng
khẳng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và
bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn
khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[2]. Điều này rất đúng và phù
hợp với tư duy đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.

Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của
mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng CNXH ở
Việt Nam cũng như trên thế giới đã chứng minh: bản chất khoa học, cách mạng là
nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

28
- Lênin nói chung, tư duy biện chứng của Ph.Ăngghen là một hệ thống tri thức quý báu
cần tiếp tục được nghiên cứu nghiêm túc để có cơ sở bổ sung hoàn thiện CNXH khoa
học. Tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm sáng tỏ hơn CNXH
và con đường đi lên CNXH, trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công
CNXH của thời kỳ đổi mới gắn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”

Vấn đề tư duy đã được Ph. Ăng-ghen bàn đến trong nhiều tác phẩm. Trong tác
phẩm “Chống Đuy-rinh”, ở Phần thứ nhất với tên gọi “Triết học”, khi tranh luận với
O. Đuy-rinh về vấn đề những nguyên lý, Ph. Ăng-ghen viết: “Nếu người ta đặt câu hỏi
rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta thấy rằng chúng là sản vật
của bộ óc con người và bản thân con người, là sản vật của giới tự nhiên, một sản vật đã
phát triển trong một môi trường nhất định và cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự
nhiên là những sản vật của bộ óc con người, - quy đến cùng cũng là những sản vật của
giới tự nhiên - không mâu thuẫn mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự
nhiên”(1). Từ luận giải nói trên, chúng ta nhận thấy Ph. Ăng-ghen đã khẳng định ý
thức, tư duy của con người chính là chức năng của bộ não. Bộ não người là một dạng
vật chất có tính tổ chức cao, có khả năng sản sinh ra tư duy, ý thức. Quan điểm này
không chỉ là sự bác bỏ những luận điểm duy tâm của O. Đuy-rinh khi cho rằng những
nguyên lý được rút ra từ tư duy chứ không phải từ thế giới bên ngoài, mà còn khẳng
định rõ lập trường duy vật triệt để của Ph. Ăng-ghen khi bàn về vấn đề tư duy nói
riêng và quá trình nhận thức của con người nói chung.

Không chỉ dừng lại ở vấn đề tư duy, Ph. Ăng-ghen còn bàn nhiều đến vấn đề tư duy
lý luận với tính cách là một nấc thang trong tiến trình nhận thức thế giới của con
người. Vấn đề này được bàn đến trực tiếp trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”,
nhất là ở “Bài tựa cũ của cuốn Chống Đuy-rinh. Về phép biện chứng”. Trong tác phẩm
này, tuy Ph. Ăng-ghen không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tư duy lý luận,
nhưng bằng việc lược khảo tiến trình phát triển của tư duy nhân loại từ thời cổ đại đến
bấy giờ, ông khẳng định: Tư duy lý luận là trình độ phát triển cao của năng lực tư duy
con người. Nó mang tính lịch sử, là sản phẩm của lịch sử và ở mỗi thời đại khác nhau

29
là khác nhau. Ông viết: “Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời
đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong
những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” (2). Điều đó đồng
nghĩa với việc ông cho rằng, dù là một hình thức phát triển cao của tư duy nhưng tư
duy lý luận không phải là một chân lý vĩnh viễn, không thay đổi được. Vì vậy, ông đã
đồng nhất khoa học về tư duy với khoa học lịch sử theo nghĩa, việc nghiên cứu về tư
duy nói chung và tư duy lý luận nói riêng cũng phải mang tính lịch sử, cũng có sự thay
đổi gắn với điều kiện của mỗi thời đại khác nhau: “Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa
học nào khác, khoa học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển
lịch sử của tư duy con người”(3).

Cũng trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăng-ghen còn bàn đến những
điều kiện hình thành tư duy lý luận. Cụ thể như sau:

Một là, tư duy lý luận phải được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm. Điểm xuất phát
của tư duy lý luận chính là những kinh nghiệm được con người tích lũy trong cuộc
sống hằng ngày. Không có kinh nghiệm thì sẽ không có sự khám phá của con người về
những quy luật vận động nội tại, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Những kinh
nghiệm được tích lũy đã đòi hỏi phải có sự hệ thống hóa và phải tìm ra một sự liên hệ
bên trong tất yếu của nó. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã chuyển
qua được giai đoạn kinh nghiệm lên giai đoạn mới cao hơn - giai đoạn tư duy lý luận.
Ph. Ăng-ghen mô tả quá trình đó như sau: “Khoa học tự nhiên kinh nghiệm đã tích lũy
được một khối lượng tài liệu chính diện to lớn đến nỗi ngày nay tuyệt đối bức thiết
phải sắp xếp những tài liệu ấy lại một cách có hệ thống và dựa vào mối liên hệ nội tại
của chúng trong lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt. Người ta cũng thấy không kém cần
thiết phải sắp xếp những lĩnh vực khác nhau của tri thức theo một liên hệ đúng đắn
giữa lĩnh vực nọ với lĩnh vực kia. Nhưng làm thế thì khoa học tự nhiên đã chuyển sang
lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất
lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” (4). Những mô tả khá cụ thể đó của
Ph. Ăng-ghen đồng nghĩa với việc khẳng định tư duy lý luận không phải tự nhiên mà
có; nó chính là một giai đoạn phát triển cao của tư duy con người dựa trên việc tích lũy

30
kinh nghiệm và bắt nguồn từ nhu cầu phải khái quát những kinh nghiệm đó thành hệ
thống và tìm ra mối liên hệ của tri thức ở các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.

Hai là, tư duy lý luận phải gắn liền với khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Theo
Ph. Ăng-ghen, việc gắn với sự phát triển khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được
những quy luật và các mối liên hệ bên trong giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, thật
dễ hiểu tại sao trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề triết học, Ph. Ăng-ghen
và C. Mác đều nghiên cứu những vấn đề của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên.
Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Những thành tựu khoa học tự nhiên hiện đại đã chẳng bắt
buộc bất kỳ một người nào nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng phải thừa nhận chúng,
bắt buộc với một sức mạnh khiến các nhà khoa học tự nhiên hiện đại, dù họ muốn hay
không - phải tiến tới những kết luận chung, đó sao?” (5). Điều đó có nghĩa là khoa học
tự nhiên đưa lại những cơ sở khách quan cho tư duy lý luận. Trên cơ sở đó, Ph. Ăng-
ghen phê phán những quan điểm nửa vời, chiết trung về triết học. Ông cho rằng, một
trong những nguyên nhân của sự nửa vời đó là do nửa vời về tư duy lý luận, trong đó
quan trọng nhất là sự nửa vời về khoa học tự nhiên. Ông viết: “Nếu những nhà lý luận
là những người nửa thông thái trong lĩnh vực khoa học tự nhiên thì các nhà khoa học
tự nhiên ngày nay, trong một mức độ như thế, cũng thực sự là những người nửa thông
thái trong lĩnh vực lý luận, trong lĩnh vực của cái mà cho tới nay người ta gọi là triết
học”(6).

Ba là, tư duy lý luận không thể tách rời tư duy biện chứng duy vật. Theo Ph. Ăng-
ghen, tư duy biện chứng duy vật chính là hình thức cao nhất của tư duy lý luận. Ph.
Ăng-ghen rất đề cao vai trò của phép biện chứng đối với tư duy lý luận. Ông cảnh báo:
“Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì không thể không bị trừng phạt. Dù
người ta tỏ ý khinh thường mọi tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư
duy lý luận thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau
được, hay không hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện đó... sự khinh thường lý luận
là con đường... đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là suy
nghĩ sai”(7). Luận điểm nêu trên của Ph. Ăng-ghen đã khẳng định, phép biện chứng
giúp cho tư duy của con người thấy được bản chất của giới tự nhiên là mối liên hệ tác
động qua lại nhau. Điều đó tránh được những sai lầm trong hoạt động nhận thức. Cũng

31
trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, cùng với việc phân tích những hạn chế của
phương pháp tư duy siêu hình, Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Trên thực tế, ở đây, ngày
nay không còn một lối thoát, không còn một khả năng nào để có thể nhìn thấy ánh
sáng nếu không từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng, bằng
cách này hay cách khác”(8), và “chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học
tự nhiên vượt khỏi những khó khăn về lý luận” (9). Thông qua việc chỉ ra những hạn chế
của phép biện chứng thời cổ đại và trong triết học cổ điển Đức, Ph. Ăng-ghen đã đề
cao vai trò của C. Mác trong việc cải tạo lại phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen
trên lập trường duy vật. Cùng với việc đề cao phép biện chứng, Ph. Ăng-ghen còn đi
đến một khẳng định quan trọng là, nhờ có phép biện chứng mà tư duy lý luận được
hình thành một cách tự giác, dễ dàng và được rút ngắn hơn nhiều.

Bốn là, muốn có tư duy lý luận phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc toàn bộ
lịch sử triết học. Theo Ph. Ăng-ghen, tư duy lý luận ở mỗi chúng ta chỉ tồn tại dưới
dạng năng lực tiềm tàng, không phải tự nhiên mà có, nên việc nghiên cứu một cách
nghiêm túc lịch sử triết học của nhân loại sẽ làm cho năng lực đó trở thành hiện thực.
Ông viết: “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của
người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn
thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết
học thời trước”(10).

Như vậy, với việc chỉ ra bốn điều kiện cơ bản cho việc hình thành tư duy lý luận,
Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho chúng ta những phương pháp luận đúng đắn và cần
thiết trong việc hình thành tư duy lý luận trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Không chỉ có vậy, trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, ông còn chỉ ra vai trò to
lớn của tư duy lý luận bằng một luận điểm nổi tiếng: “Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” (11). Luận điểm này
chứng tỏ tư duy lý luận chính là thước đo trình độ phát triển khoa học của một quốc
gia, một dân tộc. Tư duy lý luận là điều kiện tiên quyết phản ánh sự phát triển khoa
học của mỗi thời đại. Vì vậy, thông qua những gương mặt tiêu biểu có tầm cao về tư
duy lý luận, như Can-tơ, Hê-ghen, C. Mác, Ph. Ăng-ghen..., chúng ta cũng có thể lý

32
giải được tại sao Đức là một trong những nước có trình độ khoa học phát triển bậc nhất
ở châu Âu vào thế kỷ XIX.

Ý nghĩa đối với việc đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở
Việt Nam hiện nay

Quan điểm của Ph. Ăng-ghen về bản chất của tư duy lý luận, những điều kiện hình
thành tư duy lý luận và vai trò của nó không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại của
Ph. Ăng-ghen - thời đại cần phải tìm hiểu và nắm vững những điều kiện hình thành
một kiểu tư duy lý luận mới, khác về chất so với những kiểu tư duy lý luận trước đó -
mà còn có ý nghĩa khoa học sâu sắc đối với mỗi chúng ta trong thời đại ngày nay, đặc
biệt là đối với Việt Nam đang trên con đường tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tư duy lý
luận để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Việc lựa chọn phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là kết quả của công cuộc đổi
mới tư duy - bắt đầu từ đổi mới tư duy về kinh tế, được Đảng ta thông qua từ Đại hội
VI (tháng 12-1986). Sự lựa chọn đó xuất phát từ nhận thức đúng đắn của Đảng ta về
thực chất của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân
loại, có thể tồn tại và thích ứng với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau; nó được
phát triển với trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản song không đồng nhất với chủ nghĩa
tư bản và cũng không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Dù không phải là một cơ chế hoàn
hảo, song kinh tế thị trường vẫn chứng tỏ là một cơ chế thúc đẩy sự sáng tạo, huy
động, phân bổ nguồn lực hợp lý và phát triển toàn diện nền kinh tế. Tự thân kinh tế thị
trường không đưa đến chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành
công, tất yếu phải phát triển kinh tế thị trường. Đó là lý do tại sao Đảng ta có sự đổi
mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

Cho đến nay, quan điểm về phát triển kinh tế thị trường đã từng bước được Đảng ta
cụ thể hóa, có những điều chỉnh phù hợp hơn với thực tiễn phát triển của đất nước qua
mỗi giai đoạn lịch sử. Nếu như trước đây, quan điểm của Đảng ta là phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, thì đến Đại hội XII (năm 2016), lần
đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại - một sự cụ
thể hóa hơn nội hàm của kinh tế thị trường nói chung: “Nền kinh tế thị trường định

33
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và
hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh””(12).

Từ quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy, Đảng ta xác định kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, đó là một
nền kinh tế “mở”, hiện đại, vận hành theo quy luật của thị trường. Thị trường phân bổ
nguồn lực, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Cơ sở khách quan của chủ trương này xuất phát từ quá trình thực hiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua vẫn còn những
hạn chế, bất cập, chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự do kinh doanh của người dân
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chưa thu hút được nhiều nguồn lực, nguồn
đầu tư cho phát triển kinh tế đất nước. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu
kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất
lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực phát triển. Do đó, quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại vừa thể
hiện một bước tiến mới trong nhận thức về kinh tế thị trường, vừa phù hợp với thực
tiễn phát triển của đất nước ta hiện nay.

Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại được Đảng ta đưa ra cũng cho
thấy sự khác biệt về chất của kinh tế thị trường ở Việt Nam so với kinh tế thị trường ở
nhiều nước trên thế giới. Trong đó, sự khác biệt lớn nhất là ở “đối tượng làm chủ sức
mạnh nền kinh tế”. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, giới chủ tư bản làm
chủ sức mạnh nền kinh tế; còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đông đảo nhân dân lao động làm chủ sức mạnh nền kinh tế. Sự khác biệt đó đã
nói rõ tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy
tính ưu việt này, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường hiện đại và

34
hội nhập quốc tế của Việt Nam cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội, phát huy các nguồn tiềm năng lớn để thúc đẩy, phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là một sự bổ sung, hoàn thiện về phát triển kinh tế thị trường trong tiến trình hội
nhập quốc tế sâu, rộng trên nhiều cấp độ; góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành
một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Sự bổ sung, hoàn thiện đó
khiến cho nội hàm của kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng cụ thể và rõ ràng hơn,
phù hợp hơn với xu hướng phát triển của thực tiễn. Đó cũng chính là biểu hiện rõ nét
của sự đổi mới tư duy lý luận không ngừng của Đảng ta về phát triển kinh tế nói chung
và phát triển kinh tế thị trường nói riêng. Do vậy, có thể nói, những chỉ dẫn của Ph.
Ăng-ghen về vai trò của tư duy lý luận là cơ sở lý luận vững chắc để Đảng ta không
ngừng đổi mới tư duy lý luận về những nội dung, phương pháp, cách thức phát triển
đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Có thể nhận thấy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một
mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Do vậy, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoàn thiện, đổi mới và sáng tạo
không ngừng, trước hết là trong nhận thức cũng như trong tư duy lý luận. Việc Đảng ta
đưa ra quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại là nhấn mạnh tính hiện đại
và hội nhập của nền kinh tế; đồng thời, khẳng định việc tuân thủ các chuẩn mực chung
của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư,
tài chính, dịch vụ, lao động có trình độ... và quan trọng hơn, là phải tuân thủ các cam
kết quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế, từng bước đáp ứng các tiêu chí để
được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thuộc tính mới này của nền kinh tế
đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển; đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả; phát triển nhanh và bền vững; tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn
cầu; phát triển kinh tế tri thức, chú trọng đổi mới sáng tạo trên nền tảng khoa học -
công nghệ hiện đại; thiết lập các thị trường sản xuất, hàng hóa và dịch vụ có hiệu quả;
phát triển hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội tiên tiến; thúc đẩy và hoàn thiện những
chuẩn mực văn minh trong sản xuất và tiêu dùng...

35
Nền kinh tế thị trường hiện đại chính là nấc thang cao trong lịch sử phát triển kinh
tế thị trường. Vì thế, ngoài những đặc trưng mang tính phổ quát của nền kinh tế thị
trường tự do trước đây, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay còn mang một số đặc
trưng mới, mang tính thời đại như sau:

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên nền tảng sở hữu hỗn hợp của
các chủ thể thị trường. Trong nền kinh tế này, sở hữu hỗn hợp dựa trên chế độ cổ phần
phải chiếm ưu thế phổ biến. Bởi vì, sở hữu hỗn hợp chiếm ưu thế phổ biến là kết quả
xã hội hóa sản xuất và xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất, khoa học, công nghệ và trình độ quản lý. Hình thức sở hữu này đang
ngày càng phát triển, từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia và gắn liền với sự
phát triển mạnh của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.

Thứ hai, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên những thành tựu của khoa
học, công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân tố quyết định trực
tiếp đến sự giàu mạnh, văn minh của mọi quốc gia. Những thành tựu của khoa học,
công nghệ hiện đại sẽ tạo ra những bước đột phá cả trong sản xuất, quản lý và phát
triển xã hội; kết tinh ngày càng nhiều hàm lượng tri thức vào trong mỗi sản phẩm lao
động được tạo ra, làm cho chúng không còn là sản phẩm riêng của một quốc gia mà
mang tính toàn cầu hóa, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên cả bề rộng và chiều
sâu.

Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại với
nòng cốt là các lĩnh vực: công nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành
dịch vụ cao cấp (đặc biệt là dịch vụ tài chính và ngân hàng). Ngoài ra, nông nghiệp và
nông thôn, về cơ bản, phải được phát triển trên nền tảng công nghiệp và thị trường
hiện đại; kinh tế tư nhân phát triển...

Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, có
khả năng làm chủ được khoa học và công nghệ với trình độ quản lý hiện đại. Trong
nền kinh tế này, “công nhân cổ cồn” có trình độ đại học là phổ biến; xu hướng trí thức
hóa công nhân ngày một gia tăng. Do đó, các trường đại học, các viện nghiên cứu
được phát triển thành doanh nghiệp của ngành công nghiệp “không khói”. Số nhân
viên làm việc cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và các vườn ươm công

36
nghệ mới sẽ nhiều hơn số công nhân đứng máy trực tiếp tại các doanh nghiệp sản
xuất. Ngoài ra, số công nhân dịch vụ tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
xã hội. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế tri thức trong nền kinh tế thị trường hiện đại.

Thứ năm, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên hệ thống an sinh xã hội hiện
đại và một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển con người. Hệ thống an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội này được xây dựng bằng sự đóng góp của chủ doanh nghiệp, người
lao động, Nhà nước và các tổ chức xã hội khác nhằm hỗ trợ người lao động, đặc biệt là
hỗ trợ người yếu thế trước những biến động và rủi ro của thị trường do tác động ngày
càng lớn của toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu. Hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội sẽ
góp phần hạn chế những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường nói chung.

Như vậy, phát triển kinh tế thị trường hiện đại là hướng đi đúng đắn cho nước ta
trong giai đoạn hiện nay nhằm từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết tật của nền
kinh tế thị trường trước đó, đồng thời hướng đến mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc đổi mới tư duy về phát triển
kinh tế thị trường hiện đại không chỉ là kết quả của sự nhận thức, vận dụng sáng tạo
những chỉ dẫn của Ph. Ăng-ghen về vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt động thực
tiễn mà còn cho thấy sự tìm tòi, khảo nghiệm không ngừng của Đảng ta về đường lối,
chủ trương phát triển kinh tế hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Có thể nói, mục tiêu cao đẹp đó chính là ngọn đuốc soi đường cho
Đảng ta trong việc vượt qua những thách thức, khắc phục mọi khó khăn để không
ngừng đổi mới tư duy lý luận về con đường phát triển đất nước.

37
KẾT LUẬN
Để quản lý kinh tế hiệu quả cần vận dụng những tư tưởng, quan điểm phù hợp.
Ngoài những quan điểm quản lý kinh tế hiện đại, những quan điểm quản lý cổ điển
nhưng vượt trước thời đại vẫn được các nhà kinh tế vận dụng, trong đó có tử tưởng của
C.Mác và Ăngghen . Dù những quan điểm này đã rất lâu đời, nhưng có những triết lý,
tư tưởng vẫn còn có ích cho đến hiện tại. Trong quản lý kinh tế, tư tưởng C.Mác và
Ăngghen được vận dụng vào trong: duy trì và phát triển nguồn nhân lực quản lý kinh
tế; thúc đẩy động lực làm việc, phát triển kinh tế; thu hút nguồn nhân lực quản lý kinh
tế; việc xây dựng và hoàn hệ thống thể chế trong quản lý kinh tế; xây dựng hệ thống
quy tắc vận hành công việc trong các tổ chức kinh tế (công ty, doanh nghiệp,...). Tuy
nhiên trong quá trình quản lý kinh tế cần kết hợp một cách mềm dẻo, linh hoạt trước
sau giữa tư tưởng của C.Mác và Ăngghen.

38
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.796.
2. V.I. Lênin: tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.232.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006, tr.25.
4. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20,
tr. 55
5. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 487, 486 – 487
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 102
7. Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Chí Hiếu: “Tư tưởng của Ph. Ăng-ghen về vai trò của
lý luận đối với chính đảng vô sản và ý nghĩa trong công tác phát triển lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 195
năm ngày sinh của Ph. Ăng-ghen: “Giá trị tư tưởng Ph. Ăng-ghen trong thời đại
ngày nay”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr. 278

39
8. Hoàng Chí Bảo: “Cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen trong lịch sử chủ nghĩa
Mác và chủ nghĩa xã hội”, trong sách “Giá trị tư tưởng của Ph. Ăng-ghen trong
thời đại ngày nay”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr. 26
9. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 18,
tr. 128
10. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, t. 2, tr. 3
11. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 110
12. Ban Tuyên giáo Trung ương: 30 năm đổi mới đất nước - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 16
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 33
14. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 232
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Sđd, t. 1, tr. 108
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Sđd, t. 2, tr. 164

40

You might also like