You are on page 1of 98

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



NHTM Ngân hàng Thương mại


DN Doanh nghiệp
NSNN Ngân sách Nhà nước
TTCK Thị trường chứng khoán
NHNN Ngân hành Nhà nước
BĐS Bất động sản
TBCN Tư bản chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CTTGI Chiến tranh thế giới thứ 1
CTTGII Chiến tranh thế giới thứ 2
CNH Công nghiệp hóa
NICS Các nước công nghiệp mới
HĐH Hiện đại hóa
HCM Hồ Chí Minh
TDKD Tự do kinh doanh
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
ODA Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức

1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN CÁC HỌC THUYẾT KINH T

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG...............................................................................1


1.1.1. Tư tưởng kinh tế...........................................................................................1
1.1.2. Học thuyết kinh tế........................................................................................1
1.2. SƠ LƯỢC CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TIÊU BIỂU TRONG
LỊCH SỬ................................................................................................................1
1.2.1. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Trọng thương...........................................1
1.2.2. Học thuyết kinh tế của trường phái Tư sản cổ điển (Trọng nông, Adam
Smith, David Ricardo).............................................................................................5
1.2.3. Học thuyết kinh tế Tiểu tư sản......................................................................9
1.2.4. Học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa xã hội không tưởng...............................13
1.2.5. Học thuyết kinh tế Mát xít, Karl Marx, F.Engels, V.I.Lenin.......................16
1.2.6. Học thuyết kinh tế Tân cổ điển...................................................................21
1.2.7. Học thuyết kinh tế của trường phái Keynes................................................25
1.2.8. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Tự do mới..............................................29
1.2.9. Học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại.....................................33
CHƯƠNG 2 - SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CÁC HỌC THUYẾT
KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM.............38
2.1.1. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn chủ
nghĩa tư bản...........................................................................................................38
2.1.2. Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN chứ không phải
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.......................................................................41
2.2. SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM..................................................................................................50
2.2.1. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế Mác xít...............................50

2
2.2.2. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế Tư sản cổ điển....................56
2.2.3. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế của trường phái Keynes......59
2.2.4. Sự nhận thức và vận dụng học thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới......68
2.2.5. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện
đại…….................................................................................................................. 76
CHƯƠNG 3 - NHỮNG ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN VẬN DỤNG CÁC HỌC
THUYẾT KINH TẾ LINH HOẠT VÀ HIỆU QUẢ HƠN
3.1. ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG CÁC
HỌC THUYẾT KINH TẾ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY.......84
3.2. ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC VẬN DỤNG CÁC HỌC THUYẾT KINH
TẾ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ KÍCH CẦU NHẰM CHỐNG SUY GIẢM
KINH TẾ NƯỚC TA...........................................................................................86
3.3. VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NƯỚC TA.......................87
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

3
Xuyên suốt chiều dài phát triển của xã hội loài người, quá trình lao động
sản xuất, trao đổi hàng hoá luôn diễn ra và đó là khởi đầu cho các quan hệ kinh
tế. Sự nhận thức của con người về các quan hệ kinh tế hình thành nên tư tưởng
kinh tế trước khi chúng được khái quát hoá thành các học thuyết kinh tế. Mỗi
học thuyết kinh tế đều gắn với các giai cấp, các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định và là cơ sở để xây dựng đường lối, chính sách kinh tế phù hợp với từng thời
kỳ.
Nền kinh tế Việt Nam sau công cuộc đổi mới năm 1986 cho đến nay đã có
sự thay đổi rõ nét. Sự nhận thức đúng đắn và chắt lọc những tư duy tiến bộ, phù
hợp với thời đại của các học thuyết kinh tế thế giới đã góp phần không nhỏ vào
sự phát triển kinh tế hiện nay. Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chúng
ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
thay đổi này mang một ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng đối với một đất nước
vừa trải qua chiến tranh và có sự tụt hậu kinh tế khá xa so với thế giới.
Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về đóng góp của các học thuyết
kinh tế đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam, nhóm chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt
Nam hiện nay”. Nhóm sẽ tập trung vào phân tích, nhận định từng học thuyết,
thực trạng áp dụng các học thuyết và từ đó có những đề xuất góp phần nâng cao
hơn nữa hiệu quả việc vận dụng tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Nắm bắt một cách khái quát về tư tưởng kinh tế trong từng học thuyết kinh
tế qua từng thời kỳ khác nhau, từ đó có những nhận xét đánh giá những thành
tựu và hạn chế khi vận dụng tại Việt Nam.
Từ thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhóm đưa ra những đề xuất,
đóng góp nhằm phát huy hơn nữa những thành tựu của mỗi học thuyết tại Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các học thuyết kinh tế và các đường lối, chính sách
của Nhà nước ta đã xây dựng nhằm ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô.
Phạm vi nghiên cứu:

4
 Phạm vi thời gian: nền kinh tế Việt Nam trước (1945 – 1986) và sau đổi
mới (1986 đến nay)
 Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện trong lĩnh vực kinh tế tại
Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm dựa trên quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, đồng thời
kết hợp với các phương pháp khác như: so sánh, diễn giải, phân tích để nghiên
cứu đề tài.
Ngoài ra, nhóm còn tham khảo thêm những tài liệu có liên quan từ các báo
cáo hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội có liên quan, sách chuyên khảo và
các bài viết chuyên khảo trên mạng internet…
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Về mặt lý luận, đề tài tóm tắt và củng cố những kiến thức về các học
thuyết kinh tế trong lịch sử loài người. Đồng thời, tạo cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu các đề tài kinh tế chuyên sâu hơn.
Về mặt thực tiễn, đề tài là sự nhận thức trực quan đối với sự vận dụng các
học thuyết kinh tế vào việc xây dựng đường lối, chính sách và lựa chon phương
án kinh tế thích hợp cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu nội dung:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài tiểu luận của nhóm gồm các phần như
sau:
Chương 1 - Tổng quan các học thuyết kinh tế
Chương 2 - Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3 - Những đề xuất góp phần vận dụng các học thuyết kinh tế ở Việt
Nam hiện nay.

5
6
Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ



1.1. KHÁI QUÁT CHUNG

1.1.1. Tư tưởng kinh tế

Tư tưởng kinh tế là kết quả nhận thức của một con người, một nhóm
người hay một giai cấp nhất định về các quan hệ kinh tế khách quan hay về các
vấn đề kinh tế tổng quát. Tư tưởng kinh tế mang tính chất tiến bộ khi nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất và khoa học phát triển, từ đó phản ánh được nhu cầu và
lợi ích của giai cấp đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Ngược lại, tư tưởng
kinh tế bảo thủ, lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và
khoa học.
1.1.2. Học thuyết kinh tế

Học thuyết kinh tế là hệ thống tư tưởng kinh tế của các đại biểu tiêu biểu
cho các tầng lớp, giai cấp trong một chế độ xã hội nhất định đã đạt đến một
trình độ khái quát chung và vạch rõ được mối liên hệ bản chất bên trong của
các hiện tượng, quá trình kinh tế. Hệ thống quan điểm kinh tế là kết quả của
việc phản ánh quan hệ sản xuất vào ý thức con người qua những giai đoạn lịch
sử nhất định.
1.2. SƠ LƯỢC CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TIÊU BIỂU TRONG
LỊCH SỬ

1.2.1. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Trọng thương

1.2.1.1. Hoàn cảnh ra đời

Chủ nghĩa Trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra
đời trước hết ở Anh vào khoảng những năm 1450 và liên tục phát triển cho đến
giữa thế kỷ thứ XVIII. Nó ra đời trong bối cảnh phương thức sản xuất phong kiến
tan rã đồng thời với việc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 1


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Về mặt lịch sử: Đây là thời kỳ tích lũy nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản
ngày càng gia tăng, tức là thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích
luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi
không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương.
Về kinh tế: Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản
xuất, tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực. Do đó, trong thời kỳ này thương
nghiệp có vai trò rất to lớn, đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo và
hướng dẫn hoạt động thương nghiệp.
Về mặt chính trị: Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, là giai cấp tiên tiến có
cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn
nằm trong tay giai cấp quý tộc. Tuy nhiên, việc phân hóa mạnh trong nội bộ giai
cấp phong kiến, các vương hầu quý tộc lớn mạnh có ý chống đối, không phục tùng
triều đình dẫn đến việc hình thành khối liên minh nhà nước phong kiến và tư bản
thương nhân.
Về phương diện khoa học tự nhiên: Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này
là những phát kiến lớn về mặt địa lý như: Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ,
Vasco da Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương… đã mở ra khả năng làm giàu
nhanh chóng cho các nước phương Tây thông qua con đường giao thương giữa các
nước trên khắp các châu lục.
Về mặt tư tưởng, triết học: Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời
kỳ phục hưng, trong xã hội đề cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của
thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà
thờ. Trong tâm lý và tư tưởng của người dân cũng có sự chuyển biến rõ rệt hướng
về thực tiễn, mở mang trí tuệ và quyền lợi vất chất.
Với các sự kiện trên đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của xã hội phong
kiến trung cổ, khiến cho nền sản xuất phong kiến lạc hậu phải nhường chỗ cho chế
độ thương mại tiến bộ, từ đó tạo nên sự ra đời của chủ nghĩa trọng thương.
1.2.1.2. Đặc điểm của chủ nghĩa Trọng thương

Chủ nghĩa trọng thương là những chính sách cương lĩnh của giai cấp tư sản
mà tiêu biểu là tầng lớp tư sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ
nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản. Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 2


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

gọi thương nhân tận dụng ngoại thương, buôn bán để cướp bóc thuộc địa và nhằm
bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình thành.
 Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu là mô tả bề
ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích
được bản chất của các hiện tượng kinh tế.
 Các đại biểu của chủ nghĩa trọng thương chưa nắm hết tổng thể các quy luật
kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế.
 Chủ nghĩa trọng thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà
chưa nghiên cứu lĩnh vực sản xuất.
 Chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản là giống nhau,
nhưng ở các nước khác nhau thì chịu ảnh hưởng bởi những sắc thái dân tộc
khác nhau. Ví dụ: ở Pháp chủ nghĩa trọng thương trọng kỹ nghệ, ở Tây Ban
Nha là chủ nghĩa trọng thương trọng kim, ở Anh là chủ nghĩa trọng thương
trọng thương mại.
Tóm lại, chủ nghĩa trọng thương ít tính lý luận, mơ hồ mà mang tính thực
tiễn cao. Lý luận chỉ dừng ở mức đơn giản thô sơ nhằm thuyết minh cho chính
sách cương lĩnh chứ không phải là cơ sở của chính sách cương lĩnh. Tuy nhiên, đã
có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc, cương lĩnh, chính sách. Có
thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực và tiến bộ trong điều kiện lịch sử thời
bấy giờ.
1.2.1.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

Thứ nhất, đánh giá cao vai trò của tiền tệ, coi tiền tệ (vàng bạc) là tiêu
chuẩn cơ bản của của cải. Theo họ “một xã hội giàu có là có được nhiều tiền”, “sự
giàu có tích luỹ được dưới hình thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn”. Như
vậy, tiền là tiêu chuẩn căn bản của của cải là tài sản thực sự của một quốc gia.
Quốc gia càng nhiều tiền thì càng giàu, hàng hoá chỉ là phương tiện làm tăng khối
lượng tiền tệ.
Thứ hai, để có thể tích luỹ tiền tệ thì phải thông qua hoạt động thương mại,
mà trước hết là ngoại thương, họ cho rằng: “nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại
thương là máy bơm”, “muốn tăng của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 3


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thương”. Từ đó đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vực lưu
thông, mua bán trao đổi.
Thứ ba, lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán, trao đổi sinh ra. Do đó
chỉ có thể làm giàu thông qua con đường ngoại thương, bằng cách hy sinh lợi ích
của dân tộc khác (mua rẻ, bán đắt).
Thứ tư, chủ nghĩa trọng thương rất đề cao vai trò của nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ
sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống
kinh tế để thu hút tiền tệ về nước mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình
càng ít càng phát triển.
1.2.1.4. Những thành tựu và hạn chế

A. Thành tựu
Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý trong
chính sách kinh tế thời kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với
truyền thống tự nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn
lý luận được trích dẫn trong Kinh thánh.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã tạo ra những tiền để lý
luận kinh tế cho kinh tế học sau này. Học thuyết đưa ra quan điểm về sự giàu có
không chỉ là những giá trị sử dụng mà còn là giá trị tài sản, là tiền; mục đích hoạt
động của nền kinh tế hàng hoá là lợi nhuận; các chính sách thuế quan bảo hộ có tác
dụng rút ngắn sự quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản và tư
tưởng Nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế là một trong những tư tưởng tiến
bộ.
B. Hạn chế
Những luận điểm của chủ nghĩa Trọng thương có rất ít tính chất lý luận và
thường được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh
tế. Lý luận mang nặng tính chất kinh nghiệm (chủ yếu thông qua hoạt động thương
mại của Anh và Hà Lan). Những lý luận chưa thoát khỏi lĩnh vực lưu thông, nó
mới chỉ nghiên cứu những hình thái của giá trị trao đổi. Đánh giá sai trong quan hệ
trao đổi, vì cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được do kết quả trao đổi không
ngang giá. Bên cạnh đó, do quá nặng về nghiên cứu hiện tượng bên ngoài nên học

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 4


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thuyết đã không đi sâu vào nghiên cứu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh
tế.
Cuối cùng, một hạn chế rất lớn của chủ nghĩa Trọng thương đó là đã quá coi
trọng tiền tệ (vàng, bạc), đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hoá để xem
xét toàn bộ nền sản xuất TBCN. Trong khi đó lại không thừa nhận các quy luật
kinh tế dưới sự quản lý của Nhà nước.
1.2.2. Học thuyết kinh tế của trường phái Tư sản cổ điển (Trọng nông,
Adam Smith, David Ricardo)

1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời

Vào thế kỷ thứ XVI – XVIII, sự thống trị của Tư bản thương nghiệp thông
qua việc thực hiện triệt để chủ nghĩa Trọng thương chính là bộ phận của học thuyết
tích luỹ tư bản nguyên thuỷ, dựa trên cướp bóc và trao đổi không ngang giá ở
trong nước và quốc tế, làm thiệt hại lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng,
kìm hãm sự phát triển của tư bản công nghiệp. Khi nguồn tích luỹ nguyên thuỷ đã
cạn kiệt thì chủ nghĩa trọng thương trở thành đối tượng bị phê phán. Sự phê phán
chủ nghĩa trọng thương đồng thời là sự ra đời một lý thuyết mới làm cơ sở lý luận
cho cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản, hướng lợi ích của họ vào lĩnh vực sản
xuất. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển từ đó ra đời.
Tại Anh, từ khi thương nghiệp mất dần đi ý nghĩa lịch sử, giai cấp tư sản
Anh đã sớm nhận thấy lợi ích của họ trong sự phát triển công trường thủ công
công nghiệp. Họ đã chỉ rõ, muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê
của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu. Đó là điểm
cốt lõi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, là học thuyết kinh tế chủ yếu của
giai cấp tư sản ở nhiều nước thời điểm đó.
1.2.2.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Anh

Các đại biểu tiêu biểu: Wiliam Petty: (1623 - 1687), Adam Smith: (1723
- 1790), David Ricardo: (1772 – 1823)
Về đối tượng nghiên cứu: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển chuyển đối
tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 5


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất, trình bày có hệ thống các phạm trù
kinh tế trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền
lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô… từ đó rút ra các quy luật vận động của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về mục tiêu nghiên cứu: luận chứng cương lĩnh kinh tế và các chính
sách kinh tế của giai cấp tư sản, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế trong xã hội tư
bản nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản trên cơ sở phát triển lực lượng sản
xuất.
Về nội dung nghiên cứu: Lần đầu tiên đã xây dựng được một hệ thống
phạm trù, quy luật của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa đặc biệt là lý
luận Giá trị - Lao động. Tư tưởng bao trùm là ủng hộ tự do kinh tế, chống lại sự
can thiệp của nhà nước, nghiên cứu sự vận động của nền kinh tế đơn thuần do
các quy luật tự nhiên điều tiết.
Về phương pháp nghiên cứu: thể hiện tính chất hai mặt: một là, sử dụng
phương pháp trừu tượng hoá để tìm hiểu các mối liên hệ bản chất bên trong các
hiện tượng và các quá trình kinh tế, nên đã rút ra những kết luận có giá trị khoa
học; hai là, do những hạn chế về mặt thế giới quan, phương pháp luận và điều
kiện lịch sử nên khi gặp phải những vấn đề phức tạp, họ chỉ mô tả một cách hời
hợt và rút ra một số kết luận có phần sai lầm.
1.2.2.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

A. Học thuyết kinh tế của Wiliam Petty - Lý luận về giá trị - lao động
W.Petty không trực tiếp trình bày lý luận về giá trị nhưng thông qua những
luận điểm của ông về giá cả có thể khẳng định ông là người đầu tiên đưa ra nguyên
lý về giá trị lao động. Nghiên cứu về giá cả, ông cho rằng có hai loại giá cả: giá cả
tự nhiên và giá cả chính trị. Giá cả chính trị hay còn gọi là giá cả thị trường do
nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối, nên rất khó xác định chính xác còn giá cả tự
nhiên hay giá trị hàng hóa là do hao phí lao động quyết định, và năng suất lao
động có ảnh hưởng tới mức hao phí đó.
Ông xác định giá cả tự nhiên của hàng hoá bằng cách so sánh lượng lao
động hao phí để sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động hao phí để tạo ra bạc hay
vàng. Theo ông, giá cả tự nhiên là sự phản ánh giá cả tự nhiên của tiền tệ, cũng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 6


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của mặt trời. Nhưng ông lại chỉ thừa nhận
lao động khai thác vàng là lao động tạo ra giá trị còn giá trị của hàng hoá chỉ được
xác định khi trao đổi với tiền.
Khi trình bày về mối quan của năng suất lao động đối với lượng giá trị hàng
hoá, ông khẳng định giá cả tự nhiên tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác
vàng bạc. Một lý luận quan trọng của ông đó là: “lao động là cha của của cải còn
đất đai là mẹ của của cải”, luận điểm này đúng nếu xem của cải là giá trị sử dụng,
song sẽ là sai nếu hiểu lao động và tự nhiên là nhân tố tạo ra giá trị. Ông đã tìm
thước đo thống nhất của giá trị là thước đo chung đối với tự nhiên và lao động, ông
đưa ra quan điểm “thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bình hàng
ngày của mỗi người, chứ không phải là lao động hàng ngày của người đó”. Với
luận điểm này đã chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi, chưa biết đến tính chất xã hội của giá trị. Ngoài ra ông còn có ý định giải
quyết mối quan hệ giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng chưa thành
công.
B. Học thuyết kinh tế của Adam Smith - Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về
“bàn tay vô hình”
Tư tưởng tự do kinh tế chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của
A.Smith, nội dung cơ bản là đề cao vai trò của cá nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết
của kinh tế thị trường, thực hiện tự do cạnh tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và nhà
nước không can thiệp vào kinh tế.
Điểm quan trọng của lý thuyết này là Adam Smith đã đưa ra phạm trù con
người kinh tế. Ông quan niệm khi chạy theo tư lợi thì “con người kinh tế” còn chịu
sự tác động của “bàn tay vô hình”. “Bàn tay vô hình” là sự hoạt động của các quy
luật kinh tế khách quan, ông cho rằng chính các quy luật kinh tế khách quan là một
“trật tự tự nhiên”. Để có sự hoạt động của trật tự tự nhiên thì cần phải có những
điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hoá và trao đổi
hàng hoá.
Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Ông cho rằng cần
phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can
thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó. Tóm lại xã hội

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 7


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

muốn giàu thì phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do theo Chủ nghĩa “Laisse-
fảie” tức là “Mặc kệ nó”.
C. Học thuyết kinh tế của David Ricardo - Lý luận về giá trị
Lý luận về giá trị là lý luận chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan
điểm kinh tế của Ricardo, là cơ sở của học thuyết của ông và được xây dựng trên
cơ sở kế thừa, phê phán, phát triển lý luận giá trị của A.Smith.
Ông định nghĩa giá trị hàng hoá, hay số lượng của một hàng hoá nào đó, do
số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Ông
phê phán sự không nhất quán trong khi định nghĩa về giá trị của A.Smith. Ông
cũng đã có sự phân biệt rõ ràng dứt khoát hơn giữa giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi, ông nhấn mạnh “tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc dù
nó rất cần thiết cho giá trị này”. Từ đó ông phê phán sự đồng nhất hai khái niệm
tăng của cải và tăng giá trị. Theo ông lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá
không phải chỉ có lao động trực tiếp, mà còn có cả lao động gián tiếp cần thiết
trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ, nhà xưởng dùng vào việc sản xuất
ấy.
Về thước đo giá trị, ông cho rằng cả vàng hay bất cứ một hàng hoá nào
không bao giờ là một thước đo giá trị hoàn thiện cho tất cả mọi vật. Mọi sự thay
đổi trong giá cả hàng hoá là hậu quả của những thay đổi trong giá trị của chúng.
Về giá cả ông khẳng định, giá cả hàng hoá là giá trị trao đổi của nó, những
biểu hiện bằng tiền, đối với giá trị được đo bằng lượng lao động hao phí để sản
xuất ra hàng hoá, ông cũng đã tiếp cận với giá cả sản xuất thông qua việc giải thích
về giá cả tự nhiên.
Ricardo cũng đã đề cập đến lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng
ông chưa lý giải việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn.Ông là người
đầu tiên mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá trị, bao gồm 3 bộ phận: c, v, m, tuy nhiên
ông chưa phân biệt được sự chuyển dịch của c vào sản phẩm như thế nào, và
không tính đến yếu tố c2. D.Ricardo bác bỏ quan điểm cho rằng tiền lương ảnh
hưởng đến giá trị hàng hoá.
Trong lý luận giá trị của D.Ricardo cũng còn những hạn chế, đó là: chưa
phân biệt giá trị và giá cả sản xuất mặc dù đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ
suất lợi nhuận. Coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật (theo

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 8


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Mác phạm trù này chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá). Chưa phát hiện ra tính
chất hai mặt của sản xuất hàng hoá. Chưa làm rõ tính chất lao động xã hội quy
định giá trị như thế nào, thậm chí cho rằng lao động xã hội cần thiết do điều kiện
sản xuất xấu nhất quyết định. Chưa phân tích được mặt chất của giá trị và các hình
thái giá trị.
1.2.3. Học thuyết kinh tế Tiểu tư sản

1.2.3.1. Hoàn cảnh ra đời

Cuối thế kỷ XVIII cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu phát triển
mạnh mẽ, sản xuất bằng máy móc và chế độ công xưởng trở nên phổ biến thay thế
cho sản xuất thủ công nhỏ lẻ đã làm cho nền sản xuất của nông dân và thợ thủ
công bị đe doạ, có nguy cơ bị phá huỷ toàn bộ, làm mất đi địa vị độc lập của người
sản xuất nhỏ, biến đại bộ phận những người sản xuất nhỏ trở thành những người
làm thuê. Bên cạnh đó, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm bộc lộ những
mâu thuẫn, hạn chế của nó như: thất nghiệp, tình trạng tự phát vô chính phủ trong
sản xuất kinh doanh, sự phân hoá giai cấp sâu sắc. Điều này dẫn đến sự phê phán
chủ nghĩa tư bản ngày một tăng cao và đòi hỏi phải thay thế bằng một hình thái
kinh tế xã hội khác. Từ đó xuất hiện một trào lưu tư tưởng kinh tế mới – Kinh tế
tiểu tư sản.
1.2.3.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế Tiểu tư sản

Học thuyết kinh tế tiểu tư sản là học thuyết kinh tế đứng trên lập trường của
giai cấp tiểu tư sản để phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản, phê phán nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tiểu tư sản (là sự phản kháng của giai
cấp tiểu tư sản). Tư tưởng tiểu tư sản là tư tưởng của những người bênh vực, bảo
vệ cho nền sản xuất nhỏ, chống lại sự phát triển của nền sản xuất lớn - sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Đối tượng của sự phản kháng vừa là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
vừa là cả nền sản xuất lớn - nền đại công nghiệp.
Con đường mà họ lựa chọn đó là phát triển kinh tế và xã hội theo những
chuẩn mực của xã hội cũ, đẩy mạnh sản xuất nhỏ hoặc chỉ chuyển thành tư bản
nhỏ, gạt bỏ con đường tư bản chủ nghĩa song không phê phán sở hữu tư nhân và tự

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 9


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

do cạnh tranh.Trường phái kinh tế tiểu tư sản sử dụng phương pháp luận duy tâm,
siêu hình, thể hiện ở chỗ họ cắt rời các quá trình phát triển hợp quy luật của xã hội
vì mục đích bảo vệ nền sản xuất nhỏ và bảo vệ những người sản xuất nhỏ độc lập.
Do đó, kinh tế tiểu tư sản thể hiện tính không triệt để cả trong nhận thức các
phạm trù kinh tế và trong biện pháp cải tạo xã hội mà nó đưa ra, đây là một trào
lưu tư tưởng vừa có tính không tưởng vừa có tính bảo thủ, trì trệ. Một số đại biểu
điển hình như Sismondi (1773-1842), Dierre-Proudon (1809 – 1865).
1.2.3.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

A. Lý luận về giá trị của Sismondi


Sismondi đứng vững trên lập trường lý luận giá trị - lao động để giải thích
các hiện tượng và quá trình kinh tế. Ông đã khẳng định lao động là nguồn gốc của
giá trị cũng như thể hiện quan điểm bênh vực người nghèo khổ và những người
sản xuất nhỏ. Ông đưa ra danh từ "Thời gian lao động xã hội cần thiết" và cho rằng
khi xác định lượng giá trị của hàng hóa không được dựa vào sản xuất cá biệt mà
phải dựa vào sản xuất xã hội.
Ông đã vạch rõ mâu thuẫn cơ bản giữa giá trị và giá cả, đó là chúng chỉ
thống nhất với nhau trong nền sản xuất nhỏ, từ đó ông đi đến thủ tiêu nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa - nền sản xuất lớn. Ông coi giá trị tương đối của hàng hóa là phụ
thuộc vào cạnh tranh, vào lượng cầu, vào tỷ lệ giữa thu nhập và lượng cung về
hàng hóa. Giá trị tuyệt đối của hàng hóa được ông giải thích theo kiểu tự nhiên chủ
nghĩa và đi tìm giá trị đó trong một đơn vị kinh tế độc lập.
Lý luận về tiền tệ của ông xem tiền chỉ có vai trò là thước đo chung của giá
trị. Sự xuất hiện của tiền chỉ làm cho việc trao đổi hàng hóa được dễ dàng hơn.
Như vậy, ông chưa phát hiện ra nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền cũng như
lầm tưởng nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đồng nhất với nền kinh tế tiền tệ.
Lý luận về tư bản của ông cho rằng tất cả tư bản đều là tiền tệ, và nó được
chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động, trong đó tư bản lưu động được tái
sản xuất hoàn toàn trong năm. Ông phê phán tính chất bóc lột rõ rệt của lợi nhuận
tư bản thể hiện qua việc lợi nhuận là một phần giá trị bị khấu trừ, do lao động công
nhân làm ra bị nhà tư bản chiếm không.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 10


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Lý luận về tiền công nói rằng tiền công là một phần giá trị do công nhân tạo
ra. Ông công khai nói về tình trạng điêu đứng của công nhân do sự phát triển của
sản xuất cơ khí, cũng như nhấn mạnh thất nghiệp là hiện tượng xảy ra thường
xuyên. Đối với những người thất nghiệp thì giá sản phẩm công nghiệp rẻ không có
lợi gì cho họ, vì họ không đủ khả năng tối thiểu để mua được những thứ đó. Chủ
nghĩa tư bản càng phát triển thì tình cảnh công nhân càng điêu đứng, tiền công
càng giảm xuống, tình trạng thất nghiệp càng tăng, tiêu dùng sẽ giảm đi. Do vậy,
ông khuyên hãy quay về một xã hội mà ở đó toàn bộ giá trị do công nhân làm ra họ
được hưởng toàn bộ. Đó là xã hội chỉ tồn tại nền sản xuất nhỏ.
Lý luận về lợi nhuận, địa tô dựa trên cơ sở kế thừa những quan điểm về lợi
nhuận của trường phái tư sản cổ điển, Sismondi cho rằng lợi nhuận là khoản khấu
trừ thứ tư vào sản phẩm lao động. Đó là thu nhập không lao động, là kết quả của
sự cướp bóc công nhân, là tai họa kinh tế của giai cấp vô sản. Ông cho rằng, việc
san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá huỷ những tư bản cố định bằng sự
tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp. Theo Sismondi, địa tô là kết
quả của sự cướp bóc công nhân. Địa tô là một phần giá trị do công nhân nông
nghiệp tạo ra, là sản phẩm không được trả công của nông nhân. Địa tô không chỉ
xuất hiện trên mảnh đất tốt mà nó còn có ở cả trên những mảnh đất xấu nhất, điều
đó thể hiện ông có tư tưởng về địa tô tuyệt đối.
B. Học thuyết của Proudon
Đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Proudon là bảo vệ tuyệt đối nền sản
xuất nhỏ, học thuyết mang tính chất bảo thủ trì trệ hơn Sismondi, phản ánh chủ
nghĩa duy tâm siêu hình và duy ý chí.
Lý luận về sở hữu theo ông, sở hữu có tính hai mặt. Mặt tích cực là bảo
đảm cho sự độc lập tự do cho người sở hữu, nhưng mặt ngược lại là phá huỷ sự
bình đẳng, tạo nên sự bất công trong xã hội. Xây dựng một chế độ sở hữu tốt là
xây dựng chế độ sở hữu nhỏ, có nghĩa là duy trì, củng cố sở hữu nhỏ, thủ tiêu
sở hữu lớn.
Lý luận về giá trị coi giá trị là một phạm trù trừu tượng, vĩnh viễn bao
gồm hai mặt đối lập nhau, giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào của cải,
còn giá trị trao đổi thì thể hiện khuynh hướng khan hiếm của nó. Ông coi sự

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 11


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

mâu thuẫn nội tại của hàng hóa là mâu thuẫn giữa sự dồi dào và khan hiếm của
cải. Theo ông, để giải quyết mâu thuẫn này cần phải tạo ra một “giá trị pháp lý”
(còn gọi là giá trị cấu thành). Giá trị pháp lý được hiểu là quá trình trao đổi trên
thị trường là một quá trình lựa chọn sản phẩm độc đáo. Có một số hàng hóa
chiếm lĩnh được thị trường, được thực hiện và lại được sản xuất ra và do đó trở
thành giá trị. Trong khi đó có một số hàng hóa khác lại không có may mắn như
vậy, không được xã hội thừa nhận, do vậy cần phải xác lập trước giá trị để được
xã hội chấp nhận. Ông lấy vàng, bạc làm tiền tệ và coi đó là những giá trị pháp
lý bởi vì vàng, bạc bao giờ cũng có thể thực hiện được. Lý luận giá trị pháp lý
là cơ sở cho ý đồ cải cách của Proudon nhằm giữ lại sản xuất hàng hoá mà vẫn
thủ tiêu được mâu thuẫn của nó. Ví dụ: mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao
động xã hội, giữa hàng hoá và tiền tệ. Đi xa hơn ông tin tưởng có thể phát triển
một nền sản xuất hàng hoá mà không có tiền tệ.
Lý luận về tiền tệ của ông cho rằng, khi tiền tham gia vào quá trình trao
đổi hàng hóa sẽ làm cho trao đổi hàng hóa bị rối loạn, vì mục đích làm giàu và
tăng thêm giá trị, họ biến đồng tiền trở thành công cụ thống trị và bóc lột
những người nghèo. Tiền tệ trở thành nguồn gốc của mọi sự đau khổ và bất
hạnh. Theo ông, tiền tệ là đặc trưng của tư bản và ông coi mọi tư bản đều được
quy về tiền tệ.
Quan điểm về tầng lớp thứ ba trong xã hội, theo ông, tầng lớp người thứ
ba trong xã hội là những người sản xuất nhỏ, những người sản xuất bị tan rã.
Đây là những người cứu tinh cho xã hội, tạo thế cân bằng cho xã hội.
1.2.3.4. Những thành tựu và hạn chế

A. Thành tựu
Những người tiểu tư sản là những người đầu tiên đặt vấn đề phê phán chủ
nghĩa tư bản một cách toàn diện, chỉ rõ mâu thuẫn trong sự phát triển nội tại của
phương thức này và bác bỏ sự tồn tại của nó. Họ có công lao lớn trong việc phân
tích các hậu quả xã hội do sự phát triển của xã hội tư bản gây ra.
Họ quan tâm bênh vực những người sản xuất nhỏ, những người nghèo khổ
trong chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt chú trọng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và
nâng cao lợi ích xã hội của người lao động.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 12


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Các vấn đề xã hội và con người mà các học giả tiểu tư sản đề cập ngày càng
có ý nghĩa lớn đối với việc phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng ,
sự phát triển xã hội nói chung, nhất là các nước lạc hậu mới bắt đầu phát triển sản
xuất hàng hoá lớn.
B. Mặt hạn chế
Hạn chế lớn nhất của các nhà kinh tế tiểu tư sản là phân tích các vấn đề kinh
tế - xã hội dựa trên cơ sở tình cảm đạo đức của những người sản xuất nhỏ bị
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho tan rã. Từ đó đi đến phủ nhận quy
luật khách quan khi phê phán chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nền sản xuất đại công
nghiệp, phủ nhận tính khách quan, hợp quy luật của con đường phát triển xã hội, vì
thế có thái độ tiêu cực đối với nền sản xuất lớn.
Đưa ra cương lĩnh cải tạo xã hội vừa mang tính chất không tưởng, vừa
mang tính chất bảo thủ,trì trệ, đó là hy vọng vào việc cải tạo xã hội tư bản theo mô
hình lý tưởng phù hợp với đạo đức và tình cảm của người tiểu tư sản ngay trên
những cơ sở tồn tại của xã hội tư bản.Theo Lê-nin,gốc rễ của sai lầm là họ không
thấy được mối quan hệ biện chứng của sự phát triển từ sản xuất hàng hoá nhỏ lên
sản xuất hàng hoá lớn.
1.2.4. Học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa xã hội không tưởng

1.2.4.1. Hoàn cảnh ra đời

Năm 1848, cách mạng tư sản Pháp thành công thêm vào đó các cuộc cách
mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ ở các nước Tây Âu đã thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Máy móc công nghiệp được cải tiến và năng suất chế tạo ngày
một tăng lên và hoàn thiện hơn, làm cho năng suất lao động tăng nhanh chưa từng
có. Lao động thủ công được thay thế dần bằng máy móc.Tiền đề về chính trị - xã
hội: khi lực lượng sản xuất phát triển làm cho xã hội phân chia thành giai cấp rõ rệt
bao gồm giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Do đó xuất hiện đấu tranh giai cấp, và
nó được chuyển dần từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác có ý thức và có tổ
chức hơn.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 13


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

1.2.4.2. Đặc điểm của học thuyết Chủ nghĩa xã hội không tưởng

Chủ nghĩa xã hội không tưởng là học thuyết kinh tế thể hiện sự phản kháng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa và
tìm đường xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Đặc điểm chung là phê phán chủ
nghĩa tư bản theo quan điểm kinh tế chứ không theo quan điểm đạo đức, luận lý.
Chỉ rõ chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển của lịch sử, nhưng chưa phải là
chế độ xã hội tốt đẹp nhất của loài người. Vạch rõ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản,
sự kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và cần phải thay thế bằng xã hội mới.
Tuy nhiên con đường họ đề xuất xây dựng xã hội mới có tính chất không tưởng,
chỉ dừng lại ở tính ước muốn, không có cơ sở khoa học để thực hiện, đặc biệt chưa
thấy vai trò của giai cấp công nhân.
1.2.4.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

A. Quan điểm kinh tế của Saint Simon


Dựa trên những lý luận về duy vật lịch sử, ông khẳng định lịch sử là sự thay
thế lẫn nhau của các giai đoạn khác nhau, song lại gắn bó mật thiết với quá trình
với nhận thức của con người. Ông cũng thừa nhận sự phát triển của xã hội theo
những quy luật thay thế tất yếu khách quan của một xã hội phát triển cao hơn đối
với một xã hội phát triển thấp hơn. Tuy nhiên, ông không phân tích đúng động lực
thực sự của tiến bộ xã hội mà coi động lực của tiến bộ xã hội là đạo đức của con
người.
Ông phê phán chủ nghĩa tư bản là xã hội tạo ra tầng lớp người giàu có và
một tầng lớp người nghèo khổ, một xã hội như thế là một xã hội chưa hoàn thiện,
không tốt đẹp vì ở đó diễn ra sự bóc lột lẫn nhau, hơn thế nữa là sự lừa bịp lẫn
nhau, cạnh tranh chèn ép không lành mạnh, về phía Nhà nước thì không chăm lo,
cải thiện đời sống của người lao động. Khi phân tích kết cấu của xã hội tư bản, ông
đã gọi chung giai cấp công nhân, các nhà tư bản và thương nhân là những nhà
công nghiệp, còn tầng lớp khác như quý tộc, thầy tu, cha cố được ông gọi là giai
cấp không sinh lợi.
Dự án về xã hội tương lai: chế độ tương lai được ông gọi là hệ thống công
nghiệp mới trong đó sẽ thực hiện nguyên tắc “mỗi người làm theo năng lực, mỗi

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 14


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

năng lực sẽ được trả công theo lao động”. Trong xã hội tương lai, theo ông sẽ
không có bóc lột lẫn nhau nữa, thay thế cho sự bóc lột đó là sự “bóc lột” thế giới tự
nhiên, “bóc lột” vật phẩm, tình trạng người thống trị sẽ được thay thế bằng sự
thống trị của người đối với tự nhiên. Theo ông, trong xã hội tương lai sẽ không còn
Nhà nước, chính quyền sẽ được chuyển vào tay các nhà công nghiệp và các nhà
bác học.
Tóm lại, con đường cải tạo xã hội cũ là mong chờ vào những biện pháp tinh
thần, bằng việc kêu gọi lòng tốt của tất cả các giai cấp trong xã hội chứ không
nhằm vào việc cải tạo các cơ sở kinh tế của xã hội cũ.
B. Quan điểm kinh tế của Charles Fourier
Theo ông, chủ nghĩa tư bản là xã hội đã phung phí lao động dẫn tới hình
thành đội quân lớn những người không sản xuất, vì ông cho rằng chỉ có lao động
thực tế cần thiết cho xã hội mới là lao động sản xuất. Nguồn gốc của sự đau khổ là
thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, thương nghiệp là ăn cắp, nói dối, lừa đảo, đầu cơ
nâng giá… Vì vậy phải thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự vô chính phủ trong
sản xuất sẽ tạo ra cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh và không tránh khỏi các cuộc
khủng hoảng cũng như sự bần cùng của những người lao động. Sự nghèo đói là do
sự thừa thãi sinh ra, nỗi bất hạnh của quần chúng là không có việc làm. Chỉ có tập
trung sản xuất cao sẽ hình thành nên độc quyền tư bản và độc quyền tất yếu sẽ thay
thế cạnh tranh tự do.
1.2.4.4. Những thành tựu và hạn chế

A. Thành tựu
Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Tây Âu đầu thế kỷ
XIX đều có sự phê phán chủ nghĩa tư bản một cách gay gắt, mạnh mẽ, quyết liệt,
xuất phát từ lĩnh vực kinh tế. Họ vạch rõ tính chất tạm thời trong lịch sử của chủ
nghĩa tư bản và chống lại những quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh
viễn.
Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có những phỏng
đoán về chủ nghĩa xã hội trong tương lai là hoàn toàn tốt đẹp. Họ đã đưa ra dự án
về xã hội tương lai tốt đẹp ấy bằng việc tạo lập ra mô hình kinh tế - xã hội trong
thực tiễn bằng khả năng của họ. Để thiết lập được một chế độ xã hội mới trong

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 15


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

tương lai tốt đẹp, họ đã phát hiện được cần phải xóa bỏ dần hay đi đến xóa bỏ hẳn
về chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
B. Hạn chế
Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa xã hội không tưởng không tìm ra được lối
thoát thật sự mà còn nằm trong vòng bế tắc, vì họ không phát hiện ra được những
quy luật kinh tế khách quan vận động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó
họ không vạch ra được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, họ không
thấy được vai trò của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Họ chủ trương xây dựng xã hội mới bằng con đường không tưởng như việc
tuyên truyền, chờ mong vào lòng từ thiện của những nhà tư bản và sự giúp đỡ của
nhà nước tư sản, coi tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là tôn giáo mới.
1.2.5. Học thuyết kinh tế Mát xít, (Karl Marx, F.Engels, V.I.Lenin)

1.2.5.1. Hoàn cảnh ra đời

Kinh tế chính trị Mác – Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX,
thời kỳ mà phương thức sản xuất TBCN đã khẳng định được sự chiến thắng
của nó đối với phương thức sản xuất phong kiến. Đại công nghiệp cơ khí ra đời
dẫn tới sự xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp vô sản. Giai cấp này cùng với
giai cấp tư sản hình thành nên hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản. Do bị áp
bức và bị bóc lột nặng nề nên giai cấp vô sản đã từng bước đứng lên đấu tranh
với giai cấp tư sản. Nhưng tất cả những phong trào này đều mang tính tự phát,
nên một yêu cầu khách quan phải có một lý luận khoa học để dẫn đường, nhằm
đưa phong trào đấu tranh của công nhân từ tự phát lên tự giác.
Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 có nhiều phát minh khoa học làm cơ sở lý
luận cho việc lý giải các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc biệt có ba
trào lưu tư tưởng lớn: Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh, chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp.
C.Mac (1818 – 1883) và Ph.Engels (1820 – 1895) là những người sáng
lập chủ nghĩa Mác trong đó kinh tế chính trị là một trong 3 bộ phận cấu thành.
Sau đó được Lênin phát triển trong điều kiện lịch sử mới.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 16


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

1.2.5.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế Mát xít, Các Mác, Ph. Ăngghen,
V.I.Lenin

Kinh tế chính trị Mác - Lênin do C.Mác và Ăng-ghen sáng lập và Lênin
phát triển trong điều kiện lịch sử mới. Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là sự kế
thừa những tinh hoa của nhân loại. Những tư tưởng kinh tế xuất hiện rất sớm,
ngay từ thời cổ đại và nó không ngừng được phát triển, đến chủ nghĩa tư bản
những tư tưởng này phát triển trở thành những học thuyết kinh tế: trọng
thương, trọng nông, tư sản cổ điển, tiểu tư sản, không tưởng… những học
thuyết này có nhiều thành tựu đồng thời cũng có nhiều hạn chế. Mác, Ăngghen,
Lênin đã kế thừa những thành tựu của họ và khắc phục những hạn chế để xây
dựng lên học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin dựa trên phương pháp luận khoa học.
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mácxít: Biện chứng
duy vật, đồng thời còn sử dụng một loạt các phương pháp khác như: phương
pháp trừu tượng hóa khoa học, lôgíc, phân tích, tổng hợp…Với những phương
pháp nghiên cứu như trên đã khắc phục được những hạn chế của các phương
pháp nghiên cứu của các nhà kinh tế đi trước (quan sát, duy tâm khách quan,
duy tâm chủ quan…) và đi vào nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình kinh tế
từ trong quá trình sản xuất vật chất, quá trình vận động phát triển, và trong mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Học thuyết kinh tế Mác -Lênin là sự khái quát thực tiễn sinh động của
chủ nghĩa tư bản. Những nhà kinh tế trước Mác sống trong thời kỳ chủ nghĩa tư
bản đang trên đà phát triển theo chiều hướng tiến bộ chưa bộc lộ những mâu
thuẫn và chưa bộc lộ đày đủ bản chất của nó nên những học thuyết của họ còn
nhiều mặt hạn chế. Đến Mác, Ăngghen, Lênin thì chủ nghĩa tư bản đã hoàn
thành cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp hóa. Thực tiễn đó đã
cho phép Mác và tiếp đó là Lênin đã phân tích một cách sâu sắc và đầy đủ về
bản chất và quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin gồm ba bộ phận cấu thành: Triết học Mác-

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 17


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Lênin; Kinh tế chính trị Mác-Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học. Mỗi bộ phận
có vị trí, vai trò và nội dung riêng, trong đó kinh tế chính trị là môn khoa học
nghiên cứu mặt xã hội của quá trình sản xuất.
1.2.5.3. Các giai đoạn phát triển

A. Giai đoạn 1843 - 1848


Đây là giai đoạn hình thành cơ sở triết học và phương pháp luận của
C.Mác và Ăngghen để đi vào nghiên cứu kinh tế chính trị. Lúc đầu các ông là
những người dân chủ cách mạng, tích cực tham gia phong trào đấu tranh vì tự
do dân chủ, bảo vệ lợi ích của nông dân, đòi tự do báo chí và bắt đầu tìm hiểu
những vấn đề về kinh tế. Các ông đã xây dựng thế giới quan phương pháp luận
khoa học - Phương pháp duy vật biện chứng. Đồng thời các ông chuyển từ lập
trường dân chủ sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
Trong giai đoạn này, các ông viết một số tác phẩm, trong đó “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” được coi là mốc mở đầu của thời đại mới trong lịch
sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế. Đây là tác phẩm trình
bày một cách xúc tích nhất những tư tưởng, quan điểm về: triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen. Các
ông đã khẳng định cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định chính trị, tư tưởng của
thời đại, sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Đặc biệt khi xã hội có giai cấp, thì lịch sử xã hội là lịch sử đấu
tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội loài người
(các ông đã vượt khỏi tư tưởng duy tâm và siêu hình). Các ông đã xác định
được đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là nghiên cứu mặt xã hội của
quá trình sản xuất và trao đổi những của cải vật chất nhất định của một xã hội.,
đồng thời các ông đi vào nghiên cứu các khái niệm, phạm trù, quy luật của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: hàng hóa, tiền tệ, tư bản, giá trị, sở
hữu… và đi đến kết luận: những người cộng sản có nhiệm vụ xóa bỏ chế độ tư
hữu. Các ông khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là
phương thức tồn tại vĩnh viễn, nó tất yếu sẽ bị tiêu vong và được thay thế bằng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 18


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

một phương thức phát triển cao hơn - đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa. Sứ mệnh lịch sử này là do giai cấp công nhân đảm nhận.
B. Giai đoạn 1848 – 1895
Đây là giai đoạn xây dựng và hoàn thành học thuyết kinh tế của C.Mác
và Ph.Ăngghen, hạt nhân là bộ Tư bản. Mác đưa ra quan điểm mới về đối
tượng và phương pháp của Kinh tế chính trị mà phương pháp trừu tượng hóa
khoa học và phương pháp duy vật biện chứng là nền tảng. Mác đưa ra quan
điểm lịch sử về sự phát triển kinh tế vào việc phân tích các phạm trù, các quy
luật kinh tế. Dựa trên quan điểm lịch sử, Mác thực hiện một cuộc cách mạng về
học thuyết giá trị - lao động, giải quyết được bế tắc của các trào lưu tư tưởng
kinh tế trước đây. Công lao to lớn của Mác là xây dựng học thuyết giá trị thặng
dư, hòn đá tảng của chủ nghĩa Mác. Công lao to lớn của Mác còn thể hiện ở
một loạt phát hiện khác nhau như phân tích tích lũy tư bản, sự bần cùng hóa
giai cấp vô sản, nguyên nhân nạn thất nghiệp…Mác, Ăngghen đã dự đoán về
những nội dung của xã hội tương lai. Lý luận kinh tế Mácxít đã vạch ra mâu
thuẫn cơ bản của xác hội tư bản, vạch ra quy luật vận động tất yếu của lịch sử.
C. Sự bổ sung và phát triển của V.I.Lênin
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đây là thời kỳ diễn ra cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 - Phát minh ra năng lượng điện. Cơ khí hóa
chuyển thành điện khí hóa làm thay đổi cơ cấu kinh tế của chủ nghĩa tư bản:
công nghiệp nặng chiếm vị trí hàng đầu, đẩy mạnh quá trình tập trung sản xuất,
cạnh tranh mạnh mẽ, khủng hoảng kinh tế… Từ đó xuất hiện các công ty, các
xí nghiệp khổng lồ, xuất hiện các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa đế quốc làm xuất hiện chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918) để phân chia lại thị trường thế giới giữa các cường
quốc đế quốc. Sau năm 1895 Ph. Ăngghen mất, Quốc tế cộng sản II đi vào con
đường phản bội chủ nghĩa Mác, xuất hiện yêu cầu cần phải bảo vệ chủ nghĩa
Mác.
Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917 là giai đoạn
V.I.Lênin tiếp tục phát triển các lý luận về chủ nghĩa tư bản của C.Mác và

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 19


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Ph.Ăngghen, ông đi vào nghiên cứu giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản - chủ
nghĩa đế quốc. V.I.Lênin đã trình bày được bản chất kinh tế - chính trị của chủ
nghĩa đế quốc, đồng thời vạch ra được xu hướng vận động của chủ nghĩa đế
quốc.
Giai đoạn sau cách mạng Tháng Mười năm 1917 đến năm 1924 là giai
đoạn V.I.Lênin tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa đế quốc và
đồng thời ông đi vào nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ.
Những lý luận cơ bản của V.Lênin
 Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội: trên cơ sở lý luận tái sản xuất tư
bản xã hội của C.Mác, V.I.Lênin đã bổ sung thêm một số điểm cho sát
với hiện thực của xã hội tư bản trong giai đoạn phát triển mới của nó.
Ông chia khu vực I - khu vực sản xuất tư liệu sản xuất thành hai khu vực
nhỏ: Khu vực sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất và
khu vực sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng; đồng thời
ông cho cấu tạo hữu cơ c/v thay đổi, qua thực tiễn 4 năm, ông đã rút ra
quy luật ưu tiên phát triển tư liệu sản xuất (thực chất là phát triển công
nghiệp nặng). Do đó quy luật này chỉ phát huy tác dụng trong điều kiện
nền đại công nghiệp cơ khí.
 Lý luận về chủ nghĩa đế quốc: chủ nghĩa đế quốc không phải là một
chính sách, mà là một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, là
kết quả của quá trình vận động phát triển dưới sự tác động của các quy
luật kinh tế nội tại của nó, đặc biệt là quy luật cạnh tranh tự do đưa tới
tập trung sản xuất. Tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nhất
định thì dẫn tới độc quyền. Chủ nghĩa đế quốc có 5 đặc điểm kinh tế nổi
bật: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền; Tư bản tài chính và
đầu sỏ tài chính; Xuất khẩu tư bản; Các tổ chức độc quyền phân chia thị
trường thế giới; Các nước đế quốc phân chia lãnh thổ thế giới.V.I.Lênin
cũng vạch rõ tính quy luật của việc chuyển chủ nghĩa tư bản độc quyền
thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước (chủ nghĩa tư bản độc quyền

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 20


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

nhà nước là sự dung hợp, lệ thuộc của nhà nước vào các tổ chức độc
quyền và nhà nước trở thành tư bản khổng lồ tham gia vào quá trình bóc
lột công nhân).Chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước vẫn
nằm trong khuôn khổ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ là sự
thay đổi về hình thức của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin đã rút ra quy luật
phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản. Do đó, Cách mạng vô sản có
thể nổ ra ở một số nước, thậm chí ở một nước kinh tế kém phát triển.
 Lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội: dựa trên những tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen và chủ nghĩa xã hội, sau Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917, V.I.Lênin đã vận dụng vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Nga thông qua hai mô hình:mô hình chính sách cộng sản thời chiến và
mô hình chính sách kinh tế mới – NEP. Là sự đổi mới của V.I.Lênin cả
về phương diện lý luận cả về chỉ đạo thực tiễn về xây dựng mô hình chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.
Như vậy, V.I.Lênin là người bổ sung, phát triển học thuyết kinh tế của
C.Mác và Ph. Ăngghen, hình thành nên học thuyết kinh tế Mác - Lênin.
1.2.6. Học thuyết kinh tế Tân cổ điển

1.2.6.1. Hoàn cảnh ra đời

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, những khó khăn về kinh tế và những
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản tăng lên gay gắt (khủng hoảng kinh tế
chu kì bắt đầu từ 1825) nhiều hiện tượng kinh tế và mâu thuẫn kinh tế mới xuất
hiện đòi hỏi phải có sự phân tích kinh tế mới .
Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của xã hội
loài người vì thế nó trở thành đối tượng phê phán mạnh mẽ của các nhà kinh tế
học tư sản. Kinh tế tư sản cổ điển tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ chủ nghĩa tư
bản và khắc phục những khó khăn về kinh tế, đòi hỏi phải có hình thức mới
thay thế. Do đó, học thuyết kinh tế Tân cổ điển ra đời.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 21


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

1.2.6.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế Tân cổ điển

Trường phái cổ điển mới ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp
của nhà nước vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị trường sẽ tự điều tiết nền kinh tế
thăng bằng cung cầu và có hiệu quả.
Các đặc điểm cơ bản của trường phái cổ điển mới là: dựa vào tâm lí chủ
quan để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế, đối tượng nghiên cứu là
các đơn vị kinh tế riêng biệt, chuyển sự nghiên cứu kinh tế sang lĩnh vực lưu
thông, trao đổi và nhu cầu, tích cực áp dụng toán học vào phân tích kinh tế,
tách kinh tế khỏi chính trị xã hội.
1.2.6.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

A. Thuyết “Ích lợi giới hạn” của trường phái thành Viên (Áo)
Được phát triển từ tư tưởng của nhà kinh tế học người Đức Herman
Gossen (1810-1858) ông đã đưa ra định luật nhu cầu và tư tưởng về ích lợi giới
hạn. Từ đó các nhà kinh tế của trường phái thành Viên (Áo) đã phát triển thành
lí thuyết kinh tế “ích lợi giới hạn”.
Nội dung cơ bản của lý thuyết này là: đưa ra khái niệm “sản phẩm kinh
tế” thay cho phạm trù “hàng hóa”. Để được coi là sản phẩm kinh tế sản phẩm
phải có đủ 4 tính chất, đó là: có khả năng thỏa mãn nhu cầu hiện tại của con
người; công dụng của nó con người phải biết rõ; phải ở trong tình trạng có khả
năng sử dụng được và số lượng của nó có giới hạn. Sản phẩm kinh tế có hai
đặc tính “Ích lợi giới hạn” và “Giá trị giới hạn”, đây chính là cơ sở xây dựng lí
thuyết “ích lợi giới hạn và giá trị”. Ích lợi giới hạn là ích lợi của vật phẩm cuối
cùng đưa ra thỏa mãn nhu cầu, ích lợi đó là nhỏ nhất, nó quyết định ích lợi của
tất cả các vật phẩm khác. Số lượng sản phẩm kinh tế càng ít thì “ích lợi giới
hạn” càng lớn. Sản phẩm kinh tế tăng thì tổng ích lợi tăng còn “ích lợi giới
hạn” giảm, có thể dẫn tới 0.
B. Lý thuyết giá trị (giá trị giới hạn):
Lý thuyết giá trị - ích lợi (giá trị - chủ quan) phủ nhận lý thuyết giá trị -
lao động của kinh tế tư sản cổ điển cổ điển và lý luận giá trị của Mác. Theo đó

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 22


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

“ích lợi giới hạn” quyết định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là “giá trị giới
hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác. Muốn có nhiều giá trị
phải tạo ra sự khan hiếm.
C. Lý thuyết “Năng suất giới hạn”
Căn cứ vào lý thuyết của D.Ricarrdo về “Năng suất bất tương xứng”,
theo đó khi tăng thêm một nhân tố sản xuất nào đó (lao động, đất đai, tư bản)
mà các nhân tố khác không đổi thì sẽ giảm năng suất của nhân tố tăng thêm .
Phối hợp với lý thuyết “ích lợi giới hạn”, Clark đã nghiên cứu về quy luật năng
suất lao động. Theo ông ích lợi của lao động thể hiện ở năng suất lao động.
Song năng suất lao động của các yếu tố là giảm sút (bất tương xứng), do vậy
đơn vị yếu tố sản xuất được sử dụng sau cùng là đơn vị yếu tố sản xuất giới hạn
- sản phẩm của nó là sản phẩm giới hạn, năng suất của nó là năng suất giới hạn,
nó quyết định năng suất của tất cả các đơn vị yếu tố sản xuất khác.
Lý thuyết phân phối của Clark: dựa vào lý thuyết năng suất giới hạn, sử
dụng lý thuyết năng lực chịu trách nhiệm của các yếu tố sản xuất, theo đó thì
thu nhập là năng lực chịu trách nhiệm của các yếu tố sản xuất Clark đã đưa ra
lý thuyết về tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô .Theo ông, phân phối là bình
đẳng, không còn bóc lột nữa .
D. Lý thuyết kinh tế của Trường phái Thành Lausene (Thuỵ Sĩ)
Đại diện là Walras với lý thuyết nổi bật “cân bằng tổng quát” phản ánh
sự phát triển tư tưởng “bàn tay vô hình” – tư tưởng tự do kinh tế của A.Smith.
Nội dung chủ yếu của học thuyết này là cơ cấu nền kinh tế thị trường
gồm có 3 loại thị trường: thị trường sản phẩm, thị trường tư bản và thị trường
lao động. Ba thị trường này độc lập với nhau, nhưng nhờ hoạt động của doanh
nhân nên có quan hệ với nhau. Khi giá cả tư bản và lao động ổn định dẫn đến
giá hàng hóa ổn định (tiền công, lãi suất, giá hàng tiêu dùng đều ổn định), ba
thị trường đều đạt được trạng thái cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng
tổng quát. Điều này được thực hiện thông qua dao động tự phát của cung cầu
và giá cả trên thị trường trong điều kiện tự do cạnh tranh. Điều kiện để có cân

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 23


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

bằng tổng quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản xuất thêm và
chi phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa giá hàng hóa và chi phí sản xuất)
Tóm lại: Những nhà kinh tế thuộc trường phái cổ điển muốn tin tưởng
vào sức mạnh của nền kinh tế thị trường và sự hoạt động của các quy luật kinh
tế.Theo họ, sự điều tiết của “bàn tay vô hình” sẽ đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất phát triển bình thường .
E. Lý thuyết kinh tế của trường phái Cambridge (Anh)
Đại diện là ông Marshall với lý thuyết nổi tiếng “cung cầu và giá cả”.
Giá cả là hình thức của quan hệ về lượng mà trong đó hàng hóa và tiền tệ được
trao đổi với nhau. Giá cả được hình thành trên thị trường do kết quả sự va chạm
giá cả giữa người mua và người bán. Trong điều kiện tự do cạnh tranh, giá cả
người mua giảm cùng với mức tăng số lượng hàng hóa cung ứng trên thị
trường. Kết quả của sự va chạm cung - cầu hình thành nên giá cả cân bằng hay
còn gọi là giá cả thị trường. Và ông đã thành công khi đưa ra khái niệm “Độ co
giãn của cầu” để chỉ sự phụ thuộc của cầu vào mức giá cả, ông đặt kí hiệu K
gọi làhệ số co giãn của cầu.Việc xác định K giúp các xí nghiệp độc quyền đưa
ra chính sách giá cả có lợi cho mình, có thể bán số lượng sản phẩm ít hơn mà
giá cả cao hơn.
1.2.6.4. Đánh giá chung

Các nhà kinh tế trường phái cổ điển mới đã đạt được một số thành tựu.
Họ đã vận dụng thành công vào hoạt động thực tiễn những phân tích về kinh tế
thị trường hiện đại cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Sự nghiên cứu sâu hơn các
quan hệ sản xuất trao đổi đã góp phần vào sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản,
đưa ra những biện pháp điều chỉnh chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản và tác
động đến việc xây dựng các chính sách kinh tế của các nước tư bản trong thời
kỳ này, là cơ sở của kinh tế học vĩ mô hiện đại
Với ý định cách tân, bổ khuyết cho các tư tưởng kinh tế tư sản cổ điển
song còn nhiều hạn chế và nhiều lý luận không vượt qua được kinh tế tư sản cổ
điển, có thể kể đến như họ đã mưu toan bác bỏ học thuyết kinh tế Mác về giá
trị, giá trị thặng dư, tư bản và các kết luận của Mác về mâu thuẫn tư sản và

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 24


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

công nhân, về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản để xây dựng học thuyết trên cơ
sở chủ nghĩa duy tâm chủ quan, không tính đến vai trò quyết định của nền sản
xuất và của các điều kiện lịch sử xã hội. Từ đó đi đến khẳng định các phạm trù
kinh tế trong chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn. Ngoài ra, họ còn mưu toan
biến kinh tế chính trị thành môn khoa học kinh tế thuần túy, gạt bỏ mối quan hệ
kinh tế và chính trị, coi những hoạt động kinh tế là những hoạt động tách rời
khỏi một chế độ chính trị và che giấu những lợi ích kinh tế khác nhau đằng sau
những hoạt động kinh tế.
1.2.7. Học thuyết kinh tế của trường phái Keynes

1.2.7.1. Hoàn cảnh ra đời

Học thuyết của Keynes xuất hiện từ những năm 30 và thống trị đến
những năm 70 của thế kỉ XX. Lúc này, ở các nước phương Tây đang rơi vào
khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thường xuyên, nghiêm trọng, điển hình là
cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đã chứng tỏ các lý thuyết ủng hộ tự do
kinh doanh (tự điều tiết, “bàn tay vô hình”, lý thuyết “cân bằng tổng quát”) của
trường phái cổ điển và cổ điển mới không còn sức thuyết phục, không đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. Chủ nghĩa tư bản phát triển với lực lượng
sản xuất phát triển cao đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế đã làm
phát sinh nhu cầu về một lý thuyết kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình
hình mới bảo vệ, duy trì và phát triển chủ nghĩa tư bản. Và học thuyết của
Keynes đã thể hiện được những mong đợi đó.
1.2.7.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của trường phái Keynes

Học thuyết Keynes bác bỏ cách lí giải cổ điển về sự tự điều chỉnh của
nền kinh tế, không đồng ý về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của
thị trường.Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế. Ông cho rằng, khủng hoảng
kinh tế, thất nghiệp tràn lan là do chính sách kinh tế lỗi thời, bảo thủ, thiếu sự
can thiệp của Nhà nước chứ không phải do nội sinh của chủ nghĩa tư bản.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 25


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Keynes là biểu hiện của lợi ích và là công trình sư của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước.
Ông đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô, tức là phân tích kinh tế
xuất phát từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng
của chúng nhằm tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng
lượng. Theo Keynes việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu
nhập đòi hỏi khuyến khích tăng đầu tư và giảm tiết kiệm, có như vậy mới giải
quyết được khủng hoảng và thất nghiệp. Về cơ bản trong phương pháp Keynes
vẫn dựa vào tâm lý chủ quan, nhưng khác với các nhà cổ điển và tân cổ điển
dựa vào tâm lý cá biệt là chính thì Keynes lại dựa vào tâm lý xã hội, tâm lý
chung, tâm lý của số đông. Ông đánh giá cao vai trò của tiêu dùng, trao đổi, coi
tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết.
Theo ông, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và trì trệ
trong nền kinh tế là do cầu tiêu dùng giảm do đó cầu có hiệu quả giảm. Do đó,
cần nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu hiệu quả. Nói tóm lại, lý thuyết của
Keynes được gọi là lý thuyết trọng cầu và là phương pháp có tính chất siêu
hình, coi lý thuyết của mình đúng cho mọi chế độ xã hội.
1.2.7.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

Theo Keynes, việc làm không chỉ xác định tình hình thị trường lao
động, sự vận động của thất nghiệp mà còn bao gồm cả tình trạng sản xuất, khối
lượng sản phẩm, quy mô thu nhập. Việc làm cụ thể hóa tình trạng nền kinh tế,
cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế.
A. Khái quát lý thuyết việc làm
Việc làm tăng thì thu nhập thực tế tăng, do đó tiêu dùng tăng nhưng tốc
độ tăng tiêu dùng chậm vì khuynh hướng tiết kiệm một phần thu nhập tăng
thêm. Do đó cầu giảm tương đối so với sản xuất, cản trở việc mở rộng đầu tư
của nhà tư bản. Nhà kinh doanh sẽ thua lỗ nếu sử dụng toàn bộ lao động tăng
thêm để thỏa mãn số cầu tiêu dùng tăng. Để khắc phục điều đó cần phải có một
khối lượng đầu tư nhằm kích thích quần chúng tiêu dùng phần tiết kiệm của họ.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 26


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Việc mở rộng đầu tư của các nhà tư bản còn phụ thuộc vào “hiệu quả giới hạn
của tư bản” và lãi suất.
B. Lý thuyết về sự điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước phải duy trì cầu đầu tư để kích thích cả đầu tư Nhà nước và tư
nhân bằng các chương trình đầu tư lớn. Sử dụng hệ thống tài chính, tín dụng
và lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế thông qua hai
hướng, đó là một mặt củng cố lòng tin và sự lạc quan của doanh nhân, mặt
khác nhằm bảo đảm bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Ông khuyến khích
thực hiện “lạm phát kiểm soát” để tăng giá cả hàng hóa, tăng mức lưu thông
tiền tệ qua đó giảm lãi suất cho vay; in tiền giấy trợ cấp thâm hụt ngân sách
Nhà nước và sử dụng công cụ thuế điều tiết kinh tế. Ông khuyến khích mọi
hình thức đầu tư thậm chí kể cả đầu tư cho chiến tranh,khuyến khích tiêu dùng
của mọi loại người,đặc biệt là khuyến khích tiêu dùng xa hoa của các tầng lớp
giàu có.
Học thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi trong thời gian dài ở các
nước tư bản và có những biến thể khác nhau, là cơ sở cho chính sách kinh tế
của nhiều nước tư bản.
C. Trường phái Keynes mới
Trường phái này được xây dựng trên cơ sở học thuyết Keynes, có ba
trào lưu, thứ nhất là những người Keynes phái hữu ủng hộ độc quyền, chạy đua
vũ trang, quân sự hóa nền kinh tế; thứ hai là những người Keynes tự do ủng hộ
độc quyền nhưng chống chạy đua vũ trang; và cuối cùng là những người
Keynes mới phái tả ủng hộ lợi ích của tư bản nhỏ và vừa, chống lại độc quyền.
Trường phái này tác động đến chính sách của nhiều nước tư bản, phát triển
rộng rãi ở nhiều nước, sắc thái khác nhau, đáng chú ý là ở Mỹ và Pháp.
Những người Keynes mới ở Mỹ đã coi học thuyết của Keynes như là
liều thuốc hiệu nghiệm và có bổ sung tăng. Đưa ra các giải pháp: tăng thu ngân
sách, tăng thuế trong thời kì hưng thịnh, tăng nợ Nhà nước, coi thu chi ngân
sách là “công cụ ổn định bên trong” của nền kinh tế, coi chi phí chiến tranh là
phương tiện tốt nhất để ổn định thị trường, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 27


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Những người Keynes mới ở Pháp lại có hai trào lưu, đó là một số muốn
áp dụng nguyên vẹn học thuyết Keynes, một số khác phê phán Keynes trong
việc sử dụng lãi suất để điều tiết kinh tế và đề nghị thay bằng công cụ kế hoạch
hóa. Họ phân biệt “Kế hoạch hóa mệnh lệnh” với “Kế hoạch hóa hướng dẫn”
và nước Pháp dùng Kế hoạch hóa hướng dẫn.
D. Trường phái sau Keynes
Đặc điểm cơ bản của trường phái sau Keynes là coi quan điểm kinh tế
của Keynes là nguồn gốc, nhưng phê phán Keynes chính thống đã bỏ qua nhân
tố tiền tệ, trừu tượng hóa vấn đề “Năng suất giới hạn”, ngoài ra họ còn phê
phán lí thuyết giá trị của Mác. Họ dựa vào lí thuyết giá trị của D.Ricardo,
phương pháp phân tích của Mác áp dụng các quan điểm hệ thống kinh tế - xã
hội vào nghiên cứu kinh tế.
1.2.7.4. Những thành tựu và hạn chế

A. Thành tựu
Học thuyết kinh tế của Keynes đã có tác dụng tích cực nhất định đối với
sự phát triển kinh tế trong các nước tư bản. Góp phần thúc đẩy kinh tế của các
nước tư bản phát triển, hạn chế được khủng hoảng và thất nghiệp, nhất là trong
những năm 50 – 60 của thế kỷ XX, tốc độ phát triển kinh tế của nhiều nước rất
cao, tạo nên những thần kì: Nhật, Tây Đức, Pháp, Thụy Sĩ. Vì vậy học thuyết
này giữ vị trí thống trị trong hệ thống tư tưởng kinh tế tư sản trong một thời
gian dài. Các khái niệm được sử dụng trong phân tích kinh tế vĩ mô ngày nay.
Học thuyết này là cơ sở chủ đạo của các chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước tư
bản phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thậm chí CHLB Đức dựa vào
học thuyết Keynes ban hành đạo luật có tên “Luật về ổn định hóa nền kinh tế”
(1968) tạo khung pháp lí cho chính phủ toàn quyền điều hành nền kinh tế nhằm
đạt 4 mục đích: tăng trưởng, thất nghiệp thấp, chống lạm phát và cân bằng
thanh toán.
Keynes được coi là nhà kinh tế cừ khôi, cứu tinh đối với chủ nghĩa tư
bản sau khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933. Dư luận rộng rãi đánh giá Keynes là
một trong ba nhà kinh tế lớn nhất (cạnh A.Smith và C.Mác). Tác phẩm “Lý

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 28


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” được so sánh với “Nguồn gốc của
cải của các dân tộc” (A.Smith) và “Tư bản” (C.Mác)
B. Hạn chế
Mặc dù vậy, học thuyết kinh tế trường phái Keynes còn nhiều hạn chế,
đó là mục đích chống khủng hoảng và thất nghiệp chưa làm được triệt để mà
chỉ có tác dụng tạm thời, biểu hiện thất nghiệp vẫn duy trì ở mức cao, khủng
hoảng không trầm trọng như trước nhưng vẫn xảy ra thường xuyên, thời gian
giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế ngắn hơn. Ý đồ dùng lãi suất để điều chỉnh
chu kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa không có hiệu quả. Chính sách lạm phát có
mức độ vô tình làm cho lạm phát càng trầm trọng, tác hại lớn hơn cái lợi nó
mang lại. Quá coi nhẹ cơ chế thị trường “dùng đại bác bắn vào cơ chế thị
trường” cùng với phương pháp luận thiếu khoa học xuất phát từ tâm lý con
người để giải thích nguyên nhân kinh tế đã khiến cho Chủ nghĩa tư bản và vào
cuộc khủng hoàng mới với đặc trưng là lạm phát.
1.2.8. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Tự do mới

1.2.8.1. Hoàn cảnh ra đời

Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa
lại lâm vào cuộc khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách
kinh tế của Nhà nước tư sản dựa trên học thuyết của trường phái Keynes. Xuất
hiện khuynh hướng phê phán học thuyết Keynes và do đó phục hồi tư tưởng tự
do kinh tế nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới. Học thuyết kinh tế
chủ nghĩa Tự do mới ra đời.
1.2.8.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Tự do mới

Đây là một trào lưu tư tưởng kinh tế tư sản. Chủ nghĩa tự do kinh tế gồm
các lý thuyết đề cao tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, coi nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa là hệ thống tự động do các quy luật kinh tế khách quan tự phát
điều tiết. Chủ nghĩa tự do mới dựa trên nền tảng lập trường tự do tư sản cổ điển
đồng thời lại muốn áp dụng và kết hợp quan điểm của trường phái Keynes,

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 29


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

trường phái trọng thương ở mức độ nhất định để hình thành hệ tư tưởng mới
điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Tư tưởng cơ bản của học thuyết kinh tế trường phái tự do mới là cơ chế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định, ủng hộ sự tự do
kinh doanh. Trong việc lí giải các hiện tượng và quá trình kinh tế trường phái
này nhấn mạnh yếu tố tâm lý cá nhân trong việc qui định sản xuất và tiêu dùng,
đồng thời sử dụng các công cụ toán học để chứng minh cho lý thuyết của mình.
Trường phái kinh tế của chủ nghĩa tự do mới phát triển rộng rãi ở các nước
tư bản với màu sắc khác nhau, tên gọi khác nhau. Ví dụ: chủ nghĩa cá nhân mới
(Anh), chủ nghĩa bảo thủ mới (Mỹ), nền kinh tế thị trường xã hội (Đức),
1.2.8.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

A. Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở CHLB Đức


Nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do
cá nhân, năng lực hoạt động kinh tế với công bằng xã hội. Đây là nền kinh tế
thị trường kích thích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân và lợi ích toàn xã hội, đồng
thời phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường, chống lạm phát, giảm
thất nghiệp, quan tâm thực hiện công bằng xã hội. Các quyết định kinh tế và
chính trị của nhà nước được hoạch định trên cơ sở chú ý đến những nhu cầu và
nguyện vọng cá nhân. Mô hình này theo đuổi các mục tiêu: bảo đảm và nâng
cao tự do về vật chất cho mọi công dân bằng cách bảo đảm cơ hội kinh doanh
cá thể bằng một hệ thống an toàn xã hội, thực hiện công bằng xã hội theo nghĩa
là công bằng trong khởi nghiệp và phân phối, bảo đảm ổn định bên trong của
xã hộikhắc phục khủng hoảng kinh tế, mất cân đối.
Tư tưởng trung tâm của mô hình là tự do thị trường, tự do kinh doanh,
không có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính độc lập kinh tế và chịu trách nhiệm của chủ
doanh nghiệp, thừa nhận vai trò nhất định của Nhà nước .
Thành tựu kinh tế xã hội: đưa nước Đức từ một nước thua trận trong
chiến tranh thế giới thứ hai trở thành một cường quốc kinh tế, thực hiện được
hai mục tiêu: tự do cá nhân và đoàn kết xã hội, kết hợp được khả năng công

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 30


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

nghiệp lớn mạnh dựa trên công nghệ hiện đại với sự phát triển thương mại thế
giới mở rộng.
B. Các lý thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Tự do mới ở Mỹ
 Thuyết trọng tiền (Đại diện Miltol Friedman)
Thứ nhất, cho rằng mức cung tiền tệ là nhân tố quyết định đến việc tăng
sản lượng quốc gia và do đó ảnh hưởng đến việc làm, giá cả. Về bản chất: nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa là tương đối ổn định, cơ chế thị trường tự nó sẽ đảm
bảo cân bằng cung cầu và không nhất thiết phải trải qua các chu kì kinh doanh.
Suy thoái và lạm phát cao là do nhà nước cung quá ít hoặc quá nhiều tiền cho
nền kinh tế. Biến động trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến biến động trong thu
nhập, trong hoạt động sản xuất kinh doanh và giá cả cùng với những biến động
trong cơ cấu kinh tế và cạnh tranh, dẫn tới chu kì kinh doanh. Có thể tác động
vào chu kì kinh tế tư bản chủ nghĩa bằng việc chủ động điều tiết mức cung tiền
tệ. Việc điều tiết này do Nhà nước thực hiện thông qua ngân hàng trung ương.
Hiệu quả phụ thuộc vào trình độ và năng lực của Nhà nước.
Thứ hai, giá cả phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên có
thể thông qua chính sách tiền tệ để ổn định giá cả, chống lạm phát. Chủ trương
ưu tiên chống lạm phát hơn là chống thất nghiệp. Tư tưởng điều tiết tiền tệ là:
chủ động điều tiết mức cung tiền tệ trong từng thời kì phát triển, trong thời kì
khủng hoảng kinh tế nên tăng khối lượng tiền tệ, trong thời kì ổn định nên giảm
mức cung tiền tệ.
Thứ ba, ủng hộ và bảo vệ quan điểm tự do kinh doanh, ủng hộ chế độ tư
hữu, bảo vệ quyền tự do hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không nên can
thiệp nhiều vào kinh tế (chỉ giới hạn ở điều chỉnh mức cung tiền tệ, điều tiết
lưu thông tiền tệ để ngăn chặn lạm phát).
Lý thuyết trọng tiền có ảnh hưởng sâu sắc trong nhiều nước tư bản phát
triển, đặc biệt là Anh và Mỹ (Reagan và Thatcher) nhưng chỉ đạt hiệu quả kinh
tế nhất thời, sau đó lại đưa đến những hậu quả mới.
 Lý thuyết trọng cung
Lý thuyết này xuất hiện ở Mỹ vào năm 1980, biểu hiện rõ sự đối lập với
những tư tưởng trọng cầu của Keynes với đại diện là Marshall và Arthur Laffer.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 31


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Lý thuyết trọng cung đề cao vai trò chủ động trong sản xuất của giới chủ, đề
cao cơ chế tự điều tiết của thị trường tự do. Theo lý thuyết này, chỉ có khu vực
kinh doanh tự do của tư nhân mới có khả năng đạt được sự phát triển kinh tế ổn
định, xem cạnh tranh là yếu tố cần thiết. Dù Chính phủ có tự đặt nhiệm vụ gì
thì cũng không thể can thiệp vào kinh tế. Sự kích thích tư nhân sản xuất chỉ bắt
đầu từ sản xuất và do thị trường tác động điều tiết. Sự ép buộc quá mức từ phía
nhà nước có thể gây ra phản ứng tiêu cực làm thui chột năng lực và tính năng
động của khu vực tư nhân.
Tiết kiệm là yêu cầu của mọi nền kinh tế. Muốn phát triển kinh tế không
phải ở chỗ kích thích cầu mà phải tăng năng suất lao động bằng con dường kích
thích lao động, đầu tư và tiết kiệm. Không có tiết kiệm sẽ không có bất kì sự
tăng trưởng nào. Sự tác động vào tổng cung sẽ tạo ra những thế năng cho
những mục tiêu ổn định dài hạn và việc hoạch định chính sách của Nhà nước
chỉ mang lại hiệu quả cao khi nhằm vào các mục tiêu ổn định dài hạn. Cần
giảm thuế sẽ tăng được tiết kiệm và đầu tư, kích thích sản xuất kinh doanh và
cải tiến kĩ thuật, từ đó tăng sản phẩm và lợi nhuận, do đó không giảm thu ngân
sách mà làm cho tăng. Công cụ chủ yếu để phân tích kinh tế là lí thuyết đường
cong Laffer thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập và mức thuế. Tóm lại, cần có
chính sách thuế hợp lí, mức thuế phù hợp.
Lý thuyết trọng cung có ảnh hưởng đến chính sách kinh tế của chính
quyền Reagan. Năm 1981, Reagan đã đề nghị giảm 25% thuế thu nhập nhưng
thâm hụt ngân sách ngày càng lớn khiến người ta nghi ngờ
1.2.8.4. Những thành tựu và hạn chế

A. Thành tựu
Các lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới đều nhận thấy những hạn
chế của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh (nhất là lạm phát, thất nghiệp, bất
công xã hội, khủng hoảng kinh tế chu kỳ,), đều đưa ra những cách giải quyết
khác nhau về nguyên nhân và đưa ra những giải pháp khắc phục. Đã quan tâm
đến tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích cạnh tranh
đồng thời quan tâm đến những vấn đề xã hội. Có sự đánh giá tầm quan trọng và

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 32


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

hiệu quả can thiệp của Nhà nước vào kinh tế ở mức độ khác nhau, đã đưa ra
một số giải pháp, chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
B. Hạn chế
 Giải thích hiện tượng, nguyên nhân khủng hoảng kinh tế mang tính chất
chủ quan, phiến diện dựa vào yếu tố tâm lí xã hội, tâm lí tiêu dùng mà
không thấy được tính tổng thể, mối liên hệ biện chứng giữa các hiện
tượng và quá trình kinh tế.
 Chưa vạch rõ nguyên nhân, bản chất của các hiện tượng kinh tế như thất
nghiệp, lạm phát, bất công, do đó đưa ra liều thuốc chữa chạy mang tính
hiệu quả nhất thời và phiến diện.
Tóm lại, vẫn không giải quyết được triệt để mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản không chữa được tận gốc rễ căn bệnh của chủ nghĩa tư bản.
1.2.9. Học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại

1.2.9.1. Hoàn cảnh ra đời

Các lí thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới đều tập trung đề cao
vai trò của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh. Trường phái Keynes và Keynes
mới lại đề cao vai trò điều tiết vĩ mô kinh tế của Nhà nước và phê phán những
khuyết tật của thị trường. Thực tế, nền kinh tế sẽ phát triển không hiệu quả nếu
như đề cao quá đáng vai trò của thị trường hoặc vai trò nhà nước. Sự phê phán
các trường phái dẫn đến sự xích lại gần nhau giữa hai chiều hướng. Từ đó hình
thành “Trường phái chính hiện đại”.
Mầm mống về nền kinh tế hỗn hợp có từ những năm cuối thế kỷ thứ
XIX, sau chiến tranh thế giới thứ hai nó được nhà kinh tế học Mỹ tên là Hassen
nghiên cứu và tư tưởng này tiếp tục được phát triển mạnh mẽ từ những năm 70
của thế kỷ XX. Đại biểu nổi bật của trường phái này là P.A.Samuelson (Mỹ)
với tác phẩm “Kinh tế học” được dịch ra tiếng Việt năm 1989 là cơ sở cho
nhiều giáo trình kinh tế vi mô và vĩ mô.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 33


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

1.2.9.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại

Vận dụng một cách tổng hợp các lí thuyết và phương pháp của các
trường phái kinh tế trong lịch sử nhằm đưa ra lí thuyết làm cơ sở cho các hoạt
động của doanh nghiệp và chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản.
Sử dụng cả phương pháp phân tích vi mô và phân tích vĩ mô để trình
bày các vấn đề kinh tế. Sử dụng nhiều công thức toán học, đồ thị để lí giải các
hiện tượng và quá trình kinh tế. Theo đó, nền kinh tế thị trường cần có sự điều
tiết của Nhà nước.
1.2.9.3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu

A. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp (là tư tưởng trung tâm của kinh tế học
trường phái chính hiện đại)
“Nền kinh tế hỗn hợp” là nền kinh tế kết hợp trong đó kinh tế tư nhân và
kinh tế Nhà nước, nó được điều hành bởi cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước. Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế,
trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua
thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế.
Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà nước cũng có những hạn
chế như có nhiều vấn đề Nhà nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính
phủ có lúc kém hiệu quả (do chương trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh
hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi phối bởi thiểu số người, hoặc bởi những
người bất tài, tham nhũng,) dẫn đến việc đưa ra những quyết định sai lầm,
không phù hợp với quy luật khách quan, không phản ánh đúng sự vận động của
thị trường. Vì vậy theo Samuelson sự can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn
“trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh”. Tóm lại, phát triển kinh tế có
hiệu quả là phải dựa vào cả “hai bàn tay”: Cơ chế thị trường(bàn tay vô hình):
xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực và Sự điều tiết của Chính phủ
(bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ.
B. Lý thuyết giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 34


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Theo Samuelson: do tính chất hạn chế của toàn bộ tài nguyên có thể sản
xuất ra hàng hóa buộc xã hội chỉ được lựa chọn trong số hàng hóa tương đối
khan hiếm để sản xuất.
Thực chất lý thuyết “sự lựa chọn” nhằm đưa ra được mô hình số lượng
cho người tiêu dùng trong điều kiện kinh tế thị trường và trên cơ sở đó dự đoán
được sự thay đổi của nhu cầu xã hội.
C. Lý thuyết thất nghiệp lạm phát tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng
khoán
Theo các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại thì thất nghiệp là
vấn đề trung tâm của các xã hội hiện đại. Trong nền kinh tế hiện đại hạn chế
lạm phát là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô.
Một số lý thuyết tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển:
thuyết “Các vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ bên ngoài” của Samuelson. Theo
ông, để tăng trưởng kinh tế cần có bốn nhân tố là: Nhân lực lao động, tài
nguyên, cấu thành tư bản và kỹ thuật công nghệ. Ở các nước kém phát triển thì
bốn yếu tố trên và việc kết hợp chúng đang gặp nhiều trở ngại lớn. Khó khăn
càng tăng thêm trong “một vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ. Để phá vỡ cần
có “cú huých từ bên ngoài” về vốn, công nghệ, chuyên gia vì thế phải có đầu tư
nước ngoài, phải tạo điều kiện thuận lợi để kích thích đầu tư nước ngoài.
D. Thuyết “Cất cánh” của Rostow (Mỹ)
Theo lý thuyết này thì quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước trải qua
năm giai đoạn:
 Xã hội truyền thống cũ: sản xuất nông nghiệp thống thị, năng suất lao
động thấp, đời sống vật chất và tinh thần thiếu thốn, xã hội kém linh
hoạt
 Chuẩn bị cất cánh: Đã xuất hiện các chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới
kinh tế, kết cấu hạ tầng được quan tâm, đặc biệt là giao thông. Xuất hiện
nhiều trung tâm kinh tế làm chỗ dựa cho sự tăng trưởng.
 Giai đoạn cất cánh: Đã hội tụ đủ các điều kiện như đầu tư tăng 5 – 10%
trong GNP, công nghiệp phát triển, xuất hiện một số ngành mũi nhọn đạt
hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng kinh tế, lợi nhuận tăng, tư bản, năng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 35


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

suất lao động bình quân tăng vọt, kinh tế phát triển, quan hệ kinh tế đối
ngoại phát mở rộng. Đây là giai đoạn quyết định nhất
 Giai đoạn chín muồi: đầu tư đạt 10 – 20% GNP, xuất hiện nhiều ngành
công nghiệp mới và hiện đại. Cơ cấu xã hội biến đổi, đời sống dân cư
được cải thiện rõ nét.
 Kỷ nguyên tiêu dùng cao: sản xuất đạt trình độ xã hội hóa cao, quốc gia
thịnh vượng, nhưng cũng có hiện tượng giảm sút sự tăng trưởng kinh tế.
Điều kiện để cất cánh là (3 điều kiện): tỷ lệ đầu tư tăng từ 5 – 10%; xây
dựng được những lĩnh vực đầu tàu (thị trường xuất nhập khẩu phát triển nhanh
hoặc công nghiệp có khả năng phát triển mạnh, hiệu quả theo quy mô lớn), khi
các lĩnh vực đầu tàu tăng nhanh thì quá trình tăng trưởng tự duy trì xuất hiện và
phải có bộ máy quản lý năng động và phải biết sử dụng kỹ thuật và tăng cường
quan hệ kinh tế đối ngoại.
E. Lý thuyết phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hóa (CNH)
Theo đó, có hai phương pháp thực hiện CNH:
 CNH thay thế nhập khẩu: phát triển sản xuất trong nước để thay thế các
sản phẩm nhập khẩu. Đối với những mặt hàng cần thiết vẫn nhập khẩu,
mối giao lưu kinh tế giữa các nước vẫn phát triển. Ưu điểm là tận dụng
nguồn lực trong nước, mở rộng thị trường nội địa, tạo nhiều việc làm,
tăng thu nhập, kích thích lòng tự tôn dân tộc thành động lực phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, do chính sách bảo hộ có thể gây sự ỷ lại của các nhà
sản xuất trong nước, sản xuất không được đổi mới, quy mô thị trường
nhỏ bé hạn chế phát triển sản xuất nhưng không đồng nghĩa với “đóng
cửa” nền kinh tế.
 CNH theo hướng xuất khẩu: bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX. Nội
dung cơ bản: tập trung phát triển sản xuất các sản phẩm để xuất khẩu,
lấy thị trường nước ngoài làm trọng tâm, phụ thuộc vai trò Chính phủ để
phối hợp hài hòa thị trường trong nước và quốc tế. (Dựa vào lí thuyết
“Lợi thế so sánh” của D.Ricardo). Các nhóm ngành sản xuất chủ yếu
của mô hình này: phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, khai thác

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 36


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

và sản xuất sản phẩm thô, ngành chế biến và lắp ráp thu hút nhiều lao
động sống, chế biến nông sản và một số ngành kĩ thuật cao: chế tạo máy,
điện tử.
Trong thực tế: Cả hai loại đều có ưu và nhược điểm. Vì thế trong thực tế
cần kết hợp hài hòa hai chiến lược “thay thế nhập khẩu” và “hướng về xuất
khẩu”, vừa thỏa mãn nhu cầu trong nước vừa phát huy lợi thế so sánh trên thế
giới.
F. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở châu Á gió mùa
Do nhà kinh tế Hario Toshima (Nhật) đưa ra cho các nước có nền nông
nghiệp lúa nước, trong đỉnh cao thời vụ vẫn thiếu lao động. Nội dung chủ yếu
của lý thuyết này là:
 Giữ nguyên lao động nông nghiệp, song phải tạo nhiều việc là trong
những tháng nhàn rỗi như tăng vụ, đa dạng hóa vật nuôi cây trồng, mở
mang nhiều ngành nghề mới để tạo việc làm tăng thu nhập.
 Thực hiện CNH nông nghiệp: xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất (điện,
nước, giao thông, thông tin liên lạc), phát triển công nghiệp chế biến và
cơ sở hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa) cho nông thôn. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thay thế lao động thủ công bằng
lao động máy móc năng suất lao động cao Từ đó sẽ cải thiện đời sống
nông dân, văn minh hóa nông thôn và kinh tế sẽ tăng trưởng, lại tránh
được sức ép về nhiều mặt đối với đô thị.
1.2.9.4. Đánh giá chung

Học thuyết đã chú ý phân tích, đánh giá đặc điểm, điều kiện và các
nguồn lực để phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển để đưa ra lời khuyên
và những giải pháp cho các nước hay mỗi nhóm nước. Đã có nước khai thác
vận dụng thành công (NICs) nhưng là số ít. Thực chất đều nhằm phục vụ lợi
ích các nước tư bản trong điều kiện mới (thống trị, bóc lột, nô dịch các nước
kém phát triển).
Đòi hỏi sự thận trọng, sáng suốt của Chính phủ các nước kém phát triển
để đạt tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và độc lập tự chủ.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 37


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG 2- SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CÁC HỌC THUYẾT




2.1. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM

2.1.1. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn
chủ nghĩa tư bản

Abraham Lincoln, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ, đã từng nói: “Một
chính phủ của dân, do dân và vì dân sẽ không bao giờ biến mất khỏi trái đất”.
Vậy ta nên hiểu câu nói này của ông như thế nào cho phù hợp với quá trình
phát triển qua các giai đoạn lịch sử của loài người, liệu có một chính phủ nào
đã thực hiện được điều này hay chưa. Câu trả lời là đã từng có những hình thức
chính phủ có tính chất “của dân, do dân và vì dân” như Công xã Paris vào năm
1871. Dù chỉ tồn tại vẻn vẹn có 72 ngày, nhưng những chính sách của Công xã
Pa-ri về xây dựng nhà nước kiểu mới, về phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá
giáo giục, chính sách đối với người lao động, v.v.. là tiền đề quan trọng cho
việc xây dựng các nền chuyên chính vô sản sau này. Bởi lẽ ngay sau khi ra đời,
Công xã Paris đã đề ra nhiều chính sách nhằm xây dựng một nhà nước kiểu
mới trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, giáo dục, xã hội. Tất cả để đưa
đến một chính phủ vì dân nhân, chứ không phải vì tầng lớp tư sản thống trị như
trước kia. Và tất nhiên đó là một hình mẫu đầu tiên của xã hội, xã hội chủ
nghĩa.
Tại sao Việt Nam không qua con đường trực tiếp là Chủ nghĩa Tư bản
rồi tiến đến Chủ nghĩa Xã hội, mà lại chấp nhận con đường gián tiếp là bỏ qua
giai đoạn Chủ nghĩa Tư bản? Bản chất của các Tư bản Chủ nghĩa là bóc lột, áp

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 38


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

bức giai cấp thông qua sự chê đậy giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất ra
giá trị mới. Qua đó, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn khi mà tầng lớp
giàu (tầng lớp thống trị, giai cấp tư sản) ngày càng giàu, tầng lớp công nhân, tri
thức ngày một khó khăn hơn do sự mất giá của sức lao động, đồng tiền bị sói
mòn, môi trường sống ngày càng đắt đỏ. Chủ nghĩa Tư bản hiện đại đã có
những sự điều chỉnh để người lao động có cảm giác rằng họ đang “làm chủ”
các công ty thông qua việc mua bán cổ phiếu, rằng quyền lợi của họ giờ đây là
quyền lợi của công ty và sự thịnh vượng của công ty là do họ quyết định. Điều
này không sai, tuy nhiên cổ phần của người lao động chiếm một phần không
đáng kể so với cổ phần mà các ông chủ công ty đang nắm giữ. Các thị trường
chứng khoán thành lập để thanh khoản hóa và là môi trường để cho việc mua
bán các cổ phiếu trên – là một “canh bạc” lớn cho những người muốn, đã nắm
giữ cổ phiếu của một công ty nhất định hoặc đơn thuần chỉ muốn kiếm tiền qua
sự chênh lệch giá giữa lúc mua và bán. Theo một ước tính của đại học
California, Hoa Kỳ, vào năm 2010 khoảng 1% những người giàu nhất ở quốc
gia này chiếm khoảng 35% lượng của cải của nước Mỹ, mà trong đó hầu hết là
các nhà tư bản tài chính và tư bản vũ khí. Một khi khoảng cách giàu nghèo
trong một nước ngày càng tăng thì xã hội sẽ phát triển một cách không đồng
đều. Kết quả nhãn tiền là sẽ xuất hiện hai giai cấp giàu, nghèo và từ đó mâu
thuẫn giai cấp hiện hữu ngày càng rõ rệt; triệu chứng là có các cuộc biểu tình,
bạo động. Từ đó, tình hình chính trị của nước đó ngày một bất ổn định mà đỉnh
điểm là cách mạng lật đổ chính quyền. Tất nhiên quá trình này hiện nay ở một
số nước tư bản diễn tiến rất chậm rãi bởi chính những nước tư bản hiện tại đã
có những điều chỉnh để phù hợp hơn với thời đại. Tuy nhiên cho dù được bao
bọc như thế nào nhưng thực sự bản chất vẫn không thể nào che đậy được, tính
mâu thuẫn giai cấp vẫn hàm chứa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Rồi một lúc
nào đó, chủ nghĩa tư bản cũng sẽ được thay thế bằng một hình thái mới hơn,
tiến bộ hơn, ổn định hơn mà nó được gọi là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
sẽ giải quyết được mâu thuẫn quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản đó là giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 39


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

quan hệ mà không có sự áp bức giữa người và người, không có sự tư hữu về


các tư liệu sản xuất quan trọng, có sự phân phối hợp lý giá trị thặng dư.
Ở nước ta, quá trình quá độ lên xã hội xã hội chủ nghĩa được lịch sử chia
thành hai giai đoạn. Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai miền: Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân; miền Bắc vừa bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
vừa làm hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam. Đặc điểm lớn nhất của
miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Những
thành tựu của miền Bắc trong những năm chống Mỹ, cứu nước đã thực sự xứng
đáng là hậu phương lớn của miền Nam và có vai trò quyết định nhất đến toàn
bộ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước: Giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Vận dụng những
quan điểm cơ bản mà V.I.Lênin đã nêu ra về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở “những nước tiểu nông”, nhân dân ta đã có những thành quả
bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.
Nhưng khoảng thời gian 1975-1985, chúng ta đã phạm một số sai lầm, trong đó
có biểu hiện chủ quan, nóng vội, giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: Đó là quá
chú trọng hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể một cách hình thức,
thực hiện quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, hành chính bao cấp của Nhà nước;
nhận thức chưa đúng quan điểm của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế đan xen nhau,...trong thời kỳ quá
độ, do đó đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình
thức bề ngoài, nhiều tư liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất đai trở nên
không có chủ cụ thể...Đó là một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các
động lực, các tiềm năng của toàn dân ta, của đất nước ta và không phát huy hết
nội lực, không tranh thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy, kinh tế - xã hội đã
lâm vào trì trệ, khủng hoảng.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự mở đầu chính
thức công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 40


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

xác định đúng đắn, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế.
Đổi mới toàn diện nhưng có trọng điểm đúng: Trên cơ sở ổn định, phát triển
kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới
hệ thống chính trị để phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã có nhận thức ngày càng rõ hơn về “thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá về phát triển “bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa”. Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng định đó là
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đến Đại hội IX, Đảng ta nhận thức rõ hơn
nữa: “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
2.1.2. Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN chứ không
phải nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

2.1.2.1. Một số khái niệm

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán
tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Kinh tế kế hoạch (còn được gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc
nền kinh tế chỉ huy) là một nền kinh tế trong đó Nhà nước kiểm soát toàn bộ
các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu tố sản xuất
cũng như phân phối về thu nhập.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng. Đối với nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế còn kém phát triển thì không còn
con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Những định hướng này nhằm thực hiện các mục tiêu: Thứ nhất, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thứ hai, phát triển nền kinh tế
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 41


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực
hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Thứ
tư, phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thứ năm,
xây dựng một nền kinh tế thị trường hòa nhập vào nền kinh tế thị trường khu
vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú đa phương,
đa dạng.
Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN được xác định là tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của
nền kinh tế; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các
nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích lũy và đầu tư hiện
đại hóa, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,... để đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển.
2.1.2.2. Đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta

Một là, kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền
kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm nhanh
chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế gồm
nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải trở thành
nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều
vận động theo định hướng chung và theo khung khổ pháp luật của nhà nước
XHCN.
Ba là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 42


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Bốn là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế
“mở” cả với bên trong và với bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế -
xã hội, hoạt động của cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy
luật kinh tế thị trường nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh
tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo.
Nền kinh tế thị trường khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc,
đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho
người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng
năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa
phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của
mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử
dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm,... Vì vậy, phát triển kinh tế thị
trường được coi là chiếc “đòn xeo” để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương
tiện khách quan để xã hội hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) nền sản xuất. Không
thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao của kinh tế thị trường ở
nước khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền
kinh tế thị trường khác, phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi
phối sự vận động phát triển của nền kinh tế.
2.1.2.3. Sự khác nhau về mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong nền kinh tế định hướng
XHCN

Mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế
TBCN và trong nền kinh tế định hướng XHCN có những đặc điểm khác nhau
cơ bản:
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu,

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 43


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi
phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều
tiết, hướng dẫn sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước
phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh
vực an ninh - quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các
thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không
sinh lời hoặc ít lãi.
Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà
nước. Trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của nhà nước luôn mang
tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo
đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản,
cho sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể
nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó bảo đảm tính hướng dẫn,
điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương
châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó
thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, Nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trò
“nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường là
nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và
doanh nghiệp.
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công
bằng xã hội. Trong sự phát triển của kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công
bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt
các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 44


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

nghĩa tư bản. Song, vấn đề đó không bao giờ và không thể nào giải quyết được
triệt để trong chế độ TBCN. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội của các
chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, chỉ được
xem là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không
chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của
chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống
thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát
triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn
hóa dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà
còn không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội
và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đặc trưng xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN thể hiện: Một là, xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần
đạt được, như tốc độ tăng GDP/người; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế,
việc làm; về xóa đói, giảm nghèo; về văn hóa - xã hội; bảo vệ môi trường sinh
thái,... Hai là, nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN trong chế độ
bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách
bảo đảm xã hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có công với cách
mạng, thương binh, người tàn tật,...).
Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài
hoà 3 vấn đề sau đây: (1) Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích
của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể của kinh tế thị trường có
được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho
sự phát triển kinh tế. (2) Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của
CNXH và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như phân phối theo lao động, theo
vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội,... Trong đó, nguyên tắc

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 45


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

phân phối theo lao động là chính. (3) Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt,
đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch
giàu và nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập
chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
2.1.2.4. Nền kinh tế tập trung ở nước ta giai đoạn trước đổi mới năm 1986
và sự cần thiết phải chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
ở nước ta

Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta là cơ chế kế hoạch
hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu là:
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất,
nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương
đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp
phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà
nước. Hoạt động sản xuất bị lỗ sẽ được nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
Cơ quan hành chính can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý
đối với cácquyết định của mình. Những thiệt hại về vật chất do các quyết định
không đúng gây ra thì ngânsách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp
không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật
là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp".
Vì vậy, nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng, không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: bao cấp
qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của
ngân sách,nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các
đơn vị được cấp vốn.Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 46


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

rộng thìcơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đã nguồn
lực kinh tế vào các mụctiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể,
đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công
nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích
tínhnăng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế
thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng
các thành tựu của cuộc cách mạngkhoa học - công nghệ hiện đại, cơ chế quản
lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làmcho nền kinh tế các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã
hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạchchủ yếu; coi thị trường chỉ
là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, không thừa nhận trên thực tế sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quáđộ, lấy kinh tế quốc
doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế
cáthể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt
nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của Đảng đã
chủ chương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế
hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hội VII Đảng ta xác định rõ việc đổi
mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang
diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là
một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như
trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên
hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui
luật kinh tế và xu thế của thời đại.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 47


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

2.1.2.5. Một số hạn chế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

Thứ nhất,nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế quá
độ. Tính quá độ thể hiện ở chỗ trong nền kinh tế bao gồm nhiều loại hình sản
xuất hàng hóa đan xen nhau: sản xuất hàng hóa XHCN, sản xuất hàng hóa
TBCN và sản xuất hàng hóa nhỏ... (nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình
thức sở hữu khác nhau tham gia sản xuất hàng hóa). Mỗi kiểu sản xuất hàng
hóa có những nét đặc thù về bản chất kinh tế - xã hội và trình độ phát triển,
nhưng nó đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành
và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất với các quan hệ cung -
cầu, giá cả chung, một đồng tiền chung... Bởi vậy, các loại hình sản xuất này
vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp
luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nhưng các kiểu sản
xuất hàng hóa này không còn giữ nguyên bản chất, vì nó mang tính chất quá
độ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong sản xuất hàng hóa của mỗi thành
phần kinh tế đều đã xuất hiện những cái mới. Ví dụ, trong sản xuất hàng hóa
TBCN đã có những nhân tố kinh tế của kinh tế nhà nước, như điện, nước, kết
cấu hạ tầng, thông tin liên lạc,... và đã có những quan hệ kinh tế với các thành
phần kinh tế khác, chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN...Trong nền kinh tế thị
trường quá độ, sản xuất hàng hóa XHCN giữ vai trò chủ đạo, định hướng đối
với các kiểu sản xuất hàng hóa khác.
Thứ hai, kinh tế thị trường còn ở trình độ chưa phát triển. Biểu hiện ở số
lượng mặt hàng và chủng loại hàng hóa nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu
thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và
giá cả hàng hóa cao, chất lượng hàng hóa thấp, quy mô và dung lượng thị
trường hạn hẹp; sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa trên thị
trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn yếu; đội ngũ các nhà
quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp, do đó
sức mua còn hạn chế; nhiều loại thị trường còn ở trình độ thấp, như thị trường
vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động,... Trình độ phát triển thấp
của sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 48


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém
phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công
còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH...
Thứ ba, nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng hoà nhập vào thị
trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ càng phát triển càng làm cho
lực lượng sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hóa cao, dẫn đến quá trình khu
vực hóa, quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế
thị trường không chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước, mà còn phải tính đến
quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế. Nền kinh
tế thị trường của mỗi quốc gia muốn phát triển thuận lợi không thể không gắn
với thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho
số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng
cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, mà bất cứ một nước nào dù là nước
phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hóa. Vì vậy, mỗi
nước phải tùy theo lợi thế của mình, lựa chọn những mặt hàng sản xuất có hiệu
quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hóa ở nước ta
chỉ có thể phát triển mạnh mẽ nếu thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước
ngoài và áp dụng những tiến bộ công nghệ, kỹ thuật hiện đại của thế giới để
khai thác những tiềm năng còn rất lớn trong nền kinh tế. Muốn vậy, con đường
đúng đắn là phát triển nền kinh tế mới hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Thứ tư, phát triển kinh tế thị trường gắn với việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc. Phát triển kinh tế thị trường gắn với nền kinh tế mở là tất
yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới,
thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hóa xa lạ với truyền thống, đặc
điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hóa
Việt Nam phải thực hiện có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả
của đồng tiền, không chấp nhận việc thương mại hóa mọi hoạt động đời sống
xã hội, mà đề cao những chuẩn mực giá trị văn hóa và đạo đức, đồng thời đấu

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 49


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

tranh xóa bỏ những tập tục và lối sống cổ hủ, lạc hậu. Kết hợp sự chọn lọc tinh
hoa của văn minh nhân loại với việc giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hóa
dân tộc, xây dựng những nhân tố văn hóa XHCN.
Ở nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm bảo
đảm các yêu cầu sau: Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với những tiến bộ về
công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu “mọi lợi ích đều vì dân”, giải phóng con
người, con người phát triển toàn diện. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thành
phần kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế
quốc dân. Các thành phần kinh tế khác phát triển theo sự quản lý của Nhà
nước. Tính năng động của cơ chế thị trường phải gắn với sự quản lý của Nhà
nước. Đa dạng các hình thức phân phối, phân phối theo lao động ngày càng chi
phối. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia. Mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo nguyên tắc ngày càng tăng nhanh sức sống
nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh.
2.2. SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM

2.2.1. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế Mác xít

2.2.1.1. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế Mác xít trước thời kỳ
đổi mới

Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
chúng ta đã xác định “công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội" song nước ta vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận
thức về công nghiệp hoá. Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng
hoảng kinh tế xã hội với những khó khăn gay gắt, lạm phát:
Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu, lý luận về chủ nghĩa xã hội không
những không được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự phát triển của thực
tiễn, mà lại được giải thích một cách có máy móc, giáo điều và được áp dụng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 50


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

một cách dập khuôn. Hậu quả đó có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
chủ yếu là do chúng ta mắc phải những sai lầm chủ quan duy ý chí, không tôn
trọng các quy luật khách quan. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập
trung quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ
bao cấp dẫn đến tình trạng trì trệ trong công việc: ỷ lại, lười nhác, phụ thuộc
vào Nhà nước. Không năng động sáng tạo bằng công tác được giao, không cần
quan tâm đến kết quả đạt được. Thực tiễn của đời sống đó đòi hỏi chúng ta
phải nhận thức lại đời sống kinh tế xã hội , tiến hành đổi mới một cách toàn
diện, sâu sắc cả lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội.
Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng, lạm phát càng
tăng, kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước, đời sống xã hội thấp kém, nghèo
khó. Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát
triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy
luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật,
chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị
trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó
quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác, phải tạo ra yếu tố tích cực,
biến đổi các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối và ý thức có tính
vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt trội hơn so với sản lượng sản
xuất, vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước dựa trên cơ
sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước
kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp
với quy luật và cơ sở lý luận khoa học logic.
Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt
đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Lịch sử đã chứng minh không phải nước nào cũng phải tuần tự trải qua
các hình thái kinh tế xã hội đã có trong lịch sử . Việc bỏ qua một hình tái kinh
tế xã hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết định, song đồng thời còn tuỳ

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 51


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang tạo ra bước ngoặc phát triển của loài người , đánh dấu đỉnh cao
mới của sự phát triển trí tuệ , mở ra một nền văn minh mới tác động sâu sắc
cuộc sống của các dân tộc, tạo ra cho các nước chậm phát triển thời cơ mới
nhưng cũng có nhiều thách thức mới trên con đường lựa chọn con đường xã hội
chủ nghiã, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất nước ngày
càng phồn vinh. Điều cần thiết là có thể bỏ qua chế độ tư bản, qúa độ lên chủ
nghĩa xã hội nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiền đề cần thiết,
nhất là tiền đề về kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi
phạm tiến trình lịch sử - tự nhiện của sự phát triển. Do đó cần có sự phát triển
nhất định nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách
quan.
Đảng ta chỉ rõ: “ Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp
“ đặc điểm này, xét về tính chất và trình độ. Biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản:
một là, lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế – xã hội ta chưa
đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó, hai là tồn
đọng nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng tâm lý do chế độ thực dân,
phong kiến cũ để lại. Đó là những khó khăn trở ngại trong bước chuyển tiếp
lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại phù hợp với
những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân lọai và của tiến bộ xã hội.
Vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ cũng như những khó khăn trong bước
chuyển tiếp, kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn
kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên được. Nền kinh tế
tuy đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát
triển vì dựa vào bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát vay nợ nước ngoài. Con
người không được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì
trệ, làm tăng chi phí lớn của cải xã hội.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 52


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

2.2.1.2. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế Mác xít từ thời kỳ đổi
mới đến nay

Sự phát triển của các nước trên thế giới và sự nghiệp đổi mới ở nước ta
củng cố cho chúng ta những bài học lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - quan điểm cơ bản và
hàng đầu của triết học Mác xít - cũng như nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và
thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Mục tiêu mà Đại hội
Đảng lần VIII của Đảng đề ra chính là sự cụ thể hoà hợp thống nhất về hình
thức kinh tế - xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội chủ nghĩa. Ta phải luôn
nhận thức vận dụng đúng đắn sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ bản
chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng.
Sự đổi mới với tính chất mới mẻ khô khan và phức tạp của nó - đòi hỏi
phải có lí luận khoa học soi sáng. Song phải kết hợp hài hoà giữa lí luận và
thực tiễn. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã nhận định và đánh giá tình
hình một cách đúng đắn, điều này ở ĐH Đảng khoá VII đã nêu rõ ràng: trong
xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống khoa học - công nghệ trên thế giới
ngày một gia tăng thì công nghiệp hoá phải gắn liền với HĐH, nâng cao trình
độ công nghệ... "Tận dụng lợi thế của nước đi sau chúng ta tập trung trước hết
cho việc tiếp thu các thành tựu khoa học của thế giới, ứng dụng mở rộng và
làm chủ. Đồng thời phải biết dành nỗ lực nhất định cho những mũi nhọn phát
triển, tìm cách đi tắt, đón đầu tạo nên lợi thế cạnh tranh cả về phương diện kinh
tế và công nghiệp tạo nên sự phát triển nhanh và nắm vững của nền kinh tế".
A. Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới
Công nghiệp hoá hiện đại hoá ngày nay không thể hiểu như trước kia.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay không phải đơn thuần là sự phát triển
mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hiện đại hoá tất cả
các ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra được sự cân đối hài hoà giữa các
ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 53


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Điều đầu tiên cần phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu "công - nông
nghiệp và dịch vụ" phù hợp với xu hướng "mở" của nền kinh tế. Vấn đề này
được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lí
trong các ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lí với cơ cấu đầu tư.
B. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nước ta hiện nay là một Nhà nước so với 80% dân cư đang sinh sống
bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đại bộ phận người
nghèo. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn đã đang và sẽ
là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể tự mình
thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, không có khả năng tăng
trưởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân mà phải có tác
động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ... chỉ có như vậy sẽ xoá bỏ được trạng
thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ xoá đói giảm nghèo nâng
cao mức thu nhập bình quân.
Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến
lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp đến hàng mạnh ra xuất khẩu.
Nhiều người cho rằng đây là hướng sai lầm nhưng thực tế không phải vậy.
Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm của nó cần thiết cho
mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp sản phẩm
đủ trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ đương nhiên, bởi ta không thể nhập
lương thực mà lại không tự sản xuất được ra.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học -
công nghệ để đem lại chất lượng sản lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp
nhẹ cần được phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp, là công nghệ để sản xuất
thuốc trừ sâu phân bón vi sinh không gây độc hại. Cơ khí hoá là điều kiện đưa
kỹ thuật máy móc vào sản xuất nông nghiệp.
C. Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế:
Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
D. Phát triển kinh tế nhiều thành phần
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần
kinh tế. Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính sách của

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 54


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển không như
trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến tư nhân phát huy
hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trường, bổ sung cho nhau
cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển có hiệu quả, đẩy nước ta lên một nấc
thang cao hơn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây dựng đất nước.
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nước ta
khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật vận
động đó, muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta
đòi hỏi các nội dung của công nghiệp hoá cũng như phải thường xuyên thay đổi
và bổ sung.
Các nội dung trong công nghiệp hoá phải liên hệ chặt chẽ và bổ sung
cho nhau quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ sản
xuất để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng... Nước ta coi phát triển con người
là một mục tiêu đầu tiên, là động lực căn bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng
cao mặt bằng dân trí và đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển và xem đó là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Trong quá trình tiến hành cách mạng có những lúc thuận lợi, bên cạnh
đó có rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và phương
pháp khoa học sáng tạo, phải có quan điểm khách quan toàn diện phát triển đưa
chính sách cụ thể là thực tiễn. Luôn luôn đề cao vai trò thực tiễn nhiều không
coi nhẹ lí luận. Phải luôn xây dựng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
HCM làm nền tảng tư tưởng của Đảng làm kim chỉ nam cho công nghiệp ta,
cho cách mạng nước ta, cho dân tộc, phát triển đổi mới kinh tế tư duy ở nước
ta, đưa nước ta lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Sai lầm là ở lối suy nghĩ và hình thức giản đơn, nóng vội, chạy theo
nguyện vọng chủ quan thể hiện trong một số chủ trương và chính sách xã hội
với hiện thực khách quan. Để khắc bệnh này cần sử dụng đồng bộ nhiều biện
pháp. Trước hết là đổi mới tư duy, lý luận, nâng cao nhân lực trí tuệ trình độ lý
luận của Đảng. Trong hoạt động trực tiếp phải tôn trọng và hành động theo quy

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 55


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ quan liêu.
Cho đến nay, không phải mọi vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội hoá ở nước ta đều được hoàn toàn làm rõ, thậm chí nhiều vấn đề còn trở
nên phức tạp hơn so với sự trù liệu ban đầu. Chẳng hạn làm sao kết hợp kinh tế
thị trường với chủ nghĩa xã hội; quan hệ giữa chế độ kinh tế trong điều kiện
kinh tế nhiều thành phần với chế độ chính trị: làm sao cho kinh tế nhà nước
thực sự đóng vai trò chủ đạo; các chặng đường của thời kỳ quá độ các bước đi
của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với nông nghiệp nông thôn... Để làm
sáng tỏ những vấn đề chắc chắn phải vừa vận dụng sáng tạo và phát triển học
thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vừa đổi mới trong thực tiễn, tiến
hành tổng kết thực tiễn, khắc phục các khuynh hướng sai lầm như giáo điều,
xét lại, chủ quan duy ý chí...
Đó cũng tức là phải vận dụng sáng tạo quán triệt hơn nữa phép biện
chứng Mác xít trong quá trình đổi mới.
2.2.2. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế Tư sản cổ điển

Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN nhưng vẫn còn
nhiều yếu tố sơ khai. Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chuyển
sang nền kinh tế thị trường nên chúng ta không tránh khỏi bỡ ngỡ và nhiều sai
lầm. Chính vì vậy, chúng ta phải thừa nhận và vận dụng tốt các quy luật mang
tính khách quan vốn có của nền kinh tế hàng hóa đó là: quy luật cạnh tranh,
quy luật cung- cầu, quy luật giá trị,…Và để vận hành tốt, hiệu quả nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN trong điều kiện
ngày nay của chúng ta thì việc nghiên cứu các khái niệm, các phạm trù, các quy
luật, các lý luận về giá cả, giá trị, lợi nhuận, lợi tức, tiền công, tiền lương, ….và
xem xét các mối liên hệ giữa cung - cầu, lưu thông hàng hóa với lưu thông tiền
tệ hết sức cần thiết và quan trọng. Từ sự hiểu biết đúng đắn đó ta mới có thể
vận dụng một cách có hiệu quả nhất vào việc phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 56


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường giữ một vai trò vô cùng quan
trọng đó là điều tiết nền kinh tế. Từ đó, nó thúc đẩy tính năng động, sáng tạo
của các chủ thể kinh tế, khắc phục được tình trạng thụ động trong việc sản xuất
lẫn kinh doanh theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp – nơi mà ở đó người sản
xuất chỉ biết sản xuất chứ chưa biết quan tâm đến nhu cầu thị trường, của
người tiêu dùng. Từ sản xuất nhỏ đi lên kinh tế thị trường nên việc vận dụng
các tư tưởng kinh tế tiến bộ của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển có ý
nghĩa vô cùng tích cực, nó giúp cho việc sản xuất được thuận lợi và thỏa mãn
được nhu cầu của cả người sản xuất và người tiêu dùng.
Hơn nữa, tín hiệu thị trường còn là cơ sở để người sản xuất đầu tư vào
chỗ nào để thu lợi cao nhất, nhằm nâng cao năng lực và mở rộng sản xuất kinh
doanh, qua đó tạo lợi thế trong cạnh tranh. Thông qua cơ chế này, tín hiệu thị
trường đẩy mạnh việc sàng lọc yếu tố người và vật trong nền kinh tế.
Để phát triển kinh tế thị trường cả về chiều sâu và chiều rộng, phát triển đồng
đều giữa các vùng, các ngành, các lĩnh vực kinh tế thì chúng ta phải biết tận
dụng các nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực, và thực hiện phân công lao động
hiệu quả, hợp lý.
Vận dụng tư tưởng của A.Smith có một ý nghĩa quan trọng trong việc
cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Để có lợi thế cạnh tranh các chủ thể
phải luôn tự đổi mới công nghệ, trang thiết bị, cách thức quản lý,….qua đó
giảm được thời gian lao động cá biệt so với thời gian lao động xã hội cần thiết
nhằm thu được lợi nhuận cao nhất và mở rộng sản suất. Không những vậy, việc
phát triển kinh tế thị trường còn đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ của nền
kinh tế, đó là các thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ,
…..Để có một nền kinh tế thị trường phát triển ta phải nắm vững các quy luật
kinh tế khách quan và giải quyết tốt các vấn đề như: giá trị hàng hóa được sử
dụng, việc phân phối và trao đổi như thế nào, đồng thời cần đặc biệt chú
trọng tới mọi giai đoạn của sản xuất và tái sản xuất như tăng năng suất
lao động, phân phối sản phẩm, tổ chức lưu thông.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 57


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu
quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh
nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng
trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có
lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã
là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết
công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn.
Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ,
thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng
lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức
tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển
lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân
phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước
ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động;
liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng
quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi,
hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 58


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi
trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và
ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình
thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các
thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh
hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu
tư xã hội.
Để nền kinh tế thị trường ở nước ta đi đúng theo định hướng XHCN mà
chúng ta đề ra thì vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước là hết sức
quan trọng và cần thiết. Thông qua đó, chúng ta có thể khắc phục được các
khuyết tật và đồng thời phát huy được các ưu điểm của cơ chế thị trường. Trên
cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế khác quan, Nhà nước quản lý thông qua
việc quy hoạch, hệ thống luật pháp, các chính sách và công cụ, đòn bẩy kinh tế.
Đồng thời, Nhà nước quản lý vĩ mô với những nội dung sau:
 Tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự ổn định
về kinh tế-xã hội để các chủ thể, các doanh nghiệp yên tâm sản xuất
kinh doanh.
 Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
 Xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế…
2.2.3. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế của trường phái
Keynes

Từ nội dung học thuyết kinh tế của trường phái Keynes, ta suy ra được
một vài luận điểm nổi bật của trường phái này đó là:
Thứ nhất, học thuyết Keynes không ủng hộ quan điểm kinh tế tự cân
bằng theo sự tự điều tiết của thị trường mà không có sự can thiệp của nhà nước.
Ông cho rằng sự khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ngày càng trầm trọng không
phải là hiện tượng nội sinh của chủ nghĩa tư bản mà là do thiếu sự can thiệp của
nhà nước vào nền kinh tế. Theo ông vấn đề nan giải nhất của chủ nghĩa tư bản

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 59


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

không phải là lạm phát hay khủng hoảng mà là vấn đề thất nghiệp và việc làm.
Do đó, trong học thuyết của mình, Keynes đã tập trung giải quyết hai vấn đề
này dựa trên cơ sở có sự tác động và điều tiết của Nhà nước .
Thứ hai, nhằm tìm ra lối thoát cho quan điểm thứ nhất, Keynes đã chỉ ra
rằng điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết khủng hoảng và thất
nghiệp chính là đầu tư thêm trên số tiền tiết kiệm của dân chúng, nghĩa là ông
khuyến khích đầu tư và giảm tiết kiệm “đầu tư biên lớn hơn tiết kiệm biên”.
Thứ ba, lý thuyết của Keynes còn được gọi là lý thuyết trọng cầu. Ông
đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong nền kinh tế. Theo ông, khi công ăn việc
làm gia tăng thì thu nhập sẽ tăng do đó xét về mặt tương đối sẽ có sự tăng lên
của tiêu dùng. Tuy nhiên do khuynh hướng tiết kiệm, tâm lý ưa chuộng tiền
mặt nên mức tăng tiêu dùng luôn nhỏ hơn mức tăng thu nhập làm cho cầu có
hiệu quả bị giảm xuống. Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng và thất
nghiệp trong nền kinh tế. Do đó muốn đảm bảo phát triển sản xuất, tăng trưởng
kinh tế thì phải gia tăng tiêu dùng thông qua các biện pháp kích cầu có hiệu
quả.
Mặc dù, học thuyết Keynes chưa phải là học thuyết hoàn hảo cho mục
đích chống lại thất nghiệp và khủng hoảng tuy nhiên, xét về mặt ngắn hạn thì
học thuyết này phát huy tác dụng khả quan. Tại Việt Nam nói riêng và các quốc
gia trên thế giới nói chung, trong quá trình vận hành nền kinh tế sẽ có những
lúc vận dụng học thuyết Keynes cho việc ra quyết định của mình. Tháng
8/2007, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ xảy ra và nhanh chóng lan truyền theo
diện rộng trên khắp thế giới, một phản ứng dây chuyền gây hoang mang nền
kinh tế toàn cầu. Chỉ trong vòng 12 tháng của 2008, cuộc khủng hoảng đã làm
bốc hơi hơn 30 nghìn tỉ USD trong tổng số 62 nghìn tỉ vốn hóa toàn cầu. Sau
cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới bước vào một cuộc suy thoái kinh tế
nghiêm trọng nhất trong gần 100 năm qua. Chính phủ các nước nhanh tay vào
cuộc bằng hàng loạt các phương pháp giải cứu lên đến cả nghìn tỉ USD, trong
đó tiêu biểu nhất là các gói kích cầu, luận điểm giải quyết chống khủng hoảng
trong học thuyết của John Maynard Keynes .

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 60


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Điển hình là Trung Quốc, cuối năm 2008, Chính phủ nước này tung ra
một gói kích cầu trị giá 586 tỉ USD và đã đem lại hiệu quả tức thì. Gói kích cầu
bao gồm một chương trình tái thiết hệ thống cơ sở hạ tầng khổng lồ. Đó là các
dự án cơ sở hạ tầng nông thôn, giao thông như đường sắt, đường cao tốc và sân
bay. Xây dựng các mạng lưới điện, dự án bảo vệ môi trường và sinh thái cùng
dịch vụ y tế, giáo dục và văn hóa…Trung Quốc lựa chọn đầu tư vào cơ sở hạ
tầng làm nền tảng cho việc kích cầu vì nước này đã chọn cách dựa vào nguồn
cầu nội địa để vượt thoát suy thoái kinh tế. Gói kích cầu đã khuyến khích sản
xuất nội địa, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập của người dân. Kết quả
quý III/2009 GDP của nước này tăng trưởng lên 8,9% so với cùng kỳ năm
2008. Nhìn chung, người ta thấy các biện pháp để xử lý tình huống chặn đà suy
giảm tăng trưởng của chính phủ các nước này, về cơ bản, vẫn là chính sách tài
khóa và chính sách tín dụng theo các nguyên tắc của Keynes.
Cũng tương tự tại Việt Nam, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính thế
giới năm 2008, hòa chung hành động của các quốc gia như Mỹ, Anh, Nhật,
Trung Quốc,....nước ta cũng đã tung ra gói kích cầu 8 tỉ USD nhằm chống chọi
lại các tác động của suy thoái kinh tế. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đã gây
nên nhiều khó khăn cho nền kinh tế nước ta, thị trường chứng khoán chao đảo
và sụt giảm; các ngành sản xuất và dịch vụ đều rơi vào trạng thái đình đốn, khó
khăn, không đủ nguồn lực để tiếp tục hoạt động; các ngân hàng rơi vào thế bất
ổn, nợ xấu tăng cao, nhiều tham vọng ngành ngân hàng nước ta từ năm 2007 bỏ
ngõ, các chi nhánh đóng cửa vì chi phí nặng nề nhưng không thu được lợi
nhuận; thị trường bất động sản rơi không phanh, đóng băng hàng loạt…Tiếp
theo sự xung động đó là kéo theo biết bao các hệ lụy về công ăn việc làm, như
thất nghiệp gia tăng, sinh viên ra trường của ngành kinh tế trở nên quá tải so
với nhu cầu thị trường lúc đó; giá cả hàng hóa leo thang trong khi mức thu
nhập của người dân không đổi thậm chí có xu hướng giảm trong khi tình hình
lạm phát lại manh nha đe dọa. Trước tình hình đó, Chính phủ đã đưa ra gói kích
cầu thứ nhất trị giá gần 1 tỷ USD và gói kích cầu thứ hai trị giá 8 tỷ USD trong
thời gian rất gần nhau nhằm cứu trợ nền kinh tế đang thoi thóp, rơi vào trạng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 61


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thái khó khăn do khủng hoảng. Gói kích cầu chủ yếu tập trung vào việc gia
tăng cơ hội đầu tư cho các đối tượng trong nền kinh tế, hỗ trợ các yếu tố chi phí
đầu vào, từ đó nhằm củng cố lại tình trạng thất nghiệp, tạo công ăn việc làm
cho người lao động, gia tăng thu nhập và từ đó tạo nền tảng và tiền đề cho cầu
hiệu quả tăng trở lại và cố gắng đạt lại trạng thái cân bằng kinh tế.
Chính phủ nước ta đã vận dụng gói kích cầu vào các việc làm sau:
A. Hỗ trợ lãi suất những khoản vay ngắn hạn
Một trong những thành tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hỗ
trợ lãi suất 4% cho những khoản vay ngắn hạn. Tất cả các ngân hàng thương
mại và công ty tài chính đều có trách nghiệm cung cấp các khoản vay ngắn hạn
cho doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi và đương nhiên sẽ nhận được khoản bù lãi
suất từ Ngân hàng Nhà nước. Sau 4 tháng kể từ khi gói kích cầu được triển
khai, khoảng 220 nghìn tỉ đồng tức khoảng 12,4 tỉ đô la Mỹ tiền vay mới đã
được giải ngân theo chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất này. Mục tiêu của gói
kích thích là kiềm chế lạm phát, hỗ trợ các công ty duy trì khả năng sản xuất,
đầu tư và giữ công ăn việc làm. Tuy nhiên, quy mô của việc cho vay theo
chương trình này chưa thật sự hiệu quả, các doanh nghiệp thật sự cần vốn thì
khó có thể thậm chí không thể tiếp cận gói hỗ trợ này, trong khi các doanh
nghiệp chưa thật sự cần lại được quyền sử dụng. Do đó, không những không
kích thích sản xuất, đầu tư để làm đòn bẩy tăng cầu hiệu quả mà ngược lại làm
cho tình hình đảo nợ diễn ra nhanh chóng và công khai, các khoản nợ cũ lãi
suất cao đã được trả bằng chính gói hỗ trợ này thay vì dùng để đầu tư sản xuất,
điều này đi ngược với mục đích của chương trình hỗ trợ để tăng gia sản xuất,
kích thích cầu phát triển. Như vậy, lượng tiền mà chính phủ tung ra kích cầu
trong lĩnh vực này đã vấp phải hòn đá to. Mặc dù, gói giải cứu đã mang lại
thành tựu tương đối khích lệ trong phi vụ giải cứu nên kinh tế, nhưng nếu vận
dụng chặt chẽ hơn, cung cấp cho các đối tượng phù hợp hơn thì chắn chắn sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn nữa.
B. Thực hiện chương trình bảo lãnh tín dụng mới

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 62


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Một thành tố khác trong chương trình kích thích kinh tế của chính phủ là
chương trình bảo lãnh tín dụng mới để hỗ trợ ngân hàng thương mại cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay. Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) được uỷ quyền
là đơn vị cấp vốn duy nhất. Khác với thường lệ, VDB có thể đảm bảo 100%
khoản vay, cho cả khoản vay đôla Mỹ lẫn tiền đồng. Những doanh nghiệp đủ
tiêu chuẩn phải có ít hơn 500 nhân viên, vốn đăng ký ít hơn 20 tỉ đồng và đảm
bảo không có những khoản nợ ngân hàng hoặc nợ thuế quá hạn. Khác với
chương trình hỗ trợ lãi suất, VDB có quyền quyết định công ty nào sẽ nhận
được khoản đảm bảo. Với chương trình này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
có cơ hội vực dậy trong khủng hoảng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,
chính sách bảo lãnh cho DN vay vốn của NHTM do Ngân hàng Phát triển Việt
Nam thực hiện đã và đang xuất hiện một số vấn đề cần quan tâm.
 Về phía các DN: Do năng lực và trình độ quản trị kinh doanh còn hạn
chế, dẫn tới việc chưa xây dựng được kế hoạch, phương án đầu tư sản
xuất kinh doanh có hiệu quả; công tác hạch toán kế toán và lập báo cáo
tài chính theo quy định chưa đáp ứng đúng quy định, dẫn tới việc xúc
tiến thiết lập hồ sơ vay vốn còn nhiều lúng túng, bất cập; năng lực tài
chính không đáp ứng đủ điều kiện tham gia thực hiện phương án sản
xuất kinh doanh /dự án đầu tư theo quy định (nhất là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, hợp tác xã. Vẫn còn tình trạng doanh nghiệp nhận thức chưa
đầy đủ về chính sách bảo lãnh vay vốn của Nhà nước (cho rằng thời hạn
làm hồ sơ kéo dài, mất cơ hội sản xuất kinh doanh) nên không tiếp cận
đến loại hình này.
 Về phía các Ngân hàng Thương mại: Chưa có sự vận động tích cực để
đáp ứng nhu cầu về vốn vay của doanh nghiệp (do ảnh hưởng bởi phạm
vi, quy mô nguồn vốn cho vay, quy định về phân cấp thẩm quyền quyết
định mức vốn cho vay, thời hạn cho vay đối với dự án sản xuất kinh
doanh), thực trạng hiện nay số hồ sơ sau khi được Ngân hàng Phát triển
Việt Nam chấp thuận ra thông báo bảo lãnh nhưng không được Ngân
hàng Thương mại xem xét ký hợp đồng tín dụng hoặc được chấp thuận

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 63


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

cho vay với mức vốn không đáp ứng được nhu cầu của vốn thực hiện dự
án đầu tư.
C. Gói kích thích hướng tới khu vực nông nghiệp
Nông nghiệp là khu vực bị tổn thương nặng nề nhất bởi suy thoái toàn
cầu. Chính phủ đã thiết kế nhiều chính sách mới như các khoản vay phi lãi suất
để mua thiết bị nông nghiệp và vay hỗ trợ lãi suất cho phân bón và các đầu vào
cho nông nghiệp khác. Khu vực nông nghiệp của Việt Nam tạo công ăn việc
làm cho 2/3 dân số và góp phần khá lớn vào xuất khẩu. Chương trình kích cầu
nông thôn nhanh chóng được chính phủ thực hiện nhằm hỗ trợ nông nghiệp
thoát khỏi khủng hoảng.
Về thực chất, chúng ta đã chú trọng tạo cầu nội địa để bù đắp sự giảm
mạnh của thị trường xuất khẩu khi mà tình hình kinh tế các quốc gia khác cũng
rơi vào ảm đảm, cầu giảm sút. Thực hiện hỗ trợ lãi suất và giảm thuế để giải
phóng hàng tồn kho, kích thích đầu tư vào các khu vực còn nhiều dư địa cho
tăng trưởng như xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ sự phát triển của khu vực
nông nghiệp và nông thôn, hỗ trợ tiêu dùng cho các đối tượng thu nhập thấp ở
vùng sâu, vùng xa, thực hiện chính sách an sinh xã hội và bảo đảm các ổn định
cho sự phát triển.
Tác động tích cực của các gói kích cầu
Sau khi tung ra gói kích cầu giải cứu nền kinh tế, kinh tế Việt Nam trong
quý II/2009 đã tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2008, vượt mức tăng 3,1% của
quý I. Tăng trưởng kinh tế của sáu tháng đầu năm 2009 đạt 3,9% so với cùng
kỳ năm trước. Bên cạnh đó, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp cũng đi lên
liên tục trong các tháng quý II/2009 (tháng 4 là 5,4%, tháng 5 là 6,8%, tháng 6
là 8,2%) so với mức 0,4% của quý I. Lĩnh vực xây dựng bùng nổ trở lại, tăng
trưởng 6,9% trong quý I và có thể đạt mức tăng trưởng trên 10% cả năm, đóng
vai trò một trong những lĩnh vực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế do có sức lan tỏa
cao. Điểm sáng là khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng 5,5%. Đặc biệt, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2009 ước đạt 547,5 nghìn tỉ đồng, tăng 20% so

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 64


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

với cùng kỳ năm 2008, chứng tỏ chính sách kích cầu đã phát huy tác dụng tích
cực, đẩy sức cầu trong nước phục hồi mạnh.
Nhìn chung, Việt Nam là một trong những nước đã chặn được một phần
đà suy giảm, thuộc số ít các nền kinh tế trên thế giới đạt được tốc độ tăng
trưởng dương ngay trong bối cảnh nhiều nền kinh tế khác vẫn ngụp sâu trong
suy thoái. Sở dĩ chúng ta đạt được như vậy vì có 2 gói kích cầu kịp thời, bắt
đúng mạch, đúng đối tượng và có được sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của
chính phủ và áp dụng đúng phần tích cực của trường phái Keynes trong ngắn
hạn.
Tuy nhiên, ngoài những thành công đã đạt được từ gói kích cầu, chúng
ta cũng đã gặp và mắc phải một số tiêu cực. Những điểm trừ đó có thể đến từ
chính việc thi hành gói kích cầu chưa thật sự hiểu quả hoặc cũng có thể đến từ
chính nhược điểm của học thuyết trường phái Keynes
Tác động tiêu cực của các gói kích cầu
Thâm hụt ngân sách tăng mạnh. Do yêu cầu thực hiện các gói kích thích
tài khóa dẫn đến thâm hụt ngân sách. Chi phí vốn vay để tài trợ cho thâm hụt
này đang tăng lên do không đáp ứng được kỳ vọng lãi suất của thị trường ngày
một tăng trong các phiên phát hành trái phiếu.
Mất cân đối trên thị trường ngoại tệ. Do gói hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17
nghìn tỉ đồng (tương đương 1 tỉ USD) với tổng lượng tín dụng 430 nghìn tỉ
đồng của hệ thống ngân hàng trong năm 2009 sẽ tạo ra chênh lệch đáng kể về
lãi suất đối với tín dụng trên thị trường ngoại tệ, gây ách tắc tín dụng ngoại tệ:
thừa USD vay, nhưng thiếu USD bán.
Thị trường chứng khoán và bất động sản có biểu hiện tăng trưởng bong
bóng. Vì sau tác động của gói kích cầu, chỉ số VN-Index tăng tốc vượt các thị
trường chứng khoán trong khu vực. Thị trường bất động sản đô thị tăng trưởng
nóng tại một số ít phân khúc như đất nền, trong khi phân khúc căn hộ và văn
phòng cho thuê lại kém sôi động. Không loại trừ khả năng một phần vốn kích
cầu đổ sang đầu cơ ngắn hạn tại các thị trường chứng khoán và bất động sản,
mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông báo vẫn kiểm soát chặt chẽ các
dòng vốn này.
Đánh giá

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 65


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Ở các nước, điều kiện để nhận được vốn kích thích kinh tế rất chặt chẽ,
khắt khe và được công bố công khai. Vấn đề này ở Việt Nam tuy đã được
Chính phủ quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về hai mặt là tính
chặt chẽ, nghiêm khắc của các điều kiện và mức độ công khai về thông tin.
Điều này có thể khiến các giải pháp kích thích kinh tế bị chệch mục đích, bị
lạm dụng, lợi dụng.
Thứ nhất, như đã đề cập, liệu nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ có phải
chỉ tạo ra hoạt động đảo nợ và như vậy nguồn vốn không đi vào nền kinh tế mà
vẫn nằm lại tại các tổ chức tín dụng. Lý do đặt ra câu hỏi này là sự tăng trưởng
khá nhanh của các chỉ tiêu tiền tệ - tín dụng chỉ trong một thời gian ngắn như
vừa qua. Nhìn vào các chỉ tiêu tiền tệ - tín dụng trong thời gian qua, nghi ngờ
về hoạt động đảo nợ là có cơ sở. Bởi trong hoàn cảnh nền kinh tế đang gặp khó
khăn, hoạt động sản xuất kinh doanh chưa thực sự khởi sắc, các DN không có
nhiều cơ hội triển khai đầu tư dự án mới hay mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh thì nguồn vốn tín dụng tăng nhanh được đầu tư vào đâu.
Thứ hai là liệu nguồn vốn hỗ trợ lãi suất có chảy vào thị trường chứng
khoán (TTCK) và thị trường bất động sản (BĐS) hay không? Các chuyên gia lo
lắng bởi họ cho rằng hai thị trường này mang tính đầu cơ cao, nguồn vốn chảy
vào hai thị trường này không đúng mục tiêu của chính sách kích thích của
Chính phủ, đồng thời nguy cơ bong bóng chứng khoán và BĐS tăng lên, nguy
cơ tái diễn lạm phát cao gia tăng. Điều này hoàn toàn có lý nếu phần lớn nguồn
vốn từ gói kích thích kinh tế của Chính phủ cùng với vốn của các tổ chức tín
dụng chảy vào hai TTCK và BĐS. Trên thực tế, sau một thời gian triển khai gói
kích thích kinh tế thứ nhất, TTCK và thị trường BĐS đã ấm lên trong khoảng 3
tháng qua. Chỉ số giá chứng khoán trên sàn Hồ Chí Minh đã tăng mạnh, giá trị
giao dịch bình quân ngày của cả hai sàn chứng khoán đạt trung bình khoảng
5.000 tỷ đồng trong khoảng thời gian khá dài. Điều này chứng tỏ đã và đang có
thêm lượng tiền vốn mới đổ vào TTCK, song có phải từ nguồn kích cầu của
Chính phủ không thì không thể xác định một cách chính xác. Đối với sự ấm lên
của thị trường BĐS, chắc chắn có sự tham gia từ nguồn vốn của gói kích thích

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 66


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

kinh tế. Ngay bản thân các tổ chức tín dụng cũng đã khẳng định việc mở rộng
hoạt động cho vay để mua nhà và các dự án đầu tư xây dựng BĐS.
Thực tế cho thấy, nguy cơ lạm dụng và sử dụng vốn vay không hiê uê quả
hoă êc sai mục đích là một trong những hạn chế tiềm ẩn của gói kích cầu. Nhà
nước sẽ rất khó kiểm tra nếu có trường hợp NHTM và DN tạo những khoản
vay ảo với lãi suất hỗ trợ để trục lợi. NHTM sẽ khó đảm bảo DN dùng vốn vay
đúng mục đích bởi thiếu thông tin về DN và mối quan hê ê tín dụng phức tạp của
DN với các ngân hàng khác. Việc vay vốn kích cầu để đảo nợ tại các ngân
hàng, hay đầu tư cho những hoạt động khác không nhằm phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh chính của DN là có thể xảy ra và đã được nêu trên một số
phương tiện truyền thông đại chúng, hay đưa ra tại các hội nghị về kích cầu.
Việc thiếu vắng các cơ chế kiểm soát từ Nhà nước đối với các NHTM, đối với
các DN trong việc sử dụng vốn vay kích cầu là nguyên nhân gây ra những điều
nêu trên. Và nếu như vậy thì hiệu quả của gói kích cầu sẽ bị giảm đi, hoạt động
sản xuất sẽ không được vực dậy, nền kinh tế sẽ chậm phục hồi. Một nguy cơ
kèm theo là khả năng hoàn vốn lại cho Chính phủ của các DN là thấp. Giá trị
gói kích cầu sẽ bị giảm dần, thâm hụt NSNN sẽ tăng lên.
Tóm lại,với việc triển khai gói kích cầu, chúng ta lại thấy được sự linh
hoạt của Chính phủ khi chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ kiềm chế lạm phát sang
ưu tiên ngăn chă ên suy giảm kinh tế. Trong đó gói kích cầu ngày càng trở thành
giải pháp nổi bật và là gói giải pháp tài chính đang được bàn thảo nhiều nhất.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện đã và đang xuất hiện những tồn
tại và hạn chế cần quan tâm. Thực tế cho thấy, tính hai mặt của chính sách là
điều luôn luôn được đề cập. Vấn đề là làm sao trong thực thi chính sách phải
hạn chế được tính tiêu cực của nó. Câu chuyện kích cầu cũng tương tự như vậy.
Những nguy cơ luôn được đặt cạnh cơ hội. Chính vì thế, để kích cầu thực sự là
một cơ hội, thì đòi hỏi đồng vốn do người dân đóng góp phải được giám sát
chặt chẽ, sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, đúng đối tượng. Gần đây, chính
phủ đang đề xuất gói kích cầu lần hai kể từ năm 2009, tuy nhiên vẫn đang bị trì
hoãn là do các yếu tố kinh tế chưa thật sự phù hợp.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 67


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

2.2.4. Sự nhận thức và vận dụng học thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do
mới

Chủ nghĩa tự do mới là một trong những trào lưu tư tưởng kinh tế lớn
xuất hiện từ những năm 1930 và phát triển cho tới nay. Lý luận kinh tế của chủ
nghĩa tự do mới một mặt kế thừa quan điểm truyền thống của phái Cổ điển, đề
cao tư tưởng tự do kinh tế, nhấn mạnh bản năng tự điều tiết của các quan hệ thị
trường như một thuộc tính tự nhiên. Mặt khác, trường phái này lại muốn xây
dựng một hệ thống lý thuyết mới nhằm điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại
một cách có hiệu quả hơn trên cơ sở khai thác những luận điểm của các phái
phi cổ điển.
Theo Chủ nghĩa tự do mới, nền kinh tế thị trường hiện đại có khả năng
tự điều tiết cao, do vậy sự can thiệp của chính phủ vào tiến trình hoạt động của
thị trường là cần thiết nhưng cũng chỉ nên giới hạn theo phương châm “thị
trường nhiều hơn, nhà nước can thiệp ít hơn.” Trào lưu Tự do mới xuất hiện ở
nhiều nước tư bản với các tên gọi khác nhau, trong đó điển hình là các khuynh
hướng ở Mỹ và ở Đức.
Lý thuyết tự do kinh tế ở Mỹ biểu hiện thành nhiều trào lưu cụ thể với
những tên gọi khác nhau. Trong đó nổi bật là phái Trọng tiền, phái Trọng cung,
và phái Kinh tế vĩ mô mong đợi hợp lý. Phái Trọng tiền đã cổ vũ nhiệt tình cho
một nền kinh tế thị trường tự do không có sự can thiệp của chính phủ. Theo
phái Trọng tiền, sự can thiệp của nhà nước thường phá vỡ những cân bằng tự
nhiên của thị trường do vậy có hại cho nền kinh tế... Milton Friedman chủ
trương để cho nền kinh tế thị trường tự do điều tiết, nhà nước can thiệp chỉ làm
xấu thêm tình hình của thị trường, vì nếu thị trường có khuyết tật thì bản thân
nhà nước cũng có khuyết tật của nó. Một số đại biểu khác thì khẳng định trong
nền kinh tế thị trường hiện đại, không thể bác bỏ nhà nước, nhưng họ đòi hỏi
nhà nước phải điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế theo những qui tắc có tính chuẩn
mực đồng thời kiên quyết phản đối cách điều tiết theo kiểu tuỳ hứng của các
chủ thể quản lý. Họ cho rằng, đó là một khuynh hướng khó tránh khỏi, vì theo
kinh nghiệm, khi ban hành các quyết định quản lý, chính phủ thường thiên về

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 68


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

lợi ích của bản thân mình hơn là lợi ích của dân chúng. Chính vì vậy cần xác
lập một hệ thống nguyên tắc của chính sách và những nguyên tắc này phải
mang tính khách quan, độc lập với ý muốn chủ quan tuỳ tiện của chính phủ.
Trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách cơ bản và quan trọng nhất
chính là chính sách tiền tệ.
Phái Trọng cung thì cho rằng, nguyên nhân làm nền kinh tế Mỹ suy yếu
cả ở trong nước và cả trên thị trường quốc tế những năm 1970 nằm ngay trong
chính sách kinh tế của nhà nước Mỹ khẳng định “…việc nhà nước sử dụng sai
chính sách tiền tệ - tín dụng đã làm toàn bộ nền sản xuất bất ổn định và nạn lạm
phát phát triển nhanh chóng.” Các nhà Trọng cung phủ nhận tính hiệu quả của
chính sách tài khoá và hiệu lực khuyếch đại vào sản lượng của “lý thuyết số
nhân” của J.M. Keynes. Họ đề cao một chính sách kinh tế giảm bớt sự can
thiệp trực tiếp của nhà nước bằng cách kết hợp giữa giảm thuế và bãi bỏ các
qui định hạn chế gây cản trở cho sức cung. Hơn nữa, họ còn cho rằng nhà nước
cần phải từ bỏ chính sách phân phối lại, vì “nhà nước càng ra tay can thiệp để
chữa trị bệnh nghèo túng thì số người nghèo túng càng tăng lên.”. Phái Kinh tế
vĩ mô mong đợi hợp lý cũng cho rằng, đa số chính sách của nhà nước ít có tính
hiệu quả, hoặc chỉ đạt hiệu quả ở mức rất thấp. Xuất phát từ giả định trong nền
kinh tế thị trường hiện đại, ứng xử kinh tế của mọi người đều dựa trên những
dự liệu hợp lý, dân chúng có thể hiểu biết về tình trạng của nền kinh tế không
kém gì nhà nước và các nhà kinh tế học chuyên nghiệp. Cùng với kinh nghiệm
của mình, dân chúng có thể dự liệu một cách hợp lý những tình huống kinh tế
có thể xảy ra trong tương lai gần, và từ đó sẽ điều chỉnh hoạt động kinh tế. Vì
vậy, chính sách kinh tế của nhà nước chỉ có hiệu quả nhất định đối với mức sản
lượng và việc làm khi sự điều chỉnh này gây ra sự bất ngờ đối với dân chúng,
khiến cho dân chúng hiểu sai tình hình kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả của các
chính sách điều tiết của chính phủ cũng chỉ là nhất thời vì trong điều kiện thiết
chế tự do dân chủ được xác lập vững chắc, dân chúng hoàn toàn có thể chủ
động trong việc tự điều chỉnh cách ứng xử, và cách gây bất ngờ của chính phủ
ở những lần ra chính sách khác sẽ không có hiệu quả.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 69


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Tựu chung lại, các phái của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ về cơ bản đều
cho rằng, chính sách can thiệp kinh tế của nhà nước có hại nhiều hơn có lợi và
nên giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.Cũng là một khuynh
hướng của chủ nghĩa tự do mới, ở Đức, khuynh hướng này có tên là Chủ nghĩa
thị trường xã hội. Cách nhìn nhận của phái Kinh tế thị trường xã hội về vai trò
của nhà nước trong nền kinh tế có sự khác biệt so với các phái tự do mới của
Mỹ. Trong nền kinh tế thị trường xã hội, các quá trình kinh tế - xã hội vận hành
trên nguyên tắc cạnh tranh có hiệu quả và phát huy cao độ tính chủ động và
sáng kiến của các cá nhân, do đó chính phủ chỉ can thiệp vào nơi nào cạnh
tranh không có hiệu quả, ở nơi cần phải bảo vệ và thúc đẩy cạnh tranh có hiệu
quả. Nền kinh tế thị trường xã hội đòi hỏi nhà nước phải mạnh. Song chỉ can
thiệp với mức độ và tốc độ cần thiết và phải dựa trên hai nguyên tắc hỗ trợ và
tương hợp. Nếu nguyên tắc hỗ trợ liên quan tới câu hỏi liệu nhà nước có nên
can thiệp hay không, thì nguyên tắc tương hợp lại đề cập tới việc sự can thiệp
đó nên được thực hiện như thế nào. Nguyên tắc hỗ trợ xác định chức năng của
nhà nước phải khơi dậy và bảo vệ các nhân tố của thị trường, ổn định hệ thống
tài chính - tiền tệ, duy trì chế độ sở hữu tư nhân và giữ gìn trật tự an ninh và
công bằng xã hội. Nguyên tắc tương hợp làm cơ sở để nhà nước hoạch định các
chính sách kinh tế phù hợp với sự vận động của các qui luật trong nền kinh tế
thị trường đồng thời phải đảm bảo được các mục tiêu kinh tế - xã hội của mình,
trong đó bao gồm các chính sách: toàn dụng nhân lực, tăng trưởng, chống chu
kỳ, thương mại và chính sách đối với các ngành và các vùng lãnh thổ.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường xã hội, nhà nước phải đề ra những
chính sách kinh tế tích cực, tức là nhà nước phải là người bảo vệ sở hữu tư
nhân, phải có trách nhiệm không để cho các nguyên tắc cạnh tranh bị phá vỡ,
phải đưa ra những khuôn khổ và qui tắc, “luật chơi” trong cạnh tranh, đồng thời
với việc tạo lập những bộ máy kiểm soát thực hiện các luật chơi đó. Nhà nước
có thể can thiệp tự do - thông qua các chính sách tín dụng, tiền tệ, thuế... nhưng
không được can thiệp vào hoạt động kinh tế của bản thân các xí nghiệp, ngay
cả những xí nghiệp nằm trong các tập đoàn, các tổ chức có tính chất độc quyền.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 70


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Mặt khác, nhà nước phải làm cho nền kinh tế thị trường càng ngày càng
mang tính xã hội, làm dịu các mâu thuẫn xã hội thông qua phân phối lại thu
nhập quốc dân. Theo hướng đó, hệ thống thuế của nhà nước là vô cùng quan
trọng. Theo phái này, tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá chính sách cũng như vai
trò kinh tế của nhà nước và khu vực tư nhân trước sau vẫn là hiệu quả kinh tế.
Cho nên khả năng giải quyết các vấn đề xã hội của nhà nước về căn bản phụ
thuộc vào tính hiệu quả của nền kinh tế. Khu vực tư nhân là chỗ dựa để nhà
nước có thể thực hiện những chính sách phúc lợi xã hội, đặc biệt là đối với
những lĩnh vực quan trọng có liên quan tới chất lượng của nguồn nhân lực, hay
việc cung ứng những dịch vụ bảo hiểm, kể cả trách nhiệm của nhà nước trong
việc giải quyết những rủi ro kinh tế, rủi ro xã hội, trong đó có cả trợ cấp đối với
người thất nghiệp - theo hướng tăng tính xã hội của nền kinh tế.
Với các quan điểm nêu trên, những đại biểu của học thuyết nền kinh tế
thị trường xã hội ở Đức đã đưa nhà nước lên tầm cao hơn hẳn chủ nghĩa tự do
cũ. Trong mô hình nền kinh tế thị trường xã hội, về nguyên tắc, nguyên lý nhà
nước tối thiểu vẫn có giá trị với việc duy trì hiệu năng và tạo ra những cân bằng
xã hội bên ngoài nền kinh tế; trong nền kinh tế đó mọi hoạt động của nhà nước
phải chịu sự kiểm soát của các công cụ pháp lý, đồng thời nhà nước phải đưa ra
được các chính sách thống nhất, không đối đầu, không đi ngược lại thị trường
nhưng có trách nhiệm sửa chữa được các sai lệch thị trường và đảm bảo không
thay thế các sai lệch thị trường bằng các sai lệch của nhà nước.
Chủ nghĩa tự do mới có mặt tích cực đối với các nền kinh tế - xã hội. Nó
khiến các nước phải chăm lo tới tính minh bạch trong quan hệ giữa nhà nước
và khu vực tư nhân, chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism) sẽ bị tấn
công mạnh mẽ và đẩy lùi. Hiệu quả của sản xuất sẽ được nâng cao vượt bậc, do
cơ chế thị trường đảm bảo phân phối các nhân tố sản xuất một cách hợp lý
nhất.
Tuy nhiên, do nhấn mạnh mục tiêu phát triển kinh tế, chủ nghĩa tự do
mới chủ trương cắt giảm các chi phí cho dân sinh xã hội, coi các chi phí này là
gánh nặng kìm hãm khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế: có thể nói chủ

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 71


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

nghĩa tự do Mới mâu thuẫn với mục tiêu phát triển xã hội, văn hoá. chủ nghĩa
tự do Mới chủ trương bỏ hoàn toàn sự điều tiết của nhà nước, để mặc logic thị
trường quyết định vấn đề tổ chức của đời sống kinh tế, xã hội và cho rằng phát
triển kinh tế trong một xã hội sẽ khiến cho người giàu thêm giàu, song phúc lợi
cũng sẽ "nhỏ giọt" xuống cho những người nghèo.Thực tế đã cho thấy phát
triển không đồng nghĩa với việc xoá đói giảm nghèo trong từng xã hội. Với
việc của cải sẽ tập trung vào tay một thiểu số trong mỗi xã hội và trên toàn thế
giới, tình trạng nghèo khó sẽ gia tăng không chỉ trong thế giới đang phát triển
mà còn trong bản thân các nước phát triển, khiến khả năng tiêu thụ hàng hoá sẽ
không tương xứng với khả năng cung cấp hàng, cộng với khả năng lưu chuyển
cao không hạn chế của đầu tư (ngắn hạn) sẽ khiến độ rủi ro, bất ổn định của các
nền kinh tế tăng lên. John Mead cho rằng việc hiệu quả của sản xuất và thương
mại tăng cao, nhưng của cải lại bị tập trung hoá cao độ trên bình diện toàn cầu
sẽ dẫn đến hậu quả là mức cầu hàng hoá không cân xứng với mức cung, do đó
khả năng nền kinh tế thế giới bị đình trệ sẽ rất lớn. Rủi ro dưới dạng khủng
hoảng thừa và khủng hoảng tài chính sẽ tăng lên. Đó là chưa kể tới việc trong
thời buổi ngày nay khi tăng trưởng kinh tế quyết định sự ổn định chính trị, đặc
biệt khi nhiều chính thể trong mô hình các nhà nước phát triển (development
states) đã giành được tính hợp pháp của mình trên cơ sở phát triển kinh tế, các
bất ổn định kinh tế lớn có khả năng dẫn đến bất ổn định xã hội (trường hợp
Indonesia) và thách thức tính hợp pháp của các chính thể đó.
Một nét mới trong quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển
thể hiện qua vai trò và nội dung của các định chế quốc tế chủ yếu vẫn do các
nước lớn đặt ra. Những định chế này nay đã đi vào điều chỉnh các chính sách
kinh tế vốn trước đây thuộc về phạm trù quốc nội. Ví dụ điển hình là những
điều kiện cho vay của IMF. Một ví dụ khác là vai trò trong tương lai của WTO
làm khuôn khổ cho các cuộc đàm phán mậu dịch quốc tế sau vòng đàm phán
Uruguay, trong đó các vấn đề tiêu chuẩn lao động, môi trường, chính sách cạnh
tranh vốn đã được đề cập đến nhiều trong các tranh chấp hay cọ xát thương mại
hiện nay, chắc chắn sẽ là các vấn đề chiếm ưu tiên hàng đầu trong chương trình

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 72


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

nghị sự của WTO. Tất nhiên việc làm hài hoà các thực tiễn khác nhau về các
vấn đề này sẽ là một mục tiêu mà các cuộc đàm phán trong tương lai sẽ bàn
đến. Nhưng có một điều đáng lưu ý là trong khi các nước tư bản phát triển trên
thế giới đòi các nước đang phát triển cải thiện các điều kiện xã hội, họ không
có ý đòi các công ty xuyên quốc gia chịu trách nhiệm nâng cao các điều kiện xã
hội ở các nước nhận đầu tư này.
Nhìn tổng thể, toàn cầu hoá về bản chất là quá trình tự do hoá trên quy
mô toàn cầu. Trên thị trường tự do toàn cầu, các chủ thể kinh tế có cơ hội và
năng lực mở rộng khả năng lựa chọn hơn, tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy.
Đây là quá trình phát triển tất yếu, Vì vậy, trong khuôn khổ tự do toàn cầu, thị
trường toàn cầu, nền kinh tế thế giới cần phải có các công cụ điều tiết, công cụ
giám sát mang tính chất toàn cầu.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định phương châm “Việt Nam sẵn
sàng là bạn với tất cả các nước và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập
và chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”. Là nước đi sau do những hoàn cảnh
lịch sử, chúng ta rất xem trọng học tập và tiếp thu những thành tựu của các
quốc gia đi trước một cách có chọn lọc và vận dụng thích hợp với tình hình
thực tế của nước ta. Vì vậy, trước những luận thuyết kinh tế mới chúng ta phải
thận trọng cân nhắc, biết chọn lọc cái đúng, gạt bỏ cái sai, không phủ định hết
cũng không học tập một cách giáo điều.
Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa, Nhà nước Việt Nam chủ
trương sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Mặt khác, các
doanh nghiệp Việt Nam vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các doanh nghiệp tư
bản nước ngoài nên cần giảm mạnh những doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và tập
trung hơn vào các ngành và lĩnh vực then chốt. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục
giữ vai trò nồng cốt trong toàn bộ nền kinh tế đất nước, đáp ứng cơ bản những
yêu cầu về quốc phòng và an ninh, về những dịch vụ công ích hướng về người
nghèo. Nhà nước giữ cổ phần chi phối trong những doanh nghiệp quan trọng
với quốc kế dân sinh. Chúng ta cổ phần hóa chứ không tư hữu hóa, kiên quyết
chống lại những khuynh hướng lệch lạc nhằm biến cổ phần hóa thành tư hữu

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 73


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

hóa. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất,
chứ không dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Khi chủ nghĩa tự do mới muốn lôi cuốn Việt Nam vào nền kinh tế thị
trường không hạn chế, tất cả để cho “bàn tay vô hình của thị trường” xếp đặt,
Nhà nước ta chủ trương một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Khi chủ nghĩa tự do mới lấy cạnh tranh làm
động lực duy nhất, Nhà nước ta chủ trương nâng cao sức cạnh tranh đi đôi với
đoàn kết và thi đua xã hội chủ nghĩa, không phải là cạnh tranh bóp chết đối thủ
để tìm kiếm siêu lợi nhuận. Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa dịch
vụ xã hội, Nhà nước ta khuyến khích tăng cường các dịch vụ cho người nghèo
thông qua đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa trong hai lĩnh vực y tế và giáo dục
đào tạo.
Khi chủ nghĩa tự do mới đòi hỏi “lao động linh hoạt” buộc công nhân
làm thêm 400 – 500 giờ một năm, Nhà nước ta nhận thấy làm thêm cũng là cần
thiết trong sản xuất thời vụ hoặc khi đến thời điểm giao hàng… nhưng khống
chế trong phạm vi 200 giờ một năm đi kèm trả công làm thêm và các chế độ
khác. Người lao động trong các doanh nghiệp bị phá sản mà có đủ điều kiện
hưởng chế độ hưu trí theo mức lương cũ và được điều chỉnh tăng thêm 10%.
Khi chủ nghĩa tự do mới yêu cầu tự do hóa lĩnh vực tài chính – ngân
hàng, Nhà nước ta rất thận trọng bởi đây là vấn đề sinh tử của quốc gia. Ngân
hàng Sài Gòn thương tín (SACOMBANK) đang đàm phán với Ngân hàng ANZ
về các khoản chi tiết trước khi ký hợp đồng chính thức sau khi Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chấp thuận cho SACOMBANK bán 10% cổ phần cho ANZ.
Ngân hàng này sẽ là cổ đông nước ngoài thứ ba sở hữu cổ phần của
SACOMBANK sau Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và Công ty quản lý quỹ
DRAGON CAPITAL. Những trường hợp bán cổ phần của Ngân hàng Ngoại
thương (VIETCOMBANK) và Ngân hàng đồng bằng sông Cửu Long đã được
nghiên cứu rất kỹ trước khi có quyết định
Trong hơn 20 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không
thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước,

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 74


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay
đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông,
muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một
nước phát triển thì tất yếu phải đổi mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã khẳng định: "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá các học thuyết kinh tế
vào hình thái kinh tế -xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng
là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn, đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể
đến cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng trung
của Việt Nam trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ xã hội. Vì vậy cần phải nhận
thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật sản xuất
phù hợp với tính chất trình độ lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất nhằm
cải tạo các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất. Phát huy tính
chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều
thành phần kinh tế quốc doanh phải phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả để thực
sự có tác dụng chủ đạo với các thành phần kinh tế khác
Đó là một trong những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước ta. Hơn nữa sự vận dụng đúng đắn của các
quy luật quan hệ sản xuất, phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là cần thiết. Bên cạnh đó từng bước cơ sở xây dựng hạ tầng
và cơ sở thượng tầng. Đặc biệt là xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản xuất quản lý và phân phối theo lao
động.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 75


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

2.2.5. Sự nhận thức và vận dụng Học thuyết kinh tế của trường phái chính
hiện đại

“Trường phái chính hiện đại” ra đời từ những năm 60 – 70 của thế kỷ
XX với tư tưởng xuyên suốt là cần sự kết hợp của cơ chế thị trường tự do cạnh
tranh và vai trò điều tiết vĩ mô kinh tế của Nhà nước. Từ khi thâm nhập vào
Việt Nam, các lý thuyết của trường phái chính hiện đại đã trở thành nền tảng
định hướng cho sự phát triển của kinh tế nước ta hiện nay.
Đặc điểm nổi bật của học thuyết kinh tế trường phái chính hiện đại là:
 Vận dụng một cách tổng hợp các lí thuyết và phương pháp của các
trường phái kinh tế trong lịch sử nhằm đưa ra lí thuyết làm cơ sở cho các
hoạt động của doanh nghiệp và chính sách kinh tế của Nhà nước.
 Sử dụng cả phương pháp phân tích vi mô và phân tích vĩ mô để trình
bày các vấn đề kinh tế. Sử dụng nhiều công thức toán học, đồ thị để lí
giải các hiện tượng và quá trình kinh tế. Theo đó, nền kinh tế thị trường
cần có sự điều tiết của Nhà nước.
Tiêu biểu của trường phái này này là “lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp”
trong đó được định nghĩa, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế kết hợp trong đó
kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước, nó được điều hành bởi cơ chế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước. Mọi xã hội, mọi nền kinh tế đều phải đối phó với
ba vấn đề, do sản xuất của nền kinh tế bị hạn chế bởi các nguồn lực và kiến
thức công nghệ, mỗi xã hội dù giàu hay nghèo đều phải lựa chọn. Ba vấn đề đó
là:
 Sản xuất hàng hóa gì? Với số lượng bao nhiêu?
 Sản xuất hàng hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sản xuất bằng
nguồn lực nào, sử dụng kĩ thuật sản xuất nào?
 Sản xuất cho ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ
lực kinh tế, hay sản phẩm quốc dân được phân chia như thế nào?
Trong lịch sử có hai phương thức lựa chọn để trả lời các câu hỏi trên, đó
là:
 Chính phủ đưa ra hầu hết các quyết định kinh tế
 Các quyết định kinh tế đều do thị trường xác định

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 76


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Cả hai phương thức đều có ưu điểm và hạn chế, không nên tuyệt đối hóa
một phương thức nào mà cần kết hợp: cơ chế thị trường và điều tiết của Nhà
nước.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân
người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác
định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế. Cơ chế hoạt động một cách tinh
vi, thông qua hệ thống giá cả thị trường, là một trật tự kinh tế chứ không phải
sự hỗn độn. Cơ chế thị trường là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và
hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm, nó
vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi
(giải quyết những vấn đề sản xuất phân phối). Không ai thiết kế ra, xuất hiện tự
nhiên và cũng thay đổi (luôn luôn thay đổi) như xã hội loài người. Không cá
nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có trách nhiệm sản xuất, tiêu dùng, phân phối hay
định giá. Thị trường bao gồm: hàng hóa, tiền tệ, người bán, người mua, giá cả
hàng hóa. Sự hoạt động của giá cả hàng hóa là tín hiệu đối với người sản xuất
và tiêu dùng, giá là quả cân trong cơ chế thị trường là biểu hiện sự hoạt động
của quy luật giá trị. Quan hệ giữa người bán và người mua ở trên thị trường
được khái quát thành quan hệ cung cầu. Sự biến đổi của giá cả dẫn đến biến đổi
cung - cầu. Người tiêu dùng thống trị, điều khiển thị trường theo nhu cầu của
mình nhưng lại bị kĩ thuật hạn chế vì kinh tế không thể vượt qua giới hạn của
khả năng sản xuất. Vì thế thị trường đóng vai trò trung gian hòa giải sở thích
người tiêu dùng và hạn chế của kĩ thuật. Sản xuất cái gì phải do cả chi phí kinh
doanh lẫn các qui định cung và cầu của người tiêu dùng quy định. Lợi nhuận là
động lực của cơ chế thị trường, chi phối hoạt động của người sản xuất kinh
doanh. Môi trường của cơ chế thị trường là cạnh tranh.
Cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng đưa tới kết quả tối ưu mà có
những khuyết điểm nhất định, nhiều vấn đề thị trường không giải quyết nổi như
độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, thất nghiệp, sự phân phối bất
bình đẳng. Ở nước ta hiện nay đang phải đối mặt với thiên tai lũ lụt do nạn chặt
phá rừng đầu nguồn, xây dựng thủy điện, cũng như ô nhiễm nguồn nước và

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 77


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

không khí ở các khu công nghiệp và thành phố lớn. Vì chạy theo lợi nhuận mà
những người bán hàng sẵn sàng sử dụng các chất độc hại gây ung thư trong
thực phẩm, sử dụng thuốc trừ sâu và hóa chất quá liều lượng cho phép.
Do đó cần có sự can thiệp của Nhà nước để khắc phục các khuyết tật.
Nhà Nước thiết lập khuôn khổ pháp luật bằng cách đề ra các quy tắc mà doanh
nghiệp, người tiêu dùng và cả chính phủ cũng phải tuân theo, bao gồm các quy
định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách
nhiệm hỗ trợ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và các luật lệ để xác định
môi trường kinh tế. Nhà Nước sửa chữa, khắc phục những khuyết tật của cơ
chế thị trường bằng cách can thiệp hạn chế độc quyền, can thiệp vào các tác
động bên ngoài như sự ô nhiễm môi trường hay sự khai thác bừa bãi tài
nguyên, Nhà Nước đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hóa công cộng cần thiết,
có ý nghĩa quan trọng, mà tư nhân không muốn hoặc không thể sản xuất và thu
thuế để đảm bảo hoạt động của Chính phủ. Nhà Nước đảm bảo sự công bằng
cách thu thuế thu nhập lũy tiến, trợ cấp người nghèo, người cao tuổi, người
khuyết tật, có hoàn cảnh khó khăn. Nhà Nước sử dụng các chính sách tiền tệ,
tài chính tác động tới chu kỳ kinh doanh, giải quyết nạn thất nghiệp, chống trì
trệ, lạm phát,... nhằm tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Ở Việt Nam, các quy định về thuế thu nhập cá nhân đang từng bước
được hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tế. Mức xử phạt hành chính đối
với các vi phạm gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm cũng đang được xiết chặt để tạo sức răn đe. Các ngành sản xuất, dịch vụ
cơ bản các tác động mạnh mẽ đến đời sống và sản xuất như điện, nước, xăng
dầu, đường sắt, giao thông công chánh,… vẫn do Nhà nước làm chủ. Ngân
hàng Chính sách Xã hội tại các địa phương và các Tổ chức xã hội, Quỹ Phúc
lợi hỗ trợ một phần nào những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn.
Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà Nước cũng có những hạn
chế như có nhiều vấn đề Nhà Nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính
phủ có lúc kém hiệu quả (do chương trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh
hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi phối bởi thiểu số người, hoặc bởi những
người bất tài, tham nhũng,...) dẫn đến việc đưa ra những quyết định sai lầm,

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 78


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

không phù hợp với quy luật khách quan, không phản ánh đúng sự vận động của
thị trường. Việt Nam trong thời kỳ bao cấp, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
kém phát triển đã khiến cuộc sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Vì
vậy sự can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn “trong khuôn khổ khôn ngoan
của cạnh tranh”.
Tóm lại, phát triển kinh tế có hiệu quả là phải dựa vào cả “hai bàn tay”:
 Cơ chế thị trường (bàn tay vô hình): xác định giá cả, sản lượng trong
nhiều lĩnh vực.
 Sự điều tiết của Chính phủ (bàn tay hữu hình): bằng các chương trình
thuế, chi tiêu và luật lệ.
Đối với nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế còn kém phát
triển thì không còn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các lý thuyết khác của trường phái chính hiện đại cũng được áp dụng ở
Việt Nam như lý thuyết giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn, lý thuyết
thất nghiệp và lý thuyết về tiền tệ, ngân hàng và thị trường chứng khoán.
Các chính sách vĩ mô của Việt Nam luôn phải cân nhắc giới hạn sản
xuất theo trình độ khoa học kỹ thuật và đặc điểm tài nguyên, nhân lực của nước
ta để lựa chọn ngành nghề, quy mô, từ đó định hướng sự phát triển của nền
kinh tế một cách bền vững và hiệu quả.Thất nghiệp là vấn đề quan trọng, chịu
ảnh hưởng trực tiếp và là một trong các thước đo sức khỏe của nền kinh tế và
thất nghiệp cũng có những tác động ngược trở lại với kinh tế và xã hội. Các cấp
Bộ ngành của Đảng và Chính phủ nước ta luôn đặt xem trọng việc kiểm soát tỷ
lệ thất nghiệp, phát triển các ngành sản xuất dịch vụ để tạo thêm công ăn việc
làm cũng như nâng cao chất lượng người lao động để đáp ứng nhu cầu công
việc.Hạn chế lạm phát là một trong những mục tiêu trọng tâm của chính sách
kinh tế vĩ mô những năm gần đây. Các biện pháp kiểm soát lạm phát luôn được
Chính phủ nghiên cứu đặt ra và thực hiện với quyết tâm cao độ. Nhờ đó, việc
kiềm chế lạm phát đã đạt được những kết quả khả quan. Ngành Ngân hàng và
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất non trẻ và hiện đang đối mặt với
những khó khăn thử thách rất lớn. Để vượt qua giai đoạn này cần sự nỗ lực

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 79


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

chung tay góp sức chứ không riêng một Bộ ngành phòng ban nào. Đây cũng là
cơ hội để những tổ chức kinh tế hoạt động hiệu quả định vị lại chỗ đứng vững
chắc trên thị trường và sàng lọc loại bỏ những thành phần yếu kém.
Thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và “cú hích từ bên ngoài” cũng như thuyết
“cất cánh” cũng có nhiều điểm phù hợp khi áp dụng vào tình hình kinh tế xã
hội nước ta. Chúng ta cũng như những nước đang phát triển khác, gặp nhiều
khó khăn về vốn, kỹ thuật và trình độ nhân lực. Tuy nhiên, Việt Nam là một lựa
chọn tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài với nhiều lợi thế về chi phí rẻ, nhiều tài
nguyên và các chính sách ưu đãi của Chính phủ. Tuy nhiên, rất cần sự ổn định
kinh tế vĩ mô và thống nhất về pháp luật.Việt Nam đang trong giai đoạn chuẩn
bị cất cánh, rất cần sự tập trung phát triển để đáp ứng các điều kiện như tỷ lệ
đầu tư tăng từ 5 – 10%; xây dựng được những lĩnh vực đầu tàu như xuất nhập
khẩu hoặc công nghiệp có khả năng phát triển mạnh, hiệu quả theo quy mô lớn
dẫn đến xuất hiện quá trình tăng trưởng tự duy trì và phải có bộ máy quản lý
năng động, biết sử dụng kỹ thuật và tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
Việt Nam hiện đang trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
mạnh mẽ. Theo lý thuyết phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hóa (CNH) thì
có hai phương pháp.
Phương pháp thứ nhất là CNH phát triển sản xuất trong nước để thay thế
các sản phẩm nhập khẩu. Từ đó tận dụng nguồn lực trong nước, mở rộng thị
trường nội địa, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, kích thích lòng tự tôn dân tộc
thành động lực phát triển kinh tế. Phương pháp này tại Việt Nam đã đạt được
những kết quả tốt đẹp với các mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm phục vụ nhu cầu
cuộc sống. Chúng ta có thể tự hào về các sản phẩm Hàng Việt Nam chất lượng
cao, thương hiệu do người tiêu dùng bình chọn.
Tuy nhiên, hạn chế nhập khẩu không đồng nghĩa với “đóng cửa” nền
kinh tế. Do chính sách bảo hộ có thể gây sự ỷ lại của các nhà sản xuất trong
nước, sản xuất không được đổi mới, quy mô thị trường nhỏ bé hạn chế phát
triển. Mặt khác, đối với những mặt hàng cần thiết vẫn nhập khẩu như các yếu
tố, nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Mối giao lưu kinh
tế giữa các nước vẫn cần phải phát triển.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 80


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Phương pháp thứ hai là CNH tập trung phát triển sản xuất các sản phẩm
để xuất khẩu, lấy thị trường nước ngoài làm trọng tâm. Các nhóm ngành sản
xuất chủ yếu của mô hình này gồm có phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ, khai thác và sản xuất sản phẩm thô, ngành chế biến và lắp ráp thu hút
nhiều lao động sống, chế biến nông sản và chế tạo máy, điện tử, kĩ thuật cao.
Thế mạnh của Việt Nam hiện nay là xuất khẩu các mặt hàng nông sản như gạo,
tiêu, điều, cà phê, thủy hải sản, than và khai khoáng, các sản phẩm đan lát mây
tre nứa cũng rất được ưa chuộng tại nhiều thị trường quốc tế. Nhiều tập đoàn đa
quốc gia đã chọn Việt Nam để đặt các nhà máy, phân xưởng quy mô lớn.
Tập trung vào xuất khẩu nhưng cũng không được bỏ rơi thị trường nội
địa, “bỏ trống sân nhà” nên chính phủ giữ vai trò quan trọng để phối hợp hài
hòa thị trường trong nước và quốc tế.
Trong thực tế, cả hai đều có ưu và nhược điểm. Vì thế trong thực tế cần
kết hợp hài hòa hai chiến lược “thay thế nhập khẩu” và “hướng về xuất khẩu”,
vừa thỏa mãn nhu cầu trong nước vừa phát huy lợi thế so sánh trên thế giới.
Việt Nam là một nước thuộc khu vực châu Á gió mùa có nền nông
nghiệp lúa nước. Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở khu vực này thì thì cần
giữ nguyên lao động nông nghiệp, song phải tạo nhiều việc là trong những
tháng nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hóa vật nuôi cây trồng, mở mang
nhiều ngành nghề mới để tạo việc làm tăng thu nhập. Việt Nam đi lên từ một
quốc gia nông nghiệp, lại đang đối mặt với tốc độ đô thị hóa quá nhanh, sự
chênh lệch quá lớn giữa nông thôn và thành thị, người nông dân bỏ làng để lên
thành phố làm việc kéo theo những hệ lụy bất ổn lâu dài về kinh tế xã hội. Vấn
đề “tam nông”, phát triển nông nghiệp – nông thôn – nông dân cần được xem
xét một cách nghiêm túc để có sự tăng trưởng bền vững. Cần CNH nông
nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất, điện, nước, giao thông, thông tin liên
lạc, phát triển công nghiệp chế biến và cơ sở hạ tầng xã hội, giáo dục, y tế, văn
hóa cho nông thôn. Dần dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thay
thế lao động thủ công bằng lao động máy móc năng suất lao động cao... Từ đó
sẽ cải thiện đời sống nông dân, văn minh hóa nông thôn và kinh tế sẽ tăng
trưởng, lại tránh được sức ép về nhiều mặt đối với đô thị.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 81


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển có
những điểm phù hợp nhưng không phải quốc gia nào cũng thành công, rất dễ
trở thành công cụ để các nước tư bản bóc lột theo phương thức tinh vi hơn. Việt
Nam muốn vận dựng các lý thuyết này đòi hỏi sự thận trọng, sáng suốt của
Chính phủ để đạt được sự tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và độc lập tự chủ.
Đánh giá chung về các lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại
Các lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại tiến bộ hơn hẳn so
với các trường phái trước đây và đã đạt được những thành tựu đáng kể:
 Có sự kế thừa, vận dụng và phát triển các lý thuyết kinh tế của nhiều
trường phái trong lịch sử.
 Với mô hình kinh tế hỗn hợp: một mặt nhận thức được yếu tố tích cực
của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, mặt khác vạch ra sự cần thiết
phải điều tiết vĩ mô của nhà nước (thông qua các chức năng và công cụ)
để phát huy mặt tích cực và khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường.
Bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế của nhà nước khi điều hành nền
kinh tế.
 Đưa ra một số lý thuyết làm cơ sở cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước.
 Có sự nghiên cứu để dưa ra lý thuyết phát triển kinh tế đối với các nước
chưa phát triển.
 Khi vận dụng vào Việt Nam, các lý thuyết đã góp phần không nhỏ vào
việc định hướng cho các chính sách trong quản lý điều hành nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu các nhà kinh tế thuộc trường phái chính
hiện đại còn có nhiều hạn chế:
 Mô tả các hiện tượng và quá trình kinh tế trong các giai đoạn lịch sử
khác nhau và đưa ra những tiêu chí phân loại (nước giàu – nghèo, phát
triển – đang phát triển,...) nhưng chưa chỉ ra được bản chất và nguyên
nhân thật sự của các hiện tượng và quá trình đó.
 Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay các nước phát triển vẫn giữ lợi
thế về vốn, công nghệ, thị trường,... nên sự bình đẳng trong quan hệ kinh
tế quốc tế hiện nay khó có thể đạt được.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 82


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

Vì thế tuy mọi nước trên thế giới hiện nay đều có mô hình kinh tế hỗn
hợp song lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại không thể áp dụng
cho mọi nơi, mọi lúc, mọi quốc gia.
Tóm lại, tuỳ từng điều kiện, khả năng và nguồn lực của mình, Việt Nam
có thể tiếp thu các nhân tố hợp lý để đề ra phương hướng, chính sách giải pháp
phù hợp đảm bảo tốc độ phát triển cao và bền vững.

CHƯƠNG 3 - NHỮNG ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN VẬN DỤNG CÁC HỌC


THUYẾT KINH TẾ LINH HOẠT VÀ HIỂU QUẢ


3.1. ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG CÁC
HỌC THUYẾT KINH TẾ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY

Trong nền kinh tế thị trường tự do có sự can thiệp của chính phủ mà
theo Samuelson cho rằng “Điều hành một nền kinh tế mà không có chính phủ
giống như vỗ tay bằng một bàn tay”. Vì vậy, để các học thuyết được vận dụng
một cách linh hoạt theo cơ chế thị trường, nhà nước phải can thiệp vào kinh tế
thông qua các hoạt động sau:
Thiết lập pháp luật, xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tác động
vào việc phân bổ tài nguyên, phân bổ thu nhập… Qua đó đảm bảo hiệu quả,
công bằng và ổn định trong phát triển kinh tế. Đồng thời, nhà nước phải can
thiệp vào kinh tế để ngăn chẳn khủng hoảng, thất nghiệp, tạo công ăn việc làm
nhưng phải giữ trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh.
Sửa chữa, khắc phục những thất bại của thị trường, nhằm đảm bảo cho
thị trường hoạt động có hiệu quả. Để làm được điều đó cần phải giải quyết bốn
vấn đề sau:

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 83


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

 Ban hành luật chống độc quyền để duy trì được sự cạnh tranh, làm tăng
hiệu quả nền kinh tế.
 Ngăn chặn được những tác dụng xấu từ bên ngoài làm ảnh hưởng tới
tính hiệu quả của thị trường. Chẳng hạn như: Ngăn chặn và có chế tài
nặng đối với các trường hợp doanh nghiệp làm ô nhiễm môi trưởng ảnh
hưởng đến đời sống người dân.
 Chính phủ phải đảm nghiệm việc vận hành các hoạt động công cộng (an
ninh, quốc phòng, chống thiên tai…), đảm bảo an toàn trong mọi hoạt
động của nhân dân.
Chính sách thuế: đây là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, bảo
đảm chi tiêu của chính phủ và việc chi tiêu đó nhằm mục dịch phục vụ lợi ích
cộng đồng. Vì thế, chính phủ cần đảm bảo hiệu quả ban hành các chính sách về
thuế cho phù hợp, kết quả công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện các công
tác thu thuế đảm bảo hiệu quả.
Đảm bảo sự công bằng: Cơ chế thị trường luôn luôn dẫn đến sự phân
hóa giàu nghèo bất bình đẳng. Vì vậy chức năng của chính phủ là phải có chính
sách phân phối thu nhập phù hợp nhằm giảm bớt sự chênh lệch giữa các thành
viên trong xã hội. Nhà nước đảm bảo tính hiệu quả trong việc sử dụng một số
công cụ: Thuế thu nhập; các chính sách hỗ trợ thu nhập đối với các hoàn cảnh
khó khăn, thất nghiệp, ốm đau; chính sách trợ cấp cho những người có thu nhập
thấp (bán nhà ở với giá ưu đãi, chính sách bảo hiểm y tế…)
Ổn định kinh tế vĩ mô: Một khuyết tật lớn của cơ chế thị trường là chu
kỳ kinh doanh, từ đó đã dẫn đến những cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ.
Vì vậy, chính phủ cần có những biện pháp để kiểm soát các chu kỳ đó bằng
việc sử dụng hiệu quả các công cụ sau:
 Sử dụng quyền lực về tiền tệ: đó là việc Nhà nước điều tiết và lưu thông
tiền tệ, điều khiển hoạt động của hệ thống Ngân hàng, thông qua đó xác
định mức lãi suất và xác định các điều kiện tín dụng phù hợp phục vụ
cho việc điều hành hoạt động tiền tệ theo định hướng đã đặt ra trong
từng thời kỳ.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 84


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

 Nhà nước sử dụng quyền lực về tài chính: Chính phủ có quyền đánh
thuế và ban hành của luật thuế và mức thuế suất khác nhau. Đồng thời
sự dụng ngân sách của mình để chi tiêu cho những mục đích đã được
xác định trước.
Để thực hiện các chức năng kinh tế trên, thực tế chính phủ đã phải tiến
hành sự lựa chọn. Mỗi sự lựa chọn của Chính phủ chỉ thỏa mãn một cách tương
đối nhu cầu của các cá nhân. Vì vậy, việc lựa chọn của Chính phủ cũng có thể
đúng, cũng có thể sai. Do đó, cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ chế
thị trưởng với vai trò điều tiết của chính phủ để điều hành nền kinh tế nói
chung.
Tóm lại, do cơ chế thị trường có những khuyết tật của nó mà Nhà nước
phải can thiệp vào nền kinh tế, tuy nhiên mức độ khác nhau ở mỗi nước. Sự can
thiệp vào kinh tế đó nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, đạt được
hiệu quả kinh tế - xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội mà cơ chế thị
trường không làm được.
Ở Việt Nam, nền kinh tế hàng hóa đã và đang từng bước được xác lập và
đi kèm với nó là cơ chế quản lý dựa trên những quy luật thị trường kết hợp với
vai trò quản lý của nhà nước với mục đích phát huy tối đa tính ưu việt của cơ
chế thị trường, đồng thời hạn chế những khuyết tật mà cơ chế thị trường mắc
phải. Nhà nước cần đảm bảo phát huy mọi tiềm năng sẵn có của tất cả chủ thể
trong nền kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, hạn chế độc quyền, đảm
bảo nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN, đảm bảo những mục
tiêu xã hội.
3.2. ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC VẬN DỤNG CÁC HỌC THUYẾT KINH
TẾ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ KÍCH CẦU NHẰM CHỐNG SUY GIẢM
KINH TẾ NƯỚC TA

Học thuyết Keynes đề cao vai trò Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh
tế thị trường thông qua các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô. Trong điều
kiện kinh tế thế giới khủng hoảng và suy thoái, thị trường bên ngoài bị thu
hẹp, các nước thường đưa ra hai biện pháp đối phó là: kích cầu sản xuất, cầu

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 85


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

tiêu dùng và bảo hộ sản xuất trong nước. Đối với nước ta, để kích cầu và ngăn
chặn suy giảm kinh tế cần hướng vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, để kích cầu tiêu dùng thì cần thiết phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp như: giảm mạnh giá hàng tiêu dùng, điều chỉnh tăng lương, giảm thuế
thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, tăng cho vay tiêu dùng. Đồng thời, thực
hiện giãn, khoanh nợ, và tăng các khoản hỗ trợ an sinh xã hội, nhất là trợ cấp
cho người nghèo, tiến tới thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ học phí, viện
phí… với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Khuyến khích các
hoạt động chuyển đổi nghề nghiệp và triển khai các chương trình đào tạo nghề
và tạo việc làm mới…
Thứ hai, kích cầu đầu tư: tăng đầu tư không chỉ làm tăng GDP mà còn
tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập. Đầu tư bao gồm cả đầu tư tư nhân và
đầu tư Nhà nước. Ở nước ta hiện nay, đầu tư tư nhân chiếm khoảng 33% tổng
vốn đầu tư xã hội và đang có xu hướng tăng lên; trong bối cảnh khủng hoảng
hiện nay thì đầu tư Nhà nước có vai trò quan trọng để dẫn dắt, kích thích, tạo
tiền đề và hiệu ứng lan toả cho đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Vì vậy,
vốn đầu tư từ ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA sẽ chủ yếu để
đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng tạo thuận lợi cho sản xuất và lưu
thông hàng hoá; còn đối với đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, các tập
đoàn và tổng công ty phải hướng vào các dự án công nghệ hiện đại, phát triển
công nghiệp phụ trợ, tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao và có giá trị gia
tăng lớn, các dự án thu hút nhiều việc làm để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Để hỗ trợ cho đầu tư sản xuất kinh doanh và kích cầu đầu tư, Chính phủ
cần thực hiện nhiều giải pháp quan trọng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nhằm
giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, hạ giá thành, tăng sức cạnh
tranh hàng hoá và dịch vụ, ví dụ như: giảm và hoãn thời hạn nộp thuế, hỗ trợ
lãi suất và thực hiện bảo lãnh tín dụng, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu
thị trường tạo thuận lợi cho xuất khẩu…
Như vậy, Nhà nước cần phát huy vai trò của các chính sách về tài chính
và tiền tệ có trong việc kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng, qua đó để nâng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 86


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

cao tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu
nhập.
3.3. VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NƯỚC TA

Kinh tế thị trường là thành tựu chung của nhân loại. Các nước có chế độ
xã hội khác nhau suy cho cùng đều hướng tới những giá trị chung như dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Bởi vậy, đất nước ta
xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường, thực hiện định hướng XHCN là phù
hợp với xu thế phát triển của nhân loại và của thời đại. Cũng vì thế, việc mở
cửa hội nhập, tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước, tranh thủ các
nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh... là
cần thiết, hợp quy luật
Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện đại, một số quốc gia đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhưng đã phải trả giá về xã hội và môi trường. Ngày
nay, tăng trưởng kinh tế nhanh là không đủ, mà phải thực hiện phát triển bền
vững. Đó là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường
Đồng thời, cần thống nhất tư duy mới về thương mại để hoạch định nên
chiến lược cho thương mại nội địa và thương mại quốc tế, cũng như mô hình và
các nguồn lực để thực thi. Với thương mại nội địa trước sức ép ngày càng lớn
của sự cạnh tranh, Nhà nước cần phải đề ra những giải pháp để ổn định hệ
thống trong nước trước sự tấn công của hàng hóa các nước trên thế giới. Dù
theo lộ trình cam kết, Việt Nam vẫn còn một khoảng thời gian cho đến thời
điểm mở cửa hoàn toàn nghành bán lẻ, nhưng với thực trạng yếu kém, manh
mún, phân tán (đối với bán lẻ truyền thống) và thiếu công nghệ, thiếu kinh
nghiệm (đối với bán lẻ hiện đại) như hiện nay, nếu chúng ta không đoàn kết và
quyết liệt thì những giải pháp chuyển đổi, nâng cấp hệ thống hiện tại thì chắc
chắn chúng ta không thể cạnh tranh được với ngành thương mại.
Cần ưu tiên cho thương mại quốc tế với tư tưởng “lấy công làm thủ”,
bởi chiến thắng trong cạnh tranh của các sân chơi WTO dành cho những ai có

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 87


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

thể khai thác nhiều thị trường hơn trong tổng thể thị trường thế giới. Chúng ta
phải trăn trở với tình trạng “càng xuất khẩu càng thua thiệt” như đại đa số các
hàng hóa của chúng ta hiện nay, đặc biệt là các hàng hóa nông sản, khoáng sản.
Chúng ta phải tạm thời chấp nhận nghịch lý này vì nền kinh tế có điểm xuất
phát thấp khi bước vào cạnh tranh, nhưng phải nhanh chóng và kiên quyết thay
đổi, tham gia các phân khúc tạo giá trị gia tăng cao hơn nếu chúng ta không
muốn mãi mãi bị tụt hậu so với thế giới.
Tóm lại, phát triển thương nghiệp, đặc biệt là tăng khả năng cạnh tranh
trên thị trường thế giớ đối với hàng hóa sản xuất trong nước là điều kiện tiên
quyết để từng bước tích lũy vốn, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát
triển ngành thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, cần phải hoạt động trên cơ
sở củng cố vững chắc những điều kiện hiện có của đất nước, chú trọng phát
triển các ngành có khả năng xuất khẩu cao và có nhiều lợi thế tuyệt đối nhằm
thu hút được nhiều vốn nhất nhưng vẫn phải đảm bảo tính công bằng, bình
đẳng trong cạnh tranh, theo thông lệ quốc tế.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Các chính sách kinh tế vĩ mô gần
đây được cho là đã đi đúng hướng, giúp nền kinh tế giành được những thành
tựu nhất định về tăng trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, các
thành tựu đạt được là chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp.
Có thể nhận định là mô hình và chính sách kinh tế áp dụng những năm gần đây
ở Việt Nam chủ yếu dựa quá nhiều vào thâm dụng vốn đầu tư kiểu Tân cổ điển
hoặc các biện pháp kích cầu kiểu Keynes. Tri thức khoa học, công nghệ và các
nguồn lực kiểu đổi mới khác như năng lực thích nghi về tổ chức, quản lý, thiết
chế chính sách thúc đẩy các loại liên kết trong hệ thống đổi mới, như liên kết
giữa tri thức KH&CN và sản xuất, liên kết giữa các thiết chế, chính sách, liên
kết hợp tác công tư, liên kết giữa các vùng theo quan niệm của Kinh tế học đổi
mới chưa được quan tâm đầu tư và khai thác.
Để có một tương lai phát triển bền vững và một nền kinh tế có năng lực
đổi mới, sáng tạo, Việt Nam cần nhanh chóng chuyển sang mô hình tăng

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 88


Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay

trưởng kinh tế kinh tế theo chiều sâu, sử dụng nhiều hơn tri thức khoa học,
công nghệ và đổi mới để tạo ra các hợp lực phục vụ phát triển. Để có thể hỗ
trợ cho quá trình chuyển đổi đó, ít nhất về mặt lý thuyết, Học thuyết Kinh tế
học đổi mới, bên cạnh Kinh tế học tân cổ điển và Kinh tế học keynes mới cần
được nghiên cứu sâu hơn và đưa dần vào trong tư duy, cách tiếp cận và tạo lập
khuôn khổ cho hoạch định chính sách đổi mới thay vì hoạch định riêng rẽ các
chính sách kinh tế, tài chính, tài khóa, chính sách công nghiệp và chính sách
KH&CN như trong thực tế ở Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, một học thuyết kinh tế, dù khoa học đến đâu cũng không thể
giải quyết được mọi vấn đề của nền kinh tế. Học thuyết kinh tế Mác - Lenin
chủ yếu nghiên cứu các xu hướng, các quy luật vận động của nền kinh tế, tức là
những vấn đề mang tính dài hạn. Do đó, việc giải quyết những vấn đề cấp thiết,
ngắn hạn mà chỉ dựa vào học thuyết kinh tế này sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong
khi đó, các học thuyết kinh tế của J. Keynes, Trường phái chính hiện đại, Chủ
nghĩa tự do mới... lại có khả năng giải quyết tốt các vấn đề kinh tế cụ thể, ngắn
hạn và trung hạn. Vì thế, việc tuyệt đối hoá bất cứ học thuyết kinh tế nào cũng
là điều nên tránh. Do đó, trong quá trình xây dựng CNXH, đặc biệt là việc điều
hành kinh tế vĩ mô, việc nghiên cứu, vận dụng các học thuyết kinh tế hiện đại
là hết sức cần thiết. Từ thực tiễn vận dụng học thuyết kinh tế Mác - Lenin, có
thể rút ra bài học là: vận dụng bất cứ học thuyết kinh tế nào cũng phải phù hợp
với điều kiện cụ thể.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Bảng Trang 89


KẾT LUẬN


Thời đại ngày nay không chỉ có xu hướng phát triển nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa mà còn xu hướng vượt qua những giới hạn chật hẹp tư
bản chủ nghĩa để xây dựng một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Xu hướng này
không phải là tiềm năng mà đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng ngày nay, chín muồi đến mức nào, tùy thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tính chất xã hội chủ nghĩa của
nền sản xuất trước hết là mục tiêu xã hội của nền sản xuất, ai là người được
hưởng lợi từ sự phát triển của sản xuất và phát triển kinh tế để đạt những mục
tiêu xã hội nào. Ở nước ta, tính chất xã hội chủ nghĩa mới dừng lại trong khuôn
khổ định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước chủ định cơ cấu và tái cơ cấu nền
kinh tế, trong khuôn khổ hướng tới những mục tiêu xã hội của nền kinh tế, đó
là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Những mục
tiêu đó phù hợp với thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ngoài việc kế thừa những tinh hoa của nhân loại cũng như của thời đại, chúng
ta còn kế thừa những di sản mà cha, ông chúng ta đã tạo dựng từ xưa tới nay,
gần nhất là thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải trên
cơ sở tích lũy nguyên thủy tư bản và tích lũy tư bản, mà trên cơ sở một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Những ưu việt
của nền kinh tế này như nhà nước trực tiếp quản lý và điều tiết kinh tế, cơ sở
nền kinh tế, tính chất xã hội hóa đã đạt trình độ cao… chúng ta đã thừa hưởng
của lịch sử phát triển kinh tế của nước ta chứ không phải làm từ đầu như các
nước tư bản chủ nghĩa đã trải qua trong lịch sử.
Tóm lại, thứ nhất, học thuyết kinh tế, dù là nội dung chứa quan điểm
như thế nào chăng nữa, nếu đó là phát minh mới, chúng ta vẫn khai thác những
tinh hoa của nó để phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của
chúng ta. Thứ hai, khuynh hướng phát triển của các học thuyết kinh tế đều chứa
đựng những tinh hoa và phản ánh xu hướng thời đại, chúng ta có thể kế thừa
trực tiếp những tinh hoa đó để quản lý và điều tiết nền kinh tế trong quá trình
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thứ ba, ngoài việc kế thừa những tinh
hoa của nhân loại, chúng ta còn “gạn đục khơi trong” những di sản vật chất và
tư tưởng của ông cha chúng ta đã để lại mà trực tiếp là công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước đây chúng ta đã tiến hành.

TÀI LIỆU THAM KHẢO




-Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Tiến Dũng, Vũ Văn Nghinh (2000), Lịch sử các
học thuyết kinh tế, NXB ĐH. Quốc Gia TP.HCM.
-Tiểu luận: “Đánh giá các chính sách kích cầu của Việt Nam và giải pháp cho
tương lai”, “Lý thuyết của Keynes vai trò kinh tế của Nhà nước và sự vận dụng
nước ta hiện nay”
-Website: www.wikipedia.org.
-Website: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Ngân hàng Phát triển Việt Nam; Bộ
Kế hoạch - Đầu tư; Bộ Tài chính; Kiểm toán nhà nước.
-VNeconomy (5 năm, hai gói kích cầu – Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, TS.
Nguyễn Đức Kiên)
-Tapchitaichinh.vn (“Sưởi ấm” Tổng cầu của nền kinh tế - TS Võ Trí Thành -
Viện phó Viện Kinh tế TW)
-hocthuyetkinhte.blogspot.com
- tapchicongsan.org.vn(Vũ Văn Phúc PGS, TS, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng
sản “ Tính đặc thù theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
ở nước ta” ngày 18/09/2013)

You might also like