Professional Documents
Culture Documents
KHOA LUẬT
HÀ NỘI - 2023
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
I. Tư tưởng của Chủ nghĩa Mác Lênin về cơ cấu kinh tế 3
II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam 4
1. Cơ cấu thành phần kinh tế 4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế 8
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu vùng kinh tế 11
B. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
1
MỞ ĐẦU
Đã hơn 60 năm trôi qua kể từ khi Việt Nam ta bước sang thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, toàn dân ta đã trải qua giai đoạn phát triển kinh tế xã hội trong suốt một
quãng thời gian dài để rồi cùng nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang
một hình thái kinh tế xã hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Các Mác từng nhận định:
“Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
phát triển trên những cơ sở của chính nó mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa
vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa.” Và sau này, Lênin kế thừa tư tưởng chủ
nghĩa mác xít, khẳng định xã hội mới lọt lòng từ xã hội cũ sau “những cơn đau đẻ kéo
dài”, để rồi Hồ Chủ tịch phát triển tư tưởng đó mà xác định tầm quan trọng của thời kỳ
quá độ lên xã hội chủ nghĩa mà cần “ đi bước nào vững chắc bước ấy.” Nhìn chung
các nhà triết học đại tài này đều nhận định thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách
mạng triệt để toàn diện về mọi lĩnh vực mà để làm được điều đó thì cần giải quyết
những nhiệm vụ về kinh tế và chính trị.
Cho tới ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế vẫn luôn là vấn đề
nóng hổi và cấp bách. Phải làm sao để có được cái nhìn toàn diện để phát triển kinh tế?
Đến đây, ta nhìn về tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược, với
tư duy logic vượt thời đại mà cho tới tận bây giờ Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục học
tập và làm theo lời Bác để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân. Nhận thấy được tầm
quan trọng của việc tìm hiểu và phân tích cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ, em đã
lựa chọn và phân tích để tài: “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản
Việt Nam đã vận dụng quan điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế
nước ta hiện nay? ”
Trong quá trình tìm hiểu đề tài em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy
có thể đưa ra những bình luận góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện và chỉn chu hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Có thể nói, góc nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cơ cấu kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là góc nhìn sáng tạo, mang tính thực
dụng thực tế mà Đảng và nhân dân ta vận dụng cho tới tận ngày nay. Theo quan điểm
của Bác, cơ cấu kinh tế có thể được phân định ra thành : cơ cấu thành phần kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
10
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của khoa học kĩ thuật đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng chúng ta không có điều kiện
thuận lợi cho khoa học kĩ thuật thì giờ cần phải học tập tiếp thu từ các nước đi trước,
tìm tòi và tiếp thu khoa học kỹ thuật, nguồn vốn của nước họ và đặc biệt là những kinh
nghiệm đi trước trong quản lý và sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng hóa. Từ đó ứng
dụng về nước ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập tục thói quen đặc điểm của
nền kinh tế nước nhà. Song song với việc học tập tiếp thu, chúng ta cũng không được
quên đi những tinh hoa của nước nhà, phải biết “hòa nhập mà không hòa tan”, cũng
như giữ vững tôn trọng độc lập chủ quyền, ngăn cấm mọi hành động ảnh hưởng đến
nền độc lập của quốc gia mình và không can thiệp tới độc lập chủ quyền của quốc gia
dân tộc khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc tập trung quản lý kinh tế, tức quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đưa ra những nguyên tắc trong quá trình quản lý cho hợp
lý, đảm bảo lợi ích chung của các thành phần kinh tế, công bằng với từng vùng kinh tế,
ngành kinh tế, cải thiện những mâu thuẫn trong nền kinh tế nước nhà. Hơn nữa, nước
ta là nước đi theo hướng xã hội chủ nghĩa cho nên cần tập trung dân chủ, tránh chuyên
quyền, bài trừ những hành vi tư hữu, trục lợi cho cá nhân, hay bóc lột sức lao động của
nhân dân lao động. Người cũng khẳng định cần chống tiêu cực trong hoạt động quản
lý, xử phạt nghiêm minh những hành vi tham ô tham nhũng, bè phái, đặc biệt là Đảng
viên thì càng phải có những biện pháp xử lý hợp tình hợp lý, nếu nghiêm trọng thì khai
trừ khỏi Đảng cũng những hình phạt đúng luật đúng nguyên tắc để làm gương cho
những người khác và thanh lọc Đảng trong sạch. Kết hợp với đó là những kế hoạch
hóa trong phát triển kinh tế cho phù hợp với từng thời kỳ, phải có những quan điểm cụ
thể, kiện toàn bộ máy nhà nước thực hiện quản lý. Việc quản lý kinh tế được Bác chú
tâm rất kỹ. Theo Bác, việc quan tâm tới cán bộ quản lý kinh tế cũng rất quan trọng. Mà
quan tâm ở đây là quan tâm tới chất lượng đội ngũ quản lý, cần có chuyên môn quản
lý, kinh nghiệm quản lý đúng ngành phù hợp với vùng kinh tế, đồng thời phải có
những phẩm chất cần có của người quản lý, của công dân yêu nước. Có như vậy thì
việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm mới có thể thành công .
B. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Có thể nói việc áp dụng quan điểm của Hồ Chí Minh nêu trên của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà được coi là sự sáng tạo, là một
trong những nhân tố mới trong công cuộc đổi mới đất nước. Học tập và làm theo lời
Bác, Đảng và Chính phủ đã thực hiện phát triển nền kinh tế qua việc áp dụng hợp lý,
11
phát triển cơ cấu kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở : kinh tế nhiều
thành phần, cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều thành phần vào việc phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, Đảng
và Chính phủ cùng nhau giải phóng mọi năng lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vậy
phát triển kinh tế nhiều thành phần như thế nào? Làm sao cho hiệu quả trong thời kỳ
xã hội tại Việt Nam? Có thể nói, để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn trong tư duy
logic khách quan của nền kinh tế và phát huy tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền kinh tế
nhiều thành phần trên một nền tảng và trong một hoàn cảnh mới, phát triển lên một
trình độ và hình thức mới.
Quán triệt việc thực hiện chính sách nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ, tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII đã khẳng định trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất : “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật…”. Đại hội còn chỉ rõ : “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ.” . Đến Hội nghị TW 6 (khóa VI) Đảng ta khẳng định : phát
triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán có ý nghĩa chiến lược mang tính
lâu dài và tất cả các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Xuyên suốt 7 kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI đến Đại hội XII) và
cả trong “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ sung
phát triển năm 2011 đều đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi mới,
chính là Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đến Đại hội IX ( năm 2001) thì khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được
khẳng định như sau: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng diễn ra năm 2006 đã xác định các thành phần kinh tế của nước ta thời điểm
12
đó, bám sát vào tư tưởng Hồ Chí Minh là có 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, các thành phần kinh tế có tổ
chức hoạt động đúng pháp luật, đóng vai trò hợp thành nên nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cùng nhau phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tiếp tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta diễn ra vào năm 2011 lại
một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh.” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tổ chức năm 2016 trên
cơ sở tổng kết quá trình 30 năm đổi mới, Đảng khái quát lại những lý luận của mình:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.” Và cho tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng mới diễn ra gần đây một lần nữa giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn về tầm quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới, nhấn
mạnh về việc cải tiến để phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta
trong giai đoạn tiếp theo.
Bước đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, do nhiều nguyên nhân mà Việt Nam ta vội
vàng tập trung lực lượng vào công nghiệp nặng, từ đó trải qua quá trình khó khăn vất
vả. Phải đến Đại hội Đảng lần thứ V và dấu mốc thay đổi toàn diện trong văn kiện của
Đại hội Đảng lần thứ VI thì chúng ta mới thực sự có sự thay đổi, đặt trọng tâm vào nền
nông nghiệp theo lời dạy của Hồ Chủ tịch và từ đó nền kinh tế- xã hội mới bước đầu
có sự khởi sắc.
Và cho tới ngày nay, khi tình hình trong và ngoài nước có sự biến chuyển, Việt
Nam ta đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ chặng đầu với nội dung chính là đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Và hơn hết trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế ngày nay, cơ cấu kinh tế bắt buộc phải bắt kịp thời đại. Chính vì vậy, trong phương
hướng phát triển kinh tế- xã hội thì Đảng đã đưa ra những chủ trương : chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa với mục tiêu là tới năm 2020 thì
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên, trước mắt, chúng ta cũng
không được lơ là phát triển nông nghiệp bởi đó vẫn là ngành kinh tế trọng điểm của
đất nước.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta phải phát triển toàn điện nông
lâm ngư nghiệp, gắn liền với công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản. Trong Báo cáo
13
chính trị của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng tại đại hội IX đã chỉ rõ phương hướng
phát triển nền kinh tế quốc dân là: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên
cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị
trường trong và ngoài nước, đáp ứng về cơ bản các nhu cầu thiết yếu về đời sống nhân
dân và yêu cầu trang bị lại trong nền kinh tế và quốc phòng an ninh.” Đồng thời Đảng
cũng nhấn mạnh việc tăng cường chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn từ đó tiếp tục phát triển và đầu tư về kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn để đưa nông, lâm, ngư nghiệp lên trình độ
mới, có thể ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải thiện lợi nhuận. Cùng với đó dần
chuyển dịch lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân lực để bảo đảm cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vững
tiến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Việt Nam chúng ta được phân chia thành 7 vùng kinh tế trọng điểm như sau : Trung
du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc bộ ( Đồng bằng sông Hồng), Bắc Trung Bộ,
Ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.
Phụ thuộc vào đặc điểm địa lý, dân cư, tập tục thói quen của từng vùng mà Đảng và
nhà nước có những vận dụng và phương hướng nhất định để phát triển nền kinh tế của
vùng đó. Có thể nói Đảng ta thành công trong việc phát triển kinh tế của 7 vùng kinh
tế trọng điểm này.
Xét trong bối cảnh hội nhập kinh tế, thay đổi trong trục kinh tế và địa chính trị của
thế giới, sự xuất hiện của một trật tự thế giới đa cực, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn
Độ, Việt Nam chúng ta cần phải có những đổi mới tư duy chuyển từ “mở rộng quan
hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp tích cực, khởi
xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác.” Hơn nữa, tiếp cận đa ngành, liên
ngành và đa phương hiện nay đang là xu thế phổ biến nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu
hóa đang ngày phát triển mạnh mẽ cho nên Việt Nam càng phải có sự khai thác lãnh
thổ linh hoạt và tối ưu nhất trong đó tạo ra sự đột phá để đáp ứng yêu cầu của cạnh
tranh quốc tế và hội nhập toàn cầu.
Để thực hiện được những điều này thì Đảng và Chính phủ nhận định rằng cần phải
tập trung vào việc : Hoàn thiện quy hoạch vùng và lấy đó làm cơ sở để phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, Nâng cao chất lượng vật chất, gia tăng kết cấu cơ sở hạ tầng
kiến trúc xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng kinh tế hợp lý song song với
bảo vệ môi trường. Đặc biệt, Đảng còn chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm, vùng động lực, các khu kinh tế và các khu công nghiệp đi đôi với gia tăng liên
kết giữa các địa phương trong vùng và các vùng với nhau để phát huy tối đa hóa tiềm
năng và lợi thế của từng vùng kinh tế. Đảng cũng nhận định rằng không một địa
14
phương nào bị bỏ rơi, tức là cần phải tạo điều kiện cho các khu vực còn khó khăn nhất
là miền núi, hải đảo, biên giới, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía tây các
tỉnh miền Trung và bắt đầu hình thành các khu kinh tế xuyên biên giới.
15
KẾT LUẬN
Từ trong thực tế lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy được tầm quan trọng việc phân
tích, tìm hiểu về cơ cấu kinh tế trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội của tư tưởng Hồ
Chủ tịch và cho tới hiện nay khi nước ta bước tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày nay,
giá trị của tư tưởng Hồ Chủ tịch về cơ cấu kinh tế vẫn còn đó, mà Đảng và Chính phủ
luôn nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc, tiếp thu giá trị tư tưởng và phát huy
phù hợp với tình huống hoàn cảnh Việt Nam. Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc
kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Người chia cơ cấu kinh tế thành : cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần được Người phân tích một cách sâu sắc và rành mạch nhất, chỉ rõ
được điểm mạnh và yếu của từng thành phần để có thể tìm ra phương hướng phù hợp
phát triển cho từng thành phần kinh tế. Trải qua kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII
của Đảng ( 2021), Đảng và Chính phủ một lần nữa nhấn mạnh về tầm quan trọng của
tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế. Đồng thời, kế thừa tư tưởng của Bác, Đảng
đưa ra những phương hướng phát triển kinh tế phù hợp trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, phát triển khoa học công nghệ trong bối cảnh Cách mạng công nghệ 4.0.
Chúng ta có thể nhìn được rõ những nỗ lực của Đảng trong việc học tập tiếp thu tư
tưởng của Bác để cùng xây dựng phát triển kinh tế Việt trong thời kỳ đổi mới đất
nước. Là một cá thể trong thế hệ sinh viên đang học tập, bồi dưỡng tri thức khoa học,
tư tưởng trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt với
khối ngành chuyên ngành kinh tế, em nhận thấy được tầm quan trọng của việc tìm hiểu
cơ cấu kinh tế trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, và vai trò trọng trách của
những thế hệ tương lai trong việc học tập, tiếp thu và phát huy tư tưởng trong sáng vĩ
đại của Hồ Chủ tịch để phát triển đất nước, tiến tới chủ nghĩa xã hội.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2016, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, 2002, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. V.I.Lê nin, Toàn tập, 1980, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
4. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,1996 ,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,2001,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,2011,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,2016,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17