You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LUẬT

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH?
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm nêu trên như
thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Quỳnh Phương


MSV: 11218288
Lớp tín chỉ: LLTT1101(222)_14
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện

HÀ NỘI - 2023
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
I. Tư tưởng của Chủ nghĩa Mác Lênin về cơ cấu kinh tế 3
II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam 4
1. Cơ cấu thành phần kinh tế 4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế 8
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu vùng kinh tế 11
B. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

1
MỞ ĐẦU
Đã hơn 60 năm trôi qua kể từ khi Việt Nam ta bước sang thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, toàn dân ta đã trải qua giai đoạn phát triển kinh tế xã hội trong suốt một
quãng thời gian dài để rồi cùng nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang
một hình thái kinh tế xã hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Các Mác từng nhận định:
“Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
phát triển trên những cơ sở của chính nó mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa
vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa.” Và sau này, Lênin kế thừa tư tưởng chủ
nghĩa mác xít, khẳng định xã hội mới lọt lòng từ xã hội cũ sau “những cơn đau đẻ kéo
dài”, để rồi Hồ Chủ tịch phát triển tư tưởng đó mà xác định tầm quan trọng của thời kỳ
quá độ lên xã hội chủ nghĩa mà cần “ đi bước nào vững chắc bước ấy.” Nhìn chung
các nhà triết học đại tài này đều nhận định thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách
mạng triệt để toàn diện về mọi lĩnh vực mà để làm được điều đó thì cần giải quyết
những nhiệm vụ về kinh tế và chính trị.
Cho tới ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế vẫn luôn là vấn đề
nóng hổi và cấp bách. Phải làm sao để có được cái nhìn toàn diện để phát triển kinh tế?
Đến đây, ta nhìn về tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược, với
tư duy logic vượt thời đại mà cho tới tận bây giờ Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục học
tập và làm theo lời Bác để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân. Nhận thấy được tầm
quan trọng của việc tìm hiểu và phân tích cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ, em đã
lựa chọn và phân tích để tài: “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản
Việt Nam đã vận dụng quan điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế
nước ta hiện nay? ”
Trong quá trình tìm hiểu đề tài em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy
có thể đưa ra những bình luận góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện và chỉn chu hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

2
NỘI DUNG

A. CƠ SỞ LÝ LUẬN

I. Tư tưởng của Chủ nghĩa Mác Lênin về cơ cấu kinh tế


Theo chủ nghĩa Mác Lênin, tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
nói cách khác là nhiều bộ phận, nhiều mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã
hội để thay thế cho Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu và gây ra sự kìm hãm
cho phát triển kinh tế đất nước. Cùng với đó, Lê nin cũng đưa ra quan điểm của mình
về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo ông, trong
thời kỳ này có 5 thành phần kinh tế tương ứng với nước Nga thời đó :
- Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng
- Kinh tế hàng hóa nhỏ
- Kinh tế tư bản
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Như đề cập ở trên, ta nhận thấy điểm đặc biệt về thứ tự các thành phần kinh tế. Lê nin
đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh tế theo thứ tự, cấp độ tăng dần về tính chất chủ
nghĩa xã hội của từng thành phần kinh tế, tỷ trọng các thành phần kinh tế trong từng
giai đoạn lịch sử, sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội
chủ nghĩa. Ngoài ra, ông còn chú trọng về tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh và thống
nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển kinh tế đất nước tiến tới xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực
hiện chính sách kinh tế mới, Lênin luôn đánh giá cao vị trí và vai trò của thành phần
kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng kinh tế tư bản nhà nước dưới hình thức tô
nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuế cơ sở sản xuất,.. Phương thức,
hình thức này được xem như là “ chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư
bản để phát triển tiến tới chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không
chỉ là biện pháp “quá độ đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị điều kiện
vật chất đầy đủ nhất cho việc chuyển mình sang chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế sản xuất
hàng hóa nhỏ, trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì xuất
phát điểm là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, mà trước hết là từ
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông
để khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay tại Đại hội Đảng Cộng sản
3
Bolshevik lần thứ 10, V.I.Lê nin đã yêu cầu chính quyền Xô Viết phải nhanh chóng
phát triển nền kinh tế sản xuất tiểu nông bằng cách khuyến khích nền kinh tế nông dân
cá thể với những biện pháp “quá độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải
tạo nông dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người
nông dân cá thể thành nền sản xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách
tuần tự, có tính kế thừa và thận trọng. Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế
mới được áp dụng thực tiễn vào Nga, ông hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sẽ sống lại,
nhưng ông cho rằng không sợ nó, mà kêu gọi Chính quyền Xô Viết cần sử dụng tư
nhân nông dân, thợ thủ công, thương nhân,.. để phát triển kinh tế đất nước do tư bản tư
nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng cho xã hội – là cơ sở ổn định chính trị. Còn về
kinh tế chủ nghĩa xã hội, nhà triết học đại tài đánh giá cao vị trí và vai trò của thành
phần kinh tế này. Đây chính là xương sống của nền kinh tế - những mạch máu kinh tế
cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn nằm trong tay chính quyền
Xô Viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới được thực hiện, Lênin
chủ trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự hoàn vốn, chế độ hạch
toán kinh tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm vật chất
với kết quả hoạt động của mình.

II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Có thể nói, góc nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cơ cấu kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là góc nhìn sáng tạo, mang tính thực
dụng thực tế mà Đảng và nhân dân ta vận dụng cho tới tận ngày nay. Theo quan điểm
của Bác, cơ cấu kinh tế có thể được phân định ra thành : cơ cấu thành phần kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.

1. Cơ cấu thành phần kinh tế


Tư tưởng kinh tế của chủ tịch Hồ Chí Minh về các hình thức sở hữu và kinh tế
nhiều thành phần được thể hiện rõ nhất trong hai tác phẩm là “ Thường thức chính trị”
sáng tác năm 1953 và “Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp lần thứ 11
Quốc hội khóa I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” (năm 1959).
a. Tính tất yếu khách quan của việc trải qua giai đoạn dân chủ mới, thực hiện
kinh tế nhiều thành phần
Theo đó, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình
thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố kết lại thành một chỉnh thể kinh tế - xã
hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại của các thành phần
4
kinh tế khác nhau vẫn còn là tất yếu khách quan và có vai trò nhất định đối với
sự phát triển của nền kinh tế thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát triển chúng theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chủ
tịch đã chỉ ra rằng con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” , Người đã đề cập đến những thành
phần kinh tế của nước ta vùng tự do và trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ
nghĩa. Vấn đề này được Hồ Chủ tịch phân tích rất rõ ràng, chi tiết và sâu sắc
với tầm nhìn chiến lược. Người cho rằng trong chế độ dân chủ mới thì có năm
loại hình kinh tế khác nhau : - Kinh tế quốc doanh - Các hợp tác xã - Kinh tế
của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ - Tư bản của tư nhân - Tư bản của Nhà
nước Đi vào chi tiết, Hồ Chủ tịch nhận định trong năm loại thành phần kinh tế
này thì Kinh tế quốc doanh là kinh tế nắm vai trò lãnh đạo và phát triển nhanh
chóng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế nước nhà theo hướng chủ nghĩa xã
hội chứ không theo hướng tư bản theo lối mòn. Người cũng cho rằng ở đó, Nhà
nước nắm vai trò là xương sống, điều tiết nền kinh tế đi theo đúng hướng. Đối
với việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu, giữa các
thành phần kinh tế, phương châm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là : “phải
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa
xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.” Điều đặc biệt ở đây xét trên
tình huống sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn còn là một tất
yếu khách quan với vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế, Bác
Hồ đã phân tích rõ tính chất của từng thành phần kinh tế để có thể sử dụng
chúng hợp lý , phát triển chúng theo hướng định hướng xã hội chủ nghĩa. - Kinh
tế địa chủ phong kiến thì bóc lột địa tô, là thành phần kinh tế mang hơi hướng
chủ nghĩa phong kiến bóc lột kiểu cũ, lạc hậu và tàn bạo, gây nên sự đi lùi trong
công cuộc phát triển nền kinh tế cho nên cần phải loại bỏ. - Kinh tế quốc doanh
thì mang tính chất chủ nghĩa xã hội. Ở đây, tài sản của các xí nghiệp là tài sản
chung của nhân dân, của Nhà nước chứ không có dấu hiệu của tư hữu, chiếm
làm của riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thì xưởng trưởng, công trình sư
và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Như vậy, mỗi
ngành nghề, mỗi cá thể đều là chủ nhân, mang tính chất công bằng và đều có
quyền tham gia đóng góp ý kiến, quản lý và xây dựng môi trường xí nghiệp làm
việc hiệu quả. - Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất nửa
chủ nghĩa xã hội. Nhân dân góp chung để mua những vật liệu, công cụ, những
vật dụng cần thiết, hoặc bán những sản phẩm mà mình sản xuất,.. Các hội đổi
5
công ở nông thôn cũng được coi là một loại hợp tác xã. - Kinh tế cá nhân của
nông dân, thủ công nghệ thì họ thường tự tung hoạt động trao đổi buôn bán
những sản phẩm mình sản xuất được. Xét trên thực tế, đây là một thứ kinh tế
lạc hậu, cần được can thiệp, hướng dẫn để phát triển. Đối với người làm nghề
thủ công, lao động riêng lẻ khác thì Nhà nước cần có những chính sách bảo hộ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cho họ, hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cải
thiện phương thức làm ăn để đạt được lợi nhuận cao hơn, khuyến khích họ tổ
chức các hợp tác xã sản xuất theo phương thức tự nguyện. Đúc kết lại, Người
nhận định rằng với cá thể tiểu chủ thợ thủ công thì cần tận dụng sức lao động
nhàn rỗi của họ và đưa vào các hợp tác xã lành nghề. - Kinh tế tư bản của tư
nhân là kinh tế dựa trên tư bản chủ nghĩa, mang bản chất của tư bản chủ nghĩa.
Họ bóc lột công nhân tạo ra lợi nhuận, nhưng đồng thời họ cũng góp phần mình
trong quá trình xây dựng kinh tế. Như vậy có thể thấy Bác có quan điểm khách
quan với kinh tế tư bản tư nhân trong nước vì Người đã thấu tỏ đặc điểm khác
biệt của giai cấp tư sản Việt Nam so với các nước khác. Đó chính là giai cấp
này có xu hướng hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước cho nên “nếu
mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội.”
Đối với thành phần tư bản công thương, Nhà nước không được xóa bỏ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ mà phải ra sức hướng dẫn họ
hoạt động nhằm tạo lợi nhuận cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh
tế của Nhà nước. Chính phủ cần tận dụng khoa học công nghệ, những phát triển
sáng tạo của họ để làm giàu cho nền kinh tế chung, đồng thời khuyến khích và
giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội theo hình thức công tư hợp doanh kết
hợp các hình thức cải tạo khác. - Kinh tế tư bản Nhà nước là sự kết hợp giữa
Nhà nước và tư bản, Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh, và do Nhà
nước lãnh đạo. Điểm khác biệt của kinh tế tư bản tư nhân và Nhà nước chính là
tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản còn tư bản Nhà nước là chủ nghĩa xã hội.
Nói tới vai trò và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đưa ra những chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ cần thực
hiện nhằm phát huy nguồn lực, năng lực sáng tạo của nguồn lực xã hội. - Công
tư đều lợi : Như đã đề cập ở trên thì thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò
chủ đạo mà kinh tế quốc doanh là công. Nói theo cách khác, nó chính là nền
tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự
đoán được khả năng cao của việc nền kinh tế công sẽ bị ăn bớt, có những thành
phần cắt xét của công để trục lợi cho bản thân, cho nên Người đã yêu cầu : “Đối
với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải
6
trừng trị.” Trong đó, tư mà Người nhắc tới là những nhà tư bản dân tộc và kinh
tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đây cũng chính là lực lượng cần
thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nước nhà. Chính vì vậy
mà Chính phủ cần phải có những biện pháp thúc đẩy, giúp cho họ phát triển,
song song với đó khiến họ tin và phục tùng sự lãnh đạo của quốc gia dân tộc,
hướng tới lợi ích của đại đa số nhân dân. - Chủ thợ đều lợi : Khi nhắc tới vấn đề
chủ tư bản thì Người cho rằng “Nhà tư bản không khỏi bóc lột”. Đây là điều
không thể tránh khỏi bởi nhà tư bản mang bản chất của tư bản chủ nghĩa.
Nhưng đó không phải là cớ để tư bản có thể bóc lột sức lao động của công
nhân. Chính phủ cần phải ngăn cấm những hành vi bóc lột công nhân quá tay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, không tránh khỏi những mâu thuẫn giữa
các thành phần kinh tế, hình thức sở hữu khác nhau cho nên Chính phủ và Nhà
nước càng phải cẩn trọng trong việc quản lý, giải quyết những mâu thuẫn một
cách hợp lý, hài hòa lợi ích của chủ lao động và người lao động mà theo Bác
“Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của công nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài,
anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức.”
Song song với đó, Bác cũng nhận định rằng “chủ và thợ đều tự giác tự động,
tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.” - Công nông giúp nhau : Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ thuở ban đầu đã nhận ra được vai trò động lực chính của giai cấp công
nhân và nông dân trong liên minh công – nông trong sự nghiệp cách mạng
kháng chiến. Hai giai cấp này có mối liên hệ sâu sắc với nhau cho nên không
chỉ chính trị mà cả về sau khi đất nước đã thống nhất thì về mặt kinh tế, hai giai
cấp này cũng cần phải nương tựa hỗ trợ nhau để phát triển “công nhân ra sức
sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông
dân thì ra sức sản xuất nông cụ để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu
cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công nông.” - Lưu
thông trong ngoài : Với tư duy mang tính chiến lược tầm cỡ vĩ mô mà áp dụng
cho tới tận sau này, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tầm quan trọng của tư
duy mở rộng giao thương hoạt động kinh tế đối ngoại từ khi đất nước còn chiến
tranh. Mà vấn đề này sẽ được làm rõ hơn khi phân tích về tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơ cấu vùng kinh tế ở phía sau. Có thể nói việc thừa nhận sự tồn tại
khách quan lâu dài của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa chính là sự vận dụng sáng suốt những quan điểm mác xít của Hồ Chí
Minh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ ở nước ta. Mà nhiệm vụ
phát triển kinh tế nhiều thành phần thì không thể tiến hành một cách nóng vội
được mà cần phải tuân thủ theo nguyên tắc : vững chắc từng bước và trên tinh
7
thần hoàn toàn tình nguyện, phải quán triệt phương châm cải tạo để sử dụng và
sử dụng để cải tạo. Bất kỳ một hình thức tổ chức sản xuất nào cũng cần hướng
tới mục tiêu cao nhất chính là phát triển sản xuất, góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân để bảo đảm lợi ích của toàn thể các thành
phần kinh tế cũng như của người lao động.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế


Đề cập tới vấn đề kiến quốc, xây dựng nền kinh tế nước nhà, Hồ Chí Minh cũng rất
quan tâm đến một cơ cấu kinh tế hợp lý. Người đề cập tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
của nền kinh tế nước nhà, đặc biệt là cơ cấu ngành. Trước hết vấn đề cơ bản mang tính
sống còn chính là phải tìm ra được cơ cấu đạt hiệu quả kinh tế cao nhất là khi tại thời
điểm ấy, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất và nền kinh
tế sản xuất đã nhỏ lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhân dân còn đang đói khổ lầm
than. Ngay từ bước đầu phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng ngành nông
nghiệp nước ta. Theo Người, nông nghiệp phải là gốc, là trụ cột chính bởi vì nông
nghiệp bảo đảm lương thực, thực phẩm nguồn sống của con người, là cơ sở cho các
ngành kinh tế khác. Hơn nữa, vốn dĩ ở nước ta với tiền đề địa lý là nước nhiệt đới cận
xích đạo lấy nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu với bề dày lịch sử của nền nông
nghiệp lúa nước trải dài suốt quá trình kiến quốc, nông dân chiếm đại đa số trong dân
cư, cho nên việc quan tâm phát triển nông nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế nước nhà. Trong “ Thư gửi điền chủ nông gia Việt
Nam”, Người khẳng định “Việt Nam là nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta
lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong
vào nông dân, trông cậy vào công nghiệp một phần lớn. Nông dân ta làm giàu thì nước
ta giàu. Nông dân ta thịnh thì nước ta thịnh.” Quan điểm lấy nông nghiệp là chính, là
trung tâm sẽ còn lâu dài ở nước ta. Ngay trong thời kỳ kháng chiến, phát triển kinh tế
nông nghiệp cũng là một trong những điều kiện để đảm bảo thắng lợi. Trong bài viết “
Việt Bắc quyết thắng” viết năm 1949, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Mặt trận kinh tế gồm có
công nghệ, buôn bán và nông nghiệp”. Đối với Người ngành nào cũng quan trọng
nhưng trong thời điểm ấy thì quan trọng nhất vẫn là nông nghiệp vì “ có thực mới vực
được đạo”. Phải đảm bảo có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và nhân dân thì “kháng
chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công”. Sau ngày hòa bình lập lại,
đất nước được thống nhất và miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, lĩnh vực
quan trọng nhất để khôi phục kinh tế vẫn là nông nghiệp “ Hiện nay Đảng và Chính
phủ có quyết định khôi phục kinh tế, mà sản xuất nông nghiệp là chính.” Sau thời kỳ
khôi phục đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Miền Bắc
8
bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Thời kỳ này, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp .
Điều đó là hoàn toàn có cơ sở khoa học và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Người giải thích “Ở miền Bắc nước ta, nông nghiệp chiếm bộ phận lớn trong nền kinh
tế. Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu, đồng thời là nguồn xuất khẩu quan
trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo
và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác.” Phát
triển nông nghiệp ở nước ta lúc đó là thực sự quan trọng, không chỉ để đảm bảo lương
thực, thực phẩm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo việc làm cho người
lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà điều quan trọng hơn là nó sẽ là cơ sở
ban đầu cho các ngành kinh tế khác, cũng như cơ sở cho vấn đề công nghiệp hóa nước
nhà. Khi quan tâm đến nông nghiệp nước ta, Bác rất chú ý đến việc phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện bởi chỉ khi có một nền nông nghiệp phát triển toàn diện thì mới
bước đầu đáp ứng được tiêu chí tiến tới phát triển những ngành kinh tế khác. Mà để
thực hiện được điều này thì việc gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp là điều kiện
không thể thiếu. Nhưng chúng ta không thể thực hiện một cách mơ hồ và nóng vội
được mà cần “ phải tiến dần từng bước vững chắc.” Theo Bác, chìa khóa để thúc đẩy
mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp không đâu xa mà chính là thương
nghiệp. Vai trò của thương nghiệp được Người giải thích như sau: “ Trong nền kinh tế
quốc dân có ba mặt quan trọng : nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt tác
động quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp cái khâu giữa công nghiệp và nông
nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân thương nghiệp lại
đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu không thương nghiệp bị đứt thì
không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được liên minh công
nông, công tác không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, sẽ bị rời rạc.” Giải
nghĩa ra thì Hồ Chủ tịch nhấn mạnh việc thương nghiệp là cầu nối cho các ngành kinh
tế còn lại mà ở đây là nông nghiệp và công nghiệp, rồi tiến tới sau này sẽ kết nối nông
nghiệp và công nghiệp với ngành dịch vụ. Ngành thương nghiệp cải tiến nông nghiệp,
nông nghiệp không chỉ còn là việc sản xuất tiêu dùng nhỏ lẻ,nội bộ nữa mà được đưa
vào chế biến trong công nghiệp phát triển thành thị tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Hơn nữa nó còn khiến cho liên minh công nông thêm gắn kết với nhau, cùng
nhau phát triển để tạo ra lưu thông cho nền kinh tế quốc dân. Nhờ có sự lựa chọn cơ
cấu kinh tế hợp lý như trên nên chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế kháng chiến,
bảo đảm cho cuộc kháng chiến thắng lợi trong điều kiện đất nước bị bao vây cô lập.
Cũng nhờ có cơ cấu kinh tế đúng đắn đó nên chúng ta đã hoàn thành thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược thời kỳ 1954-1975 đưa đất nước đi lên theo định hướng xã hội
9
chủ nghĩa. Nhưng không thể chỉ dừng lại ở đó. Người nhìn thấu được hoàn cảnh đất
nước thời bấy giờ thiếu khoa học kĩ thuật do nước đế quốc xâm lược để lại chỉ là
những công cụ máy móc lỗi thời, chủ yếu là bóc lột sức người. Người nhận định rằng
khi chúng ta có đủ nguồn vốn và năng lực thì cần phải phát triển công nghiệp dịch vụ
để tập trung thay thế nông nghiệp. Đây là việc làm cần thiết và quan trọng nhưng
không thể đốt cháy giai đoạn mà cần có những bước đi cụ thể, mà theo Bác thì phải ưu
tiên từ nhẹ rồi mới đến nặng ( tức là ưu tiên ngành dịch vụ). Mà để phát triển được
khoa học kĩ thuật, phát triển các ngành kinh tế nước nhà và tạo lợi nhuận cho nền kinh
tế quốc dân thì việc thông thương mở rộng là điều không thể tránh khỏi. Chúng ta
không được đóng cửa khép kín mà cần tuân theo xu thế toàn cầu, tiếp thu và học hỏi
những thành tựu của nước ngoài để áp dụng cho Việt Nam phát triển.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu vùng kinh tế


Nói về quan điểm của mình về cơ cấu vùng thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra
phương hướng là cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm sao cho phù hợp với nông thôn,
thành thị và hải đảo để từ đó rút ngắn khoảng cách thu nhâp, văn minh và nhận thức
giữa các vùng.
Tiếp nữa, Người khẳng định phải xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác quốc tế. Bác cho rằng độc lập là phải độc lập toàn diện triệt để, một quốc gia
dân tộc độc lập là một quốc gia dân tộc độc lập về mọi mặt : chính trị, kinh tế, quốc
phòng, văn hóa tư tưởng. Mà quan trọng nhất với Người đó chính là độc lập và chính
trị và kinh tế, tức là không lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia dân tộc nào khác như một số
nước trung đông. Chúng ta độc lập toàn diện, độc lập về mọi mặt nhưng không có
nghĩa là đóng cửa khép kín mà vẫn còn có sự giao thương với các nước khác. Ở đây,
tư duy của vị lãnh tụ vĩ đại đã vượt ra khỏi thời đại, phá vỡ tư duy “bế quan tỏa cảng”
xưa cũ bằng những dòng chữ mộc mạc, ngắn gọn mà dễ hiểu dễ nhớ “ ta ra sức khai
lâm thổ sản để bán cho các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn
mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó chính
là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta”. Người cũng quan
tâm tới việc phát triển đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như sau : “Các bạn, người buôn
bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân và trí thức, đã chung sống với nhân
dân Việt Nam. Các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở Việt Nam. Những hoạt động chính
đáng về kinh tế và văn hóa của các bạn cũng có lợi cho Việt Nam. Vì vậy tôi khuyên
các bạn. Các bạn cứ yên lòng làm ăn như thường. Nhân dân và Chính phủ Việt Nam sẽ
giúp đỡ và bảo hộ các bạn.”

10
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của khoa học kĩ thuật đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng chúng ta không có điều kiện
thuận lợi cho khoa học kĩ thuật thì giờ cần phải học tập tiếp thu từ các nước đi trước,
tìm tòi và tiếp thu khoa học kỹ thuật, nguồn vốn của nước họ và đặc biệt là những kinh
nghiệm đi trước trong quản lý và sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng hóa. Từ đó ứng
dụng về nước ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập tục thói quen đặc điểm của
nền kinh tế nước nhà. Song song với việc học tập tiếp thu, chúng ta cũng không được
quên đi những tinh hoa của nước nhà, phải biết “hòa nhập mà không hòa tan”, cũng
như giữ vững tôn trọng độc lập chủ quyền, ngăn cấm mọi hành động ảnh hưởng đến
nền độc lập của quốc gia mình và không can thiệp tới độc lập chủ quyền của quốc gia
dân tộc khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc tập trung quản lý kinh tế, tức quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đưa ra những nguyên tắc trong quá trình quản lý cho hợp
lý, đảm bảo lợi ích chung của các thành phần kinh tế, công bằng với từng vùng kinh tế,
ngành kinh tế, cải thiện những mâu thuẫn trong nền kinh tế nước nhà. Hơn nữa, nước
ta là nước đi theo hướng xã hội chủ nghĩa cho nên cần tập trung dân chủ, tránh chuyên
quyền, bài trừ những hành vi tư hữu, trục lợi cho cá nhân, hay bóc lột sức lao động của
nhân dân lao động. Người cũng khẳng định cần chống tiêu cực trong hoạt động quản
lý, xử phạt nghiêm minh những hành vi tham ô tham nhũng, bè phái, đặc biệt là Đảng
viên thì càng phải có những biện pháp xử lý hợp tình hợp lý, nếu nghiêm trọng thì khai
trừ khỏi Đảng cũng những hình phạt đúng luật đúng nguyên tắc để làm gương cho
những người khác và thanh lọc Đảng trong sạch. Kết hợp với đó là những kế hoạch
hóa trong phát triển kinh tế cho phù hợp với từng thời kỳ, phải có những quan điểm cụ
thể, kiện toàn bộ máy nhà nước thực hiện quản lý. Việc quản lý kinh tế được Bác chú
tâm rất kỹ. Theo Bác, việc quan tâm tới cán bộ quản lý kinh tế cũng rất quan trọng. Mà
quan tâm ở đây là quan tâm tới chất lượng đội ngũ quản lý, cần có chuyên môn quản
lý, kinh nghiệm quản lý đúng ngành phù hợp với vùng kinh tế, đồng thời phải có
những phẩm chất cần có của người quản lý, của công dân yêu nước. Có như vậy thì
việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm mới có thể thành công .

B. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Có thể nói việc áp dụng quan điểm của Hồ Chí Minh nêu trên của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà được coi là sự sáng tạo, là một
trong những nhân tố mới trong công cuộc đổi mới đất nước. Học tập và làm theo lời
Bác, Đảng và Chính phủ đã thực hiện phát triển nền kinh tế qua việc áp dụng hợp lý,
11
phát triển cơ cấu kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở : kinh tế nhiều
thành phần, cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều thành phần vào việc phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, Đảng
và Chính phủ cùng nhau giải phóng mọi năng lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vậy
phát triển kinh tế nhiều thành phần như thế nào? Làm sao cho hiệu quả trong thời kỳ
xã hội tại Việt Nam? Có thể nói, để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn trong tư duy
logic khách quan của nền kinh tế và phát huy tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền kinh tế
nhiều thành phần trên một nền tảng và trong một hoàn cảnh mới, phát triển lên một
trình độ và hình thức mới.
Quán triệt việc thực hiện chính sách nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ, tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII đã khẳng định trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất : “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật…”. Đại hội còn chỉ rõ : “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ.” . Đến Hội nghị TW 6 (khóa VI) Đảng ta khẳng định : phát
triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán có ý nghĩa chiến lược mang tính
lâu dài và tất cả các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Xuyên suốt 7 kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI đến Đại hội XII) và
cả trong “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ sung
phát triển năm 2011 đều đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi mới,
chính là Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đến Đại hội IX ( năm 2001) thì khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được
khẳng định như sau: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng diễn ra năm 2006 đã xác định các thành phần kinh tế của nước ta thời điểm
12
đó, bám sát vào tư tưởng Hồ Chí Minh là có 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, các thành phần kinh tế có tổ
chức hoạt động đúng pháp luật, đóng vai trò hợp thành nên nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cùng nhau phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tiếp tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta diễn ra vào năm 2011 lại
một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh.” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tổ chức năm 2016 trên
cơ sở tổng kết quá trình 30 năm đổi mới, Đảng khái quát lại những lý luận của mình:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.” Và cho tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng mới diễn ra gần đây một lần nữa giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn về tầm quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới, nhấn
mạnh về việc cải tiến để phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta
trong giai đoạn tiếp theo.
Bước đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, do nhiều nguyên nhân mà Việt Nam ta vội
vàng tập trung lực lượng vào công nghiệp nặng, từ đó trải qua quá trình khó khăn vất
vả. Phải đến Đại hội Đảng lần thứ V và dấu mốc thay đổi toàn diện trong văn kiện của
Đại hội Đảng lần thứ VI thì chúng ta mới thực sự có sự thay đổi, đặt trọng tâm vào nền
nông nghiệp theo lời dạy của Hồ Chủ tịch và từ đó nền kinh tế- xã hội mới bước đầu
có sự khởi sắc.
Và cho tới ngày nay, khi tình hình trong và ngoài nước có sự biến chuyển, Việt
Nam ta đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ chặng đầu với nội dung chính là đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Và hơn hết trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế ngày nay, cơ cấu kinh tế bắt buộc phải bắt kịp thời đại. Chính vì vậy, trong phương
hướng phát triển kinh tế- xã hội thì Đảng đã đưa ra những chủ trương : chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa với mục tiêu là tới năm 2020 thì
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên, trước mắt, chúng ta cũng
không được lơ là phát triển nông nghiệp bởi đó vẫn là ngành kinh tế trọng điểm của
đất nước.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta phải phát triển toàn điện nông
lâm ngư nghiệp, gắn liền với công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản. Trong Báo cáo
13
chính trị của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng tại đại hội IX đã chỉ rõ phương hướng
phát triển nền kinh tế quốc dân là: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên
cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị
trường trong và ngoài nước, đáp ứng về cơ bản các nhu cầu thiết yếu về đời sống nhân
dân và yêu cầu trang bị lại trong nền kinh tế và quốc phòng an ninh.” Đồng thời Đảng
cũng nhấn mạnh việc tăng cường chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn từ đó tiếp tục phát triển và đầu tư về kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn để đưa nông, lâm, ngư nghiệp lên trình độ
mới, có thể ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải thiện lợi nhuận. Cùng với đó dần
chuyển dịch lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân lực để bảo đảm cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vững
tiến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Việt Nam chúng ta được phân chia thành 7 vùng kinh tế trọng điểm như sau : Trung
du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc bộ ( Đồng bằng sông Hồng), Bắc Trung Bộ,
Ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.
Phụ thuộc vào đặc điểm địa lý, dân cư, tập tục thói quen của từng vùng mà Đảng và
nhà nước có những vận dụng và phương hướng nhất định để phát triển nền kinh tế của
vùng đó. Có thể nói Đảng ta thành công trong việc phát triển kinh tế của 7 vùng kinh
tế trọng điểm này.
Xét trong bối cảnh hội nhập kinh tế, thay đổi trong trục kinh tế và địa chính trị của
thế giới, sự xuất hiện của một trật tự thế giới đa cực, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn
Độ, Việt Nam chúng ta cần phải có những đổi mới tư duy chuyển từ “mở rộng quan
hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp tích cực, khởi
xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác.” Hơn nữa, tiếp cận đa ngành, liên
ngành và đa phương hiện nay đang là xu thế phổ biến nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu
hóa đang ngày phát triển mạnh mẽ cho nên Việt Nam càng phải có sự khai thác lãnh
thổ linh hoạt và tối ưu nhất trong đó tạo ra sự đột phá để đáp ứng yêu cầu của cạnh
tranh quốc tế và hội nhập toàn cầu.
Để thực hiện được những điều này thì Đảng và Chính phủ nhận định rằng cần phải
tập trung vào việc : Hoàn thiện quy hoạch vùng và lấy đó làm cơ sở để phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, Nâng cao chất lượng vật chất, gia tăng kết cấu cơ sở hạ tầng
kiến trúc xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng kinh tế hợp lý song song với
bảo vệ môi trường. Đặc biệt, Đảng còn chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm, vùng động lực, các khu kinh tế và các khu công nghiệp đi đôi với gia tăng liên
kết giữa các địa phương trong vùng và các vùng với nhau để phát huy tối đa hóa tiềm
năng và lợi thế của từng vùng kinh tế. Đảng cũng nhận định rằng không một địa
14
phương nào bị bỏ rơi, tức là cần phải tạo điều kiện cho các khu vực còn khó khăn nhất
là miền núi, hải đảo, biên giới, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía tây các
tỉnh miền Trung và bắt đầu hình thành các khu kinh tế xuyên biên giới.

15
KẾT LUẬN
Từ trong thực tế lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy được tầm quan trọng việc phân
tích, tìm hiểu về cơ cấu kinh tế trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội của tư tưởng Hồ
Chủ tịch và cho tới hiện nay khi nước ta bước tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày nay,
giá trị của tư tưởng Hồ Chủ tịch về cơ cấu kinh tế vẫn còn đó, mà Đảng và Chính phủ
luôn nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc, tiếp thu giá trị tư tưởng và phát huy
phù hợp với tình huống hoàn cảnh Việt Nam. Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc
kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Người chia cơ cấu kinh tế thành : cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần được Người phân tích một cách sâu sắc và rành mạch nhất, chỉ rõ
được điểm mạnh và yếu của từng thành phần để có thể tìm ra phương hướng phù hợp
phát triển cho từng thành phần kinh tế. Trải qua kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII
của Đảng ( 2021), Đảng và Chính phủ một lần nữa nhấn mạnh về tầm quan trọng của
tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế. Đồng thời, kế thừa tư tưởng của Bác, Đảng
đưa ra những phương hướng phát triển kinh tế phù hợp trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, phát triển khoa học công nghệ trong bối cảnh Cách mạng công nghệ 4.0.
Chúng ta có thể nhìn được rõ những nỗ lực của Đảng trong việc học tập tiếp thu tư
tưởng của Bác để cùng xây dựng phát triển kinh tế Việt trong thời kỳ đổi mới đất
nước. Là một cá thể trong thế hệ sinh viên đang học tập, bồi dưỡng tri thức khoa học,
tư tưởng trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt với
khối ngành chuyên ngành kinh tế, em nhận thấy được tầm quan trọng của việc tìm hiểu
cơ cấu kinh tế trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, và vai trò trọng trách của
những thế hệ tương lai trong việc học tập, tiếp thu và phát huy tư tưởng trong sáng vĩ
đại của Hồ Chủ tịch để phát triển đất nước, tiến tới chủ nghĩa xã hội.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2016, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, 2002, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. V.I.Lê nin, Toàn tập, 1980, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
4. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,1996 ,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,2001,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,2011,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,2016,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17

You might also like