Professional Documents
Culture Documents
Bài tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học
Bài tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học
Hà Nội, 2021
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT Họ và tên Chức Phân công công việc Mức độ Ký xác
vụ tham nhận
gia
31 Phạm Vũ Thanh Nhóm Giải pháp nhằm thúc đẩy
Hoa trưởng GCCN hoàn thành SMLS
Word
32 Ngô Thị Hoài Thành Vai trò GCCN Việt Nam
viên trong giai đoạn hiện nay
Thuyết trình
33 Hoàng Bích Hồng Thư ký Lời mở đầu+Kết luận
Word
34 Nguyễn Thị Ánh Thành Thực trạng GCCN Việt Nam
Hồng viên hiện nay
35 Vũ Thị Hồng Thành Đặc điểm GCCN Việt Nam
viên
36 Nguyễn Liên Thành Nhân tố chủ quan quan trọng
Huấn viên thực hiện SMLS
37 Mẫn Thị Huệ Thành Nội dung sứ mệnh lịch sử
viên GCCN Việt Nam
38 Nguyễn Thị Huệ Thành Nguồn gốc ra đời GCCN và
viên khái niệm GCCN Việt Nam
39 Trần Minh Huệ Thành SMLS toàn thế giới của GCCN
viên
40 Phan Cao Mạnh Thành Khái niệm GCCN và đặc
Hùng viên điểm GCCN
Poweroint
LỜI MỞ ĐẦU
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất
và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và
phát triển cùng với quá trình phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ
phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao. Đóng
vai trò là một giai cấp quan trọng trong các thời kỳ lịch sử với vai trò lãnh đạo.
Đến nay, giai cấp công nhân vẫn tiếp tục khẳng định vai trò của trong trong quá
trình xây dựng và đổi mới đất nước.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được
vai trò của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Giai
cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng Cộng sản Việt
Nam đặc biệt chú trọng phương hướng xây dựng giai cấp công nhân trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: "Đối với giai
cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ
và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là một lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
2
hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trên
thực tế hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức phát triển rút
ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó để thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình về nội dung kinh tế, giai cấp công nhân phải đóng vai trò nòng cốt trong
quá trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát
triển trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho
quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.
Nội dung chính trị - xã hội:
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ chính quyền của giai cấp thống
trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công
nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân dân
lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình làm chủ như một công cụ có hiệu
lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới, thực hiện dân chủ, công
bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Nội dung văn hóa tư tưởng:
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân trong tiến trình cách
mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng
cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động; công bằng; dân chủ; bình
đẳng và tự do. Giai cấp công nhân phải tiến hành xóa bỏ giai cấp bóc lột, phải
tiến hành xóa bỏ giai cấp nói chung, tạo sự bình đẳng trong quan hệ giữa người
với người. Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa tư tưởng
bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong tư tưởng,
tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và củng cố ý thức
hệ tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đấu tranh để
khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư còn sót lại của các hệ tư tưởng cũ. Phát
triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống
mới xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân hiện đại.
II. Nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN thực hiện SMLS
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C. Mác và
Ph. Ăng ghen trình bày sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác
phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân bao gồm địa vị kinh tế của giai cấp công nhân và địa vị
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song,
để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân
tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng cộng sản
trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là nhân tố chủ quan
5
quan trọng nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình.
Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm
nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc
của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng. Đảng cộng sản bao
gồm những người ưu tú, có kiến thức và tư tưởng tiến bộ nhất trong giai cấp
công nhân. Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, GCCN mới đạt tới trình độ nhân
thức về lý luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác
vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công
nhân. Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp
giữa chủ nghĩa xã hội khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được
thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời
gian. ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản. Từ
thực tiễn, ở Việt Nam, quy luật phổ biến này được biểu hiện trong tính đặc thù,
xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam. Đó là: Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc. Đây là phát kiến
rất quan trọng của Hồ Chí Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt hơn các
Đảng Cộng sản trên thế giới là bởi có phong trào yêu nước vì:
Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá
Việt Nam.
Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì
hai phong trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam
được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào
yêu nước có trước phong trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào
đó nó lại là phong trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến
phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa
phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với
nhau.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì
vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. Nó nhân lên sức mạnh của
Đảng, tạo chỗ dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân VN.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và GCCN:
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của
toàn thể giai cấp. Đối với giai cấp công nhân đó là đảng cộng sản, chẳng những
đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn
thể nhân dân lao động và dân tộc. Cho nên phải có một đảng chính trị vững
vàng, kiên định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể
6
hiện lợi ích của toàn giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung
lực lượng của đảng, đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai
cấp, là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp
công nhân và của dân tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu
cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là
công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này. Với một đảng cộng sản chân
chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai
cấp là thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh
đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đem
lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ
và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các
tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường
lối của đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng Cộng sản là nhân tố đảm bảo cho GCCN thực hiện thắng lợi SMLS
của mình. Với vai trò là lãnh tụ chính trị của GCCN, Đảng Cộng sản trang bị lý
luận Mác - Lenin, đưa ra những cương lĩnh chính trị, đường lối phương hướng
phù hợp. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã năm lần ban hành cương lĩnh
hoặc những văn bản có tính cương lĩnh. Mỗi cương lĩnh đề chứa đựng những giá
trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trò lịch sử trọng đại đối với vận
mệnh của dân tộc ta. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo vào tháng 2/1930 và gần đây nhất là Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Đảng
Cộng sản đại diện cho lợi ích của GCCN, nhân dân lao động, động viên, tập hợp
lãnh đạo thực hiện đường lối của mình. Đảng Cộng sản còn là bộ tham mưu
chiến đấu của GCCN.
B. GCCN VIỆT NAM & THỰC HIỆN SMLS TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
I. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam
1. Nguồn gốc ra đời của GCCN Việt Nam
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với quá
trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX. Trước
khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong
kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân;
duy trì nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế
công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược, biến nước ta thành thuộc địa nửa phong kiến. Sau khi cuộc xâm lăng và
bình định đã cơ bản hoàn thành, thực dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác
thuộc địa lần thứ I với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà máy rượu bia, vải
sợi, điện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn điền cao su, cà phê...lần lượt ra
đời và cùng với đó đội ngũ những người công nhân Việt Nam đầu tiên được
7
hình thành. Họ là những người nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, những
người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm việc trong các doanh nghiệp tư
bản Pháp. Theo số liệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổng số
công nhân của Việt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập trung ở một số
thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng
Ninh...
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp
đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II (1919 – 1929)với quy mô và tốc
độ lớn hơn trước. Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao
thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng cường vơ vét
và bóc lột ở các nước thuộc địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã
phát triển nhanh chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.
Như vậy, sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn tới
sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam. Và đó cũng chĩnh là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới –
giai cấp công nhân Việt Nam.
Thứ hai, sớm thể hiện là lực lượng chính trị tiên phong lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa
dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và phong kiến thống trị. Ra đời trước
giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư
tưởng GCCN quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và
thống nhất, được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục và sớm giác ngộ mục tiêu lý
tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liên với CNXH; GCCN Việt
Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, GCCN Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân
trong xã hội. GCCN nước ta xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân pháp
phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên có mỗi quan hệ máu thịt với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác. Họ đều trong vị thế mất nước, có nguyện
vọng chung là giiar phóng dân tộc. Qua thử thách cách mạng, liên minh giai cấp
đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kến dân tộc, xây
dựng khối liên minh công – nông – trí thức, nòng cốt của khối đại đoàn kết dân
tộc. Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, GCCN Việt Nam luôn phát huy bản
chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu và
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Quá trình “tri thức hóa” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng bước hình
thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam, nâng cao trình độ GCCN, thay đổi
về tính chất lao động, điều khiển những công nghệ tự động hóa của nền kinh tế
tri thức.
- Biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng và chất
lượng với một cơ cấu tổ chức hợp lý theo một cơ chế hoạt động khoa học, giúp
GCCN nước ta phát huy sức ,mạnh và vị thế trong quá trình hội nhập quốc tế, đi
đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Thứ hai, GCCN Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu thành phần và
ngành nghề có mặt trong mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong
khu vực kinh tế nhà nước là tiêu biểu, đóng vai trò nòng cốt, chủ đạo.
Thứ ba, công nhân tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến, là
lực lượng lao động chủ đạo, nòng cốt trong GCCN Việt Nam. Trong điều kiện
thông tin, khoa học công nghệ đã chiếm vị trí hàng đầu trong sản xuất, công
nhân trí thức trở thành bộ phận tiên tiến nhất của GCCN ở Việt Nam nói riêng
cũng như toàn thế giới nói chung.
Thứ tư, trong môi trường kinh tế - xã hội đổi mới, trong đà phát triển
mạnh mẽ cả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, GCCN việt Nam đứng
trước thời cơ phát triển nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.
Thứ năm, điểm then chốt để thực hiện thành công SMLS của GCCN Việt
Nam hiện nay là xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng lãnh đạo, cầm
quyền thực sự trong sạch, vững mạnh.
9
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân – đó là trọng trách lịch sử
thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
• Nội dung văn hóa – tư tưởng
Nội dung trực tiếp về văn hóa tư tưởng thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo
dục đạo đức cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp, văn minh,
hiện đại, xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, hoàn thiện nhân
cách.
Giai cấp công nhân còn tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý
luận để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại những quan điểm sai trái,
những sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên định ý tưởng, mục tiêu và con
đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân Việt
Nam phải thường xuyên giáo dục cho các thế hệ công nhân và lao động trẻ ở
nước ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân với dân tộc, đoàn
kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
II. GCCN Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn hiện nay
trước và giảm 0,23 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp
trong độ tuổi của khu vực thành thị là 3,36%, tăng 0,17 điểm phần trăm so với
quý trước và giảm 0,95 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
2. Vai trò của GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Giai đoạn hiện nay,trong thời kỳ mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế, tham gia vào toàn cầu hóa, Cách mạng công nghiệp 4.0,
vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục được thể hiện ở những điểm
chủ yếu sau:
- Một là, giai cấp công nhân nước ta luôn tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
CNXH, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong công cuộc đổi mới, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân có vai trò đặc biệt quan
trọng. Giai cấp công nhân trực tiếp làm việc trong các công xưởng, nhà máy,
doanh nghiệp, trong các lĩnh vực của ngành kinh tế công nghiệp, trực tiếp tiếp
nhận công nghệ tiên tiến đưa vào sản xuất, cải tiến công cụ, quy trình, quản lý...
Đó là những người chủ trong ngành công nghiệp, người đi tiên phong trong sự
12
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Đảng đã khẳng định: giai cấp công nhân nước ta là “lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Hai là, giai cấp công nhân nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng duy trì
và phát triển hoạt động sản xuất, tạo ra khối lượng lớn sản phẩm công nghiệp,
đóng góp chủ yếu vào ngân sách Nhà nước, góp phần quan trọng tạo nên thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới (1986-2021)
Bước vào thời kỳ đổi mới, các ngành kinh tế nước ta, nhất là lĩnh vực
công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Giai cấp công nhân kiên trì khắc phục khó
khăn, duy trì và phát triển hoạt động sản xuất, dần thích ứng với cơ chế quản lý
mới, nâng cao năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm công nghiệp,
đóng góp chủ yếu vào ngân sách Nhà nước. Công nhân là lực lượng lao động
trực tiếp thúc đẩy “Sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi, giá trị gia tăng
ngành công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 6,9%/năm; tỷ trọng công nghiệp
chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng… Giá trị ngành công nghiệp,
xây dựng năm 2011 tăng 6,68%, năm 2012: 5,75%, năm 2013: 5,43%, năm
2014: 7,14%, năm 2015: 9,29%”(2). Giá trị ngành công nghiệp hàng năm tăng
cao, trong đó có công sức, trí tuệ của giai cấp công nhân, đóng góp chủ yếu vào
giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP), góp phần quan trọng vào thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
* Giai cấp công nhân nước ta đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến
Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công
cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trong tiến trình lịch sử, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong
của cách mạng Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của
dân tộc. Đặc biệt, sau 35 năm đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các
thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
- Ba là, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội rộng lớn, trực
tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia hiệu quả vào công tác xây dựng
Đảng.
Trong công cuộc xây dựng CNXH theo mô hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN hiện nay, giai cấp công nhân nước ta có đội tiền phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam, được Đảng lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động. Bởi
vậy, giai cấp công nhân rất thuận lợi khi tham gia vào công tác xây dựng Đảng.
Đồng thời, với xu hướng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, giai cấp
công nhân là nguồn lực dồi dào cung cấp cho Đảng ngày càng nhiều đảng viên
là công nhân, góp phần khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Thông qua tăng số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ đảng viên là công nhân,
Đảng sẽ được bổ sung lực lượng đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
13
trình độ và tác phong, kỷ luật lao động hiện đại, nhiều đảng viên là công nhân trí
thức… Từ đó, góp phần quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng
thông qua hoạt động trực tiếp của những đảng viên là công nhân ở mọi doanh
nghiệp, lĩnh vực, địa bàn của ngành công nghiệp, góp phần nâng cao bản chất
giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện hiện nay.
Giai cấp công nhân nước ta đã và đang phát huy hiệu quả vai trò là giai cấp
lãnh đạo cách mạng.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, giai cấp công nhân nước ta
là một trong những giai cấp, tầng lớp xã hội gặp nhiều khó khăn, thách thức
chưa từng có của bước chuyển đổi mạnh mẽ, toàn diện từ xây dựng, phát triển
nền kinh tế đất nước nói chung, phát triển kinh tế công nghiệp nói riêng theo mô
hình hành chính, tập trung bao cấp sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Đây là nhiệm vụ nặng nề, mới mẻ, trong khi đó,
phong cách, lề lối làm việc của công nhân còn chịu tác động của cơ chế hành
chính, tập trung bao cấp. Song, phát huy truyền thống cách mạng, kiên cường,
bất khuất và tiên phong, giai cấp công nhân vẫn luôn giữ vững và thể hiện là giai
cấp lãnh đạo cách mạng nước ta trong điều kiện mới. Điều này được Đảng ta
khẳng định tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X: giai cấp công nhân nước ta “Là
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam”
Giai cấp công nhân nước ta “là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng”
Trong thực tế, quan hệ giữa công nhân với nông dân và trí thức đã hình thành
nên khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức đã, đang và sẽ thúc đẩy sự hợp tác, liên minh, liên kết của công
nhân với trí thức và nông dân; từ đó hình thành, phát triển các nhóm xã hội giáp
ranh, đan xen giữa công nhân và trí thức, giữa công nhân và nông dân. Các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thúc đẩy các mối quan hệ hợp
tác, liên minh, liên kết giữa các giai tầng xã hội. Thông qua đó, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu, số lượng, chất lượng lao động, để tạo nên nguồn nhân lực
có chất lượng cao cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, trong thời kỳ mới, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng
CNXH trong điều kiện mới. Liên minh ấy chỉ có thể phát huy và khẳng định vai
trò khi được xây dựng, củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức theo
đường lối, quan điểm của Đảng, lập trường của giai cấp công nhân.
Hiểu được vai trò của GCCN toàn thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng,
ngày Quốc tế lao động ra đời, lấy ngày 1/5 làm ngày kỉ niệm. Nguồn gốc bắt đầu
từ thành phố công nghiệp lớn Chicago, Mỹ vào năm 1886. Năm 1886, tại thành
phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị
quyết nêu rõ: “… Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ
là 8 giờ”. Ngày 1/5/1886, do yêu cầu công nhân không được đáp ứng một cách
14
đầy đủ, giới công nhân nước Mỹ đã tham gia bãi công. Họ tổ chức mít- tinh,
biểu tình trên thành phố với biểu ngữ: “ Từ hôm nay, không người thợ nào làm
việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ
vui chơi!”. Tại Việt Nam, Quốc tế lao động tổ chức đầu tiên vào năm 1/5/1930,
tại ngã ba Bến Thủy, Thành phố Vinh, cuộc biểu tình của hơn 1000 công nhân
cùng với sự lãnh đạo của Đảng đã mở đầu cho cao trào cách mạng Xô Viết –
Nghệ Tĩnh (1930 -1931). Ngày 1/5/1938, Lễ mít tinh kỷ niệm Quốc tế Lao Động
được ĐCS Đông Dương lãnh đạo, lần đầu tiên được tổ chức với sự tham gia của
25.000 công nhân các giới thợ tại Nhà Đấu Xào Hà Nội, nay chính là Cung Văn
hóa Hữu nghị Việt Xô.
3. Giải pháp nhằm thúc đẩy GCCN hoàn thành SMLS của mình
3.1. Định hướng xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay
Tại kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII năm 2021, Tổng Bí Thư,
chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh mục tiêu cụ thể không chỉ trong
nhiệm kỳ khóa XIII mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất
nước ta trong thập niên sắp tới. Đến năm 2025: là nước đang phát triển có công
nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm
2030: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển thu nhập cao. Với những ý nghĩa lớn
lao đó, việc phát huy vai trò của giai cấp công nhân, qua đó xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh luôn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước là một nội dung quan trọng trong hoạt động của Đảng,
Nhà nước, và hệ thống chính trị các cấp. Qua hơn 30 năm đổi mới, cùng với quá
trình CNH, HĐH đất nước, GCCN nước ta đã có những chuyển biến quan trọng,
tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình
thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai
trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiền phong là ĐCS Việt Nam,
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát
huy vai trò là lực lượng nòng cốt và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tại đại hội lần thứ X vào năm 2006, Đảng đã xác định phương hướng xây dựng
GCCN là: phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và
bản chất chính trị, trình độ học vấn, nghề nghiệp; giái quyết vấn đề việc làm, vv.
Tại hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X vào năm 2008, Đảng
ta ra Nghị quyết: tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Nhấn mạnh việc xây dựng GCCN có giác ngộ giai cấp và bản
lĩnh chính trị; có ý thức công dân, yêu nước, yêu CNXH; thực hiện SMLS của
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCS VN.
Trong khối đại đoàn kết dân tộc, giai cấp công nhân đã góp trực tiếp to
lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và
thành phần xã hội khác, GCCN nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của
Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng được yêu
cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
15
của sự nghiệp CNH, HĐH và họi nhập kinh tế quốc tế,… Địa vị chính trị của
GCCN chưa thể hiện đầy đủ, GCCN còn hạn chế về phát huy vai trò nóng cốt
trong liên minh GCCN với Gcnoong dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Bản thân GCCN đã có nhiều nỗ lực vươn lên nhưng hiệu quả chưa
cao, còn nhiều yếu kém. Các doanh nghiệp và người sử dụng lao động thuộc
thành phần kinh tế, đóng góp tích cực vào tạo việc làm và thu nhâp cho công
nhân nhưng không ít trường hợp còn vi phạm chính sách, pháp luật đối với
người lao động.
3.2. Giải pháp nhằm thúc đẩy GCCN hoàn thành SMLS của mình
Đối với bản thân GCCN:
GCCN phải luôn không ngừng học tập, nâng cao trình độ học vấn tay nghề,
không ngừng nâng cao giác ngộ ý thức giai cấp. Cần nâng cao ý thức giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó thiết tha với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ XHCN, ý chí vươn lên
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại, trong điều kiện phát
triển nền kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng
trong cạnh tranh, bồi dưỡng lương tâm nghề nghiệp, tinh thần đấu tranh xây
dựng, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp.
Đối với Đảng cộng sản:
ĐCS cần luôn quan tâm đến GCCN, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; Nâng
cao bản lĩnh chính trị và năng lực cán bộ đảng viên, thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác cán bộ, cơ cấu cán bộ phải hợp lý. Đảng phải lãnh
đạo xây dựng chiến lược về GCCN trong thời kỳ CNH, HĐH; lựa chọn những
cán bộ tốt trong gia cấp công nhân để tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể và công đoàn; Lãnh đạo Nhà nước xây dựng, ban hành
và thực thi những chủ trương, chính sách để xây dựng GCCN lớn mạnh; Giải
quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân. Định hướng
đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên từ cấp học phổ thông. Tăng cường lãnh đạo
thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng. Các cấp ủy của Đảng cần chú
trọng lãnh đạo, tạo điều kiện để Công đoàn làm tròn vai trò, vị trí vủa mình,
thông qua hoạt dộng công đoàn, Đảng định hướng về mục địch chính trị, tập hợp
đông đảo công nhân trong mặt trận thống nhất rộng rãi, nhằm phát huy vai trò
tiên phong, cách mạng của GCCN. Chú ý hơn nữa công tác tuyển chọn, bồi
dưỡng, sử dụng cán bộ xuất thân từ công dân, từng bước tăng tỉ lệ công nhân
trong bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng chính quyền. Chú trọng công tác đào
tạo bồi dưỡng, sử dụng và tạo cơ hội phát triển cho những cán bộ công đoàn trẻ,
có năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tốt xuất thân từ công nhân.
Đối với nhà nước XHCN:
Nhà nước XHCN phải có chính sách giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ học
vấn và tay nghề cho giai cấp công nhân để phù hợp với yêu cầu của thời đại
mới. Cần đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng GCCN, để đủ số lượng,
đảm bảo về chất lượng, cơ cấu hợp lý, theo hướng trí thức hóa GCCN, có trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có khả năng tiếp thu nhanh và
16
làm chủ công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng
cạnh tranh. Chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân những nhà kinh doanh có tài,
có đức, các nhà quản lý giỏi và các cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao, có
khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại trong nền
kinh tế thị trường, hội nhập.
Ngoài ra, nhà nước XHCN cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề cải thiện đời sống
công nhân. Trước mắt cần tập trung giải quyết một cách cơ bản vấn đề việc làm,
nâng cao đời sống, quyền dân chủ của công nhân và thực hiện công bằng xã hộ,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện việc làm, ăn ở, học
tập, vui chơi, giải trí và tăng cường chăm sóc sức khỏe cho công nhân. Đặc biệt
cần cải cách, hoàn thiện chính sách tiền lương, nâng lương tối thiểu, xây dựng
cơ chế trả lương theo vị trí làm việc thực tế của công nhân, thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động và phân phối theo sự đóng góp của mọi người, để nâng
cao đời sống cho công nhân và gia đình họ. Hơn nữa cần có những chính sách
chăm lo, cải thiện điều kiện lao động, phòng chống có hiệu quả tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp.
Nhà nước XHCN cần tăng cường khối đại đoàn kết, liên minh hợp tác hữu
nghị với GCCN quốc tế. Đại đoàn kết dân tộc – di sản vô giá, truyền thống cực
kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước
và giữa nước. Từ khánh chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá “ Chúng
ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ..”
và sự đồng lòng của toàn dân tộc đã phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong suốt 9 năm chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ lâu dài gian khổ để cuối cùng làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “
lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đặc biệt trong công cuộc chống Mỹ,
cứu nước trường kỳ gian khổ khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt
Nam: “ Không có gì quý hơn độc lập tự do”, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
lãnh tụ Hồ Chí Minh “ Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết. Thành công , thành
công, đại thành công.đã vận dụng một cách sáng tại, phát huy tới đỉnh cao với
nhiều hình thức phong phú trong điều kiện lịch sử mới. Trong khói lửa ác liệt
của chiến tranh, nhiều phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực ở cả
miền Nam và miền Bắc với khẩu hiệu hành động: “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ, xâm lược”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba
đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân
dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải
đảo hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất.
4. Liên hệ thực tiễn bản thân
Thứ nhất, là sinh viên, phải không ngừng học tập, rèn luyện làm chủ kiến
thức, kỹ năng. Sau khi tốt nghiệp có thể trở thành công nhân, trí thức,… qua đó
đóng góp vào công cuộcxây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
Đồng thời, cần ủng hộ các phong trào đấu tranh của GCCN, nhân dân lao động
tiến bộ trên thế giới.
17
Thứ hai, là thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước, khi đất nước ta đang
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, để thực hiện được SMLS của GCCN,
thực hiện được mục tiêu, sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường cách mạng Việt Nam
từ khi Đảng ra đời đó là “ độc lập dân tộc găn liền với chủ nghĩa xã hội”, bản
thân là sinh viên cần giác ngộ được lập trường về tư tưởng Mác- Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, giác ngộ lí tưởng của giai câp công nhân là chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản, và phấn đầu xây dụng một xã hội tiến bộ, dân giàu
nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh. Phấn đấu là đảng viên của ĐCS Việt
Nam, phấn đầu rèn luyện trên tất cả các mặt, viết tiếp những trang sử hào hùng
của dân tộc.
Thứ ba, sinh viên phải hiểu được đặc điểm ra đời của GCCN Việt Nam,
trong lòng một xã hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa, từ một xã hội lạc hậu, cơ
cấu giai cấp lạc hậu. Dẫn tới trình độ thấp, tác phong công nghiệp còn hạn chế,
Do vậy, bản thân sinh viên phải đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH ở
Việt Nam, với tầm nhìn đến năm 2045 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
hiện đại. Chính vì vậy, sinh viên phải là người tiên phong trong tiếp thu, giáo
dục, phổ biến tri thức góp phần nâng cao tri thức cho cộng đồng.
Thứ tư, chúng ta phải tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lenin, vào sự lãnh đạo
của ĐCS Việt Nam, vào con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩaa xã hội, phê
phán những quan điểm sai trái, quan điểm của các học giả phương Tây là tìm đủ
mọi cách để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN trong phong trào thế giới,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam.
18
KẾT LUẬN
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và
toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Và phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản
lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công
nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng
trong thời kỳ mới. Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh
nhân loại, có những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn
đề trong phát triển của xã hội. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp
công nhân sản xuất ra của cải vật chất ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của con người. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân, đang xuất hiện ngày càng
đông đảo trình độ ngày càng nâng cao, cơ cấu, phân tầng sâu sắc. Cùng với sự
phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, giai cấp công
nhân ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân có những thay đổi trong giai đoạn mới. Tuy
nhiên, vai trò vị trí tiên phong trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân không giai cấp nào thay thế được. Chính vì vậy, việc giáo dục sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cho các thế hệ sinh viên là việc làm cần thiết. Điều
này góp phần giúp sinh viên nhận thức được vị trí, vai trò trò trách nhiệm xã hội
của bản thân. Sinh viên cố gắng vươn lên học tập rèn luyện, bản lĩnh chính trị
vững vàng, chinh phục khoa học, làm chủ công nghệ, tăng năng suất lao động
góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.
HẾT