You are on page 1of 36

Khoa: Văn học

MSSV: 2256010127
Họ và tên: Đinh Thị Diệu Thùy

ĐỀ CƯƠNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Mở bài 1: Trong buổi đối thoại của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và các thành viên Chính phủ với tuổi trẻ mới đây, Phó
Thủ tướng đã nhấn mạnh ba cơ hội lớn của đất nước và cũng là cơ hội cho tuổi trẻ lập thân, lập nghiệp, đó là: toàn cầu hóa, kinh
tế tri thức và công nghệ thông tin. Ðây chính là xu thế phát triển chủ yếu của thế giới hiện đại, là những nhân tố quyết định làm
nên bộ mặt của thế giới trong thế kỷ 21. Để nắm bắt được các yêu cầu tất yếu đó, người trẻ trước hết phải trau dồi tri thức, nâng
cao hơn niềm tự tôn dân tộc và trách nhiệm với đất nước. Trong quá trình trau dồi tri thức, biết và hiểu rõ về ... sẽ giúp người trẻ
vững bước trên con đường hội nhập và phát triển.

Mở bài 2: Tài và đức là hai mặt quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách của con người. Đôi khi con người chỉ quan tâm rèn
luyện và phát triển cái tài mà quên đi trau dồi, hoàn thiện cái đức. Hiểu được điều đó, mục tiêu của môn học là giúp người học
bồi dưỡng đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có ý thức phục vụ tổ quốc, có lý tưởng cách mạng thông qua những kiến thức cơ bản về
vấn để triết học. Trong đó, ... là vấn đề cơ bản cần hiểu sâu sắc để phát triển bản thân và phát triển đất nước.

Kết bài: Suy cho cùng vấn đề ... như thế nào...nhận ra điều gì. Từ đó sâu sắc thêm vai trò quan trọng của Đảng, đường lối chính
sách đúng đắn hướng đất nước đến một tương lai phát triển. Là một sinh viên em sẽ...

CHƯƠNG 2. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN


I. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về GCCN và sứ mệnh lịch sử của GCCN:
1) Khái niệm và đặc điểm của GCCN:
a) Khái niệm GCCN:

Chính C. Mác và Ph. Ăngghen đã đặt vấn đề nghiên cứu rất khoa học ngay từ đầu rằng: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô
sản thực sự là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử?”. C. Mác và Ph.Ăng-ghen đã
dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân như giai cấp vô sản; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai
cấp công nhân đại công nghiệp; lao động làm thuê thế kỉ XIX. Đó là những cụm từ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân - con đẻ của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.

Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song GCCN được các nhà kinh điển xác định theo hai phương diện cơ bản:
•Về phương diện kinh tế - xã hội: GCCN là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp. GCCN là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Họ lao động
bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại với những đặc điểm nổi bật: sản xuất bằng máy móc, lao động có tính chất xã hội hóa,
năng suất lao động cao và tạo ra những tiền đề của cải vật chất cho XH mới. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, công nhân công nghiệp công
xưởng là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông nhấn mạnh: “các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công
nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy… Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công
nghiệp hiện đại”.

•Về phương diện chính trị - xã hội: GCCN là sản phẩm xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có “điều kiện
tồn tại dựa trên cơ sở chế độ làm thuê”. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, đó là giai cấp của những người lao động không có sở hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Chính điều này khiến cho công
nhân trở thành giai cấp đối kháng của giai cấp tư sản. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa
LLSX xã hội hóa ngày càng rộng lớn với QHSX tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

Theo chủ nghĩa Mác-Lenin: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển
của nền công nghiệp hiện đại; Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất
hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất,
buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản
của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản trên toàn thế giới”.
Lưu ý: Ngày nay, trong CNTB, GCCN không còn vô sản như trước nữa, họ đã sở hữu TLSX nhỏ; có cổ phần, cổ phiếu trong nhà
máy, xí nghiệp TBCN, có phúc lợi xã hội,...Tuy nhiên sở hữu TLSX và cổ phần của CN chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Phần lớn TLSX và cổ
phần vẫn thuộc về các nhà tư bản. Vì vậy, về cơ bản, GCCN vẫn không có TLSX, vẫn phải làm thuê cho nhà TB và vẫn bị bóc lột.

b) Đặc điểm GCCN:

Nghiên cứu giai cấp công nhân từ phương diện kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội trong chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen
đã không những đưa lại quan niệm khoa học về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm quan trọng của nó với tư cách là
một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. Có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân bao gồm:

Thứ nhất, là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Do đó, GCCN là đại biểu cho LLSX tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến,
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, lao động bằng phương thức công nghiệp mang tính chất xã hội hóa cao.

Thứ ba, chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại.

Thứ tư, tính tổ chức, kỷ luật cao trong lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp

Thứ năm, là giai cấp tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để

Cuối cùng, là giai cấp có bản chất quốc tế.

 Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo cách mạng. Trong
đó, đặc điểm về tính tổ chức, kỷ luật cao trong lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp có vai trò quan trọng. Bởi lẽ, đó
là sức mạnh, là đặc trưng của giai cấp công nhân. Từ những buổi đầu trong công cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột từ giai cấp tư sản, ta
có thể thấy nguyên nhân của những thất bại đó là do hoạt động lẻ tẻ, không có tổ chức và kỷ luật. Từ đó ta nhận ra, để thành công trước hết
ta phải có sự đoàn kết, hợp tác giữa những người thuộc giai cấp công nhân. Lấy cơ sở từ mối quan hệ bền chặt ấy, giai cấp công nhân chỉ
cần có một sự tổ chức rõ ràng, kỷ luật cao và nắm bắt tâm lý lao động là nắm chắc phần thắng trong tay. Đặc điểm ấy đã góp phần không
nhỏ cho sự phát triển của nền công nghiệp hiện nay.

2) Nội dung và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân :


Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ xuất hiện một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, là LLXH chính đấu tranh xóa bỏ XH cũ lạc
hậu, xây dựng XH mới tiến bộ hơn. Vị trí, vai trò đó được gọi là sứ mệnh lịch sử của một giai cấp. C.Mác đã viết: “Thực hiện sự nghiệp
giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của GCCN vô sản hiện đại”. Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN chính là những nhiệm vụ
mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách tiên phong, là lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kt-xh cộng
sản chủ nghĩa.

Nội dung SMLS là: Thông qua đội tiền phong là ĐCS, GCCN tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng mình và giải phóng
toàn XH khỏi mọi áp bức, bất công, xoá bỏ các chế độ áp bức, bóc lột, bất công, xóa bỏ CNTB để xây dựng CNXH và CNCS trên phạm vi
toàn thế giới.

 Để thực hiện sứ mệnh lịch sử trên, GCCN cần phải trải qua hai giai đoạn (Hai giai đoạn này quan hệ chặt chẽ với nhau)
 GĐ 1. GIÀNH CHÍNH QUYỀN (GCCN thông qua chính Đảng của mình tiến hành một cuộc đấu tranh giành chính
quyền về tay mình, thiết lập chuyên chính vô sản)
“Giành CQ là vấn đề cơ bản của mọi cuộc CM” (V.I.Lênin).
Phương thức giành CQ: Sử dụng bạo lực CM là chính.
Muốn giành CQ đòi hỏi phải có tình thế CM và thời cơ CM.
 Tình thế CM
Một là, GCTT tỏ ra suy yếu, không thể duy trì được nền thống trị của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nộ của các giai cấp bị
trị công khai và gay gắt.
Hai là, GC lãnh đạo CM đủ năng lực lãnh đạo, phát động được cuộc đấu tranh CM của QCND bị áp bức chống lại GCTT.
 Thời cơ CM
Một là, GCTT tỏ ra suy yếu, không thể duy trì được nền thống trị của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nộ của các giai cấp bị
trị công khai và gay gắt.
Hai là, GC lãnh đạo CM đủ năng lực lãnh đạo, phát động được cuộc đấu tranh CM của QCND bị áp bức chống lại GCTT.

 GĐ 2. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN


GCVS và NDLĐ sử dụng chính quyền của mình để cải tạo XH cũ, xây dựng XH mới về mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng, v.v..) nhằm xây dựng thành công CNXH và CNCS.

Lực lượng của CMXHCN:

+ Đó là toàn thể quần chúng nhân dân lao động (công nhân, nông dân, các lực lượng tiến bộ xã hội) đang mâu thuẫn với giai
cấp tư sản, đang có nhu cầu được giải phóng khỏi chế độ áp bức, bóc lột...

+ Trong đó:

 Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo, là động lực chủ yếu trong cách mạng XHCN.
 Giai cấp nông dân là một động lực quan trọng trong cách mạng XHCN, nhất là ở những nước có lực lượng nông dân
đông trong xã hội.
 Ngoài ra, động lực của cách mạng XHCN còn là các giai cấp, tầng lớp, lực lượng tiến bộ khác trong xã hội (trí thức,
tư sản, tiểu tư sản tiến bộ, v.v…).

a) Nội dung cụ thể của SMLS

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, SMLS tổng quát của GCCN là thông qua chính đảng tiền phong, GCCN tổ chức, lãnh đạo nhân dân
lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng GCCN, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ba nội dung cơ bản:
Nội dung kinh tế: GCCN là LLSX cơ bản sản xuất ra của cải cho xã hội XHCN. GCCN là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản
xuất xã hội hóa cao, GCCN cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật chất ngày càng tăng của con người và xã
hội. Bằng cách đó, GCCN tạo tiền đề vật chất-kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân
thông qua quá trình công nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao động và thực hiện các
nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất và tiến bộ, công bằng xã hội.
Nội dung chính trị - xã hội: Dưới sự lãnh đạo của ĐCS, GCCN tiến hành đấu tranh giành CQ, xây dựng nhà nước mới của
nhân dân. Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ
quyền thống trị của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay GCCN và nhân dân lao động. Nhà nước pháp
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập và trở thành công cụ có hiệu lực để lãnh đạo chính trị, quản lý kinh tế và
xã hội. Trên cơ sở đó để cải tạo quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới mang tính xã hội hóa phù hợp với nhu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ xã hội.
Nội dung văn hóa, tư tưởng: Dưới sự lãnh đạo của ĐCS, GCCN x/dựng nền VH, con người mới với tư tưởng, đạo đức
XHCN…Giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiến hành cuộc cách mạng văn hóa để xác lập hệ giá trị, lối sống mới
tiến bộ trên lập trường của giai cấp công nhân nhằm thay cho hệ giá trị, lối sống của giai cấp tư sản và “của những hệ tư tưởng cổ truyền”
lỗi thời, lạc hậu. Bởi muốn có CNXH trước hết phải có con người XHCN. Từ đó tạo điều kiện cho con người phát triển tự do và toàn diện
trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong xã hội ấy, sự tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do cho tất cả mọi người.

=>>Những nội dung cơ bản ấy cho thấy SMLS của GCCN bao gồm những đặc điểm sau: SMLS của GCCN xuất phát từ
những tiền đề KT - XH của sản xuất mang tính xã hội hóa; thực hiện SMLS là sự nghiệp của bản thân GCCN cùng đông đảo Nhân dân
LĐ do ĐCS lãnh đạo và mang lại lợi ích cho đa số; SMLS của GCCN không phải là thay thế c/độ SH tư nhân này bằng một c/độ SH tư
nhân khác mà là xóa bỏ triệt để c/độ tư hữu TBCN về TLSX chủ yếu (xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người); giành quyền lực thống
trị là tiền đề cải tạo XH cũ, xây dựng XH mới nhằm giải phóng con người.

b) Đặc điểm SMLS của GCCN


- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế – xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa với
hai biểu hiện nổi bật:

+ Xã hội hóa làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

+ Giải quyết mâu thuẫn cơ bản về kinh tế và chính trị trong lòng phương thức sản xuất TBCN.

- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của quần chúng và mang lại lợi ích cho đa số. Khi lực
lượng sản xuất xã hội hóa cao và chế độ công hữu sẽ tạo cơ sở kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế dộ người bóc lột người.

- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân
khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về tư liệu sản xuất.
- Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền để cải tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây
dựng thành công xã hội mới với mục tiêu giải phóng con người

c) Điều kiện để một GC đảm nhiệm SMLS


Đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại
Có hệ tư tưởng riêng tiến bộ
Có lợi ích về cơ bản phù hợp với lợi ích của đa số trong xã hội
Có tổ chức chính đảng dẫn đường (từ khi CNTB ra đời)

3. Điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

a) Điều kiện khách quan quy định sử mệnh lịch sử của GCCN:
Trên cơ sở phân tích địa vị kinh tế chính trị và xã hội của giai cấp công nhân ở các nước có xu hướng chính trị khác nhau nhưng đều
có điểm chung về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan xuất phát từ những điều kiện cơ bản sau:

Thứ nhất, do địa vị kinh tế của GCCN. GCCN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và LLSX hiện đại. Do lao động bằng
phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, GCCN là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, làm giàu cho xã hội, có vai
trò quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại. Lợi ích của GCCN về cơ bản thống nhất với lợi ích của NDLĐ. Điều kiện khách quan này
là nhân tố kinh tế quy định GCCN là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình, chuyển từ giai
cấp “tự nó” sang “vì nó” hướng đến một chế độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.

Thứ hai, do địa vị chính trị-xã hội của GCCN quy định. GCCN là giai cấp có lợi ích chính trị cơ bản đối lập với lợi ích giai cấp tư
sản và nhà nước tư sản trong chủ nghĩa tư bản. GCCN có những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng như: tinh thần
CM triệt để; ý thức tổ chức, kỷ luật cao; tinh thần đoàn kết giai cấp và các lực lượng xã hội. GCCN còn được trang bị lý luận tiên tiến là
chủ nghĩa Mác-Lenin, có đội tiền phong là Đảng Cộng sản dẫn dắt.

b) Điều kiện chủ quan để GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử


Đầu tiên, sự phát triển của bản thân GCCN về số lượng và chất lượng. GCCN ngày càng lớn mạnh cùng với quy mô phát triển
của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp, của kỹ thuật và công nghệ. Bên cạnh sự phát triển về số lượng, GCCN
còn phát triển về chất lượng. Điều đó được thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng; năng lực và
trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay. Để phát triển về số lượng và chất lượng, chủ
nghĩa Mác-Lenin phải đặc biệt chú ý đến hai biện pháp cơ bản: Một là, phát triển công nghiệp-”tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết”, Hai
là, sự trưởng thành của Đảng Cộng sản-hạt nhân chính trị quan trọng của GCCN. Chỉ với sự phát triển về số lượng và chất lượng, đặc biệt
về chất lượng, GCCN mới có thể thực hiện được sứ mệnh của mình.

Tiếp theo, ĐCS là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN thực hiện thắng lợi SMLS của mình (ĐCS=CNM-L + PTCN).
ĐCS-đội tiên phong của GCCN ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc cảy GCCN
với tư cách là GC cách mạng. Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học, tức
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. GCCN là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng nhất của Đảng, làm cho
Đảng mang bản chất GCCN, Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN, của dân tộc và xã hội. Vậy nên có thể nói sức mạnh của
Đảng không chỉ thể hiện ở bản chất GCCN mà còn ở mối liên hệ mật thiết giữa đảng với nhân dân, với đông đảo quần chúng lao động
trong xã hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.

Cuối cùng, XD được khối liên minh GC giữa GCCN với GC nông dân và các tầng lớp lao động khác do GCCN thông qua đội tiên
phong của Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điều kiện không thể thiếu để thực hiện SMLS của GCCN.

c) ĐCS là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN thực hiện thắng lợi SMLS của mình
- Đảng Cộng sản: Là tổ chức chính trị cao nhất của GCCN, đại biểu cho lợi ích của GCCN và nhân dân LĐ.
- Phân biệt Đảng CS với GCCN:
Vừa thống nhất vừa khác biệt:
Thống nhất:
Lợi ích, mục đích của Đảng là thống nhất với lợi ích, mục đích của GCCN.
Khác biệt:
Một là, trong hàng ngũ của ĐCS, đảng viên có thể xuất thân từ GCCN hoặc các GC, tầng lớp xã hội khác (ND, Trí thức, tư sản, tiểu
tư sản, học sinh, sinh viên,…) miễn là đứng trên lập trường, lợi ích của GCCN.
Hai là, những người CS là bộ phận kiên quyết nhất của GCCN, “họ hơn những bộ phận còn lại của GCVS ở chỗ là họ hiểu những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.

d) Đảng Cộng sản - nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN hoàn thành SMLS
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và GCCN
•ĐCS là sự kết hợp giữa phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác - Lênin
•GCCN là cơ sở xã hội quan trọng nhất của Đảng
•Đảng chỉ gồm những người ưu tú, giác ngộ lý luận, kiên quyết cách mạng nhất.
•Đảng cao hơn giai cấp ở trình độ giác ngộ lí tưởng, trí tuệ, phẩm chất và sự hi sinh cho giai cấp => lãnh đạo giai cấp.

e) Quy luật hình thành, ra đời các ĐCS:


CNM-L thâm nhập, kết hợp với phong trào CN đưa đến sự ra đời của các ĐCS.
1) Quy luật hình thành, phát triển Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản bao gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; đấu tranh triệt để và trung
thành vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động.

a) Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
+) có áp bức giai cấp thì có đấu tranh giai cấp. Ngay từ khi mới ra đời giai cấp công nhân đã tiến hành những cuộc đấu tranh chống áp
bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Những cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra lẻ tẻ và mang tính tự phát vì mục đích kinh tế, do thiếu một lý
luận cách mạng và một tổ chức tiên phong lãnh đạo nên đều thất bại. Chính sự phát triển của phong trào công nhân đặt ra đòi hỏi phải
có lý luận tiên tiến dẫn đường để tổ chức, giáo dục, giác ngộ giai cấp công nhân về sứ mệnh lịch sử của mình, để vạch cho giai cấp
công nhân đường lối và phương pháp cách mạng khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi của phong trào công nhân.

+) Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào công nhân, trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công
nhân. Mặt khác, thông qua phong trào công nhân chủ nghĩa Mác được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. c)
khi chủ nghĩa Mác ra đời chỉ có một bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân tiếp thu được nó. Bộ phận này đã tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, giáo dục, giác ngộ và tổ chức công nhân đấu tranh, Đảng Cộng sản ra đời từ quá trình hoạt
động cụ thể ấy.

b) Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân; nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy
là sản phẩm của lịch sử, được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc
địa, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
2) Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

a) Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
b) Đảng Cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhờ có lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Đảng đã vận dụng vào điều kiện cụ thể để đề ra đường lối chiến lược, sách lược, một cương lĩnh cách mạng đúng đắn cho cả
quá trình cách mạng cũng như cho từng giai đoạn cách mạng.
c) Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, vì vậy, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân mới tập trung được sức mạnh trong nước và quốc tế trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ
mệnh lịch sử.
d) Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Đây là nơi tổ chức, lôi cuốn, giáo dục, động viên giai cấp công
nhân và các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện cương lĩnh cách mạng đã đề ra.
Như vậy, chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới có được sự thống nhất về tư
tưởng, tổ chức và hành động; mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, đảm bảo cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng
lợi.

Việt Nam
CN Mác – Lênin kết hợp với PTCN và Phong trào yêu nước đưa đến sự ra đời của các ĐCS.
Vai trò của Đảng Cộng sản
 Lãnh tụ chính trị: Làm cho GCCN trở thành tự giác - hiểu rõ và biết thực hiện SMLS;
 Tham mưu giai cấp:
Vạch cương lĩnh, đường lối... đấu tranh chính trị
Giác ngộ giai cấp tạo sự thống nhất về tư tưởng
Tổ chức để tạo nên sức mạnh thống nhất, liên kết hành động... cho cả giai cấp
 Tiền phong đấu tranh:
Đi đầu trong đấu tranh, tiên phong về trí tuệ, gương mẫu trong cuộc sống.

Phương thức lãnh đạo của ĐCS:


Đảng lãnh đạo bằng:
Cương lĩnh, Nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng…
Thông qua hệ thống chính trị.
Bằng con người của Đảng.
Tuyên truyền, giáo dục.
Cưỡng chế nếu cần thiết…

II. GCCN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SMLS CỦA GCCN HIỆN NAY
1) GCCN hiện nay
So với giai cấp công nhân truyền thống ở thế kỷ XIX thì giai cấp công nhân hiện nay vừa có những điểm tương đồng, vừa có những
điểm khác biệt, có những biến đổi mới trong điều kiện lịch sử mới.

a) Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỉ XIX

Một là, giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình
sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Ở các nước phát triển, sự phát triển của giai cấp công nhân tỷ lệ thuận
với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động bằng phương thức công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có trình độ
phát triển cao về kinh tế, đó là những nước công nghiệp phát triển (như các nước thuộc nhóm G7). Cũng vì thế, đa số các nước đang phát
triển hiện nay đều thực hiện chiến lược công nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh tốc độ, chất lượng và quy mô phát triển. Công nghiệp hóa vẫn là
cơ sở khách quan để giai cấp công nhân hiện đại phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.

Hai là, cũng giống như thế kỷ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản
bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng bóc lột này
vẫn tồn tại.

Ba là, thực tế đó cho thấy, xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn
tồn tại, vẫn là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại ngày nay.

Bốn là, phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp
tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.

Từ những điểm tương đồng đó của công nhân hiện đại so với công nhân thế kỷ XIX, có thể khẳng định: Lý luận về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa Mác -Lênin vẫn mang giá trị khoa học và cách mạng, vận có ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ đạo cuộc
đấu tranh cách mạng hiện nay của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và quần chúng lao động, chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn
con đường xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của thế giới ngày nay.

b) Những biến đổi và khác biệt của gccn hiện đại

Đầu tiên là xu hướng “trí tuệ hóa” tăng nhanh. Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh tế
tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là 2 mặt của cùng một quá trình, của xu hướng
trí tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp công nhân. Trên thực tế, đã có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ công nhân theo xu hướng này, đó
là “ công nhân tri thức” , “ công nhân trí thức”, “ công nhân áo trắng”. lao động trình độ cao.

Tham gia vào sở hữu, xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng. Một phần công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản xuất
của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa. Về mặt hình thức, không còn là “vô sản” nữa và có thể được “ trung lưu hóa “ về mức sống.
Nhưng về thực chất, suy cho cùng ở các nước tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình sản xuất và phân chia lợi nhuận
vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn. Cần hiểu rằng, khi sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì trước tiên vẫn là công cụ để bóc lột giá
trị thặng dư, vẫn bị bóc lột nặng nề bởi các chủ thể mới trong toàn cầu hòa.
Biểu hiện mới về xã hội hóa lao động, trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ 4,
công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cơ cấu trong nền sản xuất hiện đại. Cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ
cấu thu nhập giữa các bộ phận trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia.

Cuối cùng là, ở một số nước XHCN, GCCN đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là ĐCS. GCCN đóng vai trò
chủ đạo, mạnh mẽ thực hiện theo hướng đi, đường lối mà Đảng dẫn dắt, đó là điều tuyệt vời nhất mà Đảng mang lại cho xã hội.

2) Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay (Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN
ngày nay so với TK XIX)

Nội dung kinh tế, GCCN vẫn là lực lượng giữ vai trò SX vật chất chủ yếu cho xh, quyết định sự tồn tại của XH. Thông qua vai
trò của giai cấp công nhân trong quá trình sản xuất với công nghệ hiện đại, năng suất, chất lượng cao, đảm bảo cho phát triển bền vững, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển xã hội ngày càng thể hiện rõ, bởi sự phát triển sản xuất của chủ nghĩa tư bản
trong thế giới ngày nay với sự tham gia trực tiếp của giai cấp công nhân và các lực lượng lao động - dịch vụ trình độ cao lại chính là nhân
tố kinh tế - xã hội thúc đẩy sự chín muồi các tiền đề của chủ nghĩa xã hội trong lòng chủ nghĩa tư bản. Đó lại là điều kiện để phát huy vai
trò chủ thể của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác, mâu thuẫn lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản cũng ngày càng sâu sắc ở từng quốc gia và trên
phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa hiện nay vẫn mang đậm tính chất tư bản chủ nghĩa với những bất công và bất bình đẳng xã hội lại thúc đẩy
cuộc đấu tranh chống chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên phạm vi thế giới, phấn đấu cho việc xác lập một trật tự xã hội mới công bằng và
bình đẳng, đó là từng bước thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong kinh tế - xã hội

Nội dung chính trị - xã hội, ở các nước tư bản chủ nghĩa, mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là chống áp bức, bất công, áp đặt của CN đế quốc; chống nghèo đói, ô nhiễm môi trường,.. mục tiêu lâu dài là giành chính quyền về
tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được nêu rõ trong Cương lĩnh chính trị của các Đảng Cộng sản trong các nước tư bản chủ
nghĩa. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, nơi các Đảng Cộng sản đã trở thành đảng cầm quyền, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là xây dựng
Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển nhanh và
bền vững.

Nội dung văn hóa, tư tưởng, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong điều kiện thế giới ngày nay trên lĩnh vực văn
hóa, tư tưởng trước hết là cuộc đấu tranh ý thức hệ, đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Song các giá trị đặc
trưng cho bản chất, khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội; vẫn mang ý nghĩa chỉ đạo, định hướng trong
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của sự phát
triển xã hội. Lãnh đạo hoặc đi đầu trong XD một nền vh tiến bộ vì công bằng, bình đẳng và vì quyền con người.Các giá trị như lao
động, sáng tạo, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do vẫn là những giá trị được nhân loại thừa nhận và phấn đấu thực hiện. Đấu tranh để
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản, giáo dục nhận thức và củng cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân.

3) So sánh sự giống và khác nhau giữa giai cấp công nhân TK XIX và hiện nay:

* Giống nhau

- Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại,ngày càng có trình độ xã hội hóa cao.

- Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân không có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán
sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc
trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và trở thành lực
lượng đối kháng với giai cấp tư sản.

* Khác nhau:

Giai cấp công nhân TK XIX (CN Giai cấp công nhân TK XXI (thế giới
MLN) hiện nay)
1. Nguồn gốc xuất thân Giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột Xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân
và xuất thân chủ yếu từ nông dân và đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào
nông thôn nguồn nhân lực của giai cấp công
nhân.
2. Cơ cấu Phân loại công nhân theo sở hữu (có Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ
cổ phần, có tư liệu sản xuất và trựctiếp cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại
lao động tại nhà để sống và, không có cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công
cổ phần). Phân loại côngnhân theo nhân hiện đại đa dạng tới mức nội
chế độ chính trị (công nhân ở các nước hàm của nó liên tục phải điều chỉnh
phát triển theo định hướng xã hội chủ theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực
nghĩa, ở các nước G7, ở các nước đang (công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ)
phát triển) ... theo trình độ công nghệ.
3. Nội hàm Tiêu chí – phẩm chí khác như gắn liền Sự mở rộng nội hàm ấy đã khiến cho
với máy móc công nghiệp, lao động chỉ còn đặc điểm lao động và bị bóc
mang tính xã hội hóa, có tính tổ chức, lột sức lao động (được dùng từ thời
kỷ luật và triệt để cách mạng, có tinh C.Mác) là có thể chấp nhận được
thần quốc tế và bản sắc dân tộc trong
nhiều trường hợp cụ thể là tương đối
khó khăn

III. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN VN


1) Đặc điểm GCCN VN
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ có tính chất công nghiệp”

Giai cấp công nhân ở Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở nước
ta. GCCN VN mang những dặc điểm chủ yếu sau đây:

 Ra đời trước GCTS vào đầu thế kỷ XX. Họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai của chúng
vậy nên GCCN được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Giai cấp công nhân phát triển chậm vì nó sinh ra và
lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến và dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

 Lực lượng chính trị tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ thể
hiện đặc tính cách mạng của mình ở ý thức giai cấp và lập trường chính trị mà còn thể hiện ở tinh thần dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân
dân,với dân tộc, có truyền thống yêu nước, đoàn kết và bất khất chống xâm lược.
Tuy số lượng GCCN VN khi ra đời còn ít, chưa thật sự mang đầy đủ đặc tính của công nhân, còn tàn dư của tâm lý tiểu nông.
Nhưng GCCN VN được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng chống thực dân, đế quốc nên sớm giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng
nhất là từ khi Đảng ra đời.

 GCCN VN gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong XH, lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc gắn chặt
với nhau. Đại bộ phận công nhân Việt Nam đều xuất phát từ nông dân và các tầng lớp lao động khác, cùng chung lợi ích, cùng chung
nguyện vọng và khát vọng đấu tranh cho độc lập tự do để giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Cùng hướng tới đích đến là chủ nghĩa
xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ tự nhiên, chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội.
Đặc điểm này tạo ra thuận lợi để thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc trong mọi thời kì đấu tranh cách mạng, từ cách
mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

 Là sản phẩm & là lực lượng đi đầu của quá trình CNH, HĐH
 Lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
 Đa dạng về trình độ công nghệ, về thành phần kinh tế & về lợi ích
 Số lượng: khoảng 16 triệu (6/2018); chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân số;
 GCCN Việt Nam có nhiều ưu thế về chính trị
- Sớm tiếp thu CN Mác- Lênin, có Đảng và có lãnh tụ sáng suốt; (ĐCSVN : CNM-L + PTCN + PTYN)
- Vững vàng về chính trị, tư tưởng;
- Được rèn luyện, có bản lĩnh chính trị;
- Là nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và qúa trình đổi mới theo định hướng XHCN;
“Là giai cấp kiên quyết nhất, cách mạng nhất, đi đầu trong đấu tranh cách mạng” - Hồ Chí Minh.

 Quan hệ mật thiết của giai cấp công nhân với dân tộc, nhất là giai cấp nông dân
Một là, gắn bó lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc...
Hai là, nhận rõ kẻ thù của giai cấp và dân tộc là một
Ba là, sớm trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc.

2) Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Đối với giai cấp công nhân Việt Nam, có thể khái quát nội dung sứ mệnh lịch sử như sau: “Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công
nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng nòng cốt trong
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Cụ thể, sứ mệnh lịch sử thể hiện trên
ba phương diện:

a) Nội dung kinh tế


GCCN Việt Nam với số lượng đông đảo, cơ cấu ngành nghề đa dạng sẽ là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia phát triển
nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy khoa học - công nghệ làm động lực quan trọng, quyết định tăng năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện hài hòa lợi ích
cá nhân - tập thể và xã hội.

GCCN là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - đây là vấn đề nổi bật nhất đối
với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
làm cho nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền công nghiệp hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa trong
một, hai thập kỉ tới, với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI (2050) đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng
cốt. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Thực hiện khối liên minh công - nông - trí thức để tạo ra những động lực phát triển nông nghiệp - nông thôn và nông dân ở nước
ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hóa, chủ động hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ tài nguyên và môi
trường sinh thái.

b)Nội dung chính trị - xã hội


Là lực lượng tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính trị - xã hội quan trọng của Đảng. Đồng thời giai
cấp công nhân (thông qua hệ thống tổ chức công đoàn) chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân - đó là trọng trách lịch sử thuộc về sứ mệnh của
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.

c) Nội dung văn hóa, tư tưởng


Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp, văn minh, hiện đại, xây dựng hệ giá trị văn hóa và
con người Việt Nam, hoàn thiện nhân cách - đó là nội dung trực tiếp về văn hóa tư tưởng thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
trước hết là trọng trách lãnh đạo của Đảng. GCCN còn tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại những quan điểm sai trái, những sự
xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thường
xuyên giáo dục về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.

d) Thực trạng : Là LLSX hàng đầu của Việt Nam song chưa chiếm đa số trong dân cư và lao động.
•Phân hoá khá sâu sắc (2 chiều) trong KTTT, hội nhập quốc tế.
•Trình độ văn hoá, tay nghề, công nghệ... chưa đáp ứng yêu cầu cao của CNH, HĐH
•Giác ngộ chính trị chưa đồng đều, một bộ phận chưa ngang tầm với vị trí tiền phong.
•Đào tạo và sử dụng công nhân nhiều bất cập
•Việc làm và đời sống của công nhân còn khó khăn
•Nhiều tổ chức chính trị - xã hội của công nhân còn non yếu ...
•Một bộ phận giới chủ trong các doanh nghiệp FDI, tư nhân… thể hiện “mặt đối lập” với công nhân
•Một bộ phận công nhân trong các thành phần kinh tế tư nhân, nước ngoài đang bị bóc lột khá nặng nề, bộc lộ tâm lý làm thuê, nô
lệ, sự cạnh tranh, nỗi thất vọng, sự vùng dậy… lao động của họ có biểu hiện đang bị tha hóa
•Nguy cơ “4 hóa” của một bộ phận công nhân (Công đoàn Trung Quốc) sẽ là hiện thực: làm thuê hóa, bần cùng hóa, vô quyền hóa,
phân tán hóa.

3) Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay :
a) Phương hướng: giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng của Đảng.
- Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, …
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho GCCN.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp cơ cấu lao động.
- Định hướng, quản lý tốt hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn,…

b) Một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân ở VN


Việt Nam thành lực lượng đi đầu trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới cần thực hiện một số giải pháp chủ
yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản thân GCCN trong toàn XH về vai trò (SMLS) của GCCN, kiên định
quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lớn mạnh của giai
cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, doanh nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy vai trò giai cấp công nhân trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước; đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên
toàn thế giới.

Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai
cấp công nhân.

Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân. Đặc biệt
quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ, có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập
trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.

Năm là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của
bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân.
* Liên hệ với thực tiễn đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay:

- Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính công
nghiệp.

- Giai cấp công nhân ta có sứ mệnh lịch sử to lớn : là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam,
là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, là lực lượng đí đầu
trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là lực lượng nòng cốt trong liên ming công – nông – trí.

- Thực hiện thành công sứ mệnh đó là đảm bảo cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

- Đẩy mạnh CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Quan điểm xây dựng giai cấp công nhân Việt nam hiện nay

- Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và ddoooij ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn chặc chẽ với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, CNH-HĐH đất nước,
hội nhập kinh tế quốc tế.

- Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến
lược.

- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nổ lực vương lên của bản thân
công nhân, sự tham gia đống góp tích cực của người sử dụng lao động, trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước có vai
trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.

Vì sao công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng?

- Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay
là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân.

- Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa, vân vân… Những công nhân thủ công
nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, vân vân…, cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công
nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân.

- Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất
trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm
nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các
tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.

- Có người nói: “Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách mạng”. Nói vậy không đúng. Lãnh đạo
được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác
– Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ
trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử
tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày
càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tǎng thêm.

- Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp công nhân còn nhỏ, song ở thế giới thì giai cấp công nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách
mạng chỉ do giai cấp công nhân nắm.

KẾT LUẬN
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận lẫn thực tiễn đã khẳng định tính khách quan
của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đúng như lời của C.Mác nói. Hiểu được rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt là hiểu được sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức đúng
đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng
cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.

Trước những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới hiện nay, để đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Đảng ta luôn đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân thì mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
trong giai đoạn mới. Cùng với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ tăng nhanh về số lượng.
Việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai
cấp công nhân là một yêu cầu cấp thiết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

CHƯƠNG 3 : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. Chủ nghĩa xã hội:

1) Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa:

Học thuyết kinh tế- xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhất là lịch
sử xã hội tư bản và sau đó được V.I. Lênin bổ sung, phát triển, hiện thực hóa ở nước Nga Xô viết.
Hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản
xuất ấy.

 Định nghĩa của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất

 Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Con người với trình độ khoa học kỹ thuật,
kỹ năng, kỹ xảo của mình sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến những dạng vật chất
của tự nhiên tạo ra những sản phẩm vật chất phục vụ cho nhu cầu con người. Lực lượng sản xuất chính là sự thể hiện năng
lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.

 Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng
với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình thành trên cơ sở
hạ tầng nhất định.

 Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội)., nó bao gồm
những mối quan hệ kinh tế cơ bản như: quan hệ đối với sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất,
quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

a) Phạm trù hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ XH ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho
XH phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và với một KTTT (kiến trúc thượng tầng) tương ứng được xây dựng trên những
QHSX ấy. Các yếu tố cơ bản của HT KT- XH là lực lượng sản xuất với trình độ nhất định nào đó, quan hệ sản xuất phù hợp với LLSX và
là đặc trưng của XH ấy và KTTT phù hợp với cơ sở hạ tầng (QHSX).

HT KT- XH HT KT-XH HT KH- XH HT KT- XH HT KT- XH

Công xã nguyên thủy Chiếm hữu nô lệ Phong kiến Chủ nghĩa tư bản Cộng sản chủ nghĩa

Giai đoạn thấp (đầu) Giai đoạn cao (sau)

Chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa cộng sản

Khi phân tích hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
phát triển từ thấp lên cao qua hai giai đoạn, giai đoạn thấp và giai đoạn cao; giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (1875), C.Mác đã cho rằng :” Giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là “nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Khẳng
định quan điểm của C.Mác, V.I. Lênin cho rằng :” Về lý luận không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”.

Sau này từ thực tiễn nước Nga, V.I. Lênin cho rằng, đối với những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có một
thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”

Tóm lại, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ của nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản được hiểu theo 2 nghĩa : Thứ nhất
đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội- những cơn đau đẻ kéo dài. Thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, thời kỳ cải biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.

 Cấu trúc cơ bản của một xã hội:


LLSX: Người lao động, tư liệu sản xuất (công cụ lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động)

QHSX: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm

KTTT (chính trị): Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội

b) Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người


Sự vận động và phát triển XH tuân theo những quy luật khách quan vốn có của chính bản thân cấu trúc HT KT-XH (quy luật
QHSX, LLSX; quy luật CSHT, KTTT)
Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của XH suy cho cùng là từ sự phát triển của LLSX
Lịch sử của nhân loại, của mỗi cộng đồng vừa tuân theo quy luật XH, vùa chịu tác động đa dạng của các nhân tố chủ quan
khách quan
Tính thống nhất trong tính đa dạng & đa dạng trong tính thống nhất của lịch sử
c) Tính lịch sử - tự nhiên của sự PT các HTKT-XH
Lịch sử là do con người tạo ra nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy luật KQ; đó là các quy luật QHSX phù
hợp với LLSX, KTTT phù hợp với CSHT và hệ thống các quy luật khác…

 Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế-xã hội (Cung cấp PP luận khoa học chung) nhất)
Thứ nhất, chỉ ra rằng PTSX quyết định trình độ phát triển của toàn bộ đời sống XH. Phải từ trình độ của PTSX mà cốt lõi là
trình độ của LLSX trong xem xét các vấn đề XH

Thứ hai, chỉ ra rằng QHSX quyết định các QH XH khác, đặc trưng cho một XH nhất định Phải xuất phát từ QHSX hiện
thực để xem xét các QH khác (KTTT)

Thứ ba, chỉ ra rằng XH vận động tuân theo các QLkhách quan nội tại. Phải đi sâu n/c những QL ấy đặc biệt phân tích QHSX
cấu thành XH ấy

2) Tính tất yếu của sự ra đời HT KT-XH cộng sản chủ nghĩa :

 Sự ra đời của CNTB thay thế hình thái kinh tế - xã hội PK và các xã hội khác là một bước tiến của lịch sử:

o Phá vỡ tình trạng cát cứ, địa phương, khép kín trong chế độ PK, mở đường kinh tế HH phát triển.

o Tạo ra được những LLSX khổng lồ bằng tất cả các thế hệ trước kia cộng lại.

o Khôi phục dân chủ, phát triển văn hóa- xã hội, v.v…

 CNTB cũng giống như các HT KT-XH khác, không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn vận động, đến một lúc nào đó tất yếu sẽ bị
HT KT –XH cao hơn phủ định.

Lưu ý: Sự chuyển biến của các HT KT-XH không phải 1 lúc, mà là 1 quá trình lâu dài.

 Bản thân quá trình phát triển của CNTB đã tạo ra những mâu thuẫn và các vấn đề cơ bản, vốn có của nó như :

- MT giữa tính xã hội hóa của LLSX với tính chất tư nhân của QHSX TBCN.

- MT đối kháng giữa GCCN, NDLĐ với GCTS.

- MT giữa TB và TB

- MT giữa CNTB với các nước thuộc địa, phụ thuộc

- MT giữa CNTB với CNXH

- Khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ.

- Mất cân bằng giữa kinh tế với các vấn đề tư tưởng, đạo đức, lối sống, v.v
Vì vậy, để khắc phục những mâu thuẫn trên, tiếp tục mở đường cho LLSX phát triển, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, giải phóng xã hội thì tất yếu phải xây dựng hình thái kinh tế - xã hội CSCN để thay thế CNTB.

 Chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại và phát triển :

Thứ nhất, do PTCN ở các nước TB hiện nay đang ở giai đoạn thoái trào, đang trong quá trình phục hồi lực lượng

Thứ hai, chủ nghĩa tư bản đang có nhiều điều kiện, lợi thế để phát triển và có những điều chỉnh nhất định:

- Nắm lợi thế vốn

- Nắm lợi thế về KHCN

- Tiềm lực quân sự lớn mạnh

- Đã có những điều chỉnh nhất định trong QHSX TBCN (trong SH, Quản lý, phân phối…)

- V,v…

Tuy có những cuộc KH tài chính ở Mỹ 2007 và khủng hoảng nợ tại Hy Lạp 2012 nhưng những sự điều chỉnh đó chưa vuợt ra khuôn
khổ của QHSX TBCN, do đó không làm mất đi những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.

 Lý giải CNXH bị sụp đổ ở Liên Xô?

Do chủ nghĩa Mác- Lênin được nhào nặn từ thực tiễn vì thế sụp đổ ở Liên Xô không phải là sụp đổ về lý tưởng mà là sụp đổ về mô
hình tổ chức, quản lý ( cụ thể là việc áp dụng một cách quá máy móc, rập khuôn), cũng giống như giọt nước tràn ly… (tự diễn giải)

1) Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xôviết. Nếu như mô hình tổ chức xã hội
dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được sức mạnh cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại thì trong điều kiện hoà bình, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, mô hình này tỏ ra không phù hợp. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao
động, chậm trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ. Trong những điều kiện lịch sử mới, mô
hình chủ nghĩa xã hội Xôviết tỏ ra không còn phù hợp, là nguyên nhân sâu xa làm cho xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng dẫn tới
sụp đổ ở Liênxô và Đông Âu.

2) Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ

Chung quy lại, vấn đề nảy sinh từ nội bộ Đảng cầm quyền và sai lầm, sự phản bội của những người lãnh đạo cao nhất. Trong cải tổ,
Đảng Cộng sản Liênxô đã mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức.

a) Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và đặc điểm thời đại; không coi trọng việc kế thừa, bổ
sung và phát triển lý luận mácxít. Hoặc giáo điều, dập khuôn máy móc, không căn cứ vào tình hình mới để phát triển sáng tạo. Đánh
giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và Nhà nước, phủ
định chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con đường chủ nghĩa dân chủ xã hội.
b) Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho Đảng mất khả năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn
trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tính quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà
nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Sự phân liệt Đảng Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác nhau, nhiều tổ chức, đảng
phái chính trị ra đời đấu tranh giành quyền lực chính trị. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy sinh, những cuộc xung đột đẫm máu xảy
ra tạo môi trường cho các lực lượng phản động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng, gây thảm hoạ cho nhân dân.
c) Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản bên ngoài, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là
cõ hội tốt để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi kéo những phần tử cơ hội, phản bội giữ địa vị cao ở các cơ
quan Đảng, Nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư bản. Khi bộ phận lãnh đạo tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngoài
thì chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xôviết dễ dàng sụp đổ.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội không thể là tất yếu vì thực tế ở những nước xã hội chủ nghĩa khác qua cải cách đổi mới đã
đưa đất nước từng bước thoát khỏi khó khăn, khủng hoảng như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba. Vấn đề là ở chỗ cải cách, cải tổ. đổi
mới như thế nào, cần phải giữ vững nguyên tắc nào mà thôi.

3) Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội:

 Điều kiện kinh tế, (LLSX >< với QHSX trong lòng CNTB) các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã thừa nhận vai trò
to lớn của chủ nghĩa tư bản khi khẳng định: sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển mới của nhân loại.
Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung nhất là sự ra đời của công nghiệp cơ khí (Cách mạng công nghiệp
lần t2), chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ, chủ nghĩa tư bản tạo
ra lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn LLSX mà nhân loại tạo ra đến lúc đó. Tuy nhiên,các ông cũng chỉ ra rằng, trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, LLSX càng được cơ khí hóa, hiện đại hóa càng mang tính XH hóa cao, thì càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trò mở đường cho LLSX phát triển, thì ngày
càng trở nên lỗi thời và xiềng xích của lực lượng sản xuất.

 Điều kiện chính trị- xã hội. (GCCN >< với GCTS) mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của LLSX với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với TLSX trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện về mặt XH là mâu thuẫn giữa
GCCN hiện đại và giai cấp tư sản lỗi thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng
trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ :”Từ chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, những QHSX ấy
trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc CM XH”.

Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí là sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng
của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp. Chính sự phát triển về lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của GCCN là tiền đề
cho kinh tế - xã hội dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của CNTB. C.Mác và PH.Ăngghen cho rằng, giai cấp tư sản không chỉ tạo ra vũ
khí giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí đó, những công nhân hiện đại, những người vô sản. Sự trưởng thành vượt
bậc của GCCN được đánh dấu = sự ra đời của Đảng Cộng sản, đội tiền phong của GCCN, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị của
GCCN chống GCTS.

Cách mạng vô sản là cuộc CM của GCCN và NDLĐ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trên thực tế được thực hiện bằng con
đường bạo lực cách mạng nhằm lật đổ chế độ TBCN, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, thực hiện sự nghiệp cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và CSCN. Tuy nhiên, cách mạng vô sản về mặt lý thuyết cũng có thể được tiến hành =
con đường hòa bình, nhưng vô cùng hiếm, quý và trên thực tế chưa xảy ra.

Do tính sâu sắc và triệt để của nó, CM vô sản chỉ có thể thành công, hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể được
thiết lập và phát triển trên cơ sở của chính nó, một khi tính tích cực chính trị của GCCN được khơi dậy và phát huy trong liên minh với GC
và tầng lớp những ng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

4) Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội:

Căn cứ vào những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan điểm của V.I. Lênin về CNXH ở nước Nga Xôviết, có thể khái
quát những đặc trưng cơ bản của CNXH như sau:

Thứ nhất là Chủ nghĩa xã hội giải phóng GC, giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải phóng con người, tạo điều kiện để con
người phát triển toàn diện.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định :” Thay thế cho XHTS cũ với các giai cấp và những sự đối lập giai cấp của nó sẽ là một khối
liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển tự do của tất cả mọi người”; khi đó “con người cuối
cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ bản thân mình, trở thành người tự do”. Đây là sự
khác biệt về chất giữa hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế- xã hội ra đời trước, thể hiện ở bản chất
nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đương nhiên, để đạt được mục tiêu tổng
quát đó C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, cách mạng XH chủ nghĩa phải tiến hành triệt để, trước hết là giải phóng giai cấp, xóa bỏ tình
trạng người bóc lột, áp bức giai cấp kia, và một khi tình trạng người áp bức, bóc lột người bị xóa bỏ thì “tình trạng dân tộc này bóc lột dân
tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”.

Mục đích cao nhất của cải tạo xã hội chủ nghĩa là thực hiện nguyên tắc : làm theo lao động hưởng theo nhu cầu. V.I. Lênin còn chỉ
rõ trong quá trình phấn đấu để đạt được những mục đích cao cả đó, GCCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản phải hoàn thành nhiều
nhiệm vụ của giai đoạn khác nhau, trong đó mục đích, nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa XH- tạo ra các điều kiện về cơ sở
vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần để thiết lập xã hội cộng sản.

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu.

Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội là chế
độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với những lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, được tổ chức, quản lý có hiệu quả cao dựa trên chế độ công hữu về TLSX, được tổ chức, quản lý có hiệu quảm năng suất lao động
cao và phân phối chủ yếu dựa theo lao động. V.I. Lênin cho rằng :” Từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, nghĩa là lên chế độ công hữu về các TLSX và chế độ phân phối sản phẩm theo lao động của mỗi người.”
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội, theo Ph.Ăngghen không ngay lập tức thủ tiêu chế
độ tư hữu. Ph.Ăngghen dứt khoát cho rằng :”Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ
chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải
tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”. Và V.I. Lênin cho rằng :” Thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa
là nâng cao năng suất lao động và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn”. Không những thế ông
còn chỉ rõ, những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản lên CNXH cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển theo cách
thức :” Dùng cả 2 tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài : Chình quyền Xôviết + trật tự ở đường sắt Phổ+ kỹ thuật và cách tổ chức các
tơ- rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc. + + = ∑ (tổng số) = CNXH.”

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất GCCN, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân
lao động.

Nhà nước vô sản, theo V.I. Lênin phải là một công cụ, một phương tiện; đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ nhân dân
tham gia vào mọi công việc của nhà nước, quần chúng nhân dân thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống và đóng vai trò tích cực
trong việc quản lý, tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con người và là lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo,
chế độ dân chủ cho nhân dân.

Thứ tư, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa
nhân loại.

Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa còn thể hiện ở lĩnh vực văn hóa- tinh thần của xã hội. Trong chủ
nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần, mục tiêu, là động lực của phát triển XH, trọng tâm là phát triển kinh tế; văn hóa đã hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh con người, biến con người thành con người chân- thiện- mỹ. Đồng thời V.I. Lênin cũng cho rằng, trong xã hội
chủ nghĩa, những người cộng sản sẽ làm giàu tri thức của mình = tổng hợp các tri thức, văn hóa mà loài người tạo ra :” Người ta chỉ có thể
trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình = sự tìm hiểu tất cả những kho tàn trí thức mà nhân loại đã tạo ra”. Do vậy, quá
trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc và tinh thần văn hóa nhân loại, đồng thời, cần
chống tư tưởng, văn hóa phi vô sản, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương hướng lên CNXH.

Thứ năm, chủ nghĩa xã hội đảm bảo bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.

Theo quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn đề giai cấp và dân tộc có quan hệ biện chứng, bởi vậy, giải
quyết các vấn đề dân tộc, giai cấp trong CNXH có vị trí đặc biệt quan trọng và phải tuân thủ quy tắc : ”xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ.”

Giải quyết vấn đề dân tộc theo Cương lĩnh của V.I. Lênin trong chủ nghĩa xã hội, cộng đồng dân tộc, giai cấp bình đẳng, đoàn kết
và hợp tác trên cơ sở chính trị- pháp lý, xây dựng củng cố và phát triển. V.I. Lênin khẳng định :” chỉ có chế độ Xôviết là chế độ có thể thật
sự đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bằng cách thực hiện trước hết sự đoàn kết tất cả những người vô sản, rồi đến toàn thể quần
chúng nhân lao động, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.”

Trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa- văn kiện về giải quyết vấn đề dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và
CM vô sản, V.I.Lênin chỉ rõ :” Trọng tâm trong toàn bộ chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là cần phải
dựa vào GCVS và quần chúng lao động tất cả các dân tộc và các nước lại gần nhau trong cuộc đấu tranh CM chung để lật đổ địa chủ và tư
sản. Bởi vì, chỉ có sự gắn bó như thế mới đảm bảo cho thắng lợi đối với chủ nghĩa tư bản, không có thắng lợi đó thì không thể tiêu diệt
được ách áp bức dân tộc và sự bất bình đẳng “. Đó cũng là cơ sở để Người đưa ra khẩu hiệu :” Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại.”

Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa?

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng Cộng sản thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội; là tổ chức
chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên từ cơ sở vật chất, kinh tế xã hội chủ nghĩa; là nhà nước kiểu mới thay thế nhà
nước tư sản; là hình thức chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

1) Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, bất kỳ nhà nước nào cũng có các đặc trưng cơ bản là quản lý dân cư trên một vùng lãnh
thổ nhất định; có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội; có hệ
thống thuế để nuôi bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công
nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có những đặc trưng riêng của nó
a) Nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai cấp nào đó, mà là công cụ thực hiện lợi ích cho những người
lao động; nhưng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó đối với nhà nước vẫn được duy trì.
b) Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với Nhà nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp,
nhưng vì lợi ích của những người lao động, tức tuyệt đại đa số nhân dân; và chuyên chính, trấn áp đối với thiểu số những kẻ bóc lột, đi
ngược lại với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
c) Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực trấn áp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn coi mặt tổ chức xây dựng là
đặc trưng cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
d) Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ. Theo V.I.Lênin,
con đường vận động và phát triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ, nhằm lôi cuốn
ngày càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
e) Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi
cơ sở kinh tế-xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi, thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “tự tiêu vong”. Đây cũng là đặc trưng
nổi bật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2) Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa

a) Chức năng tổ chức, xây dựng được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin coi là có tính sáng tạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm
cải biến trật tự chủ nghĩa tư bản và hình thành trật tự chủ nghĩa xã hội và đây là chức năng căn bản nhất trong hai chức năng của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
b) Chức năng trấn áp nhằm chống lại sự phản kháng của kẻ thù giai cấp đang chống phá công cuộc tổ chức, xây dựng xã hội mới của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính là quản lý đất nước trên tất cả các lĩnh vực. V.I.Lênin đặc biệt chú ý đến nhiệm
vụ quản lý, mà cơ bản nhất là quản lý kinh tế, coi đó là vũ khí duy nhất để giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản.

II. Thời kỳ quá độ lên CNXH:

1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội :

Quá độ là sự chuyển tiếp và đan xen giữa cái cũ và cái mới trong đó vẫn còn cái cũ lạc hậu nhưng tồn tại một cách mạnh mẽ. Cái cũ
có đấu tranh và tiến bộ nhưng tồn tại một cách manh nha.

Từ CNTB lên CNXH phải trải qua một thời kỳ cải biến CM, cải tạo xã hội cũ, xây dựng XH mới- thời kỳ đó gọi là thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH.

Theo CN Mác – Lênin, hình thái kinh tế - xã hội CSCN sẽ phát triển trải qua các GĐ, thời kỳ là :

[I] Giai đoạn thấp của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa gọi là CNXH hay XHXHCN

[II] Giai đoạn cao của HT KT- XH CSCN

[III] Thời kỳ quá độ chuyển từ CNTB lên CNXH (Những cơn đau đẻ kéo dài).

Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa?

1) Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, trải qua hai giai đoạn cơ bản phát triển từ thấp đến cao

+) Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản là giai đoạn mới được “thoát thai”, “lọt lòng” từ chủ nghĩa tư bản, còn mang “dấu vết” của xã
hội tư bản. Đây là thời kỳ quá độ về chính trị, là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong giai đoạn này, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa mới đạt tới giới hạn đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối
làm theo năng lực, hưởng theo lao động.

+) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản đã được xây dựng hoàn toàn. Ở giai đoạn này con người không
còn lệ thuộc phiến diện và cứng nhắc vào phân công lao động xã hội; lao động trong giai đoạn này không chỉ là phương tiện kiếm
sống mà nó trở thành nhu cầu của con người. Trình độ phát triển của xã hội cho phép thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu.

2) Quan điểm của V.I.Lênin. V.I.Lênin đã phát triển và cụ thể hoá quan điểm phân kỳ hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa của
C.Mác và Ph.Ăngghen. Ông gọi giai đoạn thấp là xã hội xã hội chủ nghĩa (hay chủ nghĩa xã hội), giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ
nghĩa (hay chủ nghĩa cộng sản). Đặc biệt, ông phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Theo đó, hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chia làm ba giai đoạn cơ bản
+) Những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). V.I.Lênin một mặt thừa nhận quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ theo nghĩa rộng- từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản- quá độ trực tiếp từ những nước tư bản
chủ nghĩa phát triển cao lên xã hội cộng sản. Mặt khác từ thực tiễn lịch sử, V.I.Lênin còn nói đến hình thức quá độ đặc biệt, gián tiếp
của các nước tư bản phát triển ở mức trung bình và quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của nhiều nước vốn là nước
nông nghiệp lạc hậu, các nước tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội (quá độ đặc biệt của đặc biệt);

+) Xã hội xã hội chủ nghĩa- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản;

+ Xã hội cộng sản chủ nghĩa- giai đoạn cao của hình thái kinh tế-xã hôi cộng sản.

2. Các giai đoạn hình thành và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa

Theo quan điểm của CN Mác – Lênin, có 2 kiểu quá độ lên CNXH là:

+ Quá độ trực tiếp: Quá độ từ CNTB lên CNXH

+ Quá độ gián tiếp: Quá độ từ các hình thái kinh tế - xã hội tiền TBCN lên CNXH (quá độ bỏ qua CNTB)

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH được lí giải từ các căn cứ sau:

- Một là, bản chất khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, một cái dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, một
cái dựa trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội chủ nghĩa cộng sản không tồn tại giai cấp và bóc lột còn tư bản chủ nghĩa
phân chia xã hội thành hai giai cấp có sự khác biệt sâu sắc: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản và luôn tồn tại sự áp bức bóc lột đối với
giai cấp vô sản. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xã hội có khác biệt về bản chất quá lớn như vậy cần có thời gian

- Hai là: CNXH được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp trình độ cao. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đóng góp cho nhân
loại những tiến bộ vượt bậc về năng suất, kỹ thuật và sản lượng. Nó tạo nên một tiền đề về vật chất kỹ thuật có thể sử dụng để xs chủ
nghĩa xã hội. Nhưng muốn tiền đề đó phục vụ cho CNXH thì CNXH cần phải tổ chức, sắp xếp lại. Đối với những nước chưa từng trải
qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to
lớn và đầy khó khăn, không thể “đốt cháy giai đoạn” được.

- Ba là: Các quan hệ xã hội của CNXH không tự phát nảy sinh trong lòng chế độ TBCN, đó là kết quả của quá trình xây dựng và cải
tạo XHCN. Dù sự phát triển của CNTB có ở mức cao đến mấy thì cũng chỉ tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật, điều kiện hình thành các
quan hệ xã hội mới- xã hội XHCN. Do vậy, cần phải có thời gian để xây dựng, và phát triển các quan hệ đó.

- Bốn là: Xây dựng CNXH là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước
làm quen với những công việc đó. Thời kỳ quá độ ở các nước khác nhau kéo dài khác nhau. Các nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển
ở trình dộ càng cao thì thời kỳ này diễn ra càng ngắn, ngược lại, các nước mà chủ nghĩa tư bản còn chưa phát triển hay còn có nền
kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ kéo dài và khó khăn hơn

Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa?

Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các cuộc cách mạng xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ vấn đề nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là một trong những thiết
chế quan trọng bậc nhất của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

1) Tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa còn bắt nguồn từ mối quan hệ biện chứng giữa thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội và chuyên chính vô sản (tức nhà nước xã hội chủ nghĩa). Bản chất của thời kỳ quá độ ấy là quá độ về chính trị, vì
vậy, chuyên chính vô sản là bản chất của thời kỳ quá độ. Do đó, thời kỳ quá độ tất yếu như thế nào thì chuyên chính vô sản tất yếu
như thế.

2) Tính tất yếu phải có Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn được luận giải bằng thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

a) Trong thời kỳ này, các giai cấp bóc lột tuy đã bị xóa bỏ về phương diện chính trị, nhưng chưa bị xoá bỏ hoàn toàn về mặt giai cấp.
Chúng vẫn còn có những âm mưu hoạt động chống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này đòi hỏi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động cần phải nắm vững công cụ chuyên chính là Nhà nước xã hội chủ nghĩa để trấn áp mọi sự phản kháng của các thế lực đi
ngược lại lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
b) Trong thời kỳ quá độ cũng còn các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Do địa vị kinh tế-xã hội của mình, các giai cấp, tầng lớp này
không thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết đảm bảo sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân đối với toàn xã hội, đảm bảo cho lực lượng xã hội to lớn này thành lực lượng có tổ chức.
c) Để mở rộng dân chủ, chống lại mọi hành vi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ của nhân dân, cũng
đòi hỏi phải có một thiết chế nhà nước phù hợp.
Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

a) Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới. Đây là điều kiện không thể thiếu để xây dựng nền dân chủ xã
hôi chủ nghĩa, để quần chúng có nhận thức đúng và tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước.
b) Xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Con người là sản phẩm của lịch sử nhưng đồng thời con người cũng chính là chủ thể
quá trình phát triển của lịch sử. Vì vậy, việc đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa, là một yêu cầu tất yếu.
c) Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của
nó, đó là: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc phân phối theo lao động;
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội v.v
d) Xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa được từng bước xây dựng cùng với tiến trình phát
triển của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội (gia đình được xem là tế bào
của xã hội), có thể nói, thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá là nhằm góp phần xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

Tại sao nói thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là tất yếu.
- Sự thay thế xã hội CNTB bằng xã hội XHCN là một tất yếu khách quan trong tiến trình lịch sử xã hội loài người theo quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

- Sự thay thế của các chế độ xã hội trước đây chỉ là thay thế xã hội bóc lột này bằng xã hội bóc lột khác cao hơn còn về bản chất vẫn là
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

- Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử vì mục tiêu trực tiếp là xóa bỏ chế độ tư hữu,
thủ tiêu chế độ người bóc lột người để thiết lập chế độ mới do nhân dân lao động làm chủ.

- Cách mạng XHCN nổ ra thành công là bắt đầu vào thời kỳ quá độ, thời kỳ quá độ này có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật chon CNXH, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho XHCN.

“ Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa, tư tưởng. Thời kỳ này được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân thiết lập được chính quyền nhà nước và trực tiếp
bắt tay vào sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và được kết thúc sau khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở về kinh
tế, văn hóa – tư tưởng để CNXH bắt đầu quá trình tự phát triển”

* Hai loại hình quá độ lên CNXH:

- Quá độ trực tiếp

- Quá độ gián tiếp

 Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH:

Đặc điểm nổi bật và bao trùm của thời kỳ quá độ là sự tồn tại đan xen giữa cái cũ (của chế độ cũ) và cái mới, vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trên lĩnh vực kinh tế : Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế
quốc dân thống nhất. Nền kinh tế nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư
liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác
nhau, trong đó, hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức chủ đạo. Và xóa bỏ chế độ bóc lột, song
chưa hoàn toàn chấm dứt mà vẫn còn tồn tại bóc lột

Trên lĩnh vực chính trị :

GCCN đã nắm chính quyền, vừa củng cố, xây dựng và bảo vệ CQ.

Các giai cấp trong xã hội đa dạng, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau (công nhân, Nông dân, trí thức, tiểu TS, TS)

GCTS và các thế lực phản động chống phá CQCM, hòng giành lại CQ.
 Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp xã hội thời kỳ này
cũng đa dạng, phức tạp. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong cùng một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều
bộ phận có trình độ, có ý thức khác nhau.

Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa :

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ
nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản,... Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu
tranh với nhau (công nhân, nông dân, tri thức, tiểu TS, TS : tư sản ) . Trong cùng một giai cấp tầng lớp cũng nhiều bộ phận có trình độ, có
ý thức khác nhau ( tâm lý tiểu nông, tư tưởng TS, tiểu tư sản, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cộng sản ). Hệ tư tưởng và văn hóa thống trị xã
hội là của GCCN

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội
xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội
mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất - kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách
khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng
tầng xã hội xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại về đđ TKQĐ:

1. LLSX phát triển chưa cao >> Đa dạng về QHSX >> Đa dạng TP. Kinh tế >> Đa dạng về kết cấu giai cấp, tầng lớp XH >> Đa
dạng tư tưởng – văn hóa.

2. Các yếu tố mới, tiến bộ và yếu tố cũ, lạc hậu đan xen tồn tại (đôi khi yếu tố mới, tiến bộ bị các yếu tố cũ, lạc hậu lấn át).

Thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:

- Là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống
phá CNXH với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động

- Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mơi là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.

- Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung vè hình thức mới diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hóa, bằng
tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.

2.1. CNXH, giai đoạn thấp của hình thái KT – XH. CSCN

a) Phân kỳ hình thái KT – XH CSCN:

+ Giai đoạn thấp (TKQĐ lên CNCS)

+ Giai đoạn cao (XH CSCN)

 Tính tất yếu của TKQĐ

Sau khi GCCN và nhân dân LĐ giành được chính quyền thì vẫn chưa có ngay CNXH, mà cần có một khoảng thời gian để cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt (Kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa, v.v…).

 Về kinh tế, cần có thời gian để cải tổ sản xuất, xóa bỏ QHSX cũ, xác lập QHSX mới, phát triển LLSX…

 Về chính trị, cần có thời gian để GCCN làm quen với vị trí làm chủ xã hội, xây dựng và củng cố chính quyền, mở rộng dân chủ,
thu hút QCND lao động vào công việc nhà nước,…

 Về tư tưởng – văn hóa: cần có thời gian để xóa bỏ, cải tạo những tư tưởng, thói quen, tập quán lạc hậu do xã hội cũ để lại; xây
dựng nền văn hóa mới (VHVS)…

2.2.Giai đoạn cao của Hình thái kinh tế - xã hội CSCN

Về mặt kinh tế: Đây là giai đoạn LLSX phát triển vô cùng cao, của cải xã hội tuôn ra dào dạt; khoa học phát triển, lao động con
người được giảm nhẹ; ý thức kỷ luật lao động tự giác; không còn sự chênh lệch và khoảng cách giữa lao động trí óc và chân tay, giữa nông
thôn và thành thị; nguyên tắc phân phối lúc này là “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”…
Về mặt chính trị – xã hội:

Xã hội không còn khác biệt giai cấp, do đó nhà nước, pháp luật tiêu vong, thay vào đó là những tổ chức tự quản của xã hội …

II.3. Đặc điểm của TKQĐ lên CNXH

“Đan xen” những mảnh, những bộ phận của cả XH cũ và XH mới trên mọi lĩnh vực

+ C.Mác: Thực chất của TKQĐ: quá độ CT

+ Lênin: làm rõ hơn quá độ trong KTế

II.4. Nhiệm vụ của TKQĐ lên CNXH…

Trên lĩnh vực KT: Phát triển LLSX; thực hiện KT nhiều thành phần; CNH, điện khí hóa, hợp tác hóa; sử dụng chuyên gia tư sản

- Trên lĩnh vực CT: thiết lập, tăng cường CCVS, thực chất là GCCN nắm & sử dụng quyền lực NN trấn áp GCTS & tổ
chức XD, XH mới

- Trên lĩnh vực tư tưởng – VH: Xác lập hệ tư tưởng mới & XD nền VH mới

- Trên lĩnh vực XH: Thực hiện CB, bình đẳng…

Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH:

- Trong lĩnh vực kinh tế

+ Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các LLSX hiện có của XH.

+ Cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt hơn
đời sống nhân dân lao động.

+ Quá trình tái cấu trúc này không thể theo ý muốn chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế

+ Đối với những nước chưa trải qua quá trình CNH TBCN, tất yếu phải tiến hành CNH XHCN nhằm tạo ra được CSVC – KT cho
CNXH. Là phải tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN.

- Trong lĩnh vực chính trị: Dưới sự lãnh đạo của ĐCS GCCN tiến hành

+ Đấu tranh chống những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp XD CNXH

+ Củng cố nhà nước vững mạnh, thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của

nhân dân lao động.

+ Xây dựng ĐCS trong sạch, vững mạnh, xây dựng các tổ chức chính trị – xã hội

thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân

- Trên lĩnh vực tư tưởng – VH: Khắc phục những tư tưởng, tâm lý tiêu cực, xây dựng nền văn hóa mang bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh
hoa của các nền văn hóa trên thế giới.

- Trên lĩnh vực XH: Khắc phục tệ nạn XH; khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư nhằm thực hiện mục tiêu
bình đẳng XH; XD mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.

III. QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM

1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN

- Đặc điểm TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam là “bỏ qua chế độ TBCN”

- Quan niệm về quá độ bỏ qua của Đại hội IX

 Đặc điểm, nhiệm vụ thời kỳ quá độ ở Việt Nam


Đặc điểm to nhất: Từ một nền nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Xây dựng CNXH
là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài với nhiệm vụ của thời kỳ quá độ:

- Phải xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật của CNXH

- Có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại

- Có văn hóa và khoa học tiên tiến

Xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân:

– Tiến lên CNXH không phải muốn là tức khắc có, không thể một sớm, một chiều là có thể giải quyết xong những nhiệm vụ cực kỳ
khó khăn, phức tạp.

– Phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng cách đi, cách làm cho phù hợp với nước mình, dân mình.

– Học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không được sao chép máy móc, phải độc lập sáng tạo, không được làm bừa, làm
ẩu.

Thời kỳ quá độ lên CNXH giai đoạn hiện nay:

– Nước ta còn nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế tất yếu tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội, trong
đó có những giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau, do đó, mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh.

– Hiện nay cách mạng công nghiệp 4.0 tạo sự tác động rất lớn thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của LLSX, tạo cơ hội cho nền kinh tế có
điều kiện vươn lên với những chính sách cởi mở.

Thời kỳ quá độ lên CNXH giai đoạn hiện nay:

– Gặp không ít khó khăn và thách thức

– Cơ sở vật chất còn nghèo, lạc hậu

– Các nguồn lực phát triển còn hạn chế

– Hệ thống cơ chế chính sách chưa đổi mới kịp so với thực tiễn

– Đời sống văn hóa và tâm lý tiểu nông tạo trở lực không nhỏ cho đổi mới.

– Cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

– Chống âm mưu diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động

 Các nhiệm vụ trọng tâm của TKQĐ:

 “4 trụ cột” phát triển:

 Phát triển KT-XH là trung tâm.

 Xây dựng Đảng là then chốt.

 Phát triển văn hóa, con người là nền tảng tinh thần.

 Củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên.

 “3 khâu đột phá”:

 Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.

 Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

 Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ.

1) Những đặc trưng bản chất của CNXH VNam


Xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam XD là một XH:

1. Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh

2. Do nhân dân làm chủ

3. Có nền KT phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ, phù hợp

4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, HP, có điều kiện PT toàn diện

6. Các DT bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển

7. Có NNPQ XHCN của ND, do ND, vì ND do ĐCS lãnh đạo

8. Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên TG

2) P/ hướng XD.CNXH ở Việt Nam hiện nay xây dựng CNXH trong TKQĐ lên CNXH

1. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

2. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

3. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.

4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

5. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

6. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

3) Các mối quan hệ cần coi trọng giải quyết (mâu thuẫn)

1. Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;

2. Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;

3. Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN;

4. Giữa phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN;

5. Giữa Nhà nước và thị trường

6. Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;

7. Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN;

8. Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;

9. Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;

Về đặc trưng của CNXH Việt Nam

(CNXH Việt Nam là gì?)

Cương lĩnh năm 1991 (6 đặc trưng)

Đại hội X năm 2006 (8 đặc trưng)

Cương lĩnh Đại hội XI năm 2011 (8 đặc trưng)


* Quan điểm của ĐCSVN về đặc trưng của mô hình CNXH ở Việt Nam

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Do nhân dân làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.

- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện.

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

 Đặc điểm thực chất thời kỳ quá độ ở Việt Nam:

- Lịch sử: Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954, đất nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền. Theo yêu cầu
lúc bấy giờ miền Nam tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân còn miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau khi thống nhất đất nước đến 1985, đảng và nhà nước ta đã gặt hái được những thành công bước đầu nhưng cũng vấp phải nhiều sai
lầm khiến cho khủng hoảng nền kinh tế. Thời kỳ 1986 đến nay là giai đoạn đổi mới, kinh tế xã hội đã thoát khỏi khủng hoảng và bắt đầu
có sức tăng trưởng. Trong năm 2005 sức tăng trưởng đã đạt được 8,5 %

- Đặc điểm: đặc điểm lớn nhất và chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nước có nền công nghiệp lạc
hậu, sản xuất nhỏ, kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Bù lại ta có đảng Cộng Sản Việt Nam có đường lối sáng tạo có bản lĩnh chính trị
vững vàng nhạy bén. Chúng ta có nhà nước của nhân dân lao động với những cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu. Nhân dân ta vốn có tinh thần
yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, lao động cần cù sáng tạo

- Thực chất: thực chất thời kỳ quá độ ở Việt Nam là thời kỳ quá độ đặc biệt của đặc biệt, thời kỳ quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản,
mà thực chất là bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, tiếp thu kế thừa thành quả đạt
được trong Chủ nghĩa tư bản nhất là khoa học công nghệ để phát huy tiềm năng của dân tộc

- Nội dung: nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước tiến
tới xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh

- Động lực: động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đại đoàn kết
toàn dân tộc dựa trên nền tảng giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức với sự lãnh đạo của đảng, kết hợp hài hoà 3 lợi ích cá nhân,
tập thể, xã hội nhằm phát huy tiềm năng của đất nước và nguồn lực của toàn xã hội.

Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

 dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Theo em, điều này đóng vai trò quan trọng trong nội dung,
mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta cần xây dựng. Vì chế độ XHCN là chế độ nhà nước đang phấn đấu xây dựng theo
hướng có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thế nên chúng ta cần
quan tâm, đáp ứng các yêu cầu về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân. Điều đó góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Vì nhân dân là lực
lượng chủ chốt trong công cuộc xây dựng nhà nước.
Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân?

1) Tính tất yếu của liên minh công nông

Qua thực tiễn cách mạng châu Âu, đặc biệt cách mạng Pháp, C.Mác rút ra kết luận, cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp
công nhân sẽ không giành được thắng lợi nếu nó không được sự ủng hộ của giai cấp nông dân. Công xã Pari (1871) là cuộc cách mạng
vô sản, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên, nhưng nhà nước đó chỉ tồn tại trong 72 ngày. Khi phân tích nguyên nhân
thất bại của công xã, C. Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân nên không tạo
ra được cơ sở chính trị-xã hội rộng lớn và vững chắc để bảo vệ chính quyền của giai cấp công nhân. V.I.Lênin làm rõ hơn ý nghĩa
chiến lược của vấn đề khi cho rằng, nhân tố cho sự thắng lợi không chỉ ở chỗ giai cấp công nhân đã có tổ chức và chiếm đa số trong
dân cư, mà còn ở chỗ giai cấp công nhân có được sự ủng hộ của nông dân hay không. Ông đặc biệt nhấn mạnh tính tất yếu của liên
minh công nông trong giai đoạn cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Như vậy, xây dựng khối liên minh công nông là tất yếu trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, cả trong giai đoạn giành, giữ và
sử dụng chính quyền để xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

2) Cơ sở khách quan của liên minh công nông

a) Liên minh công nông là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo nên động lực cách mạng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân, là điều kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội
mới;
b) Liên minh công nông xuất phát từ mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân. Cả hai giai cấp đều là những người lao động bị áp bức vì vậy có cùng mục tiêu, nguyện vọng muốn giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất cộng;
c) Liên minh công nông là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp- hai ngành sản xuất chính
trong xã hội. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân thì hai ngành kinh tế này không thể phát triển được.

Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân?
1) Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân:

a) Nội dung chính trị của liên minh:


+) Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, liên minh công nông nhằm lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị cũ, giành lấy
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+) Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công nông là cơ sở chính trị-xã hội vững chắc của chính quyền nhà nước, giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa.

+) Để thực hiện liên minh chính trị cần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

b) Nội dung kinh tế của liên minh là nội dung cơ bản nhất, quyết định nhất, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác
+) Liên minh công nông trên lĩnh vực kinh tế là kết hợp và giải quyết đúng đắn nhu cầu, lợi ích kinh tế của hai giai cấp và lợi ích của
xã hội.

+) Liên minh kinh tế thể hiện thông qua sự hợp tác, trao đổi về mặt kinh tế giữa kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp; qua vai
trò của nhà nước với hệ thống chính sách đối với nông nghiệp, công nghiệp, đối với công nhân, nông dân.

+) Thông qua liên minh công nông về mặt kinh tế để từng bước đưa nông dân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa bằng cách đưa họ
vào con đường hợp tác xã với những bước đi phù hợp.

c) Nội dung văn hoá-xã hội của liên minh


+) Liên minh công nông nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của công nông.

+) Liên minh công nông còn nhằm xoá bỏ bất công, bất bình đẳng xã hội, xây dựng các chuẩn mực xã hội trên lập trường của giai cấp
công nhân, tạo môi trường thuận lợi cho công, nông và các tầng lớp nhân dân lao động hoạt động đạt hiệu quả cao.

2) Những nguyên tắc cơ bản của liên minh công nông

+) Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong khối liên minh. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc để có thể từng bước thực
hiện mục tiêu, lợi ích của liên minh trên lập trường của giai cấp công nhân.

+) Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện để khối liên minh bền vững, lâu dài.

+) Kết hợp và giải quyết đúng đắn lợi ích của cả hai giai cấp, vì xét cho cùng quan hệ giữa công nhân và nông dân là quan hệ giữa hai
chủ thể lợi ích, mà trong đó hệ thống lợi ích kinh tế là cơ sở quyết định nhất và nhạy cảm nhất. Họ liên kết với nhau trước hết là nhằm
thoả mãn các nhu cầu kinh tế, mưu cầu sự sống, thoát khỏi nghèo nàn.

Dân chủ là gì? Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa?

1) Dân chủ là gì?


a) Dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử xã hội loài người; là nhu cầu khách quan của con người. Với tư cách là quyền lực của
nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn; là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động chống lại áp
bức, bất công và bóc lột.
b) Dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị, gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có dân chủ phi
giai cấp, dân chủ chung chung. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội.
c) Dân chủ còn là sản phẩm của quá trình vươn lên của con người trong quá trình làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Dân chủ phản
ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển của xã hội, thể hiện thực chất mối quan hệ giữa người với
người được duy trì theo quan niệm về nguyên tắc bình đẳng. Xét ở góc độ này, dân chủ phản ánh những giá trị nhân văn, nhân đạo
trong quá trình giải phóng con người và tiến bộ xã hội.

2) Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa

a) Với tư cách là một chế độ được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ xã hội
chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản
chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
b) Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Đây là đặc
trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình
thành và hoàn thiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
c) Trên cơ sở sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội (do nhà nước của giai cấp công nhân đại
diện), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới
d) Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp của giai cấp công
nhân- dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật, với trách nhiệm của công dân trước pháp luật.

Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa?

1) Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, mục tiêu và động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội là dân chủ.

2) Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm mở rộng dân chủ, tạo điều kiện để liên tục phát triển nhân cách, phát triển ý thức
xã hội, nâng cao tính tích cực chính trị-xã hội của quần chúng, làm bộc lộ và huy động các năng lực tổ chức, trí tuệ của nhân dân.

3) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình thành và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.

4) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây dựng, phát triển, hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu
của nhân dân. Trước hết nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện cần thiết và tất
yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.

5) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình vận động và thực hành dân chủ, biến dân chủ từ khả năng thành
hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây
dựng cuộc sống mới, chống các biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.

Vì sao quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu lịch sử với nước ta

Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu đối với mọi nước đi lên CNXH. Bộ phận quan trọng trong học thuyết của V.I.Lênin về xây dựng
chủ nghĩa xã hội là lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH.Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên CNXH là
do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định

Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cáh mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng
tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước, làm cho kiến trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.

Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng khác ở chỗ :các cuộc cách mạng trước đó giành được chính quyền là kết thúc
cuộc cách mạng vì nó dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Còn cuộc cảch mạng vô sản giành được chính quyền mới
chỉ là bước đầu, còn vấn đề chủ yếu cơ bản hơn đó là giai cấp vô sản phải xây dựng một xã hội mới, cả về lực lượng sản xuất lẫn quan
hệ sản xuất, cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.Hơn nữa, sự phát triển của phương thức
sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển của lực lượng sản xuất, tằg
năng xuất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian
tương đối lâu dài. Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…
* Lý luận của V.I.Lênin về con đường quá độ lên CNXH ở những nước chủ nghĩa tư bản chưa phát triển.

C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên khả năng những nước còn đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ
nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái chế độ cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của các nước này bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời kỳ quá độ đó như thế nào và nó có nhiệm vụ cụ thể gì thì hai ông chưa đề cập tới. Đây chính là
điểm phát triển của V.I.Lênin về cách mạng Xã hội chủ nghĩa và về thời kỳ quá độ ở nhữnh nước tiền đề kinh tế cho cuộc cách mạng
ấy chưa chín muồi, cho dù ở nước đó chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình ( như nước Nga năm 1917 ) .
Lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước chưa có CNTB phát triển bao gồm một số luận điểm cơ bản sau đây:

* Một là, luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
Để phản đối cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, những người theo Quốc tế II cho rằng, nước Nga chưa nên làm cách mạng
XHCN vì lực lượng sản xuất của nước Nga chưa phát triển đầy đủ. V.I.Lênin chỉ ra rằng, luận điểm này là trái với phép biện chứng
cách mạng của chủ nghĩa Mác vì chủ nghĩa Mác cho rằng, tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới không loại
trừ, trái lại, còn bao hàm một số hình thức phát triển đặc thù ở một số quốc gia riêng biệt. Như vậy, những người theo Quốc tế II
không thấy được thời kỳ cách mạng mới gắn với những mâu thuẫn gay gắt của CNTB thế giới; không hiểu được tình thế cách mạng
có thể xuất hiện ở nơi này hay nơi khác khiến cho các dân tộc có thể bước vào cuộc chiến tranh để thoát khỏi CNTB và giành lấy sự
tiến bộ xã hội.từ đó V.I.Lênin nêu luận điểm: ở một nước kém phát triển có thể và cần phải tạo ra nhưng điều kiện tiên quyết để thực
hiện CNXH, bắt đầu bằng một cuộc cách mạng thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên và đuổi kịp dân
tộc khác.

*Hai là,luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ.

Luận điểm này của V.I.Lênin được rút ra sau những sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế, chính trị ở nước Nga Xô Viết sau nội chiến.
Phân tích nguyên nhân khủng hoảng ở Nga, V.I.Lênin chỉ ra rằng, đối với một nước mà CNTB chưa phát triển cao như nước Nga,
không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên CNXH được mà phải trải qua “ một loạt những bước quá độ ”.
V.I.Lênin viết: “ nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời điểm quá độ trong
thời kỳ quá độ. Toàn bộ nền chuyên chính vô sản là một thời kỳ quá độ nhưng hiện nay có thể nói rằng, chúng ta có cả một loạt thời
kỳ quá độ mới ”.
Luận điểm “một loạt những bước quá độ ” xây dựng CNXH ở một nước mà trình độ phát triển kinh tế chưa chín muồi của V.I.Lênin
bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp chứ không thể “ quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn
bị”.
Những bước quá độ ấy theo V.I.Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói: “ Để chuẩn bị …việc chuyển
sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bbản nhà nước và chủ nghĩa xã hội ”.
Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bảm nhà nước được thể hiện trong “ chính sách kinh tế ” mới mà việc trao hàng háo được coi là “ đòn
xeo chủ yếu ” cho nên cần có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng bước
xã hội hoá sản xuất trong thực tế.

CHƯƠNG 6. VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. Dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:


1) Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc (CƠ SỞ LÝ LUẬN – Quan điểm của CNM-L)
a) Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc :

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, dân tộc là sản phẩm quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người; loài người đã
trải qua các tổ chức cộng đồng người từ thấp đến cao đó là thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là
nguyên nhân quyết định đến sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.

 Theo nghĩa rộng, dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền
kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, khái niệm dân
tộc dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước.

Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ ổn định. Lãnh thổ là yếu tố thể hiện chủ quyền của một dân tộc trong tương quan với các
quốc gia – dân tộc khác. Trên không gian đó, các cộng đồng người có mối quan hệ gắn bó với nhau, cư trú đan xen với nhau. Bảo vệ chủ
quyền quốc gia là nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành viên dân tộc. Chủ quyền quốc gia – dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm
xác định thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quá trình di cư
ngày càng sâu sắc. Vậy nên đường biên giới không chỉ bó hẹp trong biên giới hữu hình, mà được mở rộng thành biên giới mềm – dấu ấn
văn hóa – yếu tố để phân định ranh giới giữa các quốc gia – dân tộc.

Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các
bộ phận, các thành viên trong dân tộc, tạo nên tính thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc. Mối quan hệ kinh tế là nền tảng cho sự vững
chắc của cộng đồng dân tộc. Nếu thiếu tính cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa thể trở thành dân tộc.

Thứ ba, có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp. Mỗi một dân tộc có ngôn ngữ riêng, bao gồm cà ngôn ngữ nói và ngôn ngữ
viết, là công cụ giao tiếp giữa các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và tình cảm… Trong một quốc gia dù đa cộng đồng
tộc người, nhiều ngôn ngữ nhưng bao giờ cũng sẽ có một ngôn ngữ chung, thống nhất.

Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý. Văn háo dân tộc được biểu hiện thông qua tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, lối
sống dân tộc, tạo nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ với văn hóa của cộng đồng tộc người trong một
quốc gia. Văn hóa của một dân tộc không thể phát triển nếu không giao lưu văn hóa của các dân tộc khác, tuy nhiên phải đề cao ý thức bảo
tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh nguy cơ đồng hóa về văn hóa.

Thứ năm, có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc). Các thành viên cũng như các cộng đồng tộc người trong một dân tộc đều
chịu sự quản lý, điều khiển của một nhà nước độc lập. Đây là yếu tố đặc trưng chỉ có ở dân tộc – quốc gia chứ không có ở dân tộc – tộc
người. Hình thức tổ chức, tính chất của nhà nước do chế độ chính trị của dân tộc quyết định. Nhà nước là dặc trưng cho thể chế chính trị
của dân tộc, là đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.

 Theo nghĩa hẹp, dân tộc hiểu là các tộc người trong một quốc gia nhiều dân tộc. Dân tộc – tộc người có một số đặc
trưng cơ bản sau:

Một là, cộng đồng về ngôn ngữ ( tiếng nói, chữ viết ). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn đề luôn
được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên vì nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử
dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.

Hai là, cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn
liền với truyền thống văn hóa của họ. Ngày nay, bên cạnh giao lưu văn hóa, thì vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc
người được đề cao.

Ba là, ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc người có và có vị trí quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển của mỗi tộc người. Tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc mình, và ý thức tự khẳng định sự tồn tại
và phát triển của mỗi tộc nguwofi dù cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh hưởng của giao lưu
kinh tế, văn hóa,.. Sự hinh thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên qua trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc
người.
.
 Phân biệt dân tộc với sắc tộc, chủng tộc, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc

Sắc tộc, chủng tộc: Đề cập đến cộng đồng người dựa trên những đặc điểm tự nhiên như màu da, cấu tạo tự nhiên của cơ thể. Người
có sắc tộc, chủng tộc này nhưng có thể là thành viên của nhiều dân tộc.

Thị tộc, bộ lạc: Là hình thức cộng đồng người có trước dân tộc, tồn tại trong xã hội công xã nguyên thủy. Dựa trên cơ sở có chung
huyết thống.

Bộ tộc: Là hình thức cộng đồng người hình thành trên cơ sở liên kết nhiều bộ lạc, tồn tại dưới chế độ CHNL và PK

b) Sự hình thành dân tộc ở phương Đông và phương Tây có sự khác nhau rõ rệt
 Ở phương Tây
Dân tộc hình thành trên cơ sở một bộ tộc hoặc liên kết nhiều bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ, hình thành gắn với sự xác lập
của PT SXTBCN.
Sự hình thành và phát triển của PTSX TBCN đòi hỏi phải có sự thống nhất thị trường, thống nhất lãnh thổ, thống nhất về chính phủ,
về thuế quan, về tiền tệ, xóa bỏ sự cát cứ địa phương theo kiểu lãnh địa phong kiến, hình thành nên một cộng đồng người thống nhất gọi là
dân tộc.
 Ở phương Đông, dân tộc hình thành sớm hơn, trước CNTB.
Do sự thúc đẩy của nhiều nhân tố như:
-Nhu cầu trị thủy, chống thiên tai, thú dữ
-Nhu cầu chống địch họa…

c) Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc:
Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới CNTB, V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng vận động khách quan của các dân tộc:

Xu hướng thứ nhất: Ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành
về ý thức dân tộc nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập.Xu hướng này nổi trội ở giai đoạn
đầu của CNTB.

Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng
này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

Hai xu hướng này là 2 xu hướng tiến bộ. Tuy trong điều kiện của CNĐQ nó gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Bởi vì: Nguyện vọng của
các dân tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách XÂM LƯỢC của CNĐQ xóa bỏ. Liên hiệp, xích lại với nhau giữa các dân tộc trên cơ
sở tự nguyện, bình đẳng bị CNĐQ xóa bỏ, thay vào đó là quan hệ bất bình đẳng, đó là dân tộc này tìm cách thống trị các dân tộc khác.

Để hai xu hướng này vận động không gặp trở ngại, chỉ có thể:
 Xóa bỏ chủ nghĩa Đế Quốc,
 Thực hiện tốt các nguyên tắc tiến bộ như:
Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc
Thực hiện quyền dân tộc tự quyết
Liên hiệp công nhân các dân tộc lại.

d) Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin :

Nội dung cương lĩnh dân tộc được hình thành trên hai cơ sở là lý luận và thực tiễn. Về lý luận thì quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; mối quan hệ giữa hai xu hướng của sự phát triển các dân tộc,…Ở đây
thì quan điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp thì ta có thể thấy trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản tháng 2/1848 có
một luận điểm rất hay, các ông cho rằng: “ Hãy xóa bỏ nạn người áp bức, bóc lột người thì sẽ xóa bỏ được nạn dân tộc này áp bức, nô dịch
dân tộc khác”. Về thực tiễn thì dựa vào phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX; thực tiễn phong trào cách mạng của nước Nga cuối
thế kỉ 19 đầu thế kỷ 20,… để đưa ra cương lĩnh dân tộc.

 Nội dung cơ bản của Cương lĩnh:


 Một là, tác dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không có
một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột các dân tộc khác.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng phải được thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. Và phải được thực hiện
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Đối với một quốc gia nhiều dân tộc, sự khắc phục trình độ phát triển chênh lệch về kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ
bản.
+ Trên phạm vi thế giới, thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,
chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chống sự áp đặt của các TB phát triển đối với các nước chậm phát triển về mọi mặt.
- Thực hiện quyền bình đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân
tộc.

 Hai là, tác dân tộc được quyền tự quyết


- Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ đối với vận mệnh dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường
phát triển của dân tộc mình.
- Quyền tự quyết còn bao gồm cả quyền tự do tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và quyền tự
nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
- Khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.
+ Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của GCCN và NDLĐ.
+ Chống lại các phong trào dân tộc tự quyết giả hiệu vì lợi ích và mưu đồ của một nhóm người nào đó.

 Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc


- Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
- Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi, đảm bảo cho các nội dung trên của cương lĩnh dân tộc có
thể thực hiện đầy đủ. Do đó nó là nội dung quan trọng nhất của cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản.
Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản
toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết quyền
dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc chiến
thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao
động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

2) Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam :


a) Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam:

Thứ nhất có sự chênh lệch về dân số giữa các dân tộc. Theo các tài liệu chính thức, nước ta có 54 dân tộc. Dân tộc Kinh (Việt) là
dân tộc đa số. Dân số thuộc dân tộc Kinh là 82.085.826 người , chiếm 85,3%. Trong 53 dân tộc thiểu số, 6 dân tộc có dân số trên 1 triệu
người là Tày, Thái, Mường, Khmer, Nùng ( trong đó Tày có dân số đông nhất với 18,5 triệu người); 11 dân tộc có dân số dưới 5 nghìn
người trong đó Ơ Đu là dân tộc có dân số thấp nhất (428 người). Địa bàn sinh sống chủ yếu của dân tộc thiểu số là vùng trung du và miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên. (theo dữ liệu Báo cáo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019)

Hai là, các dân tộc cư trú xen kẽ. Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Vì thế, tính chất
chuyển cư đã làm cho bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán, xen kẽ. Và điều đó cho thấy không có một dân tộc nào ở Việt Nam
cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn. Điểm này tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu, cùng phát triển. Bên cạnh đó nhiều tộc người
cùng sinh sống thì dễ xảy ra mâu thuẫn tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng phá hoại an ninh chính trị, sự thống nhất dân tộc.

Ba là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Mặc dù chiếm 14,3% dân số,
nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú trên ¾ diện tích lãnh thổ ở những địa bàn trọng yếu. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với
dân tộc ở các nước láng giềng như dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Khmer,… do vậy, các thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề
dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam.

Bốn là, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều. Đó là sự chênh lệch về phương diện kinh tế kéo theo, làm ảnh
hưởng đến trình độ phát triển của các dân tộc. Muốn thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải từng bước giảm, tiến tới xóa bỏ khoảng cách phát
triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là nội dung quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Năm là, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu dài trong cộng đồng dân tộc- quốc gia thống nhất. Đây là
truyền thống lâu đời, quý báu của dân tộc Việt Nam, là một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc
trong các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng vững chắc Tổ quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng
như đa số phải ra sức phát huy nội lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan âm mưu và
hành động chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.

Sáu là, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Sự thống nhất đó suy cho cùng là do các dân tộc đều có chung một lịch sử dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một quốc
gia độc lập, thống nhất.

b) Về quan điểm về chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam
 Quan điểm: (Nghị quyết 24-NQ/TW BCHTW Đảng, khóa IX tại hội nghị lần thứ bảy về công tác dân tộc thời kỳ CNH, HDH đã
thông ra một số quan điểm cơ bản. Đối với em quan điểm có vai trò quan trọng trong thời kỳ mới là : “ Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.”.
 Đó cũng là quan điểm em tâm đắc hơn cả. Vì đoàn kết là sức mạnh, đất nước chỉ có thể phát triển bền vững trên cơ sở các dân
tộc tương trợ lẫn nhau. Đặc biệt Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc cùng chung sống , vậy nên vấn đề bình đẳng và đoàn kết,
tương trợ giúp đỡ nhau giữa các dân tộc cấp thiết hơn bao giờ hết. Các dân tộc phải hỗ trợ nhau, phát triển đồng đểu về các mặt như kinh
tế, chính trị, giáo dục, văn hóa,.. Nếu không các thế lực thù địch, phản động sẽ nhắm vào những sự bất công, thiếu hiểu biết đặc biệt là ở
các dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa để lợi dụng làm việc xấu hoặc thậm chí châm ngòi chiến tranh.

 Chính sách: Trên lĩnh vực chính trị, Thực hiện bình dẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc.
Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm
quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 Nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách theo em cảm thấy đó là Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo,
các dân tộc đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ,
không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn.

 Giải pháp thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở VN hiện nay. - Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống
chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới. Xem việc quán triệt và thực
hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn
thể từ Trung ương đến địa phương. Tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cho mọi cán bộ,
đảng viên và cho nhân dân. Phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi cho đồng bào
các dân tộc thiểu số.
 Thông qua các chính sách, biện pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, tinh thần
vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

II.Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội :

1. Chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề tôn giáo :


a) Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo :

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc con người.

 Phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng, mê tín dị đoan.


+ Tín ngưỡng: Là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên nào đó.
+ Mê tín dị đoan: Là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, hành vi cực đoan, thái quá, ảnh
hưởng tiêu cực đến xã hội.
Vì vậy, bên cạnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải chống mê tín dị đoan.

 Bản chất của tôn giáo:


Là một dạng tín ngưỡng được thể hiện dưới dạng:
+ Có hệ thống giáo lý làm cơ sở cho niềm tin, ý thức tôn giáo;
+ Có hệ thống nghi lễ,
+ Có giáo luật
+ Có tổ chức giáo hội.
+ Tín đồ

1) Về nguồn gốc của tôn giáo: Không phải tôn giáo tạo ra con người mà chính con người tạo ra tôn giáo.
 Nguồn gốc kinh tế xã hội :

- Trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ của LLSX thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các sức mạnh tự
phát của tự nhiên, do đó gán cho tự nhiên những sức mạnh to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó.

- Khi xã hội xuất hiện giai cấp, áp bức giai cấp cũng là một nguyên nhân làm cho con người hướng niềm tin vào thế giới siêu nhiên
dưới hình thức tín ngưỡng, tôn giáo.
- Kinh tế – xã hội luôn diễn ra sự tác động đến con người một cách may rủi, ngẫu nhiên, cũng làm cho người nảy sinh tín ngưỡng,
tôn giáo.
 Cho nên khi nghiên cứu về tôn giáo thì Mac đã có những luận điểm rất hay về kinh tế để nói đến xã hội, chính những
sự bóc lột bất công, bản thân quần chúng nhân dân bất lực trước những bất lực bất công, họ không giải thích được những căn nguyên, họ
sợ hãi, họ muốn có một đấng siêu nhiên để được che chở để làm chỗ dựa về mặt tinh thần, xoa dịu, an ủi vỗ về trước những nỗi đau ấy: “
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

 Nguồn gốc nhận thức:


- Sự thiếu hiểu biết, không giải thích được các hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng dẫn đến nảy sinh các quan điểm tôn giáo.
- Con người có khả năng khái quát hóa hiện thực bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng đến mức xa rời hiện thực, phản ánh sai
lệch hiện thực. Đó cũng là cơ sở nhận thức để hình thành các phạm trù, khái niệm, học thuyết tôn giáo.
Ví dụ: Khái niệm “Thiên đường”, “địa ngục”, v.v…

 Nguồn gốc tâm lý:


-“Sự sợ hãi sinh ra thần linh” chính những sự sợ hãi của con người trước những hiện tượng tự nhiên của xã hội, làm cho người ta
tìm đến với tôn giáo hay trong cuộc sống bản thân của họ sợ hãi trước ốm đau, bệnh tật, những cái điều rủi ro xảy đến thì họ cũng tìm đến
với tôn giáo
-Tâm lý kính trọng, biết ơn của con người cũng dẫn đến các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo

 Lưu ý
•Việc tách thành các nguồn gốc như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Các nguồn gốc trên không tách biệt một cách rõ ràng, chúng tác
động một cách đan xen dẫn đến nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo.
•Trong các yếu tố dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng, tôn giáo như trên, yếu tố kinh tế – xã hội là yếu tố quyết định.

2) Tính chất của tôn giáo: tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị.
 Tính lịch sử của tôn giáo:
-Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát triển đến một trình độ lịch sử nhất định. Tôn giáo không xuất hiện đồng thời với sự xuất
hiện của con người.
Ví dụ:
Phật giáo (TK VI tr.CN)
Cơ đốc giáo sơ kỳ (TK I S.CN)
- Tôn giáo ra đời, tồn tại, biến đổi cùng với biến đổi của thời đại, sao cho phù hợp với kết cấu chính trị - xã hội của thời đại.
Ví dụ: Phong trào Cải cách tôn giáo
- Tôn giáo sẽ mất đi khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ. Tuy nhiên thì đây sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài.

 Tính quần chúng


- Tín đồ tôn giáo luôn chiếm tỉ lệ khá đông trong dân số thế giới.
- Hầu như dân tộc, quốc gia nào cũng có tôn giáo.
- Tôn giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của một bộ phận QCND LĐ.

 Tính chính trị trong tôn giáo


- Trong xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị.
- Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị các giai cấp thống trị lợi dụng để phục vụ lợi ích của mình.
- Nhiều tôn giáo ra đời là biểu hiện sự phản kháng của giai cấp lao động chống lại sự áp bức giai cấp.

 Ngoài ra tôn giáo còn thể hiện những tính chất như:
-Tính nhân văn.
-Tính phản khoa học.

3) Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong xã hội XHCN, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó là do, nguyên nhân cho sự ra đời và tồn
tại của tôn giáo vẫn chưa mất.
Nguyên nhân kinh tế:
Trong CNXH, và nhất là trong thời kỳ quá độ còn nhiều TP kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, do đó:
+ Bóc lột và sự bất bình đẳng về kinh tế vẫn tồn tại.
+ Những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên do sự tác động của thị trường vẫn tồn tại, v.v…
Điều đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho con người có tâm lý thụ động, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân chính trị - xã hội
- Do đường lối của ĐCS, Nhà nước XHCN thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, Vì tôn giáo có nhiều điểm còn
phù hợp với CNXH như giá trị đạo đức, giá trị văn hóa.
- Đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp, các thế lực thù địch vẫn lợi dụng tôn giáo vì
mục đích chính trị;
- Chiến tranh, xung đột, khủng bố, bạo loạn, bệnh tật.. vẫn còn đe dọa con người, do đó những yếu tố này là điều kiện thuận lợi cho
tôn giáo tồn tại…
Nguyên nhân nhận thức, tâm lý
- Trình độ dân trí vẫn chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội đến nay khoa học vẫn chưa giải thích được.
- Những hiện tượng tự phát của tự nhiên, xã hội có lúc tác động, chi phối đến cuộc sống của con người một cách nghiêm trọng.
Và khi con người không có khả năng lý giải những điều đó, thì thường có tâm lý là trông chờ, tin tưởng vào thần thánh, đứng siêu
nhiên…
- Tôn giáo, tín ngưỡng là thuộc về ý thức xã hội, và là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Ngay cả khi tồn tại xã
hội có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội, v.v.. thì tôn giáo, tín ngưỡng cũng chưa biến đổi ngay. Tôn giáo tín ngưỡng đã in
sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một
kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Nguyên nhân văn hóa
Sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần của một bộ phận nhân
dân, có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Điều đó cũng phù hợp với CNXH, vì vậy việc kế
thừa, phát huy các giá trị văn hóa của tôn giáo là cần thiết và hợp lý.

b)Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Tôn trọng tín ngưỡng là tôn trọng
quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không can thiệp và không bất cứ ai can thiệp, xâm phạm
đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Nguyên tắc này khẳng định, chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần
chúng nhân dân mà không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt chính trị phản ánh
mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi
ích của nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ vào tôn giáo. Phân biệt 2 mặt chính trị và tư tưởng
trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn tồn tại trong bản thân tôn giáo.
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo
dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng
xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
2.Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước hiện nay:
a) Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam :

Đầu tiên, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Cụ thể là nước ta hiện nay, có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được công
nhận và cấp đăng ký hoạt động với khoảng 57.000 chức sắc, 157.000 chức việc và hơn 29.000 cơ sở thờ tự.

Tiếp theo, tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có xung đột, chiến tranh tôn giáo. Mỗi tôn giáo
ở Việt Nam có quá trình lịch sử tồn tại và phát triển khác nhau. Tín đồ của tôn giáo khác nhau cùng chung sống hòa bình và chưa từng xảy
ra xung đột.

Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Đa số tín đồ tôn giáo đều có
tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, tôn trọng công lý, đi theo Đảng. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các
tầng lớp nhân dân làm nên những thắng lợi to lớn, vẻ vang của dân tộc và có ước vọng sống “ tốt đời, đẹp đạo”.
Thứ tư, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội, có uy tín ảnh hưởng với tín đồ. Chức sắc tôn
giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong giáo hội. Về mặt tôn giáo, họ truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật lễ nghi. Trong giai đoạn hiện
nay, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam luôn chịu sự tác động của tình hình chính trị- xã hội trong và ngoài nước, nhưng nhìn
chung xu hướng tiến bộ trong hàng ngũ chức sắc ngày càng phát triển.

Thứ năm, các tôn giáo Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài. Nhìn chung, các tôn giáo ở
nước ta không chỉ các tôn giáo ngoại nhập, mà cả các tôn giáo nội sinh đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài hoặc
các tổ chức tôn giáo quốc tế.

b) Những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng CNXH
 Một là, cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới (CNXH, CNCS), xóa bỏ nguồn gốc xã hội nảy sinh niềm tin tôn giáo.
- Mặt tích cực của tôn giáo:
+ Chủ trương giải phóng con người, hướng đến một xã hội tốt đẹp.
+ Khuyên răn con người sống tốt, có đạo đức, mưu cầu hạnh phúc cho con người.
>> Điều này làm cho CNXH và tôn giáo có điểm tương đồng.
- Tuy nhiên tôn giáo có những hạn chế như:
+ Giải thích nguyên nhân của sự khổ đau là do sự chi phối của lực lượng siêu nhiên;
+ Chủ trương giải phóng con người ở thế giới không phải là thế giới hiện thực, trần gian mà ở một thế giới khác, thế giới bên kia
sau khi chết, “thiên đường”.
+ Con đường, biện pháp giải phóng là trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên, đứng cứu thế…
>> Vì vậy nó kìm hãm, hạn chế khả năng vươn lên của con người, dẫn đến tư tưởng, tâm lý trông chờ, ỷ lại một cách thụ động.
>> Ở điểm này, giữa tôn giáo và CNXH có sự khác biệt về thế giới quan, nhân sinh quan, và con đường mưu cầu hạnh phúc
cho nhân loại.
- Tuy có sự đối lập như vậy, nhưng những người CS không thể cấm đoán mà quan trọng là khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó
phải gắn liền với việc xóa bỏ nguồn gốc xã hội sinh ra nó bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – CNXH, CNCS.

 Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
- Mọi người đều có quyền theo hoặc không theo, có quyền theo tôn giáo này hoặc tôn giáo khác.
- Quyền đó được PL thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
- Mọi công dân theo hoặc không đạo đều bình đẳng trước PL.
- Nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo.

 Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân
chính, đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng và bảo vệ CNXH. Chống lại các hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.

 Bốn là, Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở đây chính là phân biệt 2 loại mâu thuẫn trong đời sống tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa một bên là ĐCS, Nhà nước XHCN, NDLĐ (bao gồm có đạo và ko có
đạo); và bên kia là các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp XD CNXH của ĐCS, Nhà nước XHCN và NDLĐ.
Giải quyết MT này chỉ có thể là dùng biện pháp chuyên chính để giải quyết kịp thời và triệt để.
Mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn không đối kháng, chỉ là sự khác biệt về nhận thức, tư tưởng giữa những người theo hoặc ko theo
tôn giáo, giữa những người theo tôn giáo khác nhau.
Giải quyết sự khác biệt này chỉ có thể là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – XH XHCN và
CSCN.

 Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
+ Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau.
+ Quan điểm, thái độ của giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác nhau.
Vì vậy cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề liên quan đến tôn giáo.

III.Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam


1. Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam :
Quan hệ dân tộc và quan hệ tôn giáo là sự liên kết, tác động qua lại, chi phối lẫn nhau.Việc giải quyết mối quan hệ này như thế nào
có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định chính trị và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Quan hệ dân tộc và tôn giáo đều được thể hiện dưới
nhiều cấp độ, hình thức, phạm vi khác nhau. Ở nước ta hiện nay, mối quan hệ này có những đặc thù cơ bản sau :
Một là, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ dân tộc và tôn giáo được thiết lập và củng cổ trên cơ sở cộng
đồng quốc gia- dân tộc thống nhất. Mặc dù việc triển khai thực tiễn chưa đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về dân tộc và tín ngưỡng tôn giáo. Nên có lúc xảy ra mâu thuẫn trong các mối quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo nên khoa học vẫn
tiếp tục tăng cường giải quyết tốt nhất mối quan hệ dân tộc và tôn giáo. Một mặt, phát huy giá trị, đạo đức, văn hóa của các tôn giáo mặt
khác góp phần làm phong phú thêm các nền văn hóa Việt Nam, đảm bảo sự ổn định chính trị quốc gia.
Hai là, một quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt nam chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi tín ngưỡng truyền thống. Ở phạm vi Việt
Nam thì tín ngưỡng truyền thống biểu hiện ở nhiều cấp độ. Trên phạm vi cả nước, diễn ra trong mọi gia đình, dòng họ không phân biệt
dân tộc, tôn giáo. Trong đó tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ anh hùng dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ở cấp độ gia đình, thờ
cúng là hoạt động phổ biến, thậm chí trở thành truyền thống, nét đẹp văn hóa của mỗi gia đình, dòng họ và đồng thời là sợi dây kết dính
các thành viên trong dòng họ, kể cả họ có thể sinh sống ở mọi miền của đất nước. Ở cấp độ làng, xã hầu hết cac người Việt đều thờ
cúng Thành hoàng làng, thần làng dạng vì các vị đó có công gây dựng làng xã, dạy nghề cho dân làng. Chính hoạt động tín ngưỡng này
trở thành sợi dây gắn kết các làng, xã với nhau và với triều đình trung ương. Ở cấp độ quốc gia, đỉnh cao của sự hội tụ đoàn kết thống
nhất cộng đồng dân tộc của người Việt nam được biểu hiện dưới dạng tín ngưỡng, tôn giáo, đó là người Việt Nam dù sinh sống ở bất cứ
nơi đâu trên mọi miền của Tổ quốc hay định cư ở nước ngoài thì đều hướng về cội nguồn dân tộc chung.

Ba là, các hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng phát triển mạnh tác động đến đời sống cộng đồng và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.Từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, tiến hành hội nhập quốc tế sâu rộng thì đời sống
tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt Nam phát triển, trong đó xuất hiện một số hiện tượng tôn giáo mới như : Long Hoa Di Lặc, Tin
Lành Vàng,… các tổ chức đội lốt tôn giáo như Tin Lành Đềga, Hà Mòn ở Tây Nguyên. Tính chất mê tín của các hiện tượng tôn giáo
mới khá rõ. Liên hệ, nhưng hiện nay có rất nhiều người theo hội Thánh Tin Lành, đi lừa gạt lòng tin của mọi người và cụ thể là vụ việc
xảy ra tại trường Nhân văn. Bạn học khoa V tên H.T đã khôn ngoan, ứng xử tốt trong chiêu trò, cách lừa gạt của chúng. Họ dúi vào tay
bạn ấy một tờ giấy giống dạng bùa ngải và bảo đó là cách “truyền tin”.
2. Định hướng giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
Để giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và tôn giáo. Với tư cách dẫn đầu về đường lối lãnh đạo cùng vai trò của mình,
Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu :”nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời chủ
động thực hiện công tác tuyên truyền, phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo hoạt động trái
quy định pháp luật. Và quá trình giải quyết mối quan hệ này cần quán triệt như sau
Một là, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo là vấn
đề chiến lược, cơ bản, lâu dài và cấp bách. Thực tiễn đã đặt ra các yêu cầu : ở mỗi giai đoạn lịch sử, việc giải quyết mối quan hệ dân
tộc và tôn giáo cần có cách tiếp cận và lựa chọn ưu tiên giải quyết phù hợp, hiệu quả nhất những vấn đề mới nảy sinh trong mối quan hệ
dân tộc và tôn giáo.
Hai là, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đặt trong mối quan hệ với cộng đồng quốc gia- dân tộc thống nhất, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôn giáo và dân tộc là 2 vấn đề nhạy cảm, vì vậy phải giải quyết một cách thỏa đáng, tuân thủ theo
nguyên tắc : giải quyết vấn đề tôn giáo trên cơ sở vấn đề dân tộc, tuyệt đối không được lợi dụng vấn đề tôn giáo đòi ly khai dân tộc, làm
tổn hại đến lợi ích quốc gia. Luật tín ngưỡng 2016 quy định :” Tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín
ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Thực hiện quan điểm có tính nguyên tắc này nhằm
đảm bảo sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở mỗi địa bàn
Ba là, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quyền của các
dân tộc thiểu số, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo vào mục đích chính trị. Chủ động vạch trần
những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng những vấn đề dân tộc và tôn giáo, hoặc kết hợp vấn đề dân tộc với
vấn đề tôn giáo nhằm “tôn giáo hóa dân tộc”của chúng. Kiên quyết đấu tranh, xử luật truyền đạo trái phép, hoặc lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo và nhân quyền để kích động, chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Tóm lại, nhận diện rõ những đặc điểm của quan hệ dân tộc, tôn giáo ở nước ta hiện nay để một mặt tiếp tục phát huy hiệu quả và
tăng cường mối quan hệ tốt đẹp này nhằm tạo sự đồng thuận, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

You might also like