You are on page 1of 26

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:

TÊN ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA TRONG


THỜI KÌ QUÁ ĐỘ.

NHÓM: 9

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

TÊN ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA TRONG THỜI


KỲ QUÁ ĐỘ.

Nhóm: 9
Trưởng nhóm: Trần Đình Thắng – 2029212765.
Thành viên:

1. Từ Văn Thu – 2001210946.


2. Nguyễn Thanh Tâm- 2013213382. Giảng viên hướng dẫn:

3. Lê Minh Thông -2001210721.


4. Lê Thị Anh Thư – 2005211032. TS Nguyễn Thị Thu

5. Âu Ngọc Anh Thư – 2005211122. Trang

6. Châu Phúc Thịnh – 2001216180.


7. Huỳnh Thanh Thảo – 2030219496.
8. Lê Hoàng Thành – 2001210193.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2023


Bảng phân công và mức độ hoàn thành:

STT Họ Và Tên - MSSV Nội dung công Mức độ hoàn


việc thành
1 Trần Đình Thắng – 2029212765 Mục 1.4 100%
(Nhóm trưởng)
2 Từ Văn Thu - 2001210946 Lời cảm ơn, work. 100%

3 Nguyễn Thanh Tâm- 2013213382 Mục 2.1.2 100%

4 Lê Minh Thông -2001210721 Mục 2.1.1 và 1 100%


phần 2.1.2
5 Âu Ngọc Anh Thư –2005211122 Mục 1.2 và mục 1.3 100%

6 Châu Phúc Thịnh – 2001216180 Mục 2.2 100%

7 Huỳnh Thanh Thảo - 2030219496 Mục 2.2.1 100%

8 Lê Hoàng Thành - 2001210193 Mục 1.1 100%

9 Lê Thị Anh Thư – 2005211032 Mục 2.3 100%


Lời cam đoan
Em/ chúng em xin cam đoan đề tài tiểu luận: Thực trạng nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ quá độ. Do nhóm: 9 nghiên cứu và thực hiện.
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả bài làm của đề tài thực trạng của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá
độ là trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài tập của nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

(Ký và ghi rõ họ tên)

Lời cảm ơn
Đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến trường Đại học Công Nghiệp Thực
Phẩm Hồ Chí Minh và khoa Chính Trị Luật nói riêng. Em xin thay mặt nhóm nói
lời cảm ơn cô đến cô Nguyễn Thị Thu Trang,trong thời gian cô giảng dạy môn học
Chủ Nghĩa Xã Hội giúp chúng em nắm bắt kiến thức cũng như vận dụng vào đời
sống .
Môn học Chủ Nghĩa Xã Hội là một môn học là một môn rất là thú vị . Bên
cạnh đó bộ môn này cũng làm khó chúng em về tiếp cận các kiến thức mà những
bài yêu cầu .Về phần tiểu luận chúng em khó tránh khỏi những sai xót về bài
làm .Kính mong cô và các bạn góp ý và bổ sung bài làm của nhóm chúng em .
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
TP Hồ Chí Mính, ngày 20/03/2003.

1
Nhận xét của Giảng Viên.

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

TPHCM, ngày 22 tháng 03 năm 2023.


(ký và ghi rõ họ và tên)

2
Mục lục
Lời cam đoan....................................................................................................................1
Lời cảm ơn........................................................................................................................ 1
Chương 1: Những lý luận chung về quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............................5
1.1 Khái niệm thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa....................................................5
1.2 Đặc điểm TLQĐ......................................................................................................6
1.3 Quá độ lên CNXH ở Việt Nam.............................................................................10
1.3.1 Khái quát đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa......................................................................................................10
1.3.2 Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam,
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần thực hiện những nội dung cơ bản:.........10
1.4 Nhiệm vụ cơ bản của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội............................................................................................................................ 11
Chương 2: Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ.................................14
2.1 Thực trang nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ........................................14
2.1.1 Thực trạng nền kinh tế nước ta qua các giai đoạn.......................................14
2.1.2 Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay.......................................................15
2.2 Đánh giá và giải pháp phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam.............................................................................................................................. 17
2.2.1 Đánh giá..........................................................................................................17
2.2.2 Giải pháp..........................................................................................................18
2.3 Kết luận.................................................................................................................19
2.3.1 Ý nghĩa về mặt lý luận.....................................................................................19
2.3.2 Ý nghĩa về mặt thực tiễn..................................................................................20
2.3.3 Ý nghĩa cho bản thân......................................................................................21
Tài liệu tham khảo:........................................................................................................24

3
Chương 1: Những lý luận chung về quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.1 Khái niệm thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa


Theo đúng lý luận Mác-Lênin, các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới một thế kỷ qua
xét về tương quan kinh tế - kỹ thuật so với các nước phương Tây, đều là những xã hội ở
thời quá độ trình độ thấp, tức là gián tiếp từ xã hội tư bản chủ nghĩa chưa phát triển, hoặc
xã hội từ tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, các nước này, một mặt, đã đi vào con đường xã
hội chủ nghĩa; mặt khác trong thời gian đầu trình độ kinh tế- kỹ thuật đương nhiên vẫn
thấp hơn so với các nước phương Tây.

Từ Hội nghị Trung ương một Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) đến Hội
nghị Trung ương 9 khoá VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8-1990), thời kỳ quá độ
luôn được xác định là: “do được các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, nên bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN”, tức là nửa trực tiếp. Đại hội II Đảng Lao Động Việt Nam (tháng 2-
1951) nêu rõ: thời kỳ quá độ ở Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn, cho nên lâu dài,
khó khăn hơn. Đại hôi VI của Đảng (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới, bắt đầu thực hiện
đa dạng hoá sở hữu một trong những nội dung quan trọng nhất của NEP, nhưng vẫn nêu
thời kỳ quá độ ở nước ta là “bỏ qua chế dộ thời kỳ quá độ” tức là thời kỳ quá dộ gián tiếp,
và được xây dựng, phát triển ngày càng hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII
(tháng 1-1995) khẳng định: trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa, nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hôi nhập kinh tế quốc tế; bỏ
qua chế độ TBCN, nhưng kế thùa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của
các CNTB. Đại hội IX của Đảng nêu rõ, bỏ qua sự thống trị cảu QHSX TBCN, nhưng
tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ trong CNTB…

Hiện nay, để tiếp tục giữ vững, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa và xã hội, Việt Nam cần đẩy mạnh vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng, đường
lỗi của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp với một số điểm chú ý sau:

-Thực tế thành công lẫn thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới một
thế kỷ qua đều chứng minh lý luận của V.I. Lênin về TKQĐ gián tiếp là đúng đắn. Để

4
phát triển, tiến bộ nhanh, mạnh bền vững, mà không lặp lại những hạn chế của TBCN,
các nước đang phát triển vẫn có thể và cânf phải thực hiện TKQĐ này. Điều dổi mới
nhận thức về thời kỳ quá độ đó là bỏ qua chính trị TBCN, mà vẫn sử dụng, khai thác kinh
tế CNTB để phục vụ cho chủ nghĩa xẫ hội, đặc biệt là phát triển LLSX, kinh nghiệm quản
lý, trình độ khoa học – công nghệ… đồng thời với vai trò của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa sẽ điều tiết sự phát triển nhân văn hơn.

-Để giữ được bản chất và định hướng XHCN trong thực hiện đường lối về thời kỳ
quá độ gián tiếp, thì phải đảm bảo: một là, khi thực hiện, QGSX TBCN và giai cấp tư sản
tuyệt nhiên không thể trở thành thống trị; hai là, người đại diện (nhà nước XHCN) cho
chủ sở hữu (quần chúng nhân dân) không thể thay thế hoàn toàn chính người chủ sở hữu
này, để trở thành một chủ sở hữu mới trên thực tế. Những điều này phụ thuộc vào việc,
Đảng phải luôn kiên định và sáng tạo trong lãnh đạo thực hiện mục tiêu, con đường lên
chủ nghĩa xã hội dựa vào trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

-Vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận, đường lối chính trị của V.I. Lênin về thời kỳ
quá độ gián tiếp, cần kết hợp thống nhất, chặt chẽ, chuyển dổi linh hoạt, hợp lý hai chính
sách chủ yếu trên. Đồng thời, phải đổi mới, phát triển chúnh phù hợp với điều kiện trong
nước.

1.2 Đặc điểm TLQĐ


Lý luận về thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một nội
dung quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận giải giai đoạn chuyển tiếp còn
đan xen những yếu tố, đặc điểm của cả hai hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa (giai đoạn thấp là XHCN) và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa
(TBCN). Trung thành và không ngừng vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý
luận này qua các thời kỳ cách mạng là một nét đặc trưng của Đảng Cộng sản Việt
Nam.

Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã
hội, chủ nghĩa Mác - Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về
5
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có giá trị định hướng con đường phát triển đi
lên của các dân tộc theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các
quốc gia - dân tộc. Hệ thống đó dựa trên cơ sở khoa học và bao gồm:

Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C. Mác và Ph. Ăngghen phát
minh tạo nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài người, là cơ
sở khoa học để nhận thức chân thực về TKQĐ. Trên cơ sở quan điểm sản xuất vật
chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời
sống xã hội, đồng thời là cơ sở quyết định sự hình thành, phát triển, thay thế lẫn
nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, các ông làm sáng tỏ, xã hội loài người đã
và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; đỉnh cao, tiến bộ
nhất là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy
luôn có một thời kỳ chuyển tiếp được gọi là TKQĐ.

Lý luận về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN. Phân tích TKQĐ từ xã
hội TBCN sang xã hội CSCN ở các nước TBCN đã phát triển cao nhất, C. Mác chỉ
ra và xác định hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN: Giai
đoạn thấp là XHCN, giai đoạn cao là CSCN. Ở giai đoạn XHCN, chế độ kinh tế và
sự phát triển của văn hóa mới đạt tới giới hạn và chỉ bảo đảm cho xã hội thực hiện
nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Ở giai đoạn CSCN, con
người không còn bị lệ thuộc vào sự phát triển của lao động; lao động vừa là
phương tiện sống, vừa trở thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống; sự phát triển phi
thường của lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động ngày càng tăng, của cải
tuôn ra dào dạt… xã hội đủ các điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện nguyên
tắc “Làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”; sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Xác định, luận giải về XHCN là TKQĐ từ CNTB lên CNCS được C. Mác
phân tích:
6
1) Không gian và thời gian là “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”.

2) Thực chất xã hội thời kỳ đó “không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa
đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ
nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi
phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ
mà nó đã lọt lòng ra” , “Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị,
và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản”.

3) Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản.

Thống nhất với chủ nghĩa Mác về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CNCS,
vận dụng vào phân tích, xem xét ở những nước chưa có lực lượng sản xuất phát
triển cao như nước Nga Xô viết, hoặc chưa trải qua CNTB mà lại đang và sẽ bỏ
qua chế độ CNTB; cùng sự phân tích những thành phần, bộ phận, đặc điểm không
thuần nhất, đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các yếu tố của CNTB và CNXH, thấy
được sự lấn át của xã hội cũ đối với xã hội mới và tính chất lâu dài, khó khăn, phức
tạp của thời kỳ này, V.I.Lênin đã phân chia quá trình hình thành, phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội CNCS thành ba giai đoạn: I “những cơn đau đẻ kéo dài”,
II “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, III “giai đoạn cao của xã hội
cộng sản chủ nghĩa”. Ở đó, xác định: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ
nghĩa, là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo
dài”.

Từ sự phân tích, đánh giá trên đây, V.I. Lênin đã đưa ra khái niệm về thời kỳ
quá độ từ CNTB lên CNXH, đó là: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng

7
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định.
Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai
kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một
thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang
phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa
bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”.

Với thực tiễn những năm đầu của TKQĐ lên CNXH ở nước Nga Xô viết
giúp cho V.I.Lênin đưa ra kết luận khoa học: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ
nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ
nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại
này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội” … Từ
đó, xác lập nên hai hình thức cơ bản của TKQĐ lên CNXH: 1) Quá độ trực tiếp -
từ những nước tư bản phát triển lên CNXH; 2) Quá độ gián tiếp - từ những nước
chưa qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH.

Ở hình thức quá độ thứ hai - quá độ bỏ qua CNTB lên CNXH, V.I. Lênin chỉ
ra, nhiệm vụ của TKQĐ sẽ nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, bởi phải thực hiện
“kép” cả hai nhiệm vụ là xây dựng CNXH về mặt chính trị, xã hội và đạt được
những thành tựu cơ bản của CNTB về mặt khoa học, lực lượng và trình độ sản
xuất. Do vậy, ông nhấn mạnh và đòi hỏi sự cần thiết phải trải qua nhiều bước trung
gian, quá độ mới có thể xây dựng thành công CNXH, ví như, phải “bắc những nhịp
cầu nhỏ” đi xuyên qua kinh tế tư bản để từng bước xây dựng CNXH. Đồng thời,
lưu ý “chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách
trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề”.

8
1.3 Quá độ lên CNXH ở Việt Nam
1.3.1 Khái quát đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Thứ nhất, Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực
lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua chiến tranh kéo dài nửa thập kỷ, hậu quả
để lại nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch
thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc
của nhân dân ta.

Thứ hai, Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra
mạnh mẽ, cuốn hút các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ
phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát
triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.

Thứ ba, Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, cho dù mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ. Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại,
vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển
và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hoá
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

1.3.2 Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần thực hiện những nội dung cơ bản:

Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản

9
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đây là
tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được hiểu
đầy đủ với những nội dung sau đây:

Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa.

Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư
bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý
để phát triển xã hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực
lượng sản xuất.

Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, lâu dài.

1.4 Nhiệm vụ cơ bản của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội

10
Thứ nhất: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất.

-Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên
tiến, tạo ra năng suất lao động cao.

-Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa
phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được
xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong
mỗi thời kỳ.

Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới có
thể xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao
động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ
biến, nhờ đó mới thực hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai: Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
-Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ
sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân
theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt
quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng
sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được
phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta, chế
độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế

11
có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên
trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng
sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không
thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để
xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.

-Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và
nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của
người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới
nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.

Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
-Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín,
mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời
đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta "mở cửa" nền
kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút
các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm
thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm ... mở rộng phân công
lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện
và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

-Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tích
cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham
gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực
cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.

12
-Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh:
"Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các
thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm
mục tiêu cao nhất.
Chương 2: Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ
2.1 Thực trang nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ
2.1.1 Thực trạng nền kinh tế nước ta qua các giai đoạn
Thứ nhất, xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực
lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua chiến tranh kéo dài nửa thập kỷ, hậu quả
để lại nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch
thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc
của nhân dân ta.

Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã
hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển
lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển triển
nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.

Thứ ba, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, cho dù mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ. Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại,
vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gây gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển
và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hóa
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

13
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, về phương diện kinh tế,tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần,trong đó có
thành phần đối lập.

2.1.2 Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều
giaicấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế sản xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ
thể như thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột những cá
nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả
một chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và
Đảng Cộng sản Nga,sau một thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến"
(trưng thu lương thực... do yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ
chính sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời
kỳ thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP) với kinh tế hàng hoá 5 thành phần và
tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc
trưngkinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xoá bỏ một cách
nóngvội những đặc điểm trên, savào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ
cuốithế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I. Lênin
về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới. Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội
là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân
dân. Chính từ bản chất và mục đích đó mà các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đưa ra
những kết luận khoa học cho đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một
kiểu tổ chức lao động mới củabản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng
dẫn của đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội
14
chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ
luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa,
vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò
làm chủ đích thực của mình trước xã hội, trước mọi công việc được phân công
ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ
luật lao động mới tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn
thiện chủ nghĩa xã hội chế sản xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những
quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể còn
bóc lột những cá nhân khác.
Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả một
chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và Đảng
Cộng sản Nga, sau một thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng
thu lương thực... do yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ chính
sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ
thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP) với kinh tếhàng hoá 5 thành phần và tự
do lưu thông hàng hoá trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng
kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xoá bỏ một cách nóng
vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối
thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I. Lênin về
nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ
chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự
giác của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và
mục
đích đó mà các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho
đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới của
bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội
15
tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao
động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy
định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ luật
tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của mình
trước xã hội, trước mọi công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương
nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới tựgiác như
thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn thiện chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; sự khác biệt
giữa các gia cấp, tầng lớp xã hội; các gia cấp, tầng lớp xã hội vừa hợp tác, vừa đấu
tranh với nhau. Ngoài ra xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa
nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Do đó, thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội là đấu tranh
giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội
cũ để lại, Thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động là chủ yếu.

2.2 Đánh giá và giải pháp phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam

2.2.1 Đánh giá

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay vừa có những cơ hội, vừa có không ít thách thức đặt ra.
Điều đó đòi hỏi Đảng ta, dân tộc ta và nhân dân ta cần có quyết tâm cao với đường
lối chiến lược, sách lược phát triển đúng đắn, phù hợp để tận dụng tối đa cơ hội,
từng bước đẩy lùi, vượt qua những thách thức, đưa đất nước phát triển bền vững,
đạt tới những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Là sự lựa chọn
phù hợp với quy luật khách quan và xu thế của thời đại. Những bổ sung từ lý luận
và thực tiễn ở nước ta về con đường và phương thức đi lên chủ nghĩa xã hội là một
16
điển hình của sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể điển hình. Lý luận và thực tiễn ấy đã khẳng định đường lối
của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, đồng thời càng chứng tỏ bản chất khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.

Luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và
quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những
người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức
sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học.
Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và
sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học
thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới,
mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

2.2.2 Giải pháp

Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu chốt, tăng
năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập
quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng,
lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán,
đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Trên lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp xây
dựng CNXH.
17
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại
chúng và mấu chốt của văn hóa là xây dựng con người có đạo đức cách mạng, con
người mới xã hội chủ nghĩa với đức - tài gắn bó hữu cơ với nhau, toàn tâm toàn ý
phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng xây dựng nền văn hóa
mới, lối sống mới. Về xã hội, thực hiện sự phân phối theo lao động, thi hành chính
sách xã hội vì toàn dân, bình đẳng. Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công
bằng xã hội hướng vào phát triển con người, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là
mục tiêu, vừa là động của sự phát triển xã hội.
Về bước đi, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đã xác
định bước đi, cách làm phù hợp, Người khẳng định: Chúng ta cũng phải có phương
pháp xây dựng CNXH của riêng mình, gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam.
Bước đi trong xây dựng XHCN ở nước ta là “phải làm dần dần”, ai nói dễ là chủ
quan và sẽ thất bại, phải thực hiện “đi bước nào vững chắc bước ấy”.
Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy
xây dựng làm chính; kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời
tiến hành hai chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp
và quyết tâm. Đặc biệt, Người xác định biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định nhất
trong xây dựng CNXH ở nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài
dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân.

2.3 Kết luận

2.3.1 Ý nghĩa về mặt lý luận

Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của
đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã
hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp. Quá độ lên CNXH
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
18
Minh, của Đảng và nhân dân ta, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại
và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Nhờ đó, đất nước ta đã giành được
những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước, đặc biệt là những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong hơn 35 năm
đổi mới.

CNXH khoa học là học thuyết hoàn toàn mang tính cách mạng, tiến bộ và nhân
văn, chỉ rõ quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người, đã được kiểm
nghiệm trên thực tế, không phải là một học thuyết viễn vông. Tuy nhiên, do đời
sống kinh tế - xã hội luôn có những biến thiên, thay đổi nên mới đòi hỏi tri thức
của xã hội, nhân loại cũng phải uyển chuyển theo cho phù hợp với thời đại

2.3.2 Ý nghĩa về mặt thực tiễn

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp
hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại. Với ngành công nghiệp được định
hướng tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động,
như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ
khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng,
máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công
nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm. Nâng tỉ trọng
sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng phát triển công nghiệp
năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật
liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm
sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường. Các ngành công nghiệp được chú trọng
phát triển trước hết là công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than,
19
xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc
phòng.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã được quan niệm, đó là “Quá trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện
đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao”.

Trong thế giới ngày nay, quá trình công nghiệp hóa của mỗi quốc gia không thể
tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu.
Đối với Việt Nam, đòi hỏi này trở nên bức thiết gấp bội vì nền kinh tế nước ta đã
hội nhập rất sâu với nền kinh tế thế giới: giá trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
bằng 160-200% GDP trong những năm vừa qua. Trên ý nghĩa rất lớn, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế
theo lợi thế cạnh tranh; đảm bảo tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Để định
hướng cho quá trình chuyển đổi quan trọng này, Đại hội XIII chỉ rõ: “Cơ cấu lại
công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ
số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào
các chuỗi giá trị toàn cầu”.

2.3.3 Ý nghĩa cho bản thân


Đối với thế hệ trẻ của Việt Nam hiện nay, nội dung về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội được tiếp cận qua nhiều phương thức khác nhau
nhưng chủ yếu là thông qua quá trình học tập các môn học Mác - Lênin trong các
nhà trường. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà

20
thế hệ trẻ cần nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn, chúng ta có thể điểm qua một vài vấn
đề cơ bản như sau:

Trước hết, thế hệ trẻ cần phải nhận thức rõ và khẳng định tính đúng đắn của sự
lựa chọn và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Hai là, thế hệ trẻ hiện nay cần phải hiểu rõ hơn về bối cảnh, cách thức Việt
Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trình độ lực lượng sản xuất rất
thấp…

Thứ ba, bao trùm lên tất cả và mang tính đột phá trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là vấn đề nguồn nhân lực, trong đó con người được khẳng
định vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy và duy trì phát triển bền vững đất
nước, có ý nghĩa quyết định đến mức độ thành công của quá trình thực hiện “Khát
vọng Việt Nam”.

Để đảm bảo sự phát triển của nguồn nhân lực đó, không thể không nhắc đến vai
trò quan trọng của thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, những người
sẽ gánh vác sứ mệnh của toàn dân tộc, mang theo khát vọng một Việt Nam hùng
cường, phát triển trong tương lai. Đây là trách nhiệm, nhưng cũng là cơ hội để thế
hệ trẻ Việt Nam viết nên kỳ tích của mình trong tiến trình phát triển của dân tộc -
vốn rất tươi sáng trong những thập kỷ tới. Muốn vậy, thế hệ trẻ chúng ta hiện nay
cần phải được quan tâm giáo dục, bồi dưỡng về nhiều mặt và bản thân mỗi đoàn
viên thanh niên cũng cần ý thức rõ ràng hơn nữa về trách nhiệm xây dựng và phát
triển đất nước. Theo đó, cần lưu ý mấy điểm sau:

Một là, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần tiếp tục tăng cường
giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên, giúp thanh niên hiểu rõ tính đúng đắn

21
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; nắm vững chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Hai là, không ngừng giáo dục cho thanh niên nâng cao nhận thức về vai trò, vị
trí của mình trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân
tộc, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của các thế hệ thanh niên. Thanh
niên là người thụ hưởng nhưng cũng là lực lượng chính, động lực quan trọng trong
quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Ba là, thanh niên phải là lực lượng xung kích, thông qua những hành động cụ
thể kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh bảo vệ thành quả cách
mạng. Thành quả cách mạng hôm nay có được bảo vệ vẹn toàn và phát triển về sau
hay không đều phụ thuộc vào thanh niên. Những hành động xuyên tạc chủ trương,
đường lối, chính sách, chống phá sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đều ảnh
hưởng đến sự ổn định chính trị, sự phát triển kinh tế và đời sống đang tiếp tục ấm
no, hạnh phúc và dần tốt đẹp hơn của Nhân dân.

22
Tài liệu tham khảo:

1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội (NXB Lao Động).


2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Lý luận về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự bổ sung, phát triển
của Đảng ta. Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ly-
luan-ve-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-cua-chu-nghia-mac-lenin-
va-su-bo-sung-phat-trien-cua-dang-ta-619688.html
3. Hỏi đáp môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, nhà xuất bản Lao Động, TS
Nguyễn Thị Thu Hoa (chủ biên)

23

You might also like