You are on page 1of 38

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA



BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – SỰ SÀNG LỌC NGHIÊM
KHẮC CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI
LỚP L02 --- NHÓM 01 --- HK 2022.1
NGÀY NỘP: 28/10/2022

Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG


STT Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số
1 Trần Kiến An 1910736
2 Trịnh Trần Vĩnh Ân 1912645
3 Bùi Sỹ Ngọc Anh 1912553
4 Lê Xuân Anh 2012592
5 Trần Tiến Anh 2012619
6 Hồ Đình Bách 2010145

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM


Đề tài:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – SỰ SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT
NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI
STT Họ và Tên MSSV Nhiệm vụ được phân công Kết quả Chữ ký
1 Trần Kiến An 1910736 Chương 3 phần 3.1 100%
Chương 2 phần 2.3.2 + 2.3.3 +
2 Trịnh Trần Vĩnh Ân 1912645 100%
Kết chương 2
Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham
3 Bùi Sỹ Ngọc Anh 1912553 100%
khảo + Chương 1 + Tổng hợp
Chương 3 phần 3.2.2 + Kết
4 Lê Xuân Anh 2012592 100%
chương 3
5 Trần Tiến Anh 2012619 Chương 2 phần 2.1 + 2.2 100%
Chương 2 phần 2.3.1 + Chương 3
6 Hồ Đình Bách 2010145 100%
phần 3.2.1
Họ và tên nhóm trưởng: Bùi Sỹ Ngọc Anh, Số ĐT:0968973664, Email: anh.buianhbk@hcmut.edu.vn Nhóm trưởng
MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................2

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................5

Chương 1. QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ..................................................5

1.1. Bối cảnh thế giới ..................................................................................................5


1.2. Bối cảnh trong nước ............................................................................................6
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................8
Chương 2. QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ................................................10

2.1 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến .........................................10
2.1.1 Phong trào yêu nước của giai cấp phong kiến ............................................10
2.1.2 Phong trào yêu nước của giai cấp nông dân ...............................................10
2.2 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản .................................................11
2.2.1 Phong trào vào đầu thế kỷ XX......................................................................11
2.2.2 Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ 1 ............................................12
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản ................................................14
2.3.1 Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920) .....14
2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam ..........................................................17
2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản ........................................19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ..........................................................................................21
Chương 3. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM .............................23

3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên ..............23
3.1.1 Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng ................................................23
3.1.2. Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên ......................................................26
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên ......................................................................................................28
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975) .28
3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay ...........................29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ..........................................................................................30
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................................32

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................34


PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam từ năm 1858, đây là lần
đầu tiên trong lịch sử nước ta phải chịu ách thống trị từ phương Tây – một khu vực mà
tiềm lực kinh tế, quân sự quá khác biệt và hiện đại so với Việt Nam lúc bấy giờ. Triều
đại nhà Nguyễn lúc này với tiềm lực kinh tế hạn hẹp kết hợp với tinh thần đấu tranh,
đường lối lãnh đạo không đúng đắn khiến cho nước nhà bị rơi vào tay Pháp. Nhận thấy
tình hình cấp bách lúc bấy giờ, đã có nhiều tổ chức cộng sản được ra đời, tuy nhiên việc
có nhiều tổ chức cùng hoạt động trong phạm vi lãnh thổ ít nhiều sẽ có vấn đề, và chính
những vấn đề đó đã làm phân tán lực lượng cách mạng đã ít lại còn ít. Nhận thấy điều
này, đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm về Hương Cảng – Trung Quốc chủ động
triệu tập, chủ trì cuộc Hội nghị hợp nhất Đảng, và Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức
được định tên từ đó. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước trong bao nhiêu năm qua.

Với sự hiện diện của đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam lúc
bấy giờ nhanh chóng, khẩn trương thiết lập lại đường lối cách mạng và bước đầu đạt
được những thành tựu to lớn. Đóng góp trong việc vận dụng sáng tạo và phát triển bổ
sung lý luận về vấn đề thuộc địa và giải phóng dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ và đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay. Đưa Việt Nam từ một
nước không có trên bản đồ thế giới trở thành một nước độc lập xã hội chủ nghĩa như
bây giờ. Không dừng lại ở đó, việc xây dựng và thực hiện đường lối chiến lược về an
sinh xã hội, phát triển kinh tế đi kèm với củng cố công tác an ninh quốc gia cho đến nay
vẫn luôn nằm trong kế hoạch và sự đầu tư trên hết của Đảng.

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp vô cùng to lớn như vậy, Đảng ta vẫn còn một
số điểm yếu cần được khắc phục. Mặc dù đã khắc phục hạn chế, song việc khắc phục
chưa thực sự triệt để và còn để lại dư âm không tốt cho đến ngày hôm nay. Ví dụ một
số bộ phận Đảng viên thoái hóa, biến chất, mất đi tinh thần cách mạng đã làm cho hình
ảnh của Đảng bị xấu đi. Cũng có lúc, Đảng đề ra và thực hiện một vài chủ trương không
hợp lý, chính những điều này tuy không nhiều nhưng cũng góp phần làm hạn chế đi hình

2
ảnh trong sáng của Đảng, và đôi khi còn tác động đến suy nghĩ, mất đi niềm tin của nhân
dân vào Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển, an ninh quốc gia.

Và chính những điều hạn chế này mà các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá,
nhằm mục đích hạ thấp uy tín của Đảng hoặc nhằm mục đích xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng, muốn xây dựng đa nguyên chính trị và đa Đảng đối lập. Và Đảng chúng ta
cùng nhân dân yêu nước đang cố gắng nhằm ngăn chặn tối đa những ảnh hưởng xấu mà
các thế lực thù địch này mang lại cho đất nước cũng như nhân dân Việt Nam

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 02-1930 là cả một quá trình sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử Việt Nam, từ đó góp phần khẳng định sự lãnh đạo của Đảng
hiện nay, bác bỏ những tư tưởng tìm cách xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và mong
muốn thiết lập đa Đảng đối lập. Bởi nhiều thế lực cho rằng Hồ Chí Minh có thể lựa chọn
con đường khác, có thể đi lên TBCN thay vì XHCN như bây giờ. Vậy tại sao họ nghĩ
như vậy, bởi họ tìm cách chống phá, dựa vào những hạn chế của Đảng. Và mục đích của
việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ vai trò của Đảng trong công cuộc khôi
phục và phát triển đất nước cũng như chứng minh rằng những quan điểm, luận điệu của
các kẻ đang cố chống phá nhà nước, chống phá Đảng là vô lý và không có cơ sở.

Với những lý do trên, nhóm đã chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời – sự
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử dân tộc Việt Nam trong thời đại mới” làm bài tập
lớn để kết thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhiệm vụ của đề tài

Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp.

Hai là, làm rõ những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam
theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ đầu 1930.

Ba là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.

3
Bốn là, làm rõ sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản, sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Năm là, làm rõ giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

4
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX

1.1. Bối cảnh thế giới

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thế giới có sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản, chuyển
từ nền kinh tế cạnh tranh sang nền kinh tế độc quyền. Chính điều này làm cho nền kinh
tế hàng hóa phát triển mạnh đi kèm với nó là sự thiếu hụt và nhu cầu nhân công, thị
trường tiêu thụ bùng nổ. Điều này dẫn tới hệ lụy là các cuộc xâm lược, đánh chiếm các
quốc gia phương Đông nhằm phục vụ và giải quyết vấn đề bức thiết lúc bấy giờ. Việt
Nam cũng là một trong những nước bị các nước phương Tây dòm ngó.

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản Phương Tây phát
triển mạnh mẽ, phong trào đấu tranh của các giai cấp công nhân rầm rộ, đặt ra vấn đề
cấp thiết là phải có hệ thống lý luận chính trị khoa học, hệ thống này phải là đại diện
cho tiếng nói của công nhân. Và Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời làm nền tảng đại diện
cho tiếng nói của người công nhân, lý tưởng vô sản.

Trong giai đoạn này, thế giới còn chứng kiến một sự kiện có thể nói mang tầm
quan trọng vô cùng to lớn lúc bấy giờ cho các phong trào công nhân nói riêng và của
các nước đang là thuộc địa nói chung, một sự kiện được coi là vĩ đại nhất trong thế kỷ
XX, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử loài người, đó là sự kiện Cách mạng tháng
10 Nga giành thắng lợi. Cách mạng tháng 10 Nga thành công đã dẫn tới sự ra đời của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một kiểu nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế
giới. Báo hiệu một làn sóng cải tạo thế giới theo chủ nghĩa xã hội bắt đầu. Đặc biệt cách
mạng đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân các
nước thuộc địa, và là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời Đảng Cộng sản của
nhiều nước trên thế giới.

Nhờ sự lan tỏa và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của Cách mạng tháng 10 Nga và cấp
thiết xã hội lúc bấy giờ, năm 1919 Quốc tế Cộng sản thành lập. Chính sự ra đời của
Quốc tế Cộng sản là một yêu cầu khách quan và bức thiết của phong trào công nhân và
cách mạng thế giới vào thời điểm này.

5
Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga và những hoạt động cách mạng của Quốc
tế Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ và cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

1.2. Bối cảnh trong nước

Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một nước phong kiến với nền
nông nghiệp lạc hậu, xã hội thì mâu thuẫn giai cấp, sự lãnh đạo, điều hành của nhà nước
phong kiến thối nát khiến cho dân chúng ngày càng trở nên khốn cùng, bất mãn, đất
nước càng nghèo khổ, lạc hậu.

Chính vì mục đích mở rộng thị trường và thôn tính nhân công lao động giá rẻ cùng
với xã hội thời cuộc Việt Nam lúc bấy giờ đã khiến nước ta trở thành một miếng mồi
ngon cho các nước phương Tây đang dòm ngó, tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp tiến
hành chiến tranh xâm lược vào năm 1958. Pháp tiến hành khai thác thuộc địa trên lãnh
thổ Việt Nam sau hai giai đoạn chinh phục từ năm 1858 đến năm 1884 và giai đoạn bình
định từ năm 1885 đến năm 1896. Thời đại đen tối và cùng cực của nhân dân Việt Nam
bước sang một trang mới, kinh khủng hơn bắt đầu từ đây.

Những chính sách cai trị của thực dân Pháp làm biến đổi toàn diện và sâu sắc nhất
đối với kinh tế - xã hội Việt Nam:

Về chính trị, chúng thực hiện chính sách chia để trị, chia nước ta ra làm Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ, mỗi Kỳ có một chế độ cai trị riêng. Thực hiện chính sách tước
đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Về kinh tế, có sự du nhập phương thức sản xuất phương Tây, nhưng quan hệ kinh
tế vẫn là quan hệ kinh tế phong kiến lạc hậu, chính sự du nhập nhưng không có quan hệ
kinh tế phù hợp, điều phối làm cho nền kinh tế của nước ta vẫn là nền kinh tế nông
nghiệp thuần, lạc hậu và phụ thuộc.

Nền kinh tế Việt Nam dưới ách thống trị, đô hộ thực dân Pháp hết sức què quặt, bị
kìm hãm nặng nề, tiến triển chậm chạm và lệ thuộc vào Pháp.

6
Về xã hội, có sự phân hóa giai cấp hết sức rõ rệt, chính điều này làm dấy lên mối
lo ngại về mâu thuẫn giai cấp và thực sự nó đã là vấn đề. Các giai cấp được phân hóa:
Địa chủ, nông dân, công nhân, tiểu tư sản và tư sản.

Giai cấp địa chủ phân hóa thành đại địa chủ, trở thành tay sai của Pháp, ra sức vơ
vét, đàn áp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp nông dân; trung và tiêu địa chủ: Đây là giai
cấp mới, có tinh thần cách mạng và lòng yêu nước.

Giai cấp tư sản bị phân hóa ra làm hai thiên hướng là tư bản mại bản và tư bản dân
tộc. Đối với tư bản mại bản, tầng lớp này được Pháp hậu thuẫn, làm tay sai cho Pháp.
Tư bản dân tộc là một bộ phận những người có ít tài sản và có lòng yêu nước, bị Pháp
bóc lột, là bộ phận những người có ý chí tham gia cách mạng.

Ngoài hai giai cấp trên thì lúc này còn chứng kiến sự ra đời của giai cấp công nhân
– là một giai cấp mới xuất hiện. Thực dân Pháp và bọn tay sai (đại địa chủ) ra sức chèn
ép nông dân, cướp ruộng đất khiến một bộ phận không nhỏ nông dân Việt Nam mất
ruộng canh tác, không thể sống tại quê hương họ đành bỏ lên thành thị làm việc, và giai
cấp công nhân Việt Nam chính thức hình thành từ đây. Giai cấp này mặc dù có số lượng
hết sức hạn chế (chỉ khoảng 2-3% dân số Việt Nam lúc bấy giờ), mặc dù vậy nhưng vì
bị áp lực nặng nề, nên họ có tinh thần cách mạng chống Pháp mãnh liệt.

Giai cấp vô sản khác là nông dân, đây là giai cấp lâu đời nhất cũng như đông đảo
nhất trong xã hội, trước khi thực dân Pháp xâm lược thì với xã hội phong kiến thối nát,
nông dân Việt Nam đã phải chịu rất nhiều bất công, gánh nặng và bị bóc lột về tài sản
cũng như sưu thuế. Đến khi có thực dân Pháp vào thì đời sống nông dân lại khốn cùng
hơn vô vàn, nông dân “một cổ hai tròng” sống dưới sự xiềng xích, áp bức của kẻ thù.
Chính điều này lại càng nung nấu tình thần yêu nước của họ, một lòng căm thù giặc mà
không tầng lớp nào sánh nổi. Vì vậy họ là lực lượng cách màng nòng cốt của đấu tranh
giành giải phóng dân tộc cũng như lật đổ chế độ phong kiến Việt Nam.

Ngoài nhưng tầng lớp trên thì trong xã hội còn có sự xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản,
đây là một lớp người có quy mô nhỏ, có một chút của cải và một số trong họ là tri thức.
Và tầng lớp này cũng bị thực dân Pháp bóc lột và họ cũng có tinh thần cách mạng, mặc

7
dù nhỏ là vậy nhưng đây vẫn là một tầng lớp đắc lực trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.

Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã có những tác động to lớn đến xã hội
Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt là sự xuất
hiện và ra đời tầng lớp công nhân Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam đều là những người bị mất nước, tuy ở các mức độ và chính sách khác nhau song
cũng đều bị Pháp áp lực, bóc lột.

Xã hội Việt Nam tồn tại hai chế độ song song: Chế độ phong kiến và chế độ thực
dân Pháp. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ vẫn có vua đứng đầu nhưng thực
chất chỉ là vua bù nhìn, không có tiếng nói trong các vấn đề chính trị, điều hành đất
nước. Triều đình phong kiến không dám đứng lên bảo vệ nhân dân mà còn chia đất cho
thực dân, chính nó lại tạo nên một lòng căm thù triều đình sâu sắc trong quần chúng
nhân dân.

Qua những điều đã phân tích ở trên, thực tiễn cho thấy rằng Việt Nam lúc này phải
đánh đuổi thực dân Pháp, trả lại độc lập dân tộc và Nhất quyết phải xóa bỏ chế độ phong
kiến giành chính quyền về tay nhân dân (chủ yếu là vấn đề ruộng đất). Tuy vậy, Chống
Đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu. Đi kèm với giải phóng
dân tộc là xóa bỏ chế độ phong kiến, lựa chọn con đường khác để giải phóng và phát
triển đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc không thể gắn liền
với chế độ phong kiến.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Thế giới dưới sự phát triển chủ nghĩa tư bản, các nước tư bản đứng trước khủng
hoảng thị trường nên họ đã tìm cách xâm lược các nước khác, biến các nước đó thành
các nước thuộc địa và khai thác từ đây, chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt
Nam. Ngoài ra sự ra đời của lý luận Mác – Lênin, sự thành lập tổ chức Quốc tế Cộng
sản, đặc biệt là thành công của cách mạng tháng 10 Nga, sự kiện này khẳng định chủ
nghĩa xã hội chính thức được xác lập đặt ra một bước lựa chọn đối với các nước trên thế
giới, về con đường phát triển của các dân tộc là cách mạng vô sản.

8
Dưới chính sách thống trị của thực dân Pháp, đã tác động đến Việt Nam trên mọi
lĩnh vực, đặt ra những yêu cầu mà nước ta cần phải giải quyết: Là chống đế quốc giành
độc lập cho dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
đặc biệt là vấn đề ruộng đất. Giải phóng dân tộc thì lựa chọn những nhà yêu nước, nhiệm
vụ song song của nhà yêu nước Việt Nam sau giải phóng dân tộc thì phải lựa chọn con
đường đi lên cho đất nước. Việc lựa chọn con đường nào, phát huy nó ra sao là nhiệm
vụ và sứ mệnh lịch sử của các nhà yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ.

9
Chương 2

QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến

Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của
nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục, rộng khắp. Đến năm 1884, mặc dù triều đình
phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng, nhưng một bộ phận phong kiến yêu nước đã cùng
với nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp.
2.1.1 Phong trào yêu nước của giai cấp phong kiến

Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng (1385
- 1896).

Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh
Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)... diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần
quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Nhưng ngọn cờ phong kiến lúc
đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi toàn thể các tầng lớp
nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa.

Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là dấu mốc chấm dứt
vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp ở Việt Nam.
2.1.2 Phong trào yêu nước của giai cấp nông dân
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung du phía
Bắc, phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa
Thám. Nghĩa quân đã xây dựng lực lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường
chống thực dân Pháp suốt gần 30 năm.

Phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có
khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, do vậy cũng bị thực dân Pháp đàn áp.

Nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến:

10
Thứ nhất, tương quan lực lượng của Pháp mạnh, hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi
thời, lạc hậu.

Thứ hai, các phong trào đấu tranh yêu nước thời kỳ này chưa quy tụ được sức
mạnh của đông đảo các giai cấp tầng lớp yêu nước, lực lượng còn khá mỏng. Phong trào
Cần Vương và các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra tuy nhiên lực lượng nghĩa quân cũng chỉ từ
khoảng 300 đến tới 1000, quy mô hoạt động nhỏ hẹp, cục bộ ở một vài địa phương.

Thứ ba, người đứng đầu có thể bị bắt sống hoặc bị ám sát do tổ chức lỏng lẻo có
nội gián, có những người bị mua chuộc bởi thực dân Pháp đã phản bội tổ chức của mình.

Tóm lại, sự thất bại của các phong trào đấu tranh trên đã chứng tỏ giai cấp phong
kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo các phong trào yêu nước
cũng như giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
2.2 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác
động của trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu,
xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư sản trí thức của
tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng (12/1927 - 2/1930) tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh
Bắc Kỳ, nhưng tất cả đều không thành công.
2.2.1 Phong trào vào đầu thế kỷ XX
Khuynh hướng bạo động

Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo. Chủ trương tập hợp lực
lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật
Bản. Phong trào theo xu hướng này tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang
Nhật Bản học tập (gọi là phong trào Đông Du). Đến năm 1908 Chính phủ Nhật Bản câu
kết với thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh Việt Nam và những người đứng đầu phong
trào.

Sau khi phong trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi
(1911) ở Trung Quốc, năm 1912, Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội
với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước
cộng hòa dân quốc Việt Nam. Tuy nhiên chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội thiếu
rõ ràng.
11
Cuối năm 1913, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc cho tới
đầu năm 1917 và sau này bị quản chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ảnh hưởng
xu hướng bạo động của tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội đối với phong trào yêu nước
Việt Nam đến đây chấm dứt.

Khuynh hướng cải cách

Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những người cùng
chí hướng muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động
như Phan Bội Châu, mà chủ trương cải cách đất nước.

Phan Châu Trinh cho rằng bất bạo động, bạo động tắc tử; phải “khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông
dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện được chủ trương ấy, Phan Châu Trinh đã đề
nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách.

Đó chính là sự hạn chế trong xu hướng cải cách để cứu nước, vì Phan Châu Trinh
đã “đặt vào lòng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử hoàn sinh cho nước Nam,... Cụ
không rõ bản chất của đế quốc thực dân”. Do vậy, khi phong trào Duy Tân lan rộng khắp
cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp
đã đàn áp dã man, giết hại nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biểu tình. Nhiều sĩ phu bị
bắt, bị đày đi Côn Đảo, trong đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng Đặng Nguyên
Cẩn... Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị thực dân Pháp dập tắt, cùng với sự kiện
tháng 12/1907 thực dân Pháp ra lệnh đóng của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục phản ánh
sự kết thúc xu hướng cải cách trong phong trào cứu nước của Việt Nam.
2.2.2 Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ 1
Phong trào quốc gia cải lương (1919 – 1924) do tư sản và địa chủ lãnh đạo với
mục đích đòi quyền tự do kinh tế và chống độc quyền kinh doanh. Phong trào được diễn
ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn với các cuộc vận động như kêu gọi nhân dân tẩy chay
hàng hóa của thực dân Pháp ở Sài Gòn, chống xuất khẩu lúa gạo ở Nam Kỳ.

Năm 1925 – 1926 phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị
và tư sản lớp dưới nổ ra. Họ lập ra các tổ chức chính trị Việt Nam nghĩa đoàn, Phục
Việt, Hưng Nam….cùng nhiều tờ báo như Cường học thư xã, Chuông rạn, Quan hải
tùng thư, Người nhà quê,… Bên cạnh đó, có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây
12
tiếng vang khá lớn như: phong trào đòi thả Phan Bội Châu (năm 1925), phong trào đòi
thả Nguyễn An Ninh ( năm 1926), phong trào để tang Phan Châu Trinh (năm 1926

Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng: Khi thực dân Pháp đẩy mạnh
khai thác thuộc địa lần thứ hai, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp càng trở nên gay gắt, các giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội Việt Nam đều bước
lên vũ đài chính trị. Trong đó, hoạt động có ảnh hưởng rộng và thu hút nhiều học sinh,
sinh viên yêu nước ở Bắc Kỳ là tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo. Trên cơ sở các tổ chức yêu nước của tiểu tư sản trí thức, Việt Nam Quốc dân
Đảng được chính thức thành lập tháng 12/1927 tại Bắc Kỳ.

Mục đích của Việt Nam Quốc dân Đảng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ
trang nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân, lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh
viên... Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở một số tỉnh, chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái (2/1930),
tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng bị thất bại. Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái thể hiện
là “... một cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao
giờ ngóc đầu lên nổi. Khẩu hiệu “không thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất
hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không
vững chắc, non yếu của phong trào tư sản".

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,
bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong
kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và
rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu
giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương
đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”.

Nguyên nhân thất bại:

Thứ nhất, do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu
thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội.

13
Thứ hai, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp được đông đảo quần chúng,
nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản là công nhân và nông dân. Chưa
xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.

Thứ ba, giai cấp tư sản Việt Nam ra đời muộn, thế lực kinh tế, chính trị nhỏ yếu,
không thể trở thành giai cấp trung tâm đại diện cho cả dân tộc.

Tuy thất bại song các phong trào yêu nước đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp
phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một
con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại.
Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ
chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

Nhận xét

Các cuộc khởi nghĩa theo hệ tư tưởng phong kiến nổi bật như phong trào Cần
Vương (1885-1896), do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động hay cuộc khởi nghĩa
Hương Khê của Phan Đình Phùng. Song cả hai đều đi đến một kết quả là không thành
công. Thất bải của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng
phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết vấn đề giải
phóng dân tộc ở Việt Nam.

Nhìn chung, các phòng trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu
tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản
Việt Nam. Nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ bé yếu về
cả kinh tế - chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản

2.3.1 Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920)

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa
lần thứ nhất. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm xã hội Việt Nam bắt đầu
có những chuyển biến rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách khai

14
thác, bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa, nảy sinh hai giai cấp mới, giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang
thân phân người dân mất nước, ở những mức độ khác nhau nhưng đều bị thực dân Pháp
áp bức, bóc lột. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện, trong đó, mẫu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở
thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt dẫn đến những cuộc đấu tranh khởi
nghĩa của nhân dân. Các phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta diễn ra đa dạng,
sôi nổi phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản như: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội; phong trào chống sưu thuế của nông dân ở
Trung kỳ, phong trào đánh Pháp như vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi
nghĩa của nghĩa quân Yên Thế,…

Tuy nhiên các phòng trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân
sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai
cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai
cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân, còn
non yếu vì tiềm lực kinh tế phụ thuộc và có khuynh hướng chính trị cải lương. Mặc dù
phần lớn giai cấp tư sản Việt Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước, nhưng không có khả
năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng chống đế quốc và phong kiến để
giành độc lập tự do. Trong khi đó, giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự
do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải
phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Ở thời điểm ấy, cách
mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.

Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí
sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền
bối. Tuy lúc ấy tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành chưa tiếp xúc với chủ nghĩa
xã hội nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời là tự ra đi
tìm đường cứu nước, không dựa dẫm, nhờ vả hay kêu gọi một thế lực nào giúp cả. Người
cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu Pháp cải lương chẳng khác gì “đến
xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi
Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng

15
Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt
cách phong kiến1”.

Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết
cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước
đương thời, 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc. Người đã rời đi trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng
Nhà Rồng lên đường đi sang Pháp. Người làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động (phụ
bếp dưới tàu, làm bánh trong các khách sạn, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh…).

Từ năm 1911 đến 1916, Người nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn nhiều nước
tư bản và các nước tư bản thuộc địa. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác
ái về quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Mỹ (1776) và Cách
mạng Pháp (1789). Bên cạnh đó, Người cũng nhận thấy rằng: Cách mạng tư sản là những
cuộc cách mạng vĩ đại, nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc
và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người, xây dựng lên một
chế độ mới tiến bộ hơn xã hội phong kiến. Nhưng đó là cuộc cách mạng “chưa đến nơi”
bởi vì cách mạng xong rồi dân chúng vẫn đói khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột. Cách mạng tư
sản thành công chỉ đem lại lợi ích và giải phóng cho một bộ phận rất nhỏ trong xã hội,
trong khi đó giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân vẫn âm mưu làm một cuộc
cách mạng nữa. Từ đó, Người đi đến kết luận: “chúng ta đổ xương máu để làm cách
mạng thì không đi theo con đường cách mạng này” . Người đã tìm ra những mặt trái của
xã hội phương Tây, nhận ra rằng ở đâu cũng có người nghèo khổ bị áp bức, bóc lột. Điều
đó đã giúp Người nhận thức được một cách rạch ròi: ”dù màu da có khác nhau, trên đời
này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” , từ đó xác
định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.

Người nghiên cứu về Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và cũng đến được
nước Nga để chứng kiến sự tự do của nhân dân sau cách mạng. Chính nhờ nghiên cứu
và tổng kết thực tiễn, Người đã khẳng định rằng chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là

1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996,T1,tr.314.

16
cuộc “cách mạng đến nơi”. Từ đây, Người tin và đi theo Cách mạng Tháng Mười Nga,
Người khẳng định rằng cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản.

Nguyễn Ái Quốc đã sinh ra, lớn lên và sống trong thuộc địa nửa phong kiến. Bản
thân Người thấu hiểu nỗi khổ của người dân bị mất nước, bị áp bức bóc lột, hiểu được
sự khao khát tự do của nhân dân. Nếu đi theo những con đường cách mạng khác thì nhân
dân không được giải phóng khỏi ách áp bức, chỉ có con đường cách mạng vô sản mới
giải phóng cho dân tộc.

Tháng 7/1920, Người đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Những luận điểm của Lenin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của Lenin và lập trường đúng đắn của Quốc tế
cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc
xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng xã hội Pháp (12/1920) họp ở thành phố Tuors. Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc
đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lenin thành lập). Đây cũng là
những bước đầu của sự chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức để Người đi đến
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho


việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam

Một là về tư tưởng,
Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê
nin, xây dựng lí luận cách mạng GPDT.
Song song với đó Người vừa lên án chế độ thực dân vừa truyền bá những tư tưởng
lí luận cách mạng GPDT của Người dưới nhiều hình thức phong phú để đánh thức những
dân tộc bị đàn áp, bóc lột trên toàn thế giới.
Những lí luận và quan điểm của Người trong các tài liệu, sách báo được gửi vể
Việt Nam như Báo người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống nhân dân, Bản án chế độ thực
dân Pháp, Đường cách mệnh,…
Hai là về chính trị,

17
Tính chất của cách mạng GPDT ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau. Cách
mạng giải phóng dân tộc đem lại tự do, độc lập cho dân tộc bị áp bức, cách mạng giải
phóng giai cấp xây dựng cho dân tộc một Nhà nước mang lại hạnh phúc, ấm no cho
đồng bào.

Lực lượng cách mạng bao gồm “sỹ, công, nông, thương”, trong đó công – nông là
“chủ cách mệnh”, “ là gốc cách mệnh”. Đất nước trong hoàn cảnh lạc hậu, dựa vào nông
nghiệp nên lực lượng nông dân rất đông đảo, là lực lượng bị đế quốc thực dân áp bức,
bóc lột nặng nề, vì vậy kết hợp với công nhân sẽ tạo ra mốt khối đoàn kết liên minh công
– nông, là gốc của cách mạng. Hơn nữa, việc tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
tiến lên xã hội chủ nghĩa không phải là việc của một hai người, không phải là việc của
mỗi liên minh công – nông, vì vậy cần đoàn kết các khối lực lượng khác có tinh thần
yêu nước để xây dựng một khối đại đoàn kết vững mạnh.

Lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản. Để lãnh đạo lực lượng cách mạng thì phải
có Đảng lãnh đạo đứng ra tổ chức sắp xếp vận động quần chúng nhân dân và đồng thời
liên hệ với các dân tộc bị áp bức, bóc lột khác để tranh thủ sự ủng hộ của hộ đối với
phong trào cách mạng của ta. Nhất thiết phải là Đảng Cộng sản, vì như vậy mới có
những người lãnh đạo kế thừa và truyền bá những tư tưởng lí luận cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội

Quan hệ với cách mạng thế giới

Cách mạng GPDT nằm trong quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới. Giữa cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có
quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau.

Cách mạng GPDT ở thuộc địa có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản chính
quốc, nhưng phải chủ động và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc. Vì chính dân tộc bị phụ thuộc phải tự giải phóng mình, cách mạng vô sản ở
chính quốc chỉ hỗ trợ, giúp đỡ cách mạng GPDT ở thuộc địa.

Về phương pháp cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng vì động viên,
lãnh đạo và tổ chức quần chúng… Quần chúng một khi được giác ngộ, có tổ chức và
lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch.

18
Ba là về tổ chức

Dựa theo phương pháp cách mạng đi vào quần chúng nhân dân để thức tỉnh họ,
động viên họ, Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu, Trung Quốc nơi có nhiều người
Việt Nam yêu nước, chọn ra thanh ra các thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã (1923)
để lần lượt lập ra các tổ chức:

Cộng sản đoàn (2/1925)

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925)

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình hoạt động Hội đã tích cực tuyên truyền tư tưởng, lí luận về con đường
giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tổ chức chọn lọc những thanh niên yêu nước, tích cực
để về nước truyền bá cách mạng theo khuynh hướng vô sản và cử họ đi du học để đào
tạo nhằm phục vụ cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản

Một là trước khi có Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,

Phong trào cách mạng vô sản diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, không tổ chức lãnh đạo chung,
không có sự liên kết. Phong trào còn mang tính chất tự phát và hoạt động một cách bí
mật. Các phong trào chủ yếu diễn ra để đòi quyền lợi kinh tế cho công nhân như cuộc
bãi công của công nhân Ba Son tháng 8 năm 1925. Phong trào chưa có tính chất đòi
quyền lợi, độc lập, tự do cho dân tộc mà diễn ra theo kiểu xin thêm quyền lợi từ kẻ bóc
lột, đàn áp mình.

Hai là sau khi có Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,

Khi có sự hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, nhờ có sự hoạt
động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Phong trào công nhân trong giai đoạn
này phát triển mạnh mẽ. Phong trào công nhân không còn mang tính tự phát mà mang
tính có tổ chức trật tự đàng hoàng, không chỉ đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế mà còn
mang hình thức đấu tranh chính trị, mang tính tự giác.

“Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam thanh niên cách mạng ở
Quảng Châu - Trung Quốc và trực tiếp giảng dạy cho các hội viên. Trong cuốn “Đường
cách mệnh” có nói đến tính chất nhiệm vụ của Công hội: “Tổ chức công hội trước hết

19
là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để
sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền
lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Sau khi được học
tập lý luận hầu hết các hội viên đã trở về nước hoạt động, phát triển những hội quần
chúng như hội hiếu hỉ, tương tế, chơi họ,... thành tổ chức công hội.

Từ năm 1928, kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam cách mạng thanh niên phát động phong
trào “Vô sản hoá”, phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, đã
thúc đẩy tổ chức công hội phát triển cả về hình thức lẫn nội dung hoạt động và trở thành
tổ chức công đoàn cách mạng của giai cấp công nhân.

Tại các khu công nghiệp thuộc các tỉnh miền Bắc, nhiều xí nghiệp đã có công hội
như: nhà máy Diêm, hãng sửa chữa ôtô Aviát (Hà Nội ), nhà máy Sợi, nhà máy xi măng
(Hải Phòng), Hòn Gai, Quảng Yên (khu mỏ Quảng Ninh... Công nhân làm việc ở các
bến tàu, nhà ga cũng có tổ chức công hội. ở miền Nam, tổ chức công hội cũng đã hình
thành và hoạt động, chủ yếu ở các khu công nghiệp Sài Gòn - Chợ Lớn và đồn điền cao
su.

Năm 1929, phong trào công nhân và hoạt động công hội ở nước ta phát triển sôi
nổi, đặc biệt là ở miền Bắc. Các cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra liên tục ở nhiều xí
nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành động giữa các cuộc đấu tranh ở xí
nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa phương, giữa các địa phương này với
địa phương khác trong toàn xứ, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế của nông
dân, bãi thị của tiểu thương, bãi khoá của học sinh.

Tháng 03 năm 1929 chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội.
Ngày17/6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng ra đời và lấy phong trào công nhân làm
nòng cốt cho phong trào cách mạng, lấy việc vận động công nhân làm trung tâm công
tác của Đảng, Đảng cử hàng loạt cán bộ vào nhà máy, hầm mỏ, nắm các công hội do
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã lập từ trước để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản,
phổ biến tôn chỉ, mục đích Điều lệ của công hội đỏ, chọn lọc những quần chúng tích cực
kết nạp vào Công hội đỏ.

Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân tăng cường sự thống nhất
về tổ chức và hành động của tổ chức công hội, Ban chấp hành TW lâm thời Đông Dương

20
Cộng sản đảng quyết định tổ chức Hội nghị đại biểu Tổng Công hội đỏ Bắc Kì lần thứ
I ngày 28/7/1929. Hội nghị được tổ chức tại trụ sở Tổng công hội Bắc kỳ, số nhà 15 phố
Hàng Nón - Hà Nội. Tham dự Đại hội có các đại biểu các Tổng công hội tỉnh và thành
phố: Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, khu mỏ Đông Triều, Mạo Khê.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương lâm thời Tổng Công hội đỏ do đồng chí
Nguyễn Đức Cảnh, ủy viên BCH TW lâm thời Đông Dương công sản Đảng đứng đầu.
Đại hội cũng đã thông qua chương trình, điều lệ của Công hội đỏ và quyết định cho xuất
bản tờ Lao động (số đầu tiên ngày 14/8/1929 do chính đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và
Trần Học Hải phụ trách). Ban chấp hành lâm thời còn có các đồng chí Trần Hồng Vận,
Trần Văn Các, Nguyễn Huy Thảo, Nguyễn Văn Đoài...

Việc thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ có ý nghĩa hết sức to lớn đối với phong
trào công nhân Việt Nam. Đó vừa là kết quả tất yếu của sự trưởng thành về chất lượng
của phong trào công nhân nước ta, vừa là thắng lợi của đường lối công vận của Nguyễn
Ái Quốc và Đảng Cộng Sản Đông Dương, đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu cấp thiết về
tổ chức của phong trào công nhân Việt Nam. Việc thành lập tổ chức công đoàn đầu tiên
của giai cấp công nhân Việt Nam góp phần vào sự lớn mạnh của phong trào cộng sản
công nhân quốc tế. Mối quan hệ giữa phong trào công nhân Việt Nam với phong trào
công nhân thế giới, đặc biệt là với công nhân và công đoàn Pháp đã được công hội đỏ
thiết lập.”

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trên con đường đi tìm đường cứu nước, qua nghiên cứu lí luận và khảo sát thực
tiễn các phong trào cách mạng trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra những hạn chế
trong phong trào cách mạng tư sản, là cách mạng chưa đến nơi vì nhân dân còn đói khổ.
Thông qua thực tiễn thành công của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 và tìm thấy trong
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê
nin những lời giải đáp về con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam, người quyết định
chọn con đường cách mạng vô sản làm con đường giải phóng dân tộc.

Để chuẩn bị cho con đường giải phóng dân tộc, về tư tưởng chính trị, Nguyễn Ái
Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam và truyền bá những tư tưởng lí luận cách mạng giải

21
phóng dân tộc thông qua các bài báo của Người. Người đã làm rõ tính chất của của cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là cuộc giải phóng dân tộc để tiến lên chủ nghĩa
xã hội, trong đó lực lượng cách mạng toàn dân tộc ,lấy gốc là liên minh công nông đặt
dưới sự lãnh đảo của Đảng Cộng sản. Trong đó, Đảng có nhiệm vụ tổ chức, vận động
quần chúng nhân, thức tỉnh, giác ngộ họ theo con đường cách mạng vô sản để tạo nên
một khối đoàn kết dân tộc vững mạnh và có liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản thế
giới.

Về tổ chức, để đặt nền móng cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã chọn các
thanh niên ưu tú, tích cực trong phong trào yêu nước để thành lập nên Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên.

Với sự hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mà những tư
tưởng lí luận của Người về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam đã được truyền bá
về nước và phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng vô sản. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đã góp phần làm trò phong trào cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ ở Việt
Nam 1929 đặt ra yêu cầu cấp thiết phải thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Điều đó chứng minh những tư tường và quan điểm của Hồ Chí Minh đã tác động
đến cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước về con đường cách mạng vô sản.
Là con đường giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

22
Chương 3

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên

3.1.1 Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng


Tình hình trong nước

Sự quá độ và các tổ chức Cộng sản ra đời

Đến năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và nhiều
tầng lớp nhân dân yêu nước Việt Nam khác đã phát triển mạnh mẽ lên đến mức đỉnh
điểm, đòi hỏi sự lãnh đạo của một tổ chức thống nhất. Vai trò của những tổ chức quá độ
cuối cùng cũng đã đến lúc kết thúc, để tiến lên thành lập một tổ chức cao hơn. Tất cả
những yếu tố đó đã dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ giữa các tổ chức với nhau và sự phân
hóa tích cực trong những tổ chức này. Từ tiền đề đó hình thành nên các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam.

Đông Dương Cộng sản Đảng

Tháng 3 – 1929, tình trạng chính trị căng thẳng leo thang, một số hội viên ưu tú
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kỳ họp tại Hà Nội, lập ra Chi bộ Cộng
sản đầu tiên gồm 7 đảng viên. Chi bộ mở rộng cuộc vận động để thành lập một Đảng
Cộng sản nhằm thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Tháng 5 – 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp Đại hội lần thứ đầu
tiên tại Quảng Châu. Những người đại diện Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu, đặt vấn đề
thành lập ngay Đảng Cộng sản, nhưng không được chấp thuận, nên rút khỏi Đại hội về
nước.

Ngày 17 – 6 – 1929, đại diện của các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội
tại Hà Nội quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn,
Điều lệ, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận, cử Ban Chấp hành Trung ương và phát
truyền đơn kêu gọi quần chúng đấu tranh. Đông Dương Cộng sản đảng xây dựng nhiều
cơ sở ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ.

An Nam Cộng sản Đảng

23
Tháng 8 – 1929, những người cán bộ lãnh đạo ưu tú trong Kỳ bộ Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ thành lập An Nam Cộng sản đảng, ra tờ báo Đỏ làm
cơ quan ngôn luận; xúc tiến chuẩn bị và họp Đại hội (11 – 1929), thông qua đường lối
chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Đảng có một chi bộ hoạt động ở
Trung Quốc và vài cái ở Nam Kỳ. Đảng tích cực vận động để hợp nhất với Đông Dương
Cộng sản đảng.

Đông Dương Cộng sản liên đoàn

Trong nội bộ Tân Việt Cách mạng đảng cũng có sự biến đổi. Một vài đảng viên ưu
tú năng nổ vận động thành lập các chi bộ cộng sản và tiến hành công tác chuẩn bị thành
lập Đảng Cộng sản. Tháng 9 – 1929, những đảng viên tiên tiến ra Tuyên đạt, nêu rõ việc
chính thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

Đầu năm 1930, cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam
Quốc dân Đảng, đồng thời đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam.

Tình hình Quốc tế

Sau khi Cách mạng Tháng 10 Nga thành công và việc thành lập Liên bang Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã thắp lên niềm hi vọng cho nhân dân các quốc
gia bị áp bức và các nước thuộc địa về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc đúng đắn
– đó là con đường cộng sản.

Quốc tế Cộng sản được thành lập với nhiệm vụ là giải phóng dân tộc các quốc gia
bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới với giai cấp vô sản là nòng cốt.

Ngày 27 tháng 10 năm 1929 , Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những Cộng sản viên
tại Đông Dương những ý tưởng ban đầu về việc thành lập một Đảng Cộng sản ngay tại
vùng Đông Dương: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công
nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho
tương lai trước mắt cuộc cách mạng ở Đông Dương”.

Quốc tế Cộng sản có nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả những
người Cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng cách mạng có tính chất giai cấp

24
của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng Đông Dương.
Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương”.

Vậy là chỉ vọn vẹn trong thời gian 4 tháng ngắn ngủi thôi, ở Việt Nam đã sản sinh
ra được tận ba tổ chức cộng sản. Điều này cho chúng ta thấy là việc thành lập Đảng
Cộng sản đã trở thành một xu thế nói chung của phong trào giải phóng dân tộc Việt
Nam, và những lý luận cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc tuyên truyền đã dần ngấm sâu
đến rễ trong những phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam. Cả ba tổ
chức cộng sản ai cũng đều tích cực hoạt động, tuyên truyền, tổ chức và lãnh đạo người
dân đấu tranh, làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn so với lúc trước. Tuy
nhiên, “từ khi Hội An Nam Thanh niên Cách mạng tan rã, hai nhóm cộng sản sử dụng
nhiều - nếu không nói là tất cả - nghị lực và thời gian trong các cuộc đấu tranh nội bộ
và bè phái”1 . Các tổ chức này hoạt động riêng lẻ là một điều vô cùng nguy hiểm bởi vì
nó làm cho lực lượng và sức mạnh của cách mạng bị phân tán ra ít nhiều. “Cả hai đều
cố gắng thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau bấy
nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày càng rộng bấy nhiêu”. “Nhiều thì giờ và sức lực đã bị
lãng phí vì sự rối ren chia rẽ đó, đảng viên của mỗi bên đều bị thiệt hại, chỉ trích lẫn
nhau là không Bônsơvích”2 . Những điều này là không hợp lí với nguyên tắc tổ chức
Đảng Cộng sản và không hợp lí với những lợi ích của phong trào cách mạng của nước
ta lúc bấy giờ. Đó là một nguy cơ trước mắt của cách mạng Việt Nam.

Hội nghị thành lập Đảng

Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đang hoạt động ở Xiêm và đã “hai
lần cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại” vì “mật thám và cảnh sát ở biên giới
quá cẩn mật”. Người đang cố gắng thử thêm một lần nữa, thì bỗng có một đồng chí từ
Hồng Kông tới Xiêm và báo cho Người biết tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên bị tan rã, rồi kéo theo nhiều thứ khác những người cộng sản chia thành nhiều phái.
Người liền quyết định rời Xiêm về Trung Quốc ngay và tới nơi ngày 23 – 12 – 1929. Là
người đại diện của Quốc tế Cộng sản cho nên là Người có quyền quyết định mọi vấn đề
liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương. Người triệu tập đại diện của hai

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Sđd, tr. 21.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Sđd, tr. 35.

25
nhóm Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng họp Hội nghị hợp nhất
tại Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp ngày 6 – 1 – 1930. Ngày
8 – 2 – 1930 các đại biểu về nước. Ngoài Nguyễn Ái Quốc là người đại diện cho Quốc
tế Cộng sản, dự Hội nghị còn có hai đại diện của Đông Dương Cộng sản đảng và hai đại
diện của An Nam Cộng sản đảng. Đông Dương Cộng sản liên đoàn dù đã cố gắng cử
đại diện đi nhưng do có nhiều đại diện bị địch bắt trên đường đi nên không thể nào đến
tham gia Hội nghị được.

3.1.2. Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên


Nhiệm vụ cách mạng

Trong Chính cương của mình thì Đảng đã nêu “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1 . Đây chính là kim chỉ nam
định hình hướng đi, là mục đích cuối cùng và lâu dài của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Trong đó mục tiêu trước mắt về xã hội là làm cho người dân Việt Nam phải được
quyền tự do hội họp, nam và nữ bình đẳng, phổ thông giáo dục cho quần chúng nhân
dân.

Về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt
Nam hoàn toàn độc lập bởi Chính sách cai trị và khai thác, bóc lột của thực dân Pháp đã
làm những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện, trong đó, mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu
thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt.

Lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công, nông, binh) do bối cảnh bấy giờ đất
nước có hơn 90% là nông dân, 1,2% là công nhân

Về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản
nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm
đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và
thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc,
nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Sđd, tr. 2.

26
Lực lượng cách mạng

Sách lược của Đảng nêu vô cùng rõ ràng rằng Đảng là một đội tiên phong của giai
cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông do vì phần lớn những người tư sản dân tộc Việt Nam luôn luôn có
tinh thần dân tộc sâu thẳm trong tim, yêu nước nhưng vì không có khả năng tập hợp
được các giai cấp tầng lớp để tiến hành cách mạng nên họ là lực lượng không nên đánh
giá thấp.

Ngoài ra cần tranh thủ, phân hóa những trung và tiểu địa chủ và tư sản dân tộc cho
rõ ràng. Có chiến sách đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo những tiểu tư sản, trí
thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng không bao giờ quên việc kiên quyết:
“bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”1. Còn
đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”2.

Phạm vi giải phóng về vấn đề dân tộc: Việt Nam

Mặc dù mục tiêu chính, tiên quyết lúc bấy giờ là làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập, chúng ta vẫn không quên xác định tinh thần đoàn kết quốc tế. Bằng chứng
là Cương lĩnh có chỉ rõ: “trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời
tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất
là giai cấp vô sản Pháp”. Cương lĩnh cũng nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết
và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu
nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản giai cấp thế giới”3. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Sđd, tr. 3.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Sđd, tr. 4.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Sđd, tr. 3.

27
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên

3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)

Sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là kết quả của
quá trình lựa chọn của chính lịch sử và dân tộc Việt Nam. Đó cũng là sự chuẩn bị tích
cực, sáng tạo, bản lĩnh của Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những người làm
cách mạng tiên phong vì lợi ích dân tộc. Chúng ta đã chấm dứt được sự khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX từ đó đưa
cách mạng Việt Nam bước lên một bước tiến lớn trong lịch sử, trở thành một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác –Lenin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chính sự ra đời và lãnh
đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giúp nước ta thống nhất về tư tưởng,
thống nhất về hành động, thống nhất về tổ chức. Trên cơ sở đó Đảng đã lãnh đạo nhân
dân ta giành được thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, lật đổ chế độ phong kiến, giành độc lập thành công và
giải phóng dân tộc.

Trải qua 90 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh đạo,
đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, đưa ra những đường lối đúng
đắn để giải quyết những thử thách trong bối cảnh lịch sử, từng bước đi lên, làm nên
những kỳ tích, đánh dấu bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát
vọng của nhân dân Việt Nam và hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước.

Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng xác định sử dụng
bạo lực cách mạng để đánh đổ bạo lực phản cách mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc
điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế
kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc

28
biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc.Từ đó, Đảng đã xác định con đường để giải phóng dân tộc Việt Nam là
con đường cách mạng vô sản. Đây là con đường duy nhất đúng đắn giải phóng dân tộc
và giành độc lập tự do. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung
và xu thế của thời đại mới.

3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc
tế, phát triển kinh tế ở thời đại 4.0 trong bối cảnh thế giới vô cùng bất ổn về chính trị
giữa các quốc gia và dịch bệnh trên toàn thế giới nên chúng ta phải đối đầu với rất nhiều
thách thức không chỉ về con người mà còn về tự nhiên. Nhà nước ta đang không ngừng
phát triển và mở rộng vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế và khu vực ngày càng
cao.

Giữa thế kỷ XXI, Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế của mình trên thị trường
quốc tế. Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2010 và 2020. Việt Nam 2 lần
được bầu giữ chức Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm
kỳ 2008 - 2009, nhiệm kỳ 2020 – 2021. Khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta; trong đó nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, đề cao tự cường, tự tin
nỗ lực hoà mình trong dòng chảy thời đại để có tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay. Nền nông nghiệp phát triển mạnh, chúng ta từng là nước đứng đầu về xuất
khẩu lúa gạo. Năm 2021, đất nước rơi vào đỉnh điểm của dịch bệnh Covid-19, dưới sự
lạnh đạo của Đảng và sự đoàn kết của nhân dân chúng ta đã vượt qua được dịch bệnh,
không những thế nên kinh tế không bị giảm sút mà còn tăng trưởng. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chúng ta được sống trong một đất nước hòa bình, dân chủ, được bảo vệ an
toàn về tính mạng, sức khỏe, được đáp ứng nhu cầu về kinh tế, văn hóa, tự do tôn giáo.

Sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tầm
quan trọng công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi
cách chống phá để nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Với kinh nghiệm hơn 35 năm
đổi mới và hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng là luôn gắn kết với con đường Chủ
nghĩa xã hội, đất nước không ngừng đổi mới, chúng ta không chỉ ổn định về chính trị,

29
tập chung mạnh về phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật mà còn về văn hóa, xã hội, giáo
dục, quân đội, y tế,… Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức,
đồng lòng, tiếp tục vượt qua những khó khăn, thử thách từng bước chiến hắng đại dịch
Covid-19, ổn định cuộc sống nhân dân, thích ứng để phát triển kinh tế - xã hội.

Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn
là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch
định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Cuối năm 1929, khi phong trào cách mạng vô sản phát triển mạnh với sự ra đời
của ba tổ chức cộng sản Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản liên đoàn, lúc này chúng ta phải đặt ra yêu cầu phải thành lập ra Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đầu năm 1930, tại hội nghị thành lập Đảng, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời. Đảng đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên – một văn kiện đề cao tinh
thần dân tộc, tập hợp lại những người Việt Nam yêu nước để giải phóng dân tộc Việt
Nam, một văn kiện đúng đắn và phù hợp với Cách mạng Việt Nam.

Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách
mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng đã trở thành Đảng lãnh đạo duy nhất cho Cách mạng Việt Nam. Kết thúc quá trình
khủng hoảng đường lối cứu nước và xác định con đường Cách mạng Việt Nam đi lên
Chủ nghĩa xã hội. Từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo đã dẫn đến sự thắng thắng lợi cho

30
Cách mạng Việt Nam, thắng lợi trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, dành độc lập cho dân tộc, dành sự tự quyết cho dân tộc. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế
giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ của nhân loại trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng hiện nay đã giúp đất
nước thoát khỏi sự khủng hoảng về kinh tế, đặc biệt trong công cuộc đổi mới và bảo vệ
đất nước. Đưa Việt Nam vươn tầm thế giới để sánh vai với các bạ bè quốc tế.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời
kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết
của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các
lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

31
PHẦN KẾT LUẬN

Dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tác động
đến Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, dẫn tới sự ra đời của rất nhiều giai cấp, có sự phân
hóa các giai cấp cũ cũng có sự xuất hiện một số giai cấp mới. Tất cả các giai cấp trong
xã hội Việt Nam đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột, tất cả đều mâu thuẫn với thực
dân Pháp. Nhiệm vụ VN đặt ra lúc này là phải chống thực dân Pháp dành độc lập dân
tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc Việt Nam.

Trước thực tiễn đó, nhân dân Việt Nam đặc biệt là các tầng lớp yếu thế trong xã
hội đã mở ra nhiều cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước để tìm con đường giải
phóng cho dân tộc. Song, tất cả đều thất bại. Các cuộc khởi nghĩa này thực hiện theo
khuynh hướng phong kiến, khuynh hướng tư sản. Điều này khẳng định rằng độc lập dân
tộc không thể gắn liền với chủ nghĩa phong kiến và độc lập dân tộc cũng không thể gắn
liền với chủ nghĩa tư bản.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh, sinh tồn với các triều đại phong kiến
khác nhau, Việt Nam đã xây dựng một truyền thống văn hóa dày dặn mang đậm bản
chất phong kiến, mặc dù là vậy nhưng qua các cuộc kháng chiến, đấu tranh theo khuynh
hướng vô sản đã một lần nữa khẳng định độc lập đân tộc không thể gắn liền với chủ
nghĩa phong kiến, bức thiết đặt ra yêu cầu của một thực thể chủ nghĩa khác được xác lập
– chủ nghĩa vô sản.

Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản ngoài lý do trên thì đa số
người dân Việt Nam là vô sản, họ chịu nhiều áp bức và bức thiết cần được giải phóng.
Ngoài ra do sự tiếp thu và lịch sự chứng minh cách mạng vô sản mới là con đường duy
nhất giải phóng người Việt Nam khỏi áp bức bóc lột.

Vậy có được con đường cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh cùng các nhà nước
nước Cộng sản nhanh chóng triển khai phát triển lực lượng cũng như tập hợp lực lượng.
Quá trình này dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên nhắm đến mục tiêu giải phóng dân
tộc là ưu tiên cao nhất, song đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của các tổ chức Cộng sản
thế giới.

32
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử, là một
bước tiến cho sự hình thành một chế độ mới, một hướng đi mới. Sự ra đời của Đảng đã
chấm dứt sự khủng hoảng về chính trị, đường lối cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả
của sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam, là sự chuẩn bị công phu và hết
sức chi tiết về mọi mặt của Lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với sự đồng thuận của các tổ
chức yêu nước, của những con người yêu nước lúc bấy giờ. Với Cương lĩnh chính trị
đầu tiên đúng đắn, đó là một sự may mắn đối với Đảng ta. Cương lĩnh đã xác định đúng
đắn về đường lối của cách mạng Việt Nam cũng là một sự chứng tỏ, tuyên bố về sự lựa
chọn con đường đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như lựa chọn con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. CTD. Đỗ Quang Lưu, Hành trình tìm đường cứu nước và những chuyển biến
trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành -
Nguyễn Ái Quốc, (05/06/2021), truy cập từ: http://hvlq.vn/trang-chu/hoc-tap-va-
lam-theo-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-chi-minh/tu-tuong-ho-chi-
minh/hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-va-nhung-chuyen-bien-trong-nha.html
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB.
CTQG, H. 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
CTQG, H. 2011.
4. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp lý luận chính trị,
Khối kiến thức thứ hai, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập
5, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB LLCT, H, 2014
6. Khái quát hoàn cảnh, diễn biến và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga,
(30/10/2017), truy cập tại: https://baocantho.com.vn/kha-i-qua-t-hoa-n-ca-nh-
die-n-bie-n-va-y-nghi-a-cu-a-ca-ch-ma-ng-tha-ng-muo-i-nga-a91638.html
7. Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Nam, Tóm tắt quá trình hình thành và phát
triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam (phần 1), (16/01),
truy cập tại:
http://congdoanquangnam.org.vn/Default.aspx?tabid=656&Group=11&NID=5
5&tom-tat-qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-giai-cap-cong-nhan-va-to-
chuc-cong-doan-viet-nam-phan-1&language=en-US
8. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những bước ngoặt lịch sử,
(18/09/2019), truy cập tại: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-
trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-
lieu-90-nam-lich-su-dang/vai-tro-cua-dang-cong-san-viet-nam-trong-nhung-
buoc-ngoat-lich-su-534995.html.
9. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những bước ngoặt lịch sử,
(18/09/2019), truy cập tại: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-
trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-

34
lieu-90-nam-lich-su-dang/vai-tro-cua-dang-cong-san-viet-nam-trong-nhung-
buoc-ngoat-lich-su-534995.html
10. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

35

You might also like