You are on page 1of 33

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

***
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI: TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
GVHD: TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT NGA
Lớp: Thứ 2 – Tiết 3, 4 – Phòng B307
SVTH: MSSV
Trần Nhật Cường 20151446
Ngô Vũ Nhật Nguyên 20110268
Phạm Mai Mẫn Nhi 21125138
Bùi Hoàng Phúc 20125210
Dương Thế Toàn 19144313
TP.Hồ Chí Minh – tháng 05 năm 2022
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Môn học: Pháp luật đại cương Lớp: Thứ 6, tiết 11- 12, phòng A210

Đề tài: TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Mức độ hoàn
STT Họ và tên sinh viên MSSV Nội dung tham gia
thành

1. Trần Nhật Cường 20151446 Chương 2 100%

Chương 1, Phần mở
2. Ngô Vũ Nhật Nguyên 20110268 100%
đầu

3. Phạm Mai Mẫn Nhi 21125138 Chương 3, Kết luận 100%

4. Bùi Hoàng Phúc 20125210 Chương 4 100%

Tổng hợp, chỉnh sửa,


tổng kết bài word, tài
5. Dương Thế Toàn 19144313 100%
liệu tham khảo, chỉnh
word

Nhận xét của giảng viên


................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
.......................................................................................................................

Điểm: ........…

2
Ngày.......tháng......năm 2022

MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU: ....................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................. 1
3. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................................... 1
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 2
5. Bố cục – Kết cấu đề tài ............................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................................ 3
1.1 Khái quát chung về các tội xâm phạm sở hữu ...................................................... 3
1.1.1 Khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu .................................................. 3
1.1.2 Đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu ...................................... 3
1.1.3 Các yếu tố cấu thành của các tội xâm phạm sở hữu.............................. 4
1.1.3.1 Mặt khách thể của các tội xâm phạm sở hữu ......................................... 4
1.1.3.2 Mặt khách quan của tội xâm phạm sở hữu ............................................. 5
1.1.3.3 Mặt chủ quan của tội xâm phạm sở hữu ................................................. 5
1.1.3.4 Chủ thể của tội xâm phạm sở hữu ........................................................... 5
1.2 Khái quát về tội cướp tài sản................................................................................... 5
1.2.1 Khái niệm về tội cướp tài sản .................................................................. 6
1.2.2 Đặc điểm của tội cướp tài sản .................................................................. 6
1.2.2.1 Đặc điểm chung về tội phạm cướp tài sản ........................................... 6
1.2.2.2 Đặc điểm riêng của tội cướp tài sản ..................................................... 6
1.2.3 Những phương thức, thủ đoạn của tội phạm cướp tài sản ................... 6
1.2.4 Nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội cướp tài sản .................................. 7
1.2.5 Hậu quả của tội cướp tài sản ................................................................... 7
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH ............................................................................... 9
2.1 Dấu hiệu pháp lý ....................................................................................................... 9
2.2 Trách nhiệm hình sự áp dụng đối với tội phạm cướp tài sản ( Hình phạt) ...... 10

3
CHƯƠNG 3: PHÂN BIỆT TỘI CƯỚP VỚI MỘT SỐ TỘI DANH XÂM PHẠM SỞ
HỮU KHÁC ............................................................................................... 12
3.1 Tội “Cướp tài sản” và tội “Cưỡng đoạt tài sản“ ................................................. 12
3.2 Tội cướp tài sản và tội trộm cắp tài sản. .............................................................. 12
3.3 Tội “Cướp tài sản” và tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản“ .............................. 13
3.4 Tội “Cướp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản” .................................................... 13
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI CƯỚP TÀI SẢN ..... 15
4.1 Tình hình về tội cướp tài sản trong giai đoạn hiện nay ...................................... 15
4.2 Phân tích 3 vụ án phạm tội cướp tài sản .............................................................. 16
4.3 Phương hướng và các giải pháp đề xuất trong đấu tranh phòng chống tội
cướp tài sản ................................................................................................................... 21
KẾT LUẬN ................................................................................................ 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 27

4
A.PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Việt
Nam, với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những yếu tố hàng đầu
cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Phương châm phát triển kinh tế nhiều thành
phần đã làm cho các quan hệ pháp luật về kinh tế, dân sự, hình sự... ngày càng đa
dạng, phong phú. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Bên
cạnh sự phát triển đó, thì nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh những mặt trái, đó là
sự tha hóa, biến chất về đạo đức và nhân phẩm của một số bộ phận con người, làm
phát sinh tệ nạn xã hội, dẫn đến tình hình chính trị, an ninh và trật tự xã hội đi theo
khuynh hướng xấu. Tội phạm ngày một gia tăng, tính chất mức độ hành vi phạm tội
ngày càng nguy hiểm, tinh vi hơn, trong đó các loại tội phạm xâm hại đến quyền sở
hữu chiếm tỷ lệ lớn trong các loại tội phạm như: tội cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, cướp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản... mà trong
đó, đặc biệt là tội cướp tài sản ngày càng diễn ra phức tạp, gây dư luận không tốt cho
xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước và các cơ quan bảo
vệ pháp luật. Qua thực tiễn đấu tranh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về cướp tài
sản, tuy đạt được những thành tựu đáng kể nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại những hạn
chế, bất cập. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tội phạm cướp tài sản có ý nghĩa hết sức
quan trọng để từ đó có những biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả là rất cần
thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự cũng như những
vấn đề thực tế có liên quan, tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài sản.
Qua đó, thấy được những bất cập, hạn chế còn tồn tại để từ đó đưa ra giải pháp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm này.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản
được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 2015, các văn bản pháp lý có liên quan và
tình hình thực tế của loại tội phạm này hiện nay. Đưa ra những vụ án thực tế áp dụng
những quy định của luật và tìm ra các phương hướng, giải pháp để phòng ngừa loại tội
phạm này.

4. Phương pháp nghiên cứu

1
- Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê, tổng hợp
- Phương pháp phân tích, đánh giá
5. Bố cục – Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục của tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 4 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tội cướp tài sản
Chương 2: Quy định về tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội danh xâm phạm sở hữu khác
Chương 4: Thực trạng và giải pháp trong đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản

2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

1.1 Khái quát chung về các tội xâm phạm sở hữu


Sở hữu là một phạm trù kinh tế chỉ các quan hệ phát sinh trong quá trình chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Tài sản là giá trị cơ bản của xã hội và có giá trị không thể thiếu của con người
trong mọi thời đại. Theo điều 163 của Bộ Luật dân sự 2005 quy định “Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Kể từ khi tư hữu xuất hiện, tài sản
luôn là đối tượng để con người phấn đấu đạt tới. Bởi vì, nó là công cụ, phương tiện để
thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Ngoài ra, tài sản còn là đối tượng của quyền tài sản. Quyền sở hữu tài sản là
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản của mình bao gồm các quyền cơ bản. Để có được
quyền sở hữu tài sản, con người có nhiều cách thức tìm kiếm, chẳng hạn qua lao động
sản xuất, kinh doanh hợp pháp…, hành vi tìm kiếm này phải hợp pháp, và được mọi
người và xã hội chấp nhận. Mức độ chấp nhận hay không chấp nhận của con người
đối với hành vi tìm kiếm phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm gây ra cho xã hội của hành
vi đó.. Những hành vi tìm kiếm tài sản thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội được coi là
các tội phạm sở hữu và được điều chỉnh trong Luật hình sự cụ thể là được quy định tại
chương XIV của Bộ luật hình sự.
1.1.1 Khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu
Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân.
1.1.2 Đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu
Khái niệm chung về các tội phạm sở hữu cũng bao gồm các đặc điểm chung của
các tội phạm sở hữu. Bao gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, các tội phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy
định cụ thể tại chương XIV của Bộ luật hình sự. Đây là đặc điểm cơ bản về dấu hiệu
của mặt khách quan của tội phạm. Nó giúp phân biệt giữa hành vi phạm tội này vời
hành vi phạm tội khác.
Thứ hai, những hành vi xâm phạm và gây ra thiệt hại đó phải được quy định
trong Bộ luật hình sự. Cụ thể là theo khoản 2 của Bộ luật hình sự “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

3
Thứ ba, các tội xâm phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách vô ý hay cố ý.
Thứ tư, các tội xâm phạm sở hữu là hành vi có yếu tố lỗi. Lỗi được thực hiện
dưới hai dạng hình thức: lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Khi một người có hành vi gây thiệt hại
cho xã hội sẽ bị coi là cố ý phạm tội khi người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, hoặc là tuy không mong muốn nhưng để mặc
cho nó xảy ra. Còn vô ý phạm tội là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhưng vẫn cho rằng hậu quả đó có thể
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện.
Thứ năm, các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi phải chịu hình phạt, bao
gồm: phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chung thân và hình phạt
tử hình.
Thứ sáu, về chủ thể của tội phạm, trong số 13 tội phạm xâm phạm sở hữu chỉ có
một tội phạm có chủ thể đặc biệt, đó là tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản của Nhà nước quy định tại Điều 144 (Chủ thể của tội phạm này là
người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của nhà nước), còn lại các
tội phạm khác có chủ thể của tội phạm là chủ thể thường.
1.1.3 Các yếu tố cấu thành của các tội xâm phạm sở hữu
Trong khoa học luật hình sự thì cấu thành tội phạm là hệ thống các dấu hiệu
khách quan và chủ quan được quy định trong pháp luật hình sự, đặc trưng cho hành vi
nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Cũng giống như các tội phạm khác các tội xâm
phạm sở hữu cũng được cấu thành từ bốn yếu tố: khách thể, khách quan, chủ quan và
chủ thể.
1.1.3.1 Mặt khách thể của các tội xâm phạm sở hữu
Theo luật hình sự Việt Nam, những tội được coi là tội xâm phạm sở hữu được
quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự là những tội có cùng khách thể là quan hệ
sở hữu.. Quan hệ sở hữu này bao gồm là các quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ.
Một hành vi tuy cũng gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở
hữu nhưng sẽ không phải là tội xâm phạm sở hữu nếu hành vi đó đồng thời còn gây ra
thiệt hại cho những quan hệ xã hội khác và sự gây thiệt hại mới này thể hiện đầy đủ
nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Trong trường hợp này khách thể trực
tiếp không phải là quan hệ sở hữu,các quan hệ xã hội nằm trong chương xâm phạm sở
hữu là những quan hệ có cùng tính chất với nhau được một nhóm quy phạm pháp luật
hính sự bảo vệ khỏi sự xâm hại. Nhóm quan hệ đó được gọi chung là khách thể loại
4
của tội xâm phạm sở hữu. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm phạm khách thể loại,
cũng đều xâm phạm đến một hoặc nhiều quan hệ xã hội trong một nhóm quan hệ xã
hội nhất định. Khách thể loại có vai trò rất quan trọng về mặt pháp lý, nó là cơ sở để
Bộ luật hình sự xây dựng các Chương về phần tội phạm.
1.1.3.2 Mặt khách quan của tội xâm phạm sở hữu
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp những gì biểu hiện ra bên ngoài thế
giới khách quan. Tuy nhiên, hành vi khách quan của các tội phạm sở hữu ở hình thức
thể hiện nhưng đều có cùng tính chất gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả
năng thực hiện quyền sở hữu của mình.
1.1.3.3 Mặt chủ quan của tội xâm phạm sở hữu
Là trạng thái tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
và hậu quả do hành vi đó gây ra. Những dấu hiệu cơ bản của mặt chủ quan của tội
phạm sở hữu: Là lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Nhưng không phải tất cả các tội
xâm phạm sở hữu đều có dấu hiệu bắt buộc về mặt chủ quan là các yếu tố trên.
1.1.3.4 Chủ thể của tội xâm phạm sở hữu
Hầu hết chủ thể các tội xâm phạm sở hữu là chủ thể thường. Riêng đối với tội
thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước là phải có chủ thể
đặc biệt, ngoài những dấu hiệu của chủ thể thường phải có, chủ thể của tội phạm này
thêm dấu hiệu đặc biệt là người đó có trách nhiệm liên quan đến tài sản Nhà nước.
1.2 Khái quát về tội cướp tài sản
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sống của con người cũng cao
hơn. Để nâng cao nhu cầu sống của bản thân thì có nhiều cách như: lao động, sản
xuất, tiềm kiếm, học tập, nhưng bên cạnh đó nhiều tư tưởng chỉ thích hưởng thụ mà
lười lao động. Nên xuất hiện các vụ cướp tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản của người
khác.
Cướp hay cướp tài sản trong luật hình sự cũng là một tội danh chỉ người nào sử
dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc đối với chủ sở hữu nhằm
chiếm đoạt tài sản.
Dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với những tội xâm phạm đến sở hữu khác
là hành vi phạm tội. Hay nói khách khác, người phạm tội cướp tài sản là hành vi dùng
vũ lực hay mọi thủ đoạn khiến người bị tấn công lâm vào tình thế không thể chống cự
nằm mục đích chiếm đoạt tài sản.

5
1.2.1 Khái niệm về tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản được quy định tại điều 133 Bộ luật hình sự 1999 và thay thế tại
điều 168 Bộ luật hình sự 2015.
Cướp tài sản là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm
đoạt tài sản.
1.2.2 Đặc điểm của tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản là một loại tội phạm nguy hiểm cao cho xã hội. Bởi vì nó được
thực hiện bằng những đặc điểm tội phạm dưới đây:
1.2.2.1 Đặc điểm chung về tội phạm cướp tài sản
Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành, dựa trên khái niệm về tội phạm, hành vi
bị xem là tội phạm cướp tài sản là phải có đủ bốn yếu tố dấu hiệu: tính nguy hiểm cho
xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi, tính chịu hình phạt. Những dấu hiệu này
đồng thời cũng là những thuộc tính của tội phạm mà các hành vi khác không có được.
1.2.2.2 Đặc điểm riêng của tội cướp tài sản
Hành vi dùng vũ lực, đây là nét đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản. Vũ lực ở
đây, có thể được hiểu là hành động đánh, đá, bóp cổ, bắn, đâm, chém… nhằm tác
động vào người đang nắm giữ tài sản. Và có thể không gây ra thương tích hoặc gây
thương tích nặng hoặc thậm chí có thể dẫn đến chết người.
Đối với hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hay
hành động rằng nếu người đang quản lý tài sản không giao nộp tài sản thì người phạm
tội này sẽ dùng hành vi vũ lực (như đã nói ở trên) ngay lập tức.
Hành vi này không phải là hành vi dùng vũ lực hay sẽ đe dọa là sẽ dùng vũ lực
ngay tức khắc mà có thể là hành vi dùng thuốc mê, hay thuốc ngủ… nhằm làm cho
nạn nhân không thể chống cự được.
1.2.3 Những phương thức, thủ đoạn của tội phạm cướp tài sản
Vào những năm gần đây những vụ cướp tài sản tăng lên một cách nhanh chóng,
nhiều băng cướp có những chiêu lừa vào lòng thương hại của người dân, khi họ lơ là
thì gây ra những cụ cướp một cách trắng trợn.
Ví dụ: “Lúc 2h sáng ngày 30/9 vừa qua, anh Nguyễn Văn Thanh (ngụ tại quận
11). Khi đi trên đường trở về nhà, anh để chiếc máy quay phim trong túi xách ở phía
trước xe máy. Đi tới địa bàn công viên Hoàng Văn Thụ (quận Tân Bình) thì xuất hiện
4 thanh niên chạy trên 2 xe gắn máy áp sát xe anh Thanh. Các đối tượng vờ nói
chuyện, cười nói rồi bất ngờ áp sát đạp mạnh, khiến anh Thanh bị té ngã. Tên ngồi sau

6
nhanh chóng giật túi xách từ xe anh Thanh, Thấy anh Thanh lồm cồm bò dậy, bọn
chúng đã rút ra con dao Thái Lan từ trong người ra hăm dọa để anh Thanh từ bỏ ý
định truy đuổi. Sợ bị chống trả, anh Thanh đành cố chịu đau, trở lại xe và chấp nhận
bị bọn cướp lấy hết đồ đạc”.
Như vậy bọn cướp lợi dụng những đường vắng vẻ và trời tối để ích người qua lại
để dễ dàng thực hiện và đem theo vũ khí đê khống chế nạn nhân. Phương thức và thủ
đoạn của bọ cướp không dừng lại ở đấy, bọn chúng còn nhằm vào các tiệm vàng là
nơi buôn bán sầm uất để khống chế và cướp.
1.2.4 Nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội cướp tài sản
Nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài sản là dấu hiệu, đặc điểm, cơ bản
nhất. Mỗi tội phạm xảy ra thường xuyên không phải là do một nguyên nhân mà là một
kết quả tập hợp hàng loạt các tình huống tác động đến con người cụ thể.
Nguyên nhân chủ quan: do tác động xấu của mặt trái nền kinh tế thị trường đến
tư tưởng và tâm lý của người phạm tội. Một bộ phận thanh niên đã đến tuổi lao động
nhưng không tìm được việc làm hoặc công việc không ổn định dẫn đến chơi bời lêu
lõng sa vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm. Để có tiền đáp ứng
nhu cầu cá nhân dấn thân vào con đường phạm tội. Đa số những người phạm tội đều
có trình độ văn hóa thấp, có nhận thức kém và thiếu hiểu biết biết về pháp luật nên bị
các đối tượng xấu lôi kéo vào con đường phạm tội.
Nguyên nhân khách quan: do đại đa số phần đông những vụ cướp là do thanh,
thiếu niên thực hiện nên có những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới.
Thứ nhất, là do ảnh hưởng từ gia đình vì đây là môi trường gần rủi và bao bọc,
dạy dỗ các em.
Thứ hai, từ phía nhà trường hiện nay trong nhiều nhà trường vẫn chưa chú ý việc
giáo dục, tuyên truyền, cho học sinh, sinh viên những kiến thức pháp luật.
Thứ ba, quần chúng nhân dân chưa thực sự phát huy được vai trò của mình cũng
như tham gia vào công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
Thứ tư, ảnh hưởng từ phía xã hội, trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
1.2.5 Hậu quả của tội cướp tài sản
Đối với tội cướp tài sản, hậu quả của tội này là một vấn đề quan trọng.Gây ra
thiệt hại về tài sản sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cho con người. Đặc trưng của tội
cướp tài sản là hành vi sử dụng vũ lực hành vi này có thể gây ra thương tích hoặc có
thể cướp đi tính mạng của một người, giả sử nạn nhân là trụ cột chính trong gia đình
nhưng phải gánh chịu hậu quả từ những hành vi người phạm tội gây ra có thể mất khả

7
năng lao động hoặc là chết. Như vậy hậu quả của tội cướp tài sản và không hề nhỏ, nó
tác động rất lớn đến bản thân và gia đình nạn nhân, gia đình người phạm tội và rộng
hơn là toàn xã hội.

8
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

2.1 Dấu hiệu pháp lý


a) Khách thể của tội cướp tài sản
Khách thể của tội cướp tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà Nước, cơ quan,
tổ chức, cá nhân và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của con người.
Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự,
bao gồm:
 Vật
 Tiền
 Giấy tờ có giá
 Quyền tài sản
b) Mặt khách quan của tội cướp tài sản
Mặt khách quan của tội cướp tài sản được thể hiện ở hành vi chiến đoạt tài sản
bằng các thủ đoạn: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc các hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản.
Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức và được coi là hoàn
thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực,
đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lầm
vào tình trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được
tài sản hay không.
c) Mặt chủ quan của tội cướp tài sản
Tội cướp được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của
người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội
cướp tài sản. Nếu thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực hoặc đe dọa dùng
ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được, nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không
phạm tội cướp tài sản.
d) Chủ thể của tội cướp tài sản
9
Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường. Bất kỳ người nào từ đủ 14 tuổi
trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của tội cướp
tài sản.
2.2 Trách nhiệm hình sự áp dụng đối với tội phạm cướp tài sản ( Hình phạt)
Điều 168 BLHS quy định 5 khung hình phạt đối với người phạm tội cướp tài
sản:
Quy định phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với người phạm tội không có tình
tiết tăng nặng định khung hình phạt.
Quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau:
 Phạm tội có tổ chức.
 Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
 Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương
tật từ 11% đến 30%
 Sử dụng vũ khí
 Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai triệu đồng
 Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi
 Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là gây ra những tác
động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội.
 Tái phạm nguy hiểm.
Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau:
 Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;
 Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%;
 Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Quy định hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân áp dụng đối với
người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
 Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên;

10
 Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
 Làm chết người;
 Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, thì tại khoản
5 Điều 168 BLHS quy định người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến
05 năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 BLHS, thì chuẩn bị phạm tội cướp tài sản
là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực
hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm.
Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 6 Điều 168 BLHS là người phạm tội
cướp còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm
cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, so với quy định tại Điều 133 BLHS năm 2009, thì quy định tại Điều
168 BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau:
 Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả nghiêm trọng” và bổ sung các
tình tiết sau đây làm tình tiết định khung hình phạt tại khoarn2: phạm tội đói với
người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có tahi, người già yếu hoặc người không có khả
năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
 Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” và bổ sung
tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 3.
 Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và bổ
sung tình tiết “Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh”
làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 4. Đồng thời bỏ hình phạt tử hình tại
khoản 4 Điều 168 BLHS.
 Quy định mới: “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm”.

11
CHƯƠNG 3: PHÂN BIỆT TỘI CƯỚP VỚI MỘT SỐ TỘI
DANH XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÁC

3.1 Tội “Cướp tài sản” và tội “Cưỡng đoạt tài sản“
Điều 170. Tội “Cưỡng đoạt tài sản”
“Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người
khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Cả hai tội phạm này đều có hành vi đe dọa dùng vũ lực song thời điểm đe dọa vũ
lực là khác nhau, nếu tội cướp tài sản là ngay tức khắc bị hại phải giao tài sản ngay mà
không có thời gian để ngăn chặn, còn thời điểm đe dọa dùng vũ lực đối với tội cưỡng
đoạt tài sản là hình thành trong tương lai và bị hại vẫn có thời gian để dùng các biện
pháp ngăn chặn hành vi phạm tội xảy ra.
- Giải pháp
Thứ nhất: Hoàn thiện quy định về định lượng tài sản chiếm đoạt trong tội “Cướp
tài sản”, đồng thời cần sớm ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành về các tội
xâm phạm sở hữu bởi đây là nhóm tội xảy ra thường xuyên.
Thứ hai: Điểm cơ bản để phân biệt các tội danh trên là tính công khai trong hành
vi phạm tội, ở mỗi tội phạm mức độ công khai khác nhau như tội “Cướp giật tài sản”
với tội “Cướp tài sản” thì tính công khai đối với tội cướp giật là rõ ràng hơn. Tuy
nhiên, cần sớm có văn bản hướng dẫn thi hành về dấu hiệu định tội đối với các tội
phạm mang tính chiếm đoạt tài sản để trong thực tiễn thi hành tránh để xảy ra sai sót.
Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
giải quyết các vụ án chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn.
3.2 Tội cướp tài sản và tội trộm cắp tài sản.
Điều 173. Tội “Trộm cắp tài sản”:
Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm.
Điểm khác nhau cơ bản của hai tội phạm này đó là chính là mức độ công khai
của hành vi:

12
Trong tội “Cướp tài sản” người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được.
Trong tội “Trộm cắp tài sản” thì người phạm tội thực hiện một cách lén lút.
Như vậy, trong tội “Cướp tài sản” tính công khai của người phạm tội rõ ràng hơn
so với tội “Trộm cắp tài sản”.
Ngoài ra trong tội “Trộm cắp tài sản” định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt được
quy định trong cấu thành cơ bản còn đối với tội “Cướp tài sản” thì không quy định.
Chuyển hóa tội phạm: Cũng giống như hành vi chuyển hóa trong tội “Cướp giật
tài sản”, trường hợp người phạm tội sau khi đã trộm cắp được tài sản nhưng sau đó bị
hại hoặc người khác giành, giật lại được tài sản và người phạm tội dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được để giành lại tài sản thì có sự chuyển hóa từ tội “Trộm cắp tài
sản” sang tội “Cướp tài sản”.
3.3 Tội “Cướp tài sản” và tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản“
Điều 172. Tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”
Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hai hành vi phạm tội này đó là tính công khai trong
hành vi phạm tội: Nếu trong tội “Cướp tài sản” người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được mới chiếm đoạt được thì trong tội “Công nhiên
chiếm đoạt tài sản” người phạm tội không cần dùng thủ đoạn nào cũng vẫn chiếm đoạt
được tài sản.
Chủ thể tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên còn đối với tội “Cướp tài
sản” thì chủ thể người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Cũng giống như tội “Trộm cắp tài sản” thì tội này tài sản chiếm đoạt có giá trị để
định khung hình phạt.
3.4 Tội “Cướp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”
Điều 171. Tội “Cướp giật tài sản”.
Người nào cướp giật tài sản của người khác.
+ Giống nhau:

13
– Chủ thể tội phạm: Người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về hai
tội phạm này.
– Mục đích chiếm đoạt tài sản.
– Định lượng tài sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố
định khung hình phạt.
+ Khác nhau:
Hành vi phạm tội: Tội “Cướp tài sản” sử dụng hành vi “Dùng vũ lực, đe dọa vũ
lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được”, còn tội cướp giật tài sản người phạm tội không sử dụng vũ
lực (tuy một số trường hợp có sử dụng sức mạnh như đạp, xô cho bị hại ngã để cướp),
đe dọa vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được như trong tội “Cướp tài sản” mà chỉ dựa vào sự
nhanh nhẹn của bản thân và sự sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại
không đủ khả năng bảo vệ tài sản.
Như vậy, tính công khai của tội phạm là yếu tố cơ bản để phân biệt hai tội danh
này trên thực tế.
Chuyển hóa tội phạm: Trường hợp người phạm tội sau khi đã cướp giật được tài
sản nhưng sau đó bị hại hoặc người khác giành, giật lại được tài sản và người phạm
tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được để giành lại tài sản thì có sự chuyển
hóa từ tội “Cướp giật tài sản” sang tội “Cướp tài sản”.

14
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG
CHỐNG TỘI CƯỚP TÀI SẢN

4.1 Tình hình về tội cướp tài sản trong giai đoạn hiện nay
Thông tin về tình hình tội phạm những tháng đầu năm tại Hội thảo khoa học
công tác phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay cho biết, trong 10 tháng đầu
năm 2021, toàn quốc xảy ra 34.638 vụ phạm tội về trật tự xã hội, giảm 11,23% so
cùng kỳ năm 2020 và giảm 17,16% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó tội cướp tài
sản đã giảm 17,24%. Nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu (cướp, cướp giật, cưỡng đoạt,
lừa đảo, trộm cắp) chiếm tỷ lệ cao (49,67%), trong đó, tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt
tài sản tăng 4,51%, nhất là lừa đảo qua Internet, mạng xã hội, nhiều vụ lên đến hàng
trăm tỷ đồng.
Trong tổng số 33.198 vụ xâm phạm sở hữu thì tội phạm trộm cắp tài sản chiếm
tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu của tội phạm xâm phạm sở hữu với 24.360 vụ chiếm
73,38%, tiếp đến là cướp giật tài sản 3.154 vụ chiếm 9,50%, lừa đảo chiếm đoạt tài
sản xảy ra 1.744 vụ chiếm 5,25%, xảy ra 1.528 cướp tài sản chiếm 4,60%, hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xảy ra 1.057 chiếm 3,05%, lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản xảy ra 832 vụ chiếm 2,51%, cưỡng đoạt tài sản xảy ra 544 vụ chiếm
1,64%, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xảy ra 24 vụ chiếm 0,07%.
Qua nghiên cứu cho thấy, số vụ xâm phạm sở hữu tập trung chủ yếu ở các thành
phố lớn, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, dịch vụ như thành phố Hồ Chí Minh
(5.044 vụ), Hà Nội (3.580 vụ), Đồng Nai (1.203 vụ), Bình Dương (775 vụ), Đà Nẵng
(390 vụ)…
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã điều tra, khám phá 21.941 vụ xâm phạm sở hữu
với 30.081 đối tượng, đạt 60,09% và 93,52% tổng số đối tượng; thu hồi tài sản trị giá
132.366, 963 triệu đồng; khởi tố 18.771 vụ (chiếm 56,54%) với 22.118 đối tượng
(chiếm 68,76%); xử phạt hành chính 564 vụ, 821 đối tượng với số tiền phạt 691,95
triệu đồng. Trong đó, tỉ lệ khám phá án cao nhất đối với án bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản đạt 95,8%; tiếp đến là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đạt 94,1%, cưỡng
đoạt tài sản xảy ra đạt 89,8%; lừa đảo chiếm đoạt tài sản đạt 81%; hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản đạt 72,1%; cướp tài sản đạt 70,9%; cướp giật tài sản đạt 63,7% và
thấp nhất án trộm cắp tài sản đạt 63,2%. Đặc biệt, lượng Công an cả nước đã triệt phá

15
2.841 băng nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu, trong đó có 195 băng nhóm cướp tài
sản, 01 băng nhóm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, 99 băng nhóm cưỡng đoạt tài sản,
443 băng nhóm cướp giật tài sản, 1.939 băng nhóm trộm cắp tài sản, 99 băng nhóm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 27 băng nhóm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, 38
băng nhóm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Trong năm qua tội phạm xâm phạm sở hữu do các băng nhóm tội phạm gây ra
diễn biến rất phức tạp và tại nhiều nơi, tác động tiêu cực đến tâm lý, đời sống của
người dân, gây thiệt hại cả về người và tài sản, gây mất an ninh trật tự tại các địa
phương. Thời gian gần đây, đối tượng phạm tội sử dụng hung khí, công cụ hỗ trợ, vũ
khí nóng gây án ngày càng gia tăng và sẵn sàng chống trả lại lực lượng truy bắt khi bị
phát hiện, chạy trốn, các đối tượng có xu hướng chuyển dần từ sự trốn tránh, né tránh
sang sẵn sàng đối đầu với lực lượng thi hành công vụ và người dân khi bị truy bắt.
4.2 Phân tích 3 vụ án phạm tội cướp tài sản
a) Vụ án thứ nhất: Vướng mắc trong việc xác định tội danh về hành vi
“Cướp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản”
 Nội dung sự việc:
Khoảng 20 giờ ngày 22/01/2019, Lương Văn D, Nguyễn Văn P, Triệu Văn B
cùng nhau đến quán Karaoke thuộc tổ 11, thị trấn Y để hát Karaoke. Khoảng 23 giờ
30 phút cùng ngày, B đi về trước còn lại D và P ở lại phòng hát. Do không có đủ tiền
để trả tiền hát nên D gọi điện thoại cho B quay lại góp tiền thanh toán và đón P, nhưng
B không đồng ý và nói chỉ đón P ở khu vực trung tâm thị trấn. Bực tức trước thái độ
của B nên D đã nảy sinh ý định đánh cho B một trận cho bõ tức. Sau đó, D chở P đến
khu vực trung tâm thị trấn gặp B đang ngồi chờ trên xe mô tô biển kiểm soát 22K5-
xxxx (xe của B), D liền tiến đến dùng chân phải đạp một phát trúng vào hông bên trái
của B làm B ngã và xe mô tô đổ xuống đường. Sau đó, D tiếp tục dùng chân đạp liên
tiếp hai phát vào sườn phía bên trái và dùng tay tát liên tiếp hai phát vào vùng mặt B
và nói “có tiền để trả tiền hát không?” B nói “không có”. Lúc này, D nảy sinh ý định
chiếm đoạt xe mô tô của B mang đi cầm cố để lấy tiền trả tiền hát, D nói “không có
tiền thì mang xe đi cắm”, B trả lời “xe không có giấy tờ”, D tiếp tục nói “thế thì mày
đi theo tao để viết giấy”. Sau đó, D dựng xe mô tô của B lên, một mình điều khiển xe
mô tô của B đi về hướng thị trấn Y. Đi được khoảng 10m, D quay lại thấy B không đi,
D tiếp tục đe dọa “mày không đi tao đánh cho một trận nữa bây giờ” và tiếp tục điều
khiển xe mô tô của B đi trước. Sợ bị đánh tiếp, B nhờ P điều khiển xe mô tô chở đi
cùng D. Đi được một đoạn, B xin P điều khiển xe, P đồng ý, B đã điều khiển xe đi
thẳng đến Công an huyện Y trình báo sự việc. Khi biết việc B đã báo Công an, lo sợ bị

16
bắt nên D đã đưa xe mô tô của B cho P để trả lại cho B nhưng do xe hết xăng không
nổ được máy nên P đã gửi xe mô tô vào quán Karaoke rồi đi về. Quá trình điều tra,
Hoàng Văn B từ chối giám định thương tích; Kết luận định giá tài sản của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y, kết luận: xe mô tô biển kiểm soát
22K5-xxxx tại thời điểm có giá trị là: 4.200.000đ.
 Trong quá trình giải quyết vụ án, hiện có nhiều quan điểm khác nhau về
việc xác định tội danh đối với Lương Văn D:
Quan điểm thứ nhất: D phạm tội Cưỡng đoạt tài sản, quy định tại khoản 1 Điều
170 BLHS. Vì hành vi của D được tách làm hai giai đoạn riêng biệt, giai đoạn đầu bực
tức trước thái độ của B nên đánh cho bõ tức; giai đoạn hai là chiếm đoạt xe mô tô, D
chỉ đe dọa “mày không đi tao đánh cho một trận nữa bây giờ”.
Quan điểm thứ hai: D phạm tội Cướp tài sản, quy định tại khoản 1, Điều 168
BLHS. Vì D đã dùng vũ lực và tiếp tục đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với B
làm cho B lâm vào tình trạng không chống cự được để chiếm đoạt tài sản. Em nhất trí
với quan này, vì: Trước hết, để xác định tội danh cần quan tâm và làm rõ dấu hiệu đặc
trưng của hành vi khách quan cấu thành tội Cướp tài sản và tội Cưỡng đoạt tài sản.
Đối với tội Cướp tài sản (Điều 168 BLHS): Dấu hiệu đặc trưng là hành vi “Dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản". Tức là người
phạm tội đã thực hiện dùng sức mạnh vật chất tác động vào cơ thể của nạn nhân như
(đấm, đá, tát …) đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc…làm cho ý trí của nạn nhân bị tê
liệt không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Đối với tội Cưỡng đoạt tài sản
(Điều 170 BLHS): Dấu hiệu đặc trưng là hành vi “Đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ
đoạn khác uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản”.
Ở cả hai tội danh đều có hành vi đe dọa dùng vũ lực nhưng tính chất đe dọa có
sự khác nhau:
Đối với tội cướp tài sản, đe dọa dùng vũ lực là ngay tức khắc, làm cho người bị
đe dọa thấy rằng nguy hiểm sẽ xảy ra ngay và họ không thể tránh khỏi nếu không giao
tài sản ngay tức khắc. Người bị đe dọa không có điều kiện để suy nghĩ, cân nhắc hay
tìm biện pháp ngăn chặn đối với hành vi mà người phạm tội đang đe dọa, sức mãnh
liệt của sự đe dọa làm cho ý chí chống cự của người bị đe dọa tê liệt.
Đối với tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi đe dọa dùng vũ lực là tại một thời điểm
trong tương lai, không có nguy cơ xảy ra ngay. Trong trường hợp này, người bị đe dọa
vẫn có một khoảng thời gian để cân nhắc, suy nghĩ, tìm biện pháp ngăn chặn.

17
Trở lại vụ án trên, hành vi của Lương Văn D thể hiện đã dùng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực đối với B như: dùng chân đạp vào hông bên trái của B làm cho B ngã và
mô tô đổ xuống đường, sau đó tiếp tục dùng chân đạp hai phát vào sườn và dùng tay
tát liên tiếp vào mặt của B. Liền ngay sau đó, D đã nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô
tô của B; khi thấy B không đi, D tiếp tục đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc“mày
không đi tao đánh cho một trận nữa bây giờ”. Thực tế vừa bị D đánh xong, do sợ bị
đánh tiếp nên B buộc phải đi theo; đồng thời một nội dung cần hết sức lưu ý, ngay sau
khi D dùng vũ lực đối với B thì D thực hiện hành vi lấy xe mô tô của B để mang đi
cầm cố, chỉ khi biết B báo Công an D mới trả lại xe mô tô, việc trả lại xe là nằm ngoài
ý muốn của D.
 Như vậy:
Hành vi của D đã dùng vũ lực và tiếp tục đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối
với B làm cho B lâm vào tình trạng không chống cự được để chiếm đoạt tài sản. Vì
vậy, hành vi của D đủ yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản, quy định tại khoản 1, Điều
168 Bộ luật hình sự.
b) Vụ án thứ hai: Do bản thân đang cần tiền mở cửa hàng bán quần áo
nên Nguyễn Văn R nảy sinh ý định đi cướp tiền ở ngân hàng.
 Nội dung sự việc:
Khoảng 13 giờ ngày 04/07/2019, Nguyễn Văn R mặc sẵn hai áo khoác dài tay
trên người, đeo khẩu trang che mặt, mang găng tay rồi điều khiển xe môtô Kawasaki
Z1000 màu xanh lá cây biển số: 77A1- 002.xx từ phòng trọ tại địa chỉ 1051/4 HG,
Phường 11, Quận S đến gửi ở bãi giữ xe ở chợ HTT tại địa chỉ 688 QT, Phường 11,
quận GV, Thành phố M. Sau đó, R đón xe ôm quay lại phòng trọ để lấy xe máy
Luvias màu đỏ đen biển số 59D2-422.50 cùng một khẩu súng ngắn (dạng súng ổ
quay) bên trong hộp tiếp đạn có sẵn 06 viên đạn bỏ vào trong balô và để vào cốp xe.
Sau đó, R điều khiển xe đi qua nhiều tuyến đường từ Quận S đến quận TP để tìm địa
điểm cướp tài sản. Khi chạy xe ngang qua Phòng giao dịch LBB - Ngân hàng Thương
mại cổ phần BA, địa chỉ 175 LBB, phường HT, quận TP (do anh PCH - Giám đốc
phòng giao dịch là người đại diện theo ủy quyền) thì R nhìn thấy tại đây chỉ có một
bảo vệ, ít người ra vào nên quyết định chọn địa điểm này để cướp tài sản. Tuy nhiên,
do thấy phía trước cửa ngân hàng còn nhiều người qua lại nên R điều khiển xe máy
chạy ra hướng bến xe MT để đợi thời gian thích hợp để thực hiện vụ cướp.
Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, R vòng xe lại dừng ở phía đối diện với phòng
giao dịch Ngân hàng BA để quan sát. Đến khoảng 14 giờ 44 phút, khi thấy anh NTH
(nhân viên bảo vệ) đã đi vào bên trong ngân hàng, phía trước vắng người nên R chạy
18
xe máy đến dừng trước trước cửa ngân hàng và cầm ba lô trên tay trái đi đến trước
quầy giao dịch số 1 nơi chị TTTN (là nhân viên giao dịch) đang ngồi rồi lấy từ trong
balô ra một khẩu súng ngắn cầm trên tay phải đưa về phía các nhân viên trong quầy
giao dịch để uy hiếp, còn tay trái thì ném chiếc balô vào trong quầy yêu cầu bỏ tiền
vào. Lúc này, do hoảng sợ nên các nhân viên ngồi núp xuống bên dưới quầy giao dịch,
đồng thời ấn chuông báo động. Do sợ bị phát hiện nên R đã cầm súng bỏ đi ra ngoài,
leo lên xe Luvias biển số: 59D2-422.50, để súng vào hộc để đồ ở bên trái bửng trước
của xe rồi chạy thoát về hướng đường LBB.
Đến khoảng 14 giờ 10 phút ngày 08/07/2019, Nguyễn Văn R điều khiển xe môtô
hiệu Kawasaki Z1000 biển số 77A1 - 002.33 đến tiệm cầm đồ Quang Huy tại số 589
HG, Phường 11, Quận S (do chị Trần Thị A làm chủ) gặp anh Đặng Văn I (là nhân
viên) cầm với giá 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng rồi sử dụng số tiền
này đi về quê ở huyện HA, tỉnh BĐ. Qua truy xét, ngày 11/07/2019, Nguyễn Văn R bị
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận TP, Thành phố M bắt giữ và di lý về Thành
phố M xử lý.
 Quyết định tòa án xét xử:
Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sư
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn R và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Trần Thị D, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 160/2019/HSST
ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận TP về phần vật chứng vụ án.
Hoàn trả cho bị cáo Nguyễn Văn R và bà Trần Thị D 01 xe môtô hiệu
KAWASAKI Z1000 màu xanh lá có biển số: 77A1-002.33, số máy:
ZRT00DE123152, số khung: JKAZRT00HHA005894 cùng 01 (một) giấy chứng nhận
đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 77A1-002.33 do Nguyễn Văn R đứng tên chủ sở
hữu.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điều 38; điểm h, s khoản 1 điều 51 Bộ luật
hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt:
Bị cáo Nguyễn Văn R 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản ” thời hạn tù tính từ
ngày 11/7/2019.
Bị cáo Nguyễn Văn R, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị D
không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
c) Vụ án thứ ba: Đối tượng cướp tài sản mới chỉ 17 tuổi:
 Nội dung sự việc:

19
Ngày 24/3/2022, Tòa án huyện Tam Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
bị cáo Hà Quang V, sinh năm 2004 ở thôn Nứa, xã Tử Du, huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc về tội cướp tài sản, cướp giật tài sản.
Theo hồ sơ vụ án. Trong khoảng thời gian từ ngày 01/8/2021 đến 8/10/2021 Hà
Quang V, sinh ngày 9/3/2004 trú tại thôn Nứa, xã Tử Du, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc và Khổng Văn K, sinh ngày 16/9/2005 trú tại thôn Hoà Phong, xã Xuân Hoà,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện hai vụ án cướp tài sản và cướp giật tài sản
xẩy ra trên địa bàn huyện Lập Thạch và huyện Tam Dương.
Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 01/8/2021, Hà Quang V và Khổng Văn K
cùng một số thanh niên khác điều khiển xe mô tô, cầm theo hung khí đi lang thang
trên địa bàn huyện Lập Thạch để gây sự đánh nhau với những người không quen biết.
Khi đi đến địa phận tổ dân phố Hoà Bình, thị trấn Hoa Sơn, huyện Lập Thach thì thấy
các anh Đặng Phương N; Nguyễn Tiến M, Bùi Văn N và Hà Văn M cùng ở xã Xuân
Hoà, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đang chơi ở ven đường. Nhóm của V đã có
hành vi ném vỏ chai bia về phía bốn thanh niên này và cầm chuôi dao phóng lợn đánh
anh Đặng Phương N gây thương tích ở đầu với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 1%. Khi thấy
nhóm anh N bỏ chạy, Hà Quang V đã tự ý đến lấy chiếc Micro – Bluetooth của anh
Đặng Phương N giá trị 800.000 đồng để sử dụng.
Vụ thứ hại: Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 8/10/2021, Khổng Văn K và Hà Quang
V mượn xe mô tô không biển kiểm soát của Nguyễn Quốc T, sinh năm 2004 ở xã Tử
Du, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đi từ huyện Bình Xuyên về huyện Lập Thạch.
Khoảng 5 giờ 50 phút cùng ngày, K và V về đến đường tỉnh lộ 310 thuộc địa phận
thôn Gô, xã Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc thì K nhìn thấy chị
Nguyễn Thị O điều khiển xe mô tô BKS: 88K1 – 347.15, loại xe Visson chở theo chị
Nguyễn Thị N người cùng xã Hướng Đạo với chị O đi ngược chiều, phía trước hốc
bên trái xe có 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11, màu đỏ. K nảy sinh ý định chiếm
đoạt chiếc điện thoại của chị O nên đã rủ V cướp điện thoại trên, V đồng ý. Sau đó V
và K vừa đi vừa đổi lái cho nhau, theo đó V điều khiển xe mô tô chở K quay lại rồi
vượt lên, áp sát bên trái xe của chị O để K bất ngờ dùng tay phải giật lấy chiếc điện
thoại Iphone 11, V tăng ga xe bỏ chạy. Sau đó V và K mang chiếc điện thoại Iphone
11 cướp giật được bán cho anh Khổng Văn C được 9.000.000 đồng, V và K cùng nhau
tiêu sài cá nhân hết số tiền trên.
 Quyết định:
Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy
hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng
20
nhân dân, làm hoang mang dư luận, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân
được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên trước khi tuyên án HĐXX xem xét đến các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt
bị cáo V khi phạm tội mới bước sang tuổi 17 nên HĐXX đã tuyên bị cáo mức thấp
nhất của khung hình phạt với mức án 3 năm tù giam về hành vi “Cướp tài sản” theo
khoản 1 Điều 168 bộ Luật hình sự và 3 năm 3 tháng tù giam về hành vi “Cướp giật tài
sản” theo điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ Luật hình sự. Tổng hợp hại hình phạt mà bị
cáo V phải nhận là 6 năm 3 tháng tù giam. Bị cáo K bị phạt 3 năm 3 tháng tù giam
theo điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ Luật hình sự. Cả hai bị cáo phải bồi thường cho bị
hại 9 triệu đồng.
Đây là mức án nghiêm khắc đối với hành vi cướp tài sản và cướp giật tài sản của
người khác. Bản án cũng là bài học cảnh tỉnh cho bị cáo cũng như tất cả mọi người
dân nói chung và những gia đình có con em dưới 18 tuổi nói riêng cần nhận thức sâu
sắc hơn nữa về quyền sở hữu tài sản cũng như tính mạng, sức khoẻ của công dân được
pháp luật bảo vệ.
4.3 Phương hướng và các giải pháp đề xuất trong đấu tranh phòng chống tội
cướp tài sản
a) Phương hướng
Xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ
thống chính trị, nâng cao trách nhiệm vai trò chủ động của các ngành, đoàn thể, tổ
chức xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu trang các
loại tội phạm.
Thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, nâng cao trách nhiệm, phát huy chức năng
của các cơ sở Đảng, các cơ quan Nhà nước. Xây dựng lực lượng công an nhân dân và
các cơ quan bảo vệ pháp luật khác thật sự trong sạch, vững mạnh để thực hiện tốt vai
trò là nòng cốt, là lực lượng xung kích trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật của người phạm tội cướp tài sản.
Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tuyên truyền, giáo
dục về ý thức chấp hành pháp luật. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quản lý và
giáo dục, tạo ra nhiều việc làm, giúp họ cải tạo tốt, tiến bộ để hoàn lương, tái hòa
nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội để họ không mặc cảm về bản thân, không bị
kỳ thị và xa lánh.
Tiếp tục phát động quần chúng xây dựng phong trào tham gia phòng ngừa, phát
hiện, tố giác và đấu tranh chống tội phạm cướp tài sản trong toàn xã hội.
b) Giải pháp hoàn thiện pháp luật và những hạn chế:
21
 Những bất cập từ các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành:
Hành vi thuộc mặt khách quan của một số tội phạm chưa được phân biệt rõ ràng,
ví dụ như hành vi đe dọa dùng vũ lực trong tội "Cướp tài sản" quy định tại Điều 168
BLHS với hành vi đe dọa dùng vũ lực của tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều
170 BLHS. Với cách quy định này nhiều trường hợp nhầm lẫn, khó phân biệt trong
việc định tội, giải quyết vụ án. Hoặc quy định về dấu hiệu “hành vi khác”, “thủ đoạn
khác” tại các Điều 168 (tội "Cướp tài sản"), Điều 170 (tội "Cưỡng đoạt tài sản") là
chưa rõ ràng dẫn đến thiếu thống nhất trong nhận thức và thực hiện pháp luật.
Trên thực tế, có những trường hợp người phạm tội chỉ có hành vi tát hay dùng
dép đánh vào người để chiếm đoạt tài sản đều bị coi là cướp tài sản. Những trường
hợp này nếu áp dụng tội "Cướp tài sản" đối với họ là quá nặng và hình phạt được
tuyên không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội. Vì thế theo tác giả chỉ nên coi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe người khác nhằm chiếm đoạt tài
sản mới cấu thành tội cướp. Còn hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhưng
không chứa đựng tính gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe người khác nhằm
chiếm đoạt tài sản thì cấu thành tội "Cưỡng đoạt tài sản". Có như vậy, việc phân biệt
hai tội danh này sẽ dễ hơn trong thực tiễn áp dụng. Đồng thời, về mặt ngôn ngữ diễn
đạt cần bỏ từ “dùng” thay bằng cụm từ “sử dụng” sẽ phù hợp hơn vì sử dụng là phát
huy chức năng, công dụng của vũ khí, phương tiện còn dùng có thể chỉ mới cầm vũ
khí đe dọa. Vì vậy, cụm từ “sử dụng” có ý nghĩa phù hợp hơn.
 Những hạn chế trong nghiệp vụ chuyên môn
Hiện nay, lực lượng cán bộ chuyên trách tại các cơ quan Công an, Tòa án, Viện
Kiểm Sát tại các tỉnh, thành phố trong cả nước còn thiếu về số lượng cũng như năng
lực về chuyên môn. Nghiệp vụ chuyên môn còn rất hạn chế vì chưa có điều kiện học
tập và nghiên cứu. Theo điều tra thì hiện nay một số lượng lớn Điều tra viên được bổ
nhiệm chức danh Điều tra viên nhưng chưa qua chương trình đào tạo Đại học và
chưa có bằng cử nhân luật. Bên cạnh đó phần đông đội ngũ cán bộ Tòa án, Viện
Kiểm sát chỉ được thông qua đào tạo theo hệ tại chức, chứ không phải chính quy. Do
đó, việc hạn chế trình độ chuyên môn là không tránh khỏi.
 Thiếu sót trong quá trình điều tra tội phạm
Công tác khám nghiệm hiện trường ngày nay còn nhiều tồn tại, bất cập, cần
tháo dỡ và khắc phục. Tỷ lệ giữa số vụ khám nghiệm so với vụ việc hình sự xảy ra
cần điều tra làm rõ còn rất thấp. Kỹ năng của Điều tra viên trong việc phát hiện, thu
thập dấu vết, vật chứng trong công tác khám nghiệm hiện trường còn rất yếu. Giai
22
đoạn điều tra cũng không kém phần quan trọng nhưng công tác kiểm sát khám
nghiệm hiện trường của Viện kiểm sát còn nhiều bất cập. Một số kiểm sát viên chưa
có điều kiện nghiên cứu để nắm vững kỹ năng khám nghiệm hiện trường. Công tác
phòng ngừa xã hội tuy được Công an phối hợp cùng các xã, thị trấn tiến hành đến cơ
sở, nhưng chưa ngăn chặn được số thanh thiếu niên không chịu học tập, lao động,
thường xuyên tụ tập băng nhóm ăn chơi lêu lõng và gây ra các vụ mâu thuẫn, đánh
nhau.
Nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là do tác phòng ngừa xã hội, phòng
ngừa nghiệp vụ ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mực, sự tham gia phối hợp của các
ngành còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật còn nhiều hạn chế. Cũng như công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, đối
tượng còn yếu, số đối tượng nghiện ma túy, đặc xá, tù tha về, thanh thiếu niên bỏ nhà
đi lang thang chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ. Mặc khác, công tác điều tra, xử lý
tội phạm còn chậm, các hình thức xử phạt còn nhẹ nên chưa có tác dụng răn đe, giáo
dục đối tượng. Đáng chú ý là nhiều người do thiếu hiểu biết về pháp luật mà bị kẻ
xấu lợi dụng, kích động nên có hành vi phạm tội, đến khi bị bắt và ra tòa mới thấy sai
trái, hối hận thì đã muộn.
 Ý thức phòng, chống tội phạm ở người dân chưa cao
Ví dụ: Liên quan đến vụ "Cướp tiệm vàng táo bạo giữa Sài Gòn" xảy ra vào
chiều 28/9 tại tiệm vàng và cầm đồ Kim Ngọc Thành, chiều 30/9 công an Q.Bình
Tân. Số tài sản bị cướp đi là 13 bộ vòng Simen, mỗi bộ có 7 vòng. Tổng giá trị tài
sản bị cướp, theo chủ tiệm vàng là ông Lê Văn Lưu vào khoảng hơn 120 triệu đồng.
Qua vụ án trên cho ta thấy các chủ tiệm vàng còn quá lơ là, không có tâm lý phòng bị
tội phạm, không có bảo vệ đứng canh nên dẫn đến nhiều vụ cướp gây thiệt hại về tài
sản và đặc biệt là tính mạng.
Còn đối với các bác tài taxi hoặc xe ôm thường là những con mồi mà bọn tội
phạm hay nhắm đến nhưng các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp chưa có trách
nhiệm và ý thức để bảo vệ tài sản và tính mạng của mình một cách triệt để. Và do
công tác quản lý nhân khẩu, tạm vắng, tạm trú, quản lý khách sạn, nhà nghỉ còn quá
lỏng lẻo có nhiều sơ hở, các chính sách pháp luật chưa hoàn chỉnh tạo nhiều khe hở
cho bọn tội phạm hoạt động.
c) Giải pháp khác
 Nghiệp vụ chuyên môn
Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ Tư pháp, thường xuyên đào tạo, tập
huấn cho cán bộ nhằm tạo nên một đội ngũ các nhà làm luật với năng lực và trình độ
23
đáp ứng đầy đủ và có hiệu quả.
Đưa ra các đề án nghiên cứu khoa học luật hình sự, thông qua đó dự tính được
tình hình tội phạm có thể xuất hiện trong thời gian tới để có các biện pháp phòng
ngừa có hiệu quả, tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho người dân thông qua
các buổi tọa đàm về pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu quy định của pháp luật, tiến
hành các phiên tòa lưu động nhằm nâng cao hiệu quả tính giáo dục, răn đe và phòng
ngừa tội phạm của pháp luật hình sự. Tăng cường công tác quản lý của các cơ quan
điều tra tội phạm, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi phạm tội, ngăn chặn và kịp
thời đẩy lùi các hành vi phạm tội đảm bảo tính đúng đắn của pháp luật.
 Quá trình điều tra
Nâng cao trách nhiệm phối hợp đồng bộ, đấu tranh và phòng ngừa để kéo giảm
triệt để tội cướp tài sản nó riêng và tội phạm nói chung. Quá trình điều tra, các điều
tra viên nên tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về công tác khám nghiệm hiện trường, chúng ta cần
phải: Phải nhanh chóng thành lập lượng khám nghiệm hiện trường chuyên trách tại
viện khoa học hình sự và tại Công an tỉnh, thành trng cả nước. Viện khoa học hình sự
cần thường xuyên mở các lớp tập huấn về công tác khám nghiệm hiện trường cho lực
lượng khám nghiệm hiện trường cấp tỉnh, thành phố.
 Nơi ở
Khi thuê người giúp việc nhà, cần nắm chắc lý lịch của người đó. Nếu người
giúp việc ở lại qua đêm phải thực hiện đăng ký lưu trú; đồng thời phải có ý thức tự
bảo vệ và giữ gìn tài sản.
Đề phòng những người giả danh là nhân viên tiếp thị, nhân viên điện lực, điện
thoại, cấp nước... lợi dụng vào nhà để trộm, cướp tài sản. Quán triệt đến tất cả thành
viên trong gia đình (nhất là các em nhỏ) không được mở cửa khi ở nhà một mình,
nghe tiếng động lạ vào ban đêm. Khi đi ngủ hoặc ra khỏi nhà phải kiểm tra và khóa
cửa cẩn thận. Không nên để tiền, vàng… tại nơi ở, nhà trọ. Đối với xe máy là tài sản
dễ bị trộm nhất, đề nghị mọi người khóa cẩn thận.
 Nhà nghỉ, khách sạn:
Nếu có khách hàng, bạn bè đến thăm, làm việc phải thông báo cho tiếp tân cơ
sở lưu trú biết để bố trí đón tiếp tại phòng khách; tuyệt đối không đón tiếp tại phòng
ngủ; nếu mang theo tài sản có giá trị nên làm thủ tục gửi cho tiếp tân của cơ sở lưu
trú hoặc bảo quản, giữ gìn cẩn thận.
Chú ý cảnh giác các đối tượng giả dạng là khách thuê phòng đến cơ sở lưu trú

24
thuê các phòng lân cận, lân la làm quen vào phòng ngủ của người có tài sản để trộm;
không nên quá thân thiện với khách cùng lưu trú tại khách sạn và mời vào phòng ngủ
của mình.
 Khu vực công cộng (như chợ, siêu thị, công viên, bệnh viện, bến
xe…)
Khi lưu thông trên đường nếu có mang dây chuyền vàng, lắc đeo tay thì phải
mặc áo dài tay và khăn choàng cổ… để phòng ngừa cướp, đặc biệt không nên đi và
sử dụng xe máy đắt tiền một mình vào đêm tối, nếu đi một mình thì có thể chạy theo
người đi đường khác xét thấy đáng tin cậy.
Phải cảnh giác các đối tượng lợi dụng trẻ em bán báo dạo, bán vé số, hàng
rong… chen lấn tạo sơ hở và chi phối cảnh giác, che tầm quan sát của người có tài
sản để đối tượng khác thực hiện hành vi cướp tài sản.
Từng người dân thực hiện tốt các biện pháp trên là đã góp phần phòng ngừa tội
phạm chung với toàn xã hội, từng bước đẩy lùi, không còn chốn cho tội phạm dung
thân.
 Tại phòng giao dịch, chi nhánh ngân hàng, siêu thị, cửa hàng tiện
ích.
Tập trung xây dựng, triển khai thực hiện chuyên đề, phương án, kế hoạch để
phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm cướp tài sản, nhất là cướp tài sản tại các phòng
giao dịch, chi nhánh ngân hàng, cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quý, cửa hàng tiện
ích…
Cục Cảnh sát hình sự phối hợp các cơ quan chức năng của Ngân hàng Nhà nước
và Công an địa phương tổ chức khảo sát công tác phòng ngừa tội phạm tại các phòng
giao dịch, chi nhánh ngân hàng để có kiến nghị giải pháp tăng cường phòng, chống tội
phạm cướp ngân hàng.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chú trọng thực hiện các biện pháp
phòng ngừa, tập trung đấu tranh với các băng, nhóm tội phạm, không để đối tượng
gây án. Tăng cường kiểm soát trên không gian mạng, kịp thời phát hiện và có biện
pháp nhằm phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng không gian mạng để thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Công an các đơn vị, địa phương thường xuyên cập nhật, thông báo, tuyên truyền
về phương thức, thủ đoạn của tội phạm cướp tài sản nói chung, tội phạm cướp tài sản
tại ngân hàng nói riêng, giúp người dân và các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nâng
cao được ý thức cảnh giác, góp phần phòng ngừa tội phạm.

25
Đồng thời làm tốt công tác tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm liên quan đến tội
phạm cướp tài sản. Khi xảy ra các vụ án cướp tài sản tại ngân hàng, lực lượng Cảnh
sát hình sự sẽ huy động lực lượng, tập trung triển khai các biện pháp công tác để xác
định, truy bắt nhanh đối tượng, xét xử nghiêm minh trước pháp luật nhằm trừng phạt,
răn đe các đối tượng
KẾT LUẬN
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Hầu như ngày nào cũng có tội cướp tài sản, đặc biệt là trong thời kỳ dịch
bệnh cách ly khó khăn, diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn ngày càng liều lĩnh
và tinh vi hơn, nhắm vào cả những cơ quan nhà nước, cơ quan công cộng có độ
bảo mật và an ninh rất cao chứ không chỉ riêng cướp giật bình thường. Đa số
những vụ cướp tài sản đều bị xử lý và nêu gương.
QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH
Trước khi có Bộ luật Hình sự, tội cướp giật tài sản đã được quy định trong
pháp luật hình sự của nhà nước 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Các qui định tội
cướp giật tài sản trong giai đoạn này có những ưu điểm nổi bật và đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tuy nhiên, cuộc sống phát triển đòi hỏi cần có những cải cách. Các cơ quan
lãnh đạo đã ban hành Bộ luật Hình sự 1985, 1999, các văn bản sửa đổi và bổ sung
khác và được đánh giá là hiệu quả hơn.
PHÂN BIỆT TỘI CƯỚP VỚI MỘT SỐ TỘI DANH XÂM PHẠM SỞ HỮU
KHÁC
Vẫn còn tồn đọng những nội dung trong luật pháp chưa được quy định rõ
ràng, dẫn đến tranh cãi hay tìm cách lách luật, ví dụ như những vấn đề sau cần
được cải tiến rõ ràng trong BLHS 1999:
- Khoản 1, Điều 136, cần phải cụ thể hóa qui định: thế nào là tội cướp giật tài
sản, không nên mô tả chung chung là: “người nào cướp giật tài sản của người
khác”.
- Đối với các tình tiết định khung “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả
rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” nên giải thích rõ.

26
THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Hiện nay tình trạng tội phạm cướp tài sản ở Việt Nam rất nhiều, hầu như ngày
nào trên VTV24 cũng có những phóng sự về tội cướp tài sản. Đặc biệt là có một
phóng sự dài tới 7:49 phút nói về việc cướp ngân hàng
https://www.youtube.com/watch?v=1f32wpOlJYI, trong đó chỉ ra rõ 4 vụ cướp
ngân hàng liên tiếp hiện nay cho thấy ngân hàng còn cướp được thì cướp tài sản.
GIẢI PHÁP
Giải pháp đấu tranh cướp tài sản là cần có chính sách hợp lý để hỗ trợ người
dân đầy đủ trong thời kỳ dịch bệnh khó khăn, cho người dân biết phải có việc thì
mới có ăn, đồng thời tuyên truyền người dân về pháp luật và xử lý công bằng nếu
có xảy ra trộm cướp, không bao che và tham nhũng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 Báo:
- Tập trung phòng ngừa, đấu tranh tội phạm cướp tài sản tại ngân
hàng, siêu thị, Điện tử Chính phủ, truy cập tại
https://baochinhphu.vn/tap-trung-phong-ngua-dau-tranh-toi-pham-
cuop-tai-san-tai-ngan-hang-sieu-thi-102220406112307065.htm,
truy cập ngày 20/5/2022.
- Nguyễn Hiền, Bộ Công an phát hiện 306 vụ phạm tội về tham
nhũng và chức vụ trong 10 tháng, Điện tử đài tiếng nói Việt Nam
(VOV), truy cập tại https://vov.vn/phap-luat/bo-cong-an-phat-hien-
306-vu-pham-toi-ve-tham-nhung-va-chuc-vu-trong-10-thang-
908381.vov, ngày truy cập 20/5/2022.
 Tạp chí:

27
- Lê Đình Nghĩa và Dương Thị Cẩm Nhung, Điện tử Luật sư Việt
Nam, Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt, năm 2021.
 Văn bản pháp luật:
- Bản án 11/2020/HS-ST ngày 11/03/2020 về tội cướp tài sản, Thư
viện pháp luật.
- Bản án 139/2020/HS-PT ngày 05/03/2020 về tội cướp tài sản, Thư
viện pháp luật.
 Luận văn:
- Phạm Kiều Diễm (2013). Luận văn về tội cướp tài sản trong luật
hình sự Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại
học Cần Thơ.
- Trần Hữu Nghĩa (2014). Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học quốc gia Hà
Nội.
 Trang thông tin điện tử:
- Đào Thị Hồng Hà, Vướng mắc trong việc xác định tội danh về
hành vi “Cướp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản”, truy cập tại
https://vkstuyenquang.gov.vn/pHome/news/Nghien-cuu-Trao-
doi/Vuong-mac-trong-viec-xac-dinh-toi-danh-ve-hanh-vi-
Cuop-tai-san-va-Cuong-doat-tai-san-762/, ngày truy cập
20/5/2022.
- Anh Minh, Hình phạt nghiêm khắc cho hành vi cướp tài sản, cướp
giật tài sản của công dân, truy cập tại
http://pbgdpl.vinhphuc.gov.vn/ContentDetail/NewsDetailView
?NewsId=13b4507a-a476-49ca-a84f-dcd99885f6e8, ngày truy
cập 20/5/2022.
- Lê Minh Trường, Tội cướp tài sản và phân biệt cướp giật cưỡng
đoạt, truy cập tại https://luatminhkhue.vn/toi-cuop-tai-
san.aspx#:~:text=%C4%90i%E1%BB%81u%20168%20lu%E

28
1%BA%ADt%20h%C3%ACnh%20s%E1%BB%B1,03%20n
%C4%83m%20%C4%91%E1%BA%BFn%2010%20n%C4%
83m. Ngày truy cập 19/5/2022.
- Nguyễn Văn Phi, Tội cướp tài sản theo quy định Bộ luật hình sự
2022, truy cập tại https://luathoangphi.vn/the-nao-la-toi-cuop-
tai-san-theo-bo-luat-hinh-su-2015/. Ngày truy cập 19/5/2022.
- Lê Minh Trường, Luạt hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017, truy cập
tại https://luatminhkhue.vn/bo-luat-hinh-su-moi-nhat---.aspx.
Ngày truy cập 19/5/2022.

29

You might also like