You are on page 1of 47

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY
DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

LỚP L07--- NHÓM 06--- HK221


NGÀY NỘP: 1/11/2022

Giảng viên hướng dẫn: ThS. ĐOÀN VĂN RE

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Nguyễn Thành Đạt 2012937
Phan Văn Đoàn 2012977
Nguyễn Văn Đức 1913166
Trần Thị Cẩm Giang 2013033
Nguyễn Hữu Hà 2013040

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Lớp: L07 - Tên nhóm: 06 - HK221 - Năm học 2022-2023
Đề tài:
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

% Điểm Điểm
STT Mã số SV Họ Tên Ký tên
Nhiệm vụ được phân công BTL BTL
1 2012937 Nguyễn Thành Đạt Phần 2.2.2 20%
2 2012977 Phan Văn Đoàn Phần mở đầu và kết luận 20%
3 1913166 Nguyễn Văn Đức Phần 2.3 20%
4 2013033 Trần Thị Cẩm Giang Phần 2.2.1 20%
5 2013040 Nguyễn Hữu Hà Chương 1 và phần 2.1 20%

Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Hữu Hà, Số ĐT: 0396305079, Email: ha.nguyen1004@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV: .......................................................................................................................................................................

GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG


(Ký và ghi rõ họ, tên)
MỤC LỤ

3
C

I. MỞ ĐẦU...................................................................................................................3

1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................3

2. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................4

3. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................4

4. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................4

5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................5

6. Kết cấu của đề tài................................................................................................5

II. NỘI DUNG.............................................................................................................. 6

Chương 1. NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.......................................................6

1.1. Khái niệm và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.....................................6

1.1.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa...........................................................6

1.1.2. Sự ra đời và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa.................................6

1.2. Bản chất và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.....................................7

1.2.1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.......................................................7

1.2.2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa...................................................8

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY.............11

2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...........................................11

2.1.1. Khái niệm, tính tất yếu ra đời nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam....................................................................................................................... 11

2.1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...................11

2.1.1.2. Tính tất yếu ra đời nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam......11

2.1.2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam................12

1
2.2. Thực trạng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời gian qua.............................................................................................13

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân.........................................................13

2.2.1.1. Những mặt đạt được................................................................................13

2.2.1.2. Nguyên nhân.............................................................................................19

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân...................................................................24

2.2.2.1. Những mặt hạn chế..................................................................................24

2.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế...............................................................................32

2.3. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời gian tới...............................................................................................36

2.3.1. Giải pháp phát huy những mặt đạt được.....................................................36

2.3.2. Biện pháp khắc phục những hạn chế...........................................................39

2.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tổng thể chiến lược xây dựng, hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam đến năm 2030, định hướng
đến năm 2045........................................................................................................39

2.3.2.2. Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước.....................................39

2.3.2.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương....................40

III. KẾT LUẬN..........................................................................................................42

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................43

2
I. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực
lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị
(kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ
hoạt động của xã hội trong một quốc gia. Nhưng đôi khi lại có sự nhẫm lẫn, hoặc sự
không hiểu biết một cách nhất định nào đó khiến sự phát triển của nhà nước thay đổi
thất thường, không cố định. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư
tưởng phát triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm
của các nhà tư tưởng của thời cổ đại. C.Mác và Ph.Ăngghen, đứng trên lập trường duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, là những người đầu tiên đề xướng học thuyết khoa
học về nhà nước. Học thuyết này sau này được V.I.Lênin phát triển ngày càng hoàn bị
hơn. Học thuyết Mác - Lênin đã tìm ra đúng nguồn gốc vật chất của nhà nước và bản
chất giai cấp của nhà nước. Học thuyết về nhà nước của hai ông đã thể hiện lợi ích của
giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ
đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền. Sự ra đời
của mô hình nhà nước này từ nhận thức lý luận đến thực tiễn đã có những tác động
tích cực, to lớn không thể phủ nhận với đời sống con người. Nhiều quốc gia tùy theo
hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã kế thừa, vận dụng để xây dựng mô hình nhà nước pháp
quyền ở những mức độ khác nhau. Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào thực tiễn là cơ sở pháp lý cũng là văn bản pháp luật quan trong nhất
để xây dựng đất nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế
hoá đường lối của Đảng đề ra để có thể hoàn thiện, phát triển đất nước một cách đúng
đắn và tốt đẹp. Do vậy, thấy rõ sự cần thiết, nội dung và những vấn đề có tính nguyên
tắc là những bảo đảm quan trọng để chúng ta thực sự xây dựng và ngày càng hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam những năm qua
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như nâng cao chất lượng của cán bộ, viên
chức, cải cách thủ tục hành chính, bộ máy hành chính nhà nước…, đem lại nhiều thay

3
đổi tích cực đến đời sống và xã hội của đất nước, góp phần bảo đảm tạo thuận lợi cho
nhân dân, doanh nghiệp và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham
nhũng lãng phí và hướng tới xây dựng một nền phát luật hoàn thiện. Không những cán
bộ nhà nước, mà còn có những cá nhân đã đóng góp, hy sinh bản thân cho đất nước,
những thiên tài đã góp phần thay đổi, cải tiến đất nước Việt Nam để có thể giúp quê
hương mình phát triển một cách tiệm cân với các cường quốc Nam Châu. Tuy nhiên
việc xây dựng, cải cách hành chính nói chung còn chậm, thủ tục hành chính còn rườm
rà rắc rối, mang nặng tính hình thức trong đó, còn bị động, chưa tạo ra tác động đủ lớn
đến các cơ quan, tổ chức, người dân. Bên canh đó, những luật pháp, an ninh còn mỏng,
chưa được áp dụng một cách nghiêm khắc. Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và vô
cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung cũng như đổi
mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng, là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị nước ta giai đoạn sắp tới.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chọn đề tài: “Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Thực trạng và giải pháp xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.

2. Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, thực trạng và giải pháp xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước xã hội chủ
nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chũ nghĩa Việt Nam.

4
Thứ hai, đánh giá thực trạng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua.

Thứ ba, đề xuất giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó chủ yếu nhất là các phương pháp: phương pháp thu thập số liệu; phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử - logic;…

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:

Chương 1: Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

5
II. NỘI DUNG

Chương 1. NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Khái niệm và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa

1.1.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa

“Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ
mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm
chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã
hội chủ nghĩa.”1.

1.1.2. Sự ra đời và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Với khát vọng về một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng và bác ái cùng với
nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự áp bức, bất công và chuyên
chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và những giá trị của con người
được tôn trọng, bảo vệ và có điều kiện để phát triển tự do toàn bộ năng lực của mình,
nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và
nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Tuy nhiên, phải đến khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất với tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất mới bộc lộ rõ, dẫn đến khủng hoảng kinh tế và mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng sâu sắc hơn làm xuất hiện các phong trào
đấu tranh của giai cấp vô sản, và các Đảng Cộng sản được thành lập để lãnh đạo phong
trào đấu tranh cách mạng đồng thời trở thành nhân tố quyết định đến thắng lợi của
cách mạng. Cùng với đó, chủ nghĩa Mác – Lênin đóng vai trò là vũ khí lý luận của giai
cấp vô sản với tư cách cơ sở lý luận để tổ chức, tiến hành cách mạng và xây dựng nhà
nước của giai cấp mình sau chiến thắng.

Đồng thời, yếu tố dân tộc và thời đại cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào
cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước. Dưới tác động của

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, tr.143.

6
nhiều yếu tố khác nhau, cộng với mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vô sản với nhân dân
lao động và các giai cấp bóc lột, cách mạng vô sản có thể diễn ra ở các nước tư bản
phát triển cao hoặc các nước thuộc địa.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một kết quả quả của cách mạng do giai cấp
vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng
cách mạng của mỗi nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, cho nên sự ra
đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau khi cách
mạng thành công cũng có những đặc điểm riêng. Mỗi nước sẽ chọn cho mình những
phương pháp và hình thức phù hợp. Nhưng dù ra đời trong điều kiện và hoàn cảnh nào
thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn có những điểm chung là tổ chức thực hiện quyền lực
của nhân dân, là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản
lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

1.2. Bản chất và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

1.2.1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa

So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu
nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch
sử. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xét trên các phương diện sau:

Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân,
giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động. Giai
cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai
cấp vô sản khác với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị của các
giai cấp bóc lột là sự thống trụ của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân
dân lao động trong xã hội nhằm bảo vệ, duy trì địa vị quyền lực của mình. Còn sự
thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số với thiểu số giai cấp
bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và tất cả các tầng lớp nhân dân lao động trong
xã hội. Vì vậy, nhà nước xã hội cũng nghĩa đại diện cho ý chí chung của nhân dân lao
động.

Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ

7
yếu. Như vậy, quan hệ sản xuất và bóc lột không còn nữa. Nếu tất cả các nhà nước bóc
lột khác trong lịch sử đều là nhà nước, tức là hệ thống bóc lột thiểu số để áp bức, bóc
lột đa số nhân dân lao động, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là hệ thống quản lý
chính trị, vừa là hệ thống cưỡng chế, quản lý kinh tế và xã hội. tổ chức của những
người lao động, không còn là nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là “nửa nhà
nước”.Quan tâm đến lợi ích của nhân dân lao động đã trở thành mục tiêu hàng đầu của
một nước xã hội chủ nghĩa.

Về văn hóa - xã hội, một nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh
thần là lý luận Mác - Lê-nin và các giá trị văn hóa tiến bộ, tiến bộ của con người, đồng
thời mang bản sắc dân tộc sơ khai. Ranh giới giữa các tầng lớp ngày càng thu hẹp dần,
các tầng lớp và các tầng lớp đều bình đẳng về khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ
hội phát triển.

1.2.2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia
thành các chức năng khác nhau :

Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.

Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...

Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được chia
thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng).

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn còn chức năng trấn áp, nhưng đó là
bộ máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc
lột đã bị lật đổ và những phần tử chống đối để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững
an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. V.I.Lênin
khẳng định: “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn
bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi
bóc lột”2. Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, “Cơ

2
V.I.Lenin. (2005). Toàn tập, tập 43. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.380.

8
quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã
là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”.

V.I. Lênin cho rằng, giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền, xác lập địa
vị thống trị cho đại đa số nhân dân lao động, thì vấn đề quan trọng không chỉ là trấn áp
lại sự phản kháng của giai cấp bóc lột, mà điều quan trọng hơn cả là chính quyền mới
tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ, nhờ đó mang lại cuộc sống tốt
đẹp hơn cho đại đa số các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động. Vì vậy, vấn đề quản
lý và xây dựng kinh tế là then chốt, quyết định. Nhà nước xã hội chủ nghĩa “
Không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực.
Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của
nó chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động
cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức
mạnh, là điều kiện bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng
sản”3.

Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục
đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại, nhưng đồng
thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước xã hội chủ
nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử
chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một tổ chức có đủ năng lực để
quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó việc tổ chức quản lý kinh tế là
quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.

Tóm tắt chương 1

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa mà sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân
dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự ra đời của các nhà
nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau khi cách mạng thành
công cũng có đặc điểm, đặc thù riêng ở mỗi nước.

3
V.I.Lenin. (2005). Toàn tập, tập 39. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.16.

9
Bản chất của nhà nước xét trên nhiều phương diện như chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội còn chức năng của nhà nước được căn cứ vào phạm vi, lĩnh vực tác động và tính
chất chia thành các chức năng khác nhau. Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các chức năng khác nhau. Căn cứ vào phạm vi
tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại. Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, nhà
nước xã hội chủ nghĩa có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội. Về tính giai cấp
nó là sản phẩm của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nông dân tiến hành. Về
tính xã hội, là tổ chức của quyền lực chung của xã hội, có sứ mệnh tổ chức và quản lý
các mặt của đời sống, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nó đòi hỏi nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và
những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một tổ chức có đủ
năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó việc tổ chức quản lý
kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.

10
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HIỆN NAY

2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.1.1. Khái niệm, tính tất yếu ra đời nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam

2.1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hiểu là một kiểu nhà
nước mà ở đó, tất cả công dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp luật,
tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục
tiêu phục vụ nhân dân.

2.1.1.2. Tính tất yếu ra đời nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất
yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945
và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay đang được tiếp tục đẩy
mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất
phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Và để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như
vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế
toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách

11
hành chính nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững
mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc
tế.

2.1.2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, có thể thấy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có một số đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.

Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng
để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế
phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà
nước được giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá nhân được nhân dân ủy nhiệm.

Thứ năm, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền con
người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của
nhân dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có quyền bầu và bãi miễn
những đại biểu không xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh
của pháp luật.

Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo đảm
quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.

12
2.2. Thực trạng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời gian qua

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân


2.2.1.1. Những mặt đạt được
Sau hơn 20 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: 

Về cải cách thể chế

Đã tham mưu tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
công tác xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp, phổ biến, giáo dục pháp luật, cải cách
hành chính và hợp tác quốc tế về pháp luật. “Rà soát, hệ thống hóa gần 9.000 văn bản,
trong đó có hơn 5.000 văn bản thuộc 10 chuyên đề, lĩnh vực liên quan trực tiếp đến
hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh” 4. kịp thời phát hiện, báo cáo Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ phương án xử lý các quy định mâu thuẫn, chồng
chéo, không phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn, kìm hãm sự phát triển.(1)

Ngoài ra, hoàn thành việc xử lý nhiều văn bản trái pháp luật, nhận được sự đồng
tình, ủng hộ của xã hội, người dân; thực hiện ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất
hơn đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt với việc ứng dụng công
nghệ thông tin gắn với định hướng chuyển đổi số đã làm cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật phát huy hiệu quả cả trong thời điểm phải thực hiện giãn cách xã hội để
phòng, chống dịch Covid-19.

Những kết quả công tác cải cách thể chế đã kịp thời cụ thể hóa chủ trương, chính
sách của Đảng, Chính phủ, đóng góp trực tiếp quan trọng vào việc hoàn thành Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, góp phần thực hiện
hiệu quả kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của từng bộ,
ngành, địa phương, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp, thu hút đầu tư.

Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam


4
Phương Minh (24/06/2021). Công tác cải cách thể chế đạt được nhiều kết quả quan trọng. Truy cập từ
https://www.qdnd.vn

13
“Theo thống kê, trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành 112 văn bản (71 luật, 2 pháp lệnh, 22 nghị quyết
của Quốc hội, 17 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội), giảm 8 văn bản so với
giai đoạn 2011 – 2015. Đồng thời, Chính phủ ban hành 745 nghị định, tăng 24 nghị
định so với giai đoạn 2011 - 2015 (721 văn bản), Thủ tướng Chính phủ ban hành 232
quyết định, giảm 129 quyết định so với giai đoạn 2011 - 2015 (361 văn bản).

Các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành 2.422 thông tư, 110 thông tư liên tịch, giảm
201 văn bản so với giai đoạn 2011 - 2015 (2.733 văn bản). Ở địa phương ban hành
tổng số 92.799 văn bản gồm: 16.341 văn bản cấp tỉnh, tăng 2.552 văn bản so với giai
đoạn 2011 - 2015 (13.789 văn bản), 12.427 văn bản cấp huyện, giảm 18.320 văn bản
so với giai đoạn 2011 - 2015 (30.747 văn bản), 64.031 văn bản cấp xã giảm 131.083
văn bản so với giai đoạn 2011-2015 (195.114 văn bản)”5.

Về cải cách thủ tục hành chính

“Đến nay toàn quốc đã cắt giảm, đơn giản hóa hơn 1 nghìn thủ tục hành chính,
gần 3.900 điều kiện kinh doanh; 6.700 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên
ngành; tổng chi phí xã hội tiết kiệm được 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn
6.300 tỷ đồng/năm. Các bộ, ngành đã có phương án xử lý 1.501 mặt hàng có chồng
chéo về thẩm quyền, tạo sự chuyển biến rõ nét trong giải quyết thủ tục hành chính cho
người dân, doanh nghiệp”6.

Cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, Trung tâm phục vụ hành chính công,
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tập trung cấp tỉnh, cấp huyện đã được triển khai ở các
địa phương với nhiều đổi mới về phương thức hoạt động, tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin, tạo sự chuyển biến rõ nét trong giải quyết thủ tục hành chính cho người
dân, doanh nghiệp. Các nội dung gắn kết đồng bộ giữa cải cách thủ tục hành chính và
xây dựng Chính phủ điện tử cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, doanh
nghiệp tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước.

5
Nguyễn Hoàng (21/11/2020). Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng. Truy
cập từ https://baochinhphu.vn
6
Văn Minh (15/05/2021). Kết quả nổi bật sau 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước. Truy cập từ https://kontum.gov.vn

14
Việc triển khai tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua
dịch vụ bưu chính công ích theo Quyết định số 45/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 của
Thủ tướng Chính phủ đạt được những kết quả tích cực. “Năm 2019, cả nước có
14.505.494 lượt hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính thực hiện qua dịch vụ bưu
chính công ích, trong đó dịch vụ tiếp nhận hồ sơ là 2.175.824 lượt, dịch vụ trả kết quả
là 12.329.670 lượt, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân, tổ chức, tạo tiền đề
thúc đẩy triển khai cung ứng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4”7.

Về việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước

Xác định rõ hơn vị trí, vai trò và chức năng của Nhà nước. Nhà nước pháp quyền
là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ quan xét xử, hoạt động
của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhận thức rõ
những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò của Nhà nước là trụ cột, trung
tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức năng của Nhà nước theo hướng phục vụ
nhân dân.

Theo đó, một mặt, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy tối đa vai trò trung tâm của Nhà
nước trong quản lý kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của các
bộ phận quyền lực nhà nước - từ lập pháp, hành pháp, tư pháp, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế. Nhà nước từ chỗ là người trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh,
phân phối, sang là người có vai trò định hướng, điều tiết, phối hợp, hướng dẫn một
cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường. Nhà nước đang trở thành người bảo trợ, xúc
tác, tạo lập môi trường, huy động các nguồn lực và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh tế, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực và khuyết tật của kinh tế thị trường,
bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

“Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là một trong những nội dung
trọng tâm của cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, được thực hiện phù hợp với

7
Văn Minh (15/05/2021). Kết quả nổi bật sau 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước. Truy cập từ https://kontum.gov.vn

15
chủ trương của Đảng, Quốc hội. Kết quả đạt được thể hiện qua một số nội dung sau:
Tổ chức bộ máy của Chính phủ được giữ ổn định (18 Bộ, 04 cơ quan ngang Bộ và 08
cơ quan thuộc Chính phủ), trong đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ được tổ chức quản lý
theo mô hình Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực bảo đảm bao quát đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ; Cơ cấu tổ chức bên trong của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được kiện toàn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
phạm vi, đối tượng quản lý, tính chất hoạt động và tiếp tục được đổi mới, sắp xếp theo
hướng tinh gọn”8.

Đẩy mạnh trao quyền cho chính quyền địa phương quyết định sắp xếp tổ chức
các cơ quan chuyên môn thuộc cấp mình quản lý, bảo đảm phù hợp với quy định của
Chính phủ theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước địa phương; Biên
chế công chức, số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập được quản lý
chặt chẽ và thực hiện tinh giản biên chế, bảo đảm thực hiện đúng quy định của Đảng,
pháp luật.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng
cao chất lượng và được tuyển dụng, quản lý, sử dụng theo vị trí việc làm; Chính sách
tiền lương trong khu vực công từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao đời sống
của người hưởng lương;

Các nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -
2020 đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính hiện đại, dân
chủ, phục vụ nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển một xã hội bền vững, hài hòa.

Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước.

8
Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ (14/06/2021). Báo cáo chuyên đề của Bộ Nội vụ tổng kết
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách hành
chính của Chính phủ. Truy câp từ http://caicachhanhchinh.gov.vn

16
Công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt được nhiều
kết quả. Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan liêu, tham nhũng là một nguy cơ
hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu được
đặt ra. Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt những
kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá: trong
nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng. Những biểu
hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã giảm khá nhiều
và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng, quan liêu, lãng phí,
trong đó có không ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm, đã được tiếp tục giải quyết…

“Theo báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tổng kết công tác
phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 2020, đã xử lý kỷ luật 131.000 đảng viên,
trong đó có nhiều trường hợp liên quan đến tham nhũng. Khởi tố, điều tra truy tố xem
xét hơn 1.900 vụ án tham nhũng với 4.400 bị cáo trong đó có 18 cán bộ diện Trung
ương quản lý bị xử lý hình sự, trong đó có: 1 Ủy viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên, nguyên
Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan cấp tướng
thuộc lực lượng vũ trang.

Các cơ quan có thẩm quyền đã kiến nghị thu hồi 700.000 tỉ đồng, 20.000 ha đất,
kiến nghị xử lý trách nhiệm 14.000 tập thể và cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý
700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt 32,04%.

Từ năm 2016 đến năm 2020, đã kỷ luật 87.000 đảng viên trong đó có hơn 3.200
trường hợp liên quan tới tham nhũng” 9.

Về đội ngũ cán bộ, công chức

“Tính đến năm 2021, số lượng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức
hành chính nhà nước là 247.344 biên chế (trong đó khối bộ, ngành là 106.836 biên
chế; địa phương là 140.508 biên chế), giảm được 27.504 biên chế, tương ứng giảm
10,01% so với năm 2015, đạt mục tiêu giảm tối thiểu 10% theo yêu cầu của Nghị quyết
số 39-NQ/TW.

9
Lê Xuân Lịch Nguyên Phó Vụ trưởng, Ban Tổ chức Trung ương (18/7/2022) Tham nhũng và những giải pháp
phòng, chống tham nhũng. Truy cập tại : https://www.xaydungdang.org.vn

17
Theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, tính đến tháng 3/2020, tổng số
lượt công chức được đào tạo, bồi dưỡng trong cả giai đoạn 2016-2020 tại các bộ,
ngành là 594.654 lượt người và tại các tỉnh, thành phố, số lượng là hơn 1.151.654
triệu lượt công chức. Tổng số viên chức tại các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh,
thành phố được đào tạo, bồi dưỡng cũng tăng đều qua các năm. Năm 2019 có số
lượng viên chức được đào tạo, bồi dưỡng tăng gấp 2,7 lần so với năm 2016, từ hơn
419.000 lên hơn 1,1 triệu lượt viên chức” 10.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta có lập trường tư
tưởng chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức
rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, năng động, sáng tạo, thích
ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số
cán bộ lãnh đạo Đảng và hệ thống chính trị các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín,
nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có năng lực hoạch định đường lối,
chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Vai trò của nhà nước trong công cuộc chống dịch COVID-19

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực, quyết tâm cao và
phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, đặc biệt là các lực lượng
tuyến đầu chống dịch như y tế, quân đội, công an, các lực lượng cơ sở và sự đoàn kết,
đồng tình ủng hộ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh
nghiệp, công tác phòng, chống dịch ngày càng chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn,
nhất là sau khi nâng cấp, kiện toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-
19 và kịp thời điều động một lực lượng lớn chưa từng có, trong một thời gian rất ngắn
với khoảng hơn 300 nghìn lượt cán bộ, chiến sỹ các lực lượng y tế, quân đội, công an
từ Trung ương và các địa phương khác hỗ trợ cho các địa phương thực hiện giãn cách
và tăng cường giãn cách xã hội.

Đẩy mạnh ngoại giao vaccine, thành lập Quỹ vaccine phòng chống COVID-19,
tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine

10
Phan Thị Tuyết Minh (10-06-2022). Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng
lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước. Truy cập từ https://snv.bacgiang.gov.vn

18
trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ trước tới nay với tinh thần
“vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất”.

2.2.1.2. Nguyên nhân

Về cải cách thể chế

Nhà nước đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước
hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng
trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện thể
chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài của các hình thức
sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi
đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền
sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất;

Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định
rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong
môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.

Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, công tác xây dựng và thi hành pháp
luật, đặc biệt là những luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, được
các cơ quan từ trung ương đến địa phương quan tâm, chỉ đạo sát sao. Những quy định
và tinh thần của Hiến pháp được chú trọng trong quá trình hoạch định chính sách và
xây dựng pháp luật

Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả
Trung ương và địa phương, từng bước nâng cao tính công khai, minh bạch trong xây
dựng chính sách, pháp luật; vai trò tham gia của xã hội vào quy trình xây dựng chính
sách, pháp luật của Nhà nước được quy định cụ thể; pháp luật về hợp nhất, pháp điển

19
văn bản quy phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho hệ thống pháp luật đơn giản, rõ
ràng, dễ tra cứu, tiếp cận, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.

Về cải cách thủ tục hành chính

Cải cách thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước với nhau và cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức trong xã hội theo hướng
đơn giản, gọn nhẹ và công khai, minh bạch. Nhà nước đã thực hiện những cải cách thủ
tục hành chính giai đoạn 2011-2020 bao gồm:

Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực
quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp

Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành,
các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;

Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của
pháp luật;

Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức thiết thực
và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi
giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước; duy trì và cập nhật cơ
sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính

Cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân
dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập
trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh
các thủ tục hành chính hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính
để nhân dân giám sát việc thực hiện;

Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành
chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát việc
thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp

Về việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước

20
Trong lĩnh vực kinh tế, đã phân định rõ nhiệm vụ quản lý, định hướng của Nhà
nước với vai trò sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà
nước không can thiệp mà tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
theo cơ chế thị trường, đồng thời kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật
trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã
hội.

Trong lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường,
với việc phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm của sự phát triển, Nhà
nước đã xây dựng và thực hiện chính sách về các lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu
phát triển kinh tế. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã
hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.

Trong lĩnh vực đối ngoại, nước ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước trên thế giới. Đồng thời, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi, cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
bảo đảm ổn định và phát triển.

Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban
nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và
địa để trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại
các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính
nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ
chức phi chính phủ đảm nhận;

Đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện
thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tập
trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban

21
nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của
cơ quan hành chính nhà nước. Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công

Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước.

Thực hiện đường lối, chủ trương về phòng, chống tham nhũng trong các văn kiện
Đại hội XI, XII và XIII của Đảng, trong những năm qua, công tác này đã đạt được
những thành quả to lớn như ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về phòng,
chống tham nhũng, như: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2012, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018… Những văn bản
quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc phòng, chống tham
nhũng và góp phần rất to lớn vào công cuộc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay.

Để phòng, chống tham nhũng, Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và
các cơ quan nhà nước khác đã thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Thực
hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Đổi mới
khoa học công nghệ quản lý và phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm
phòng ngừa tham nhũng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đấu tranh phòng,
chống tham nhũng với nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Phòng,
chống tham nhũng Trung ương, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,
cùng với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, đưa ra xét xử
nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng
hộ, đánh giá cao.

Về đội ngũ cán bộ, công chức

22
Trong giai đoạn 2011-2020, chính sách, pháp luật về quản lý cán bộ, công chức,
viên chức tiếp tục được hoàn thiện theo hướng liên thông, đồng bộ trên tất cả các khâu
từ tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch, thăng hạng.
Trong đó, trọng tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015
của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức; Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa XII
về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06/6/2018 thực hiện Nghị
quyết số 26-NQ/TW; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 24/10/2018
về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Trên
cơ sở đó, Bộ Nội vụ và các bộ quản lý công chức, viên chức chuyên ngành đã ban
hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản pháp luật về quản lý, phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Qua đó, đảm bảo cho chính sách, pháp luật
về quản lý cán bộ , công chức, viên chức phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn. (6)

Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ
của cán bộ,công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, xây dựng
cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm. Hoàn thiện quy
định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực
hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có chế tài
nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ
của cán bộ, công chức, viên chức.

Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong
thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ
năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm.

Vai trò của nhà nước trong công cuộc chống dịch COVID-19

23
Ba làn sóng dịch bệnh Covid-19 đã diễn ra tại Việt Nam từ đầu năm 2020 đến
nay đã được Đảng và Nhà nước, Chính phủ cùng các cấp các ngành, các địa phương
hành động kịp thời và kiểm soát tình hình các vùng dịch tốt nhằm giảm thiểu tối đa sự
lây lan nhanh chóng của biến thể mới đang đe dọa đến tính mạng cộng đồng. Sự thành
công trong kiểm soát tình hình dịch Covid-19 là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Cộng sản Việt Nam “chống dịch như chống giặc”, nhờ sự điều hành kịp thời của
Chính phủ theo Chỉ thị số 15 và 16 về giãn cách, cách ly xã hội cũng như kết hợp với
sức mạnh đoàn kết, đồng lòng của toàn dân, các bộ, ban, ngành từ Trung ương và địa
phương, đó là sức mạnh to lớn của thể chế chính trị ở nước ta.

Trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh, chính phủ tập trung chỉ đạo, tháo
gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý, huy động mọi nguồn lực, khuyến khích xã hội
hoá, phát triển "Quỹ vắc-xin" phòng, chống Covid-19, xem xét cho phép tổ chức, cá
nhân đủ điều kiện theo quy định của Nhà nước tham gia vào lĩnh vực mua, cung cấp
vắc-xin ngừa Covid-19 để đẩy nhanh việc mua và tổ chức tốt việc tiêm vắc-xin cho
người dân.

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.2.2.1. Những mặt hạn chế

Về cải cách thể chế

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân còn chậm trễ và thiếu sót.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt
động của nhà nước, còn tình trạng hờ hững và bao biện nên chưa phát huy tốt vai trò
lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước.. Quan hệ trong nội bộ
Đảng, quan hệ giữa Đảng và nhân dân còn nhiều mặt chưa được củng cố vững chắc,
hiện tượng quan liêu, xa dân còn phổ biến, hiện tượng mất đoàn kết trong cấp uỷ đảng
ở một số nơi chưa được khắc phục triệt để.

Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam

24
Hệ thống pháp luật còn có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống
nhất, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội mà thực tiễn đòi
hỏi. “Một trong những hạn chế, bất cập lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật là
tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản luật và các văn bản dưới
luật. Thực trạng này dẫn đến nhiều khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của người
dân, doanh nghiệp và thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước. Trên bình diện
chung, còn tồn tại sự chồng chéo, xung đột giữa các đạo luật với nhau, giữa luật
chung và luật chuyên ngành, giữa văn bản hướng dẫn luật này và văn bản hướng dẫn
luật khác, dẫn đến tình trạng “làm theo luật này thì đúng, luật khác thì sai”. Tình
trạng còn nhiều văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí triệt tiêu lẫn
nhau. Nhưng hiện tượng đó vẫn diễn ra, thậm chí còn khá phổ biến hiện nay…11”

“Điển hình nhất là sự chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy
phạm pháp luật trong các lĩnh vực: Đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch; nhà ở, kinh
doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm… Trong báo cáo của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đề cập đến 20 điểm xung đột,
chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu, tiêu
biểu như giữa các văn bản luật: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh
doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Đấu thầu; Luật Nhà ở; v.v.”12

Sự cồng kềnh, bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo làm giảm tính minh bạch của
pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng, hiệu lực và
hiệu quả điều chỉnh thấp. Đồng thời, các xung đột, chồng chéo này cũng là những cản
trở đối với việc thực hiện pháp luật, làm giảm niềm tin vào pháp luật, tạo cơ hội phát
sinh các hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng nhất là trong thực hiện các
công trình, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Xây dựng pháp luật là hoạt động rất phức tạp, chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan. Năng lực, trình độ, tầm nhìn của đội ngũ cán bộ, công chức
về xây dựng pháp luật còn nhiều hạn chế và là một trong những nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng bất cập trong xây dựng pháp luật. Việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu

11
Nguyễn Bá Chiến (4/2006), Pháp luật triệt tiêu pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 74
12
VCCI báo cáo nhanh về 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật, truy cập từ
https://bnews.vn/vcci-bao-caonhanh-ve-20-diem-xung-dot-chong-cheo-lon-cua-phap-luat-/130330.html

25
về xây dựng, phân tích chính sách, soạn thảo văn bản pháp luật chưa được thực hiện
thường xuyên, bài bản, chế độ trách nhiệm cùng các chế tài xử lý vi phạm trong xây
dựng pháp luật cũng mới chỉ dừng ở nguyên tắc chung.  

Về cải cách thủ tục hành chính

Thủ tục hành chính có đầu tư nhưng thiếu đồng bộ, không tương xứng trong
nhiều lĩnh vực liên quan đến sự phát triển lâu dài của đất nước như giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ thường chạy theo hình thức, ít chú trọng đến chất lượng. Tong 6
tháng đầu năm, toàn tỉnh tiếp nhận 267.195 hồ sơ; trong đó, có 257.059 hồ sơ giải
quyết đúng hạn, tỷ lệ 96,21%; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với
chất lượng giải quyết thủ tục hành chính đạt trên 90%. Tuy nhiên, qua kiểm tra thực tế
cho thấy, kết quả thống kê trên hệ thống thông tin một cửa điện tử chưa thật sự phản
ánh đúng tình hình thực tế. Do đó, Chủ tịch UBND tỉnh đã có công văn chỉ đạo các sở,
ban, ngành tỉnh; UBND các huyện thành phố chấn chỉnh tồn tại, hạn chế trong giải
quyết thủ tục hành chính.

Trên thực tế, tỉ lệ hồ sơ giải quyết trễ hạn cao hơn trên hệ thống thông tin một
cửa điện tử. Ngoài ra, có trường hợp công chức đề nghị người dân ngồi chờ hoặc quay
lại vào thời gian khác để giải quyết thủ tục hành chính với lý do lãnh đạo bận họp; một
số cán bộ, công chức có thái độ giao tiếp thiếu hòa nhã, thân thiện với người
dân...Chính vì vậy, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu cầu thủ trưởng các sở, ban, ngành
tỉnh, UBND các huyện, thành phố thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, dám nghĩ,
dám làm và dám chịu trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành công tác cải cách hành
chính; báo cáo trung thực kết quả giải quyết thủ tục hành chính; tất cả hồ sơ phải được
cập nhật trên phần mềm một cửa điện tử, không để xảy ra trường hợp hồ sơ giải quyết
đúng hạn thì cập nhật, hồ sơ giải quyết trễ hạn thì không.

Về việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước

Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện. Vai trò giám sát của nhân dân chưa
được phát huy mạnh mẽ. Vẫn còn sự giao thoa, chồng lấn về chức năng, nhiệm vụ của
một số cơ quan nhà nước (bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm, lao động, năng
lượng, đầu tư xây dựng, bảo hiểm y tế, xây dựng và thực thi pháp luật…). Điều đó dẫn
đến tình trạng: có việc do nhiều cơ quan có thẩm quyền, nhiệm vụ thực thi nhưng có

26
việc không thuộc về trách nhiệm của cơ quan nào. Theo Báo cáo số 392/BC-CP ngày
22/9/2017 của Chính phủ thì mặc dù cơ bản đã khắc phục được tình trạng bỏ trống,
chồng lấn giữa các cơ quan hành pháp của năm 2011 (2 vấn đề bỏ trống, 16 vấn đề
giao thoa, chồng lấn, 4 vấn đề cần tăng cường phối hợp) nhưng đến tháng 9/2017 vẫn
còn 3 vấn đề còn giao thoa, có ý kiến khác nhau, 9 vấn đề cần có sự phân công, phối
hợp giữa các Bộ và cơ quan ngang Bộ.

Phân công chưa hợp lý dẫn đến phối hợp chưa chặt chẽ, nhịp nhàng, không rõ
trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, có trường hợp tạo khoảng trống
quản lý. Chẳng hạn, nhiệm vụ quản lý gia đình và trẻ em được giao cho 2 Bộ: Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã dẫn đến những
bất cập trong phối hợp của 2 Bộ này. Ngoài ra, còn có những nhiệm vụ thậm chí, giao
cho 3 ngành (an toàn thực phẩm, quản lý giao thông đô thị, hỗ trợ phát triển nông
thôn…). Vì thế, có cơ sở để khẳng định khâu yếu nhất trong nguyên tắc phối hợp
chính là sự phối hợp giữa các bộ, ngành và hệ thống cấp dưới của họ.

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các các cơ quan nhà nước thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với nhau vẫn còn những bất cập ở tầm vĩ mô.
Chẳng hạn, chưa hình thành cơ chế kiểm soát của cơ quan hành pháp và tư pháp đối
với cơ quan lập pháp; việc thực hiện quyền “giám sát tối cao” của Quốc hội chưa thật
đúng tính chất, còn dàn trải, chưa tập trung vào những vấn đề lớn của các cơ quan nhà
nước; tỷ lệ rất lớn của đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là người của cơ quan
hành pháp và tư pháp cũng là một nguyên nhân hạn chế hiệu quả kiểm soát của các cơ
quan dân cử này. Vì thế, có những trường hợp trước khi bị kỷ luật, khởi tố đã không hề
phát hiện có sai phạm gì qua nhiều lần kiểm tra, thanh tra, thậm chí còn được tuyên
dương, khen thưởng trong nhiều năm trước đó.

Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hiệu lực và hiệu quả chưa
cao. Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước còn
chưa thật rõ ràng, chồng chéo về nhiệm vụ và quyền hạn. Trước hết là tổ chức, bộ máy
của một số bộ phận trong các cơ quan của Quốc hội chưa được sắp xếp hợp lý. Hoạt
động lập pháp của Quốc hội còn có phần hạn chế: chương trình xây dựng luật, pháp

27
lệnh chưa thật phù hợp, luật ban hành còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng luật; kỹ thuật lập pháp vẫn là khâu yếu, luật
ban hành thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, một số luật ban hành chưa phát huy
hết tác dụng, chất lượng chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, còn phải sửa
đổi, bổ sung nhiều lần.

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa được đổi
mới một cách mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Đánh giá theo quy định của Nghị quyết số
1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu
chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính thì tính đến tháng
12/2021 chỉ có 14/63 đơn vị hành chính cấp tỉnh (chiếm 22,22%), 124/705 đơn vị
hành chính cấp huyện (chiếm 17,59%) và 1.963/10.599 đơn vị hành chính cấp xã
(chiếm 18,52%) đạt đủ cả 02 tiêu chuẩn về quy mô dân số và diện tích tự nhiên. Số
đơn vị hành chính có quy mô diện tích nhỏ, dân số ít còn nhiều, dẫn đến đầu tư dàn
trải và khó khăn trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế ở các cấp
chính quyền địa phương.

Ngoài việc thực hiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị ở 03 thành phố (Hà
Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh) thì chính quyền địa phương ở các đơn vị
hành chính còn lại đều là cấp chính quyền địa phương (có Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân) là chưa có sự phân biệt với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo. Mô
hình chính quyền đô thị tại 03 thành phố mới triển khai thực hiện chưa đủ thời gian để
tổng kết đánh giá và trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số hạn chế, bất cập so
với yêu cầu của thực tiễn.

Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước.

Tình trạng tham ô, lãng phí, tiêu cực và tham nhũng tại Việt Nam diễn ra trong
nhiều thập niên qua, xảy trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và ở tất cả các ngành, các
cấp. Tham nhũng, lãng phí đã gây ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội
và làm giảm niềm tin của nhân dân với  Đảng và Nhà nước. Theo Tổ chức Minh bạch
Quốc tế công bố xếp hạng PCI năm 2020, Việt Nam đứng thứ 104/180 quốc gia được

28
xếp hạng với 36 điểm, tăng 5 điểm và 15 bậc so với năm 2014. Tuy nhiên, vẫn thấp
hơn điểm trung bình của khu vực (45 điểm) và nằm trong số 2/3 các quốc gia trên thế
giới tham nhũng nghiêm trọng (dưới 50 điểm).

Tại Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ tại Đại hội XIII
của Đảng đã nêu: “Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng,
phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi; tình trạng nhũng nhiễu người dân, doanh
nghiệp vẫn còn khá phổ biến, gây bức xúc trong xã hội… Tham nhũng vẫn là một
trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Mỗi khi người dân,
doanh nghiệp đi xin giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất, đi khám bệnh, xin cho
con đi học, hoặc chuyển trường, xin vốn đầu tư, dự án xây dựng… đều phải có “lót
tay”, “bôi trơn” thì mọi việc mới nhanh chóng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi
dạng tham nhũng này là “tham nhũng vặt”, gây bức xúc, khó chịu cho mọi người và
toàn xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn, có tổ chức, nhiều người tham gia, có sự cấu kết
của nhiều doanh nghiệp và cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất như: Vụ án Epco -
Minh Phụng từ những năm 80 của thế kỷ trước, với 77 bị can và 2 án tử hình; vụ án tại
Tập đoàn Vinashin, với Phạm Thanh Bình cùng 8 đồng phạm; vụ án tham ô và cố ý
làm trái tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Dương Chí Dũng và Mai
Văn Phúc bị tử hình, 8 bị can khác chịu hình phạt từ 4 đến 22 năm tù. Không phải đến
bây giờ mới có tham nhũng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vụ án của Trần
Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu - Bộ Quốc phòng bị xử ngày 5-9-1950 tại
thị xã Thái Nguyên, can tội “biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng
chiến”, bị tuyên án tử hình, tịch thu 3/4 tài sản, tịch thu tang vật hối lộ. Bác Hồ khi bác
đơn xin tha tội chết của Trần Dụ Châu, Bác đã nói với đồng chí Trần Đăng Ninh:” Với
loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà cứu cả
rừng cây thì việc đó là cần thiết”. Tham nhũng không được ngăn chặn và đẩy lùi, mà
còn phát triển tinh vi hơn, không chỉ các ngành kinh tế mà còn cả các ngành bảo vệ
pháp luật, không chỉ cán bộ cấp thấp mà còn cả cán bộ cấp cao.

Về đội ngũ cán bộ, công chức

29
Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có số lượng lớn, nhưng chất lượng chưa
đồng đều, còn yếu kém trong nhiều lĩnh vực. Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có
số lượng lớn, nhưng chất lượng chưa đồng đều; vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu
ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế... “Nhiều cán bộ, trong
đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên
môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi
trường quốc tế còn nhiều hạn chế”13. Chất lượng thực thi công vụ của cán bộ công
chức, viên chức một số nơi chưa cao, giải quyết công việc liên quan đến người dân, tổ
chức, doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu, còn có biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu, việc
chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính chưa nghiêm.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời
hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một
số cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa
ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền... chậm được ngăn
chặn, đẩy lùi.

Ở một số cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ công chức viên chức còn tùy tiện trong
lề lối làm việc, nặng về hành chính, quan liêu; thói cửa quyền, hách dịch của một bộ
phận cán bộ tồn tại khá lâu đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm
giảm hiệu quả công việc. Thái độ phục vụ người dân, doanh nghiệp còn chuyển biến
chậm; thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng; bộc lộ yếu kém trong giao tiếp, ứng xử. Quy
trình giải quyết công việc còn kéo dài; sự phối hợp còn thiếu chặt chẽ; sử dụng thời
gian làm việc chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao. Kỷ luật, kỷ cương tuy bước đầu được
tăng cường nhưng thực tế có lúc có nơi còn lỏng lẻo, tùy tiện.

Vai trò của nhà nước trong công cuộc chống dịch COVID-19 còn nhiều tồn tại,
hạn chế trên các lĩnh vực.

13
 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.47.

30
Công tác phòng, chống dịch có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng trong lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhất là giai đoạn đầu khi dịch bùng phát mạnh ở Thành
phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam do biến chủng Delta lây lan nhanh, hết sức
nguy hiểm, khó lường, khó kiểm soát; vẫn còn thiếu nhất quán trong triển khai các
biện pháp phòng, chống dịch, nhất là trong thực hiện yêu cầu giãn cách xã hội tại cơ
sở; việc thực hiện các quy định về đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa thiếu thống
nhất giữa các địa phương, gây ách tắc, phiền hà cục bộ cho Nhân dân. Tiếp cận nguồn
vaccine so với một số nước còn chậm, gặp nhiều khó khăn do khan hiếm trên toàn cầu;
việc mua vaccine chịu nhiều rủi ro, phải chấp nhận các điều kiện áp đặt của nhà cung
cấp. Năng lực y tế, nhất là ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến quá tải ở
một số địa phương và số ca tử vong cao trong giai đoạn đầu. Việc triển khai công tác
cứu trợ, bảo đảm an sinh xã hội tại một số địa bàn, nhất là khu cách ly, phong tỏa còn
khó khăn do số lượng người cần được hỗ trợ rất lớn. Theo thống kê bước đầu, khoảng
hàng chục triệu người cần hỗ trợ trong cùng một thời điểm; riêng Thành phố Hồ Chí
Minh hỗ trợ cả 3 đợt lên đến khoảng 7,5 triệu người.

Cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực và nội ngành, lĩnh vực chuyển dịch chậm; khu
vực công nghiệp, dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn. Việc xử lý các ngân hàng yếu kém
và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ;
đang đề xuất cấp có thẩm quyền xin cơ chế xử lý 2 ngân hàng thương mại yếu kém và
5 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả. Công tác lập quy hoạch theo Luật
Quy hoạch còn chậm.

Chất lượng nguồn nhân lực chưa chuyển biến rõ nét. Dạy và học trực tuyến còn
nhiều bất cập. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và đấu tranh, phòng,
chống tội phạm còn nhiều thách thức cần phải vượt qua. Quốc phòng, an ninh còn tiềm
ẩn những yếu tố phức tạp…

2.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế

Về cải cách thể chế

31
Chậm tổng kết lý luận và thực tiễn về phân định và mối quan hệ giữa sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng trong các lĩnh vực xây dựng Nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật,
nhất là cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Đảng và chính quyền cơ sở
chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, đó là sự bất cập, hạn chế ngay chính trong cơ chế phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật.
Chính từ việc chưa xác định rõ ràng, dứt khoát về chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan nhà nước đã dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn trong nội dung các văn bản quy
phạm pháp luật của họ.

Thứ hai, xây dựng chính sách, pháp luật vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp, năng
lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ về xây dựng chính sách và soạn thảo văn bản pháp
luật của một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu.

Thứ ba, về phương diện trách nhiệm: trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, của
người đứng đầu, của các bộ phận tham mưu, trách nhiệm giải trình, tuy đã được quy
định nhưng còn chung chung, đặc biệt là còn thiếu các chế tài xử lý vi phạm trong xây
dựng pháp luật, chế tài đối với việc ban hành các văn bản pháp luật trái quy định.

Về cải cách thủ tục hành chính

Giai đoạn đầu thực hiện việc kết nối giữa thiết bị của công dân với cơ quan quản
lý Nhà nước chưa phù hợp. Chất lượng hệ thống mạng có nơi chưa ổn định, thiếu đồng
bộ giữa các phần mềm nên việc xử lý hồ sơ liên thông đôi khi bị gián đoạn, chưa thông
suốt. Cơ sở vật chất cho việc ứng dụng Mô hình một cửa điện tử một số nơi còn lạc
hậu. Một số cán bộ, công chức còn hạn chế về ứng dụng công nghệ thông tin nên lúng
túng trong việc vận hành “Một cửa điện tử”.Một số người dân chưa tiếp xúc nhiều máy
tính nên vẫn lựa chọn cách nộp trực tiếp các thủ tục hành chính.

Việc thiết kế băng thông trong ứng dụng giao dịch dịch vụ công và phần mềm
bảo hiểm xã hội, phần mềm khai báo thuế còn thấp chưa phù hợp. Mẫu biểu thay đổi
liên tục các phần mềm ứng dụng không theo kịp dẫn đến một số thủ tục vẫn thực hiện

32
văn bản giấy. Trong khi các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước các chứng thư chữ
ký số và phần mềm dịch vụ công kho bạc được cấp miễn phí, riêng ngành Kiểm sát tự
mua bằng kinh phí chi thường xuyên rất tốn kém. Về giao dịch bảo hiểm xã hội đối
với ngành Kiểm sát nói chung, các đơn vị Viện kiểm sát quận, huyện nói riêng hàng
năm giao dịch thực tế như đối chiếu tăng, giảm số lượng cán bộ, công chức, người lao
động và thực hiện chế độ chính sách rất ít nhưng phải mua bản quyền phần mềm và
chứng thư số để giao dịch trong khi đó chi phí in ấn và đi lại để giao dịch trực tiếp trên
năm rất ít. Nhưng bắt buộc phải tốn kém ngân sách Nhà nước để mua bản quyền phần
mềm và chứng thư số để giao dịch mà không khai thác được nhiều, tuy tiện ích nhưng
gây lãng phí. 

Về việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước

Do chưa có sự thống nhất trong nhận thức về yêu cầu hoàn thiện và thực hiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Những sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước chưa mang tính tổng thể. Do vậy, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước thiếu tính đồng bộ. Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn về hoạt động của các thiết chế thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước
chưa được quan tâm kịp thời để có những kiến nghị lập pháp phù hợp.

Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Tuy đã sớm thấy yêu cầu đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy, song chủ trương
và tổ chức thực hiện không đồng bộ; thiếu những giải pháp đồng bộ, kiên quyết, kịp
thời, hiệu quả nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước, sắp xếp tổ chức, bộ máy không đi đôi với đổi mới thể chế, chính sách, phương
thức hoạt động nên kết quả thực hiện bị hạn chế. Đó là nguyên nhân khiến cho cơ cấu
tổ chức, bộ máy lúc giảm, lúc tăng đầu mối, khi tách, khi nhập tổ chức bộ máy; biên
chế ngày càng tăng.

Do quá trình hình thành và phát triển của các đơn vị hành chính ở nước ta trải
qua nhiều thời kỳ, mang nhiều yếu tố đặc thù về lịch sử, phong tục, tập quán, điều kiện
tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, nhiều địa phương vẫn khó khăn phải phụ
thuộc vào ngân sách Trung ương để phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến
tổ chức, hoạt động và phân quyền, phân cấp của chính quyền địa phương trên địa bàn,

33
đội ngũ cán bộ, công chức và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đã từng bước được
nâng cao về chất lượng, tuy nhiên năng lực thực tiễn và trình độ còn chưa đồng đều,
chưa thực sự ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và quản trị chính quyền địa
phương hiện đại, văn minh và hội nhập quốc tế.

Do chưa có sự thống nhất trong nhận thức về yêu cầu hoàn thiện và thực hiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Những sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước chưa mang tính tổng thể. Do vậy, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước thiếu tính đồng bộ. Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn về hoạt động của các thiết chế thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước
chưa được quan tâm kịp thời để có những kiến nghị lập pháp phù hợp.

Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước.

Quản lý nhà nước yếu kém; Khung pháp luật  về phòng, chống tham nhũng thiếu
đầy đủ hoặc không được thi hành hiệu quả; Cơ chế và hệ thống cơ quan phòng, chống
tham nhũng quốc gia chưa được xây dựng hoặc hoạt động hình thức; Khủng hoảng
chính trị, xã hội, kinh tế  ảnh hưởng tới đạo đức của đội ngũ công chức;  Lương của
đội ngũ công chức quá thấp, không đủ nuôi bản thân họ và gia đình; Thể chế chính trị
và truyền thống văn hóa hàm chứa những yếu tố ủng hộ hay khoan dung với hành vi
tham nhũng…

Về đội ngũ cán bộ, công chức

Đã tiến hành việc rà soát, đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động hiện có để xác định được số lượng người cần giữ lại làm việc lâu
dài, ổn định và những người không đáp ứng được yêu cầu cần tinh giản, tuy nhiên mới
chỉ đạt được những kết quả bước đầu, chưa thực chất và chưa đạt mục tiêu đề ra.

Việc xây dựng kế hoạch biên chế hằng năm ở các bộ, ngành, địa phương chưa
được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Bên cạnh nhiều bộ, ngành, địa phương sử
dụng đúng hoặc ít hơn số biên chế được giao thì vẫn còn có bộ, ngành, địa phương sử
dụng nhiều hơn số biên chế được giao.

34
Việc xây dựng kế hoạch biên chế hằng năm ở các bộ, ngành, địa phương chưa
được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Bên cạnh nhiều bộ, ngành, địa phương sử
dụng đúng hoặc ít hơn số biên chế được giao thì vẫn còn có bộ, ngành, địa phương sử
dụng nhiều hơn số biên chế được giao. 

Nguyên nhân dẫn dến việc vai trò của nhà nước trong công cuộc chống dịch
COVID-19 còn nhiều tồn tại, hạn chế trên các lĩnh vực.

Nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch COVID-19 diễn biến nhanh, phức
tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây hậu quả nặng nề, khiến 23 địa phương phải thực
hiện giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội trong thời gian dài, trong đó có các trung
tâm kinh tế lớn, vùng động lực tăng trưởng. Đồng thời, còn có các yếu tố từ bên ngoài
như: chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy; giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước,
phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao; việc huy động chuyên gia, nhà quản lý, nhà
thầu nước ngoài, máy móc, thiết bị nhập khẩu bị gián đoạn. Dòng vốn đầu tư toàn cầu
phục hồi chậm đã ảnh hưởng đến tình hình thu hút FDI.

Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực
hiện có lúc, có nơi còn lơ là, mất cảnh giác, chủ quan, bị động, lúng túng hoặc cứng
nhắc, chưa đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn
hạn chế, bất cập trong phân tích, dự báo tình hình để xây dựng và triển khai thực hiện
các kế hoạch, phương án vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế xã hội; năng
lực một bộ phận cán bộ còn hạn chế; việc thực hiện các biện pháp, chỉ đạo, hướng dẫn
của Trung ương về phòng, chống dịch, lưu thông hàng hóa, tổ chức sản xuất an toàn có
lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa nghiêm, áp dụng thiếu nhất quán, chưa linh hoạt. Công
tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao;
chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu
thực tiễn diễn biến nhanh, khó lường; thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, người dân
vẫn còn phiền hà...

2.3. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời gian tới

35
2.3.1. Giải pháp phát huy những mặt đạt được

Nhất quán quan điểm chỉ đạo là toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

“Chúng ta đã đạt được sự thống nhất cao về những vấn đề chính trị-pháp lý cốt
lõi, quan trọng về nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Từ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
thể hiện tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
(Cương lĩnh năm 1991 và bổ sung năm 2011), cũng như các văn kiện của Đại hội
Đảng (từ nhiệm kỳ VII đến nhiệm kỳ XIII) và Hiến pháp 2013, trong những năm qua,
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo để đề ra chủ trương, đường lối xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam”14.

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những thành tựu và kinh
nghiệm thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
quốc tế, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam

Bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia dân tộc

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy ngày càng tốt hơn dân chủ xã
hội chủ nghĩa. 

“Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ
máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm
thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; bảo đảm yêu cầu quản
lý, ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”15

Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam

14
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (20/06/2022). Xây dựng,hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN mang lại
ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Truy cập từ https://nhandan.vn
15
Tô Lâm. (30/11/2021). Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn

36
Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là
chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều chỉnh tối thượng của Hiến pháp và hệ thống pháp
luật bảo đảm công khai, tính minh bạch, khả thi, hiệu quả, nguyên tắc bình đẳng, bảo
vệ quyền con người, tính thượng tôn pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
phồn vinh, hạnh phúc; hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn dựa trên nền tảng lợi ích
chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất
so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe
nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối
kháng xã hội. Trong đó, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan
hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích với cơ chế vận hành tổng quát
là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; mọi chính sách, pháp luật
và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân
làm mục tiêu phấn đấu .

Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính

Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành cải cách hành chính, coi đây là một
giải pháp quan trọng góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Từ
thực tiễn hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, có thể khẳng định rằng,
cải cách hành chính nhà nước luôn là một chủ trương nhất quán, thể hiện tầm nhìn của
Đảng trong lãnh đạo tổ chức và hoạt động của Nhà nước, thông qua các biện pháp cụ
thể ở từng giai đoạn phát triển của đất nước để cải cách, đổi mới nền hành chính nhà
nước (HCNN) phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển.
Cải cách thủ tục hành chính tại Việt Nam, giảm thiểu chi phí cho người dân,
doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính. Đặc biệt là góp phần triển khai Đề
án 06 của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực
điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm
2030.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy hành chính nhà nước

37
Đổi mới mô hình và cơ cấu tổ chức của Chính phủ phải thực hiện đồng bộ, trong
đó tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô
phù hợp với đối tượng quản lý và trình độ, năng lực chỉ đạo, quản lý, điều hành của
người đứng đầu. Đó là một trong những đề xuất của TS Vũ Hải Nam, Vụ trưởng Vụ
Tổ chức - Biên chế (Bộ Nội vụ) khi trao đổi với Tạp chí Tổ chức nhà nước về các giải
pháp tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương.

Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, làm trong sạch
Đảng và bộ máy Nhà nước. 

“Phòng, chống tham nhũng là "chống giặc nội xâm," tức là chống những thói
hư, tật xấu, nhất là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, tệ ăn bớt, ăn cắp, ăn chặn của
công dưới nhiều hình thức; tiền tài, của cải, vật chất,... do người khác "biếu xén,"
"cho, tặng," hối lộ... với động cơ không trong sáng”.16

Trước hết, cần phải nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng
của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để từ đó có quyết tâm chính
trị rất cao, biện pháp rất trúng và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung, thống
nhất của Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị; Ban Nội chính Trung ương là cơ quan
thường trực của Ban Chỉ đạo.

Biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tế của cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt, nói đi đôi với làm
của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền,
cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng.

 Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý kịp
thời, đồng bộ, nghiêm minh các hành vi tham nhũng; trong đó, phòng ngừa là chính, là
cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là đột phá, quan trọng.

16
TBT Nguyễn Phú Trọng. (30/06/2022). “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Nhìn lại 10 năm
qua; định ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tới”. Truy cập từ  https://www.vietnamplus.vn

38
2.3.2. Biện pháp khắc phục những hạn chế

2.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tổng thể chiến lược xây dựng, hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam đến năm 2030, định hướng đến năm
2045

Xác định đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hơn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước, loại bỏ sự chồng chéo, bảo đảm thực hiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm
soát quyền lực nhà nước trong xây dựng pháp luật. Đây là giải pháp rất căn bản để góp
phần khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo chất lượng các
văn bản pháp luật. Mặc dù quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật là điều kiện quan
trọng, song nếu chỉ dừng lại ở quy trình, thủ tục thì vẫn chưa có thể khắc phục hoàn
toàn được những hạn chế trong đó có sự chồng chéo, xung đột giữa các văn bản pháp
luật như lâu nay.

“Cách thức xây dựng - làm luật ở nước ta không do cơ quan chuyên trách, độc
lập, đại biểu dân cử hoặc các ủy ban của Quốc hội chủ trì soạn thảo mà thường được
giao cho cơ quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước về ngành,
lĩnh vực trực tiếp xây dựng. Một khi các cá nhân, cơ quan công quyền đã có thẩm
quyền xây dựng pháp luật, có điều kiện, lại kèm theo chế độ trách nhiệm phải hoàn
thành nhiệm vụ xây dựng pháp luật theo tháng, quý, năm, nhiệm kỳ... và theo cả chỉ
tiêu thi đua... nên rất dễ dàng cài cắm lợi ích bộ, ngành, nhóm..., và hiện tượng “đẽo
cày giữa đường” khi làm luật, thực ra ở đây chủ yếu là liên quan đến lợi ích”17.

2.3.2.2. Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước

Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ Chính phủ và bộ máy nhà nước
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới, đó là:

Quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội và trật
tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt, bảo
đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng
cao đời sống.

17
Phạm Văn Chung. (15-01-2017). Để không làm luật kiểu “đẽo cày giữa đường”. Truy cập từ
https://nld.com.vn/ban-doc/de-khong-lam-luat-kieu-deo-cay-giua-duong-20170115222730997.htm

39
Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh tế nhà nước để quản lý
thị trường, điều tiết thu nhập kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng và các tầng
lớp dân cư.

Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân bố; quản lý, sử dụng có hiệu
quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục tình trạng
vô chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.

Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá với tăng cường an ninh, quốc phòng
và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực này tác động hỗ trợ nhau cùng phát
triển

2.3.2.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương

Phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc xem xét,
quyết định các nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đời sống nhân dân, về ngân
sách và giám sát việc điều hành của Uỷ ban nhân dân. Kiện toàn Hội đồng nhân dân
xã, phường, thị trấn với thành phần bao gồm những cán bộ chủ chốt của đảng bộ, mặt
trận và các đoàn thể, đồng thời thu hút những người ngoài Đảng có đủ tiêu chuẩn, có
nhiệt tình, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong lao động sản xuất, có tín nhiệm
trong nhân dân

Đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp -
Kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp để đảm bảo thực
hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp; đồng thời, đề cao trách nhiệm
tham gia cùng chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ
chức theo ngành dọc trên địa bàn lãnh thổ.

Tóm tắt chương 2

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đề cao vai trò tối
thượng của Hiến pháp và pháp luật, do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan của nhà
nước được phân quyền rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình

40
đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp xã hội nhằm đảm bảo quyền dân chủ của
nhân dân, tránh lạm quyền.

Về thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền trong những năm qua: cơ bản đạt
được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền kinh
tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín đất
nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, những cải cách vừa qua cũng có mặt chưa
mang tính đột phá, nhất là khuôn khổ thể chế cho nền hành chính công vụ chuyên
nghiệp, hiệu năng vẫn còn hạn chế; sự chồng chéo, thiếu sự liên thông còn khá phổ
biến; việc phân cấp, phân quyền Trung ương – địa phương; việc sắp xếp tổ chức bộ
máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả chưa đồng bộ; chất lượng, cơ cấu đội ngũ công chức
còn có mặt bất cập.

41
III. KẾT LUẬN

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; Nhà
nước tổ chức, hoạt động theo pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm phục vụ
lợi ích của Nhân dân; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đồng thời chịu trách
nhiệm trước Nhân dân và sự giám sát của Nhân dân.

Tuy nhiên, chưa có sự thúc đẩy mạnh mẽ, tích cực từ các chinh quyền, người dân
chưa thực sự có ý thức. Chưa hiểu được sự chung tay góp sức của từ cá nhân sẽ giúp
thúc đẩy một tập thể lớn. Vì vậy, đã có những mặt hạn chế, những điều hướng thiếu
tích cực về việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh
đó, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang phải đối
mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được
tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút
của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc thực hiện công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước là điều kiện tiên
quyết, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế,
với nhiều thời cơ thuận lợi và khó khăn thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu
cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân do Nhân dân và vì Nhân dân càng được đặt ra rất cấp bách. Xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là chủ trương mang tầm chiến lược lâu dài, không thể
làm một cách chủ quan, nóng vội mà cần có những nghiên cứu lý luận chuyên sâu và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đầy đủ. Đây cũng là quan điểm nhất quán của Đảng,
thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

42
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ (14/06/2021). Báo cáo chuyên
đề của Bộ Nội vụ tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 - 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ.
Truy câp từ http://caicachhanhchinh.gov.vn
2. Bộ Nội vụ. (27/02/2022). Toàn văn Nghị quyêt Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng. Truy cập từ https://moha.gov.vn

3. Chính phủ (19/04/2021). Báo cáo tổng kết chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030. Truy
cập từ https://thuvienphapluat.vn

4. Phạm Văn Chung (15-01-2017). Để không làm luật kiểu “đẽo cày giữa đường”.
Truy cập từ https://nld.com.vn
5. Chúng ta đã nỗ lực hết sức mình, đạt nhiều kết quả quan trọng, đáng khích lệ
(21/10/2021). Truy cập từ https://vncdc.gov.vn

6. Thăng Văn Chúc (8/03/2006). Cải cách hành chính nhà nước – một giải pháp
hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội. Truy cập từ https://nhandan.vn

7. Tô Thị Phương Dung ( 01/08/2022). Hệ thống pháp luật Việt Nam - Những ưu
điểm và nhược điểm. Truy cập từ https://luatminhkhue.vn
8. Tô Thị Hòa (25/06/2022). Những nguyên nhân dẫn đến tham nhũng tại Việt Nam
. Truy cập từ https://luatminhkhue.vn
9. Nguyễn Hoàng (21/11/2020). Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện cả về
số lượng và chất lượng. Truy cập từ https://baochinhphu.vn
10. Thạch Huê (06/08/2019). VCCI báo cáo nhanh về 20 điểm xung đột, chồng chéo
lớn của pháp luật. Truy cập từ https://bnews.vn
11. Nguyễn Thu Hường (2022). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay, thực trạng và giải pháp. Truy cập từ https://www.studocu.com
12. Tô Lâm (30/11/2021). Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn

43
13. Phạm Văn Linh (05/01/2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Truy cập từ
https://bit.ly/3xX7zNT

14. Lê Xuân Lịch, Nguyên Phó Vụ trưởng, Ban Tổ chức Trung ương (18/7/2022)
Tham nhũng và những giải pháp phòng, chống tham nhũng. Truy cập từ
https://www.xaydungdang.org.vn
15. Phan Thị Tuyết Minh (2020) . Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát
triển đất nước. Truy cập từ https://snv.bacgiang.gov.vn
16. Phương Minh (24/06/2021). Công tác cải cách thể chế đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Truy cập từ https://www.qdnd.vn
17. Văn Minh (15/05/2021). Kết quả nổi bật sau 10 năm thực hiện Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Truy cập từ https://kontum.gov.vn
18. Lê Thị Phương Nga (11/02/2022). Những hạn chế chủ yếu và giải pháp khắc
phục nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay. Truy
cập từ https://noichinh.vn
19. Phòng TTBCXBBC (21/07/2022). Luận điệu sai trái về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Truy cập từ https://sotttt.sonla.gov.vn
20. Nguyễn Duy Thăng (22/06/2022). Thực trạng và định hướng đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam. Truy cập từ https://tcnn.vn

21. Lê Thủy Tiên (07/04/2022). Đảm bảo vai trò của Hiến pháp và hệ thống pháp
luật trong nhà nước pháp quyền. Truy cập từ https://luatminhkhue.vn

22. VCCI báo cáo nhanh về 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật, truy
cập từ https://bnews.vn/vcci-bao-caonhanh-ve-20-diem-xung-dot-chong-cheo-
lon-cua-phap-luat-/130330.html

44

You might also like