You are on page 1of 40

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA HỌC ỨNG DỤNG - BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ BÀI
QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LỚP L06 – NHÓM 11 – HK232

Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Đánh giá (%)


Nguyễn Bá Lộc 2113961 100%
Nguyễn Lê Tiến Lộc 1951165 100%
Nguyễn Tấn Lộc 2110344 100%
Phan Đức Thành Long 2113943 100%
Tô Tấn Luật 2113992 100%

TP.HCM ngày 11 tháng 3 năm 2024


ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
KHOA HỌC ỨNG DỤNG - BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ BÀI :
QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LỚP L06 – NHÓM 11 – HK232

Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Đánh giá (%)


Nguyễn Bá Lộc 2113961 100%
Nguyễn Lê Tiến Lộc 1951165 100%
Nguyễn Tấn Lộc 2110344 100%
Phan Đức Thành Long 2113943 100%
Tô Tấn Luật 2113992 100%

TP.HCM ngày 11 tháng 3 năm 2024


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 11 LỚP L06

ST
Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký
T
Mục 1.2 và tiểu
1. Nguyễn Bá Lộc 2113961 100%
kết chương 1
Mục 2.2 và tiểu
2. Nguyễn Lê Tiến Lộc 1951165 100%
kết chương 2
Phần mở đầu và
3. Nguyễn Tấn Lộc 2110344 100%
mục 1.1
Mục 2.1, phần kết
4. Phan Đức Thành Long 2113943 luận và tổng hợp 100%
báo cáo
Mục 3.1, 3.2 và
5. Tô Tấn Luật 2113992 100%
tiểu kết chương 3

NHÓM TRƯỞNG
(ghi rõ họ tên, ký tên)

Phan Đức Thành Long


MỤC LỤC

MỤC LỤC......................................................................................................................i
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................3
CHƯƠNG 1 BỐI CẢNH LỊCH SỰ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG
TRỊ KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG........................................................................3
1.1. Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời................................3
1.1.1. Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp.........................................................................................................................3
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ
cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930.........................................................................6
1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và những yêu cầu đặt ra
đối với cách mạng Việt Nam....................................................................................9
1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên........12
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam......................................................12
1.2.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên.......................................................................13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................................17
CHƯƠNG 2 LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG
LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 - 1945)................................19
2.1. Luận cương chính trị..........................................................................................19
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị..........................................................19
2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị.............................................................20
2.1.3 Nhận xét và so sánh Luận cương chính trị (10/1930) và Cương lĩnh chính
trị (2/1930).............................................................................................................21
2.2. Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến năm
1945...........................................................................................................................22
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939......22
2.2.2. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940......24
2.2.3. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 05/1941......25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................................27

i
CHƯƠNG 3 CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ HOÀN
CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN........28
3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam..............28
3.1.1. Bối cảnh lịch sử...........................................................................................28
3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam......................................28
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân.......29
3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh.....................................................................29
3.2.2. Giá trị thực tiễn............................................................................................30
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................................31
PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................33

ii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong dòng chảy của lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, từ cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, từ thất bại của các
phong trào giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ phong kiến và tư sản, đến việc Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tìm ra con đường cứu nước mới, mở ra hướng đi
cho một tương lai rạng rỡ dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn này không
chỉ là một bước ngoặt lịch sử mà còn là minh chứng cho sức mạnh của ý chí và khát
vọng độc lập, tự do.
Quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng đã chứng kiến những cuộc đấu tranh
nội bộ sôi nổi, gay gắt, từ đó hình thành nên đường lối chiến lược giải phóng dân tộc
và định hình con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam, với sự lãnh đạo sáng suốt, đã đưa ra những quyết định đúng đắn, định hình
đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân, khẳng định chủ nghĩa xã hội là con
đường phát triển tất yếu, dẫn đến thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
Hiện nay, mặc dù Đảng ta trong công cuộc lãnh đạo đất nước đã đạt được nhiều
thành tựu đáng tự hào, nhưng vẫn còn đối mặt với những thách thức và hạn chế nhất
định.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Các thế lực thù địch không ngừng tìm cách khai thác những hạn chế này để đưa
ra các luận điểm nhằm xuyên tạc, bôi nhọ, thậm chí tìm mọi cách hòng xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, đưa Việt Nam chệch hướng khỏi con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Chính vì vậy, việc ta nghiên cứu đề tài này không chỉ nhằm mục đích khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng trên thực tiễn, khẳng định sự đúng đắn của con đường
cách mạng Việt Nam mà còn góp phần phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, chống

1
phá Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó, góp phần bảo
vệ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách hiệu quả hơn.
Qua đó, nhằm củng cố niềm tin và tiếp tục con đường tiến bước lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta trong một bối cảnh đầy biến động, khó khăn và thách thức như hiện
nay.
Với những lý do kể trên, nhóm chúng em đã chọn đề tài: “QUÁ TRÌNH
HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM” làm bài tập lớn để kết thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống
trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng;
Hai là, phân tích được nội dung của Luận cương chính trị với những ưu điểm
và hạn chế và quá trình khắc phục hạn chế về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
của Đảng;
Ba là, làm rõ nội dung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn
chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng.
Bốn là, làm rõ giá trị của việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân
chủ Nhân dân đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam.

2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỰ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ,
KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG

1.1. Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1.1.1. Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp
Tình hình thế giới
Chủ nghĩa tư bản trên thế giới chính thức được xác lập vào giữa thế kỷ XVII
(năm 1640) với sự thành công của cuộc cách mạng tư sản Hà Lan. Đến nửa sau thế kỷ
XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền, tức là giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Nguyên nhân xuất phát từ việc
nền kinh tế hàng hóa ở các quốc gia tư bản này phát triển rất mạnh, quy mô sản xuất
ngày càng được mở rộng dẫn tới nhu cầu về các loại thị trường như: thị trường lao
động, thị trường hàng hóa, thị trường nguyên liệu, thị trường tiền tệ,... tăng lên cao. Vì
vậy, họ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu
Phi và khu vực Mỹ Latinh, biến các quốc gia này trở thành thuộc địa của các nước đế
quốc.
Đến cuối thế kỷ XIX, cả thế giới chìm trong đám mây đen khổng lồ của chủ
nghĩa tư bản. Sự thôn tính dân tộc, áp bức, chèn ép, lấy nguồn lực của các nước khác
về làm giàu cho mình đã giúp cho bọn đế quốc tư bản giàu lên nhanh chóng nhưng
ngược lại càng khiến cho các quốc gia thuộc địa trở nên kiệt quệ hơn bao giờ hết.
Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng
khỏi ách đô hộ, thống trị của thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân
tộc mạnh mẽ, rộng khắp, đặc biệt là ở châu Á vào đầu thế kỷ XX. Qua đó, đã tác động
mạnh mẽ đến các phong trào yêu nước tại Việt Nam.
Trong bối cảnh các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang trên đà phát
triển, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc
tình hình thế giới. Sự thắng lợi ấy đã không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản ở các quốc gia tư bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong
trào giải phóng dân tộc ở các quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa. Nó đã mở ra một
thời đại mới – “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”1 cho
các dân tộc bị áp bức, đồng thời là cột mốc đánh dấu cho sự hiện thực hóa của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), do V.I. Lênin đứng
1
Hồ Chí Minh (2009), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.562.

3
đầu, được thành lập tại Mátxcơva, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo
cho phong trào cách mạng vô sản thế giới. Và tại đại hội II (1920), Quốc tế Cộng sản
đã thông qua Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa do Lênin khởi xướng. Qua đó, đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ, làm thức
tỉnh phong trào yêu nước ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Tình hình Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia Đông Nam Á nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng
của châu Á, do đó ta đã trở thành đối tượng nằm trong mưu đồ xâm lược của thực dân
Pháp. Ngày 1/9/1858, tại bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng, thực dân Pháp chính thức nổ
súng xâm lược Việt Nam. Đó là thời điểm mà triều đại phong kiến nhà Nguyễn của
Việt Nam đã và đang lâm vào giai đoạn khủng hoảng, suy thoái trầm trọng. Trước
hành động xâm lược ấy, ban đầu triều đình nhà Nguyễn có tổ chức đánh Pháp, tuy
nhiên về sau lại ký hàng loạt hiệp ước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883). Đến
ngày 6/6/1884, với việc ký kết Hiệp ước Pa-tơ-nốt, nhà Nguyễn đã chính thức đầu
hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam ta chính thức trở thành một quốc gia thuộc
địa của Pháp. Như vậy, Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884) có thể được xem là cột mốc đánh
dấu việc thực dân Pháp đã căn bản hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam – kết
thúc giai đoạn chinh phục (1858 – 1884).
Tuy triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp nhưng các
phong trào đấu tranh của đông đảo nhân dân Việt Nam lại nổ ra liên tục, rộng khắp các
địa phương trên cả nước. Do vậy, sau khi đã hoàn thành việc chinh phục Việt Nam
bằng quân sự, Pháp bắt đầu công cuộc bình định, đàn áp sự nổi dậy của nhân dân ta
trong vòng 10 năm (1885 – 1896). Thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính
quyền thuộc địa bên cạnh việc duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai ở
Trung Kỳ. Pháp tiến hành xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới, chia Việt Nam thành
ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong
Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (thành lập ngày 17/10/1887) nhằm tạo sự hiềm
khích, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc để dễ bề cai trị.
Sau đó, Pháp bắt tay vào việc khai thác thuộc địa với hai lần khai thác lớn: Lần
thứ nhất (1897 – 1914) và lần thứ hai (1919 – 1929). Mục tiêu chính của Pháp là hòng
biến Việt Nam nói riêng và toàn xứ Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa cho “mẫu quốc”, mặt khác, chúng ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao
động với giá rẻ mạc của những “vong quốc nô”, cùng nhiều hình thức sưu thuế nặng
nề khác.
Về văn hóa – xã hội, Pháp tiến hành chính sách “ngu dân” để dễ thống trị, thiết
lập nhà tù nhiều hơn trường học, bên cạnh đó du nhập những giá trị phản văn hóa, duy
trì, cổ xúy các tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến (cờ bạc, mê tín dị đoan,
rượu cồn,...) và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, trong đó nguy hiểm nhất là việc sử

4
dụng nha phiến (thuốc phiện) để đầu độc các thế hệ người Việt Nam; ra sức tuyên
truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”...
b. Những ảnh hưởng, tác động của chính sách khai thác thuộc địa đối với kinh tế – xã
hội Việt Nam
Trên phương diện kinh tế, Việt Nam đã có cả những biến đổi tích cực lẫn tiêu
cực. Cụ thể, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu tư khai
thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ thống đường giao
thông, bến cảng,... để phục vụ cho lợi ích của chúng. Điều này đã dẫn đến sự du nhập
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại vào nước ta. Tuy nhiên, quan hệ kinh
tế phong kiến lạc hậu vẫn được duy trì để thuận tiện cho việc thống trị, quản lý. Nhìn
chung, Việt Nam chủ yếu vẫn là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, ốm
yếu, què quặt, phiến diện, lệ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế Pháp.
Về phương diện xã hội, có sự chuyển biến về phân hóa giai cấp và mâu thuẫn
trong xã hội Việt Nam. Trước khi thực dân Pháp đến xâm lược, xã hội Việt Nam chỉ
có hai giai cấp tồn tại xuyên suốt trong gần mười thế kỷ là nông dân và địa chủ. Trong
đó, nông dân không có tài sản còn địa chủ có tài sản nhưng cũng không quá lớn, vì thế
nên mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ ở Việt Nam không gay gắt như ở phương
Tây, có thể điều hòa được vì vấn đề dân tộc (chống giặc ngoại xâm). Khi Pháp tới biến
Việt Nam thành thuộc địa thì các giai cấp cũ bị phân hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất
hiện với địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với
vận mệnh của quốc gia, dân tộc.
Thứ nhất, giai cấp địa chủ bị phân hóa thành hai bộ phận: đại địa chủ có quyền
lợi gắn với Pháp, làm tay sai cho Pháp trong việc ra sức đàn áp các phong trào yêu
nước và bóc lột nông dân. Địa chủ vừa và nhỏ nêu cao tinh thần dân tộc, khởi xướng,
lãnh đạo các phong trào yêu nước chống Pháp.
Thứ hai, giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất (hơn 90% dân số Việt
Nam lúc bấy giờ), đồng thời là giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, ngày càng bần
cùng hóa, số lượng mất đất ngày càng lớn. Do vậy, đây là lực lượng hùng hậu, có tinh
thần đấu tranh kiên cường, bất khuất cho nền độc lập, tự do của dân tộc và khát khao
giành lại ruộng đất cho dân cày.
Thứ ba, giai cấp công nhân được hình thành ngay trong cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất của thực dân Pháp và phát triển mạnh về số lượng trong cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai. Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai
cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng, nguyên nhân là bởi họ ra đời
trong hoàn cảnh của một nước thuộc địa với những tàn tích phong kiến rất nặng nề,
chủ yếu xuất thân từ nông dân bị tước đoạt ruộng đất, cơ cấu chủ yếu là công nhân
khai thác mỏ, đồn điền,... Tuy lực lượng còn khá nhỏ bé, khiêm tốn nhưng lại là giai

5
cấp có khả năng vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, là giai cấp có năng
lực lãnh đạo cách mạng.
Thứ tư, giai cấp tư sản Việt Nam ra đời vào năm 1919 (sau chiến tranh thế giới
lần thứ nhất) từ một bộ phận địa chủ năng động thức thời, bán hết ruộng đất về các đô
thị kinh doanh, sản xuất. Vậy, giai cấp tư sản Việt Nam ra đời muộn hơn so với giai
cấp công nhân. Ngay từ khi ra đời, họ đã mang thân phận nô lệ, khác với tư sản ở các
nước phương Tây khi ra đời đã nắm quyền lực chính trị. Về phương diện kinh tế, giai
cấp tư sản ở Việt Nam có tiềm lực kinh tế không mạnh, phải lệ thuộc và chịu sự chi
phối từ bọn tư sản Pháp. Tư sản bản xứ vừa ra đời đã bị phân hóa thành hai bộ phận:
Một bộ phận có lợi ích gắn liền với tư bản Pháp, đi ngược lại với quyền lợi dân tộc,
trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác là giai cấp tư sản dân tộc có tinh
thần dân tộc, yêu nước nhưng không có khả năng tập hợp lực lượng để tiến hành cách
mạng.
Thứ năm, tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc và
tư bản chèn ép, khinh miệt. Tuy rằng đây là giai cấp có tinh thần dân tộc, yêu nước, rất
nhạy cảm về chính trị và thời cuộc nhưng lại không thể lãnh đạo cách mạng do “địa vị
kinh tế bấp bênh, hay dao động, thiếu kiên định”2.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã
hội Việt Nam trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đặc biệt là sự ra
đời của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản Việt Nam, vì đây là những giai cấp đại
diện cho một hình thái kinh tế – xã hội. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ đều mang thân phận người dân mất nước, ở những mức độ khác nhau đều
bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Tính chất xã hội Việt Nam từ xã hội phong kiến
thuần túy trở thành xã hội thuộc địa với những tàn tích phong kiến rất nặng nề (xã hội
thuộc địa nửa phong kiến). Trong xã hội lúc này tồn tại nhiều mâu thuẫn đan xen
nhưng chủ yếu vẫn là hai mâu thuẫn lớn, bao trùm: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam với địa chủ phong
kiến. Do đó, thực tiễn lịch sử Việt Nam đã đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: Thứ nhất,
phải đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Thứ hai, phải xóa
bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là giải quyết vấn đề
ruộng đất cho dân cày. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ ưu
tiên hàng đầu. Giải phóng dân tộc xong thì phải xóa bỏ chế độ phong kiến, lựa chọn
con đường phát triển mới cho dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ
cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng chính trị phong kiến cuối
thế kỷ XIX
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.42, 43.

6
Với phong trào yêu nước sử dụng hệ tư tưởng phong kiến để giải phóng dân
tộc, nghĩa là những nhà yêu nước Việt Nam lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa phong kiến. Tiêu biểu như sau:
Kết quả???
Thất bại??
Bước sàng lọc thứ nhất, k thành công. Hướng những nhà yêu nước Việt Nam đi
tìm con đường khác.
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, các phong trào yêu
nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã diễn ra sôi nổi, liên tục và rộng khắp.
Đến năm 1884, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp
thông qua việc ký kết Hiệp ước Pa-tơ-nốt, nhưng một bộ phận phong kiến yêu nước
đã cùng với nhân dân tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp. Tiêu biểu là phong trào
Cần Vương (1885 – 1896) do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng và lãnh
đạo, phạm vi hoạt động chủ yếu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Hưởng ứng lời kêu gọi Cần
Vương cứu quốc, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) do Phạm Bành và Đinh
Công Tráng lãnh đạo, diễn ra tại Thanh Hóa; khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) do
Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra tại các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh,
Thái Bình, Quảng Yên; khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1896) do Phan Đình Phùng và
Cao Thắng lãnh đạo, diễn ra tại Hà Tĩnh;... là minh chứng tiêu biểu cho tinh thần quật
cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, các cuộc
khởi nghĩa ấy chung quy đều không thành công và bị thực dân Pháp đàn áp dã man.
Khởi nghĩa Hương Khê thất bại vào năm 1896 cũng là cột mốc đánh dấu sự chấm dứt
vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp tại Việt Nam.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, song song với phong trào Cần Vương thì các
phong trào nông dân nổi dậy chống Pháp cũng diễn ra vô cùng sôi nổi. Trong đó, tiêu
biểu nhất là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913) dưới sự lãnh đạo của
Đề Thám (Hoàng Hoa Thám), diễn ra ở vùng miền núi và trung du Bắc Bộ. Nghĩa
quân đã xây dựng lực lượng, thiết lập căn cứ chiến đấu và đấu tranh kiên cường, bất
khuất xuyên suốt gần ba thập kỷ. Tuy rằng phong trào của Hoàng Hoa Thám là “tích
cực hơn hết thảy” nhưng vẫn quá mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả
năng mở rộng hợp tác và thống nhất thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, do
vậy cũng bị thực dân Pháp đàn áp và đi vào thoái trào.
Tóm lại, các phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng chính trị
phong kiến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã diễn ra rất sôi nổi, rộng khắp, liên tục,
cho thấy được tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của toàn thể dân tộc
Việt Nam trong công cuộc tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ. Nhưng hết thảy các
phong trào khởi nghĩa đều có chung một kết cục là thất bại, nguyên nhân chính là bởi

7
lúc bấy giờ, hệ tư tưởng phong kiến/giai cấp phong kiến Việt Nam đã trở nên lỗi thời,
không còn đủ tư cách, đủ uy tín để đại diện cho toàn dân tộc Việt Nam, để tập hợp lực
lượng đông đảo, rộng rãi (đoàn kết toàn dân tộc); các cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra
trong một phạm vi nhất định, mang tính nhỏ lẻ, không có tổ chức, đường lối lãnh đạo
nhất quán nên dễ dàng bị đàn áp, dập tắt.
1.1.2.2. Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng chính trị dân chủ tư sản
đầu thế kỷ XX
Từ những năm đầu thế kỷ XX, tuy rằng giai cấp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam
chưa ra đời nhưng hệ tư tưởng tư sản đã có sự ảnh hưởng vào Việt Nam. Các tầng lớp
trí thức phong kiến đã tiếp thu và khởi xướng các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu
hướng cải cách của Phan Châu Trinh.
Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo với chủ trương tập
hợp lực lượng, sử dụng phương pháp bạo động cách mạng để chống Pháp, xây dựng
chế độ chính trị như ở Nhật Bản. Phong trào theo xu hướng này tổ chức đưa thanh
niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập, được gọi là phong trào Đông Du.
Đến năm 1908, Chính phủ Nhật Bản cấu kết với thực dân Pháp trục xuất du học sinh
Việt Nam và những người đứng đầu phong trào về nước. Sau khi phong trào Đông Du
thất bại, cùng với sự ảnh hưởng của cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Hoa, năm
1912, Phan Bội Châu thành lập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội với tôn chỉ là vũ
trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước cộng hòa dân
quốc Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu chương trình, kế hoạch hoạt động rõ ràng nên tổ
chức này nhanh chóng đi vào thoái trào và nhận thất bại chỉ một năm sau đó (cuối
năm 1913).
Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan châu trinh và những người cùng
chí hướng muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động
như Phan Bội Châu mà chủ trương cải cách đất nước – “khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”. Tức là, phải bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông
dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện được chủ trương ấy, Phan Châu Trinh đã
đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Khi phong trào Duy Tân lan rộng
khắp cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân
Pháp đã đàn áp dã man, giết hại nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biểu tình. Đồng
thời, ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), giai cấp tư sản, tiểu tư sản
Việt Nam ra đời. Hệ tư tưởng tư sản tiếp tục tác động vào công cuộc đấu tranh giành
độc lập, tự do tại Việt Nam. Một số các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
chính trị tư sản tiêu biểu có thể kể đến như: Phong trào quốc gia cải lương tư sản
(1919 – 1923), phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925 – 1926), phong trào

8
cách mạng quốc gia tư sản (1927 – 1930). Bên cạnh đó, còn có phong trào tiểu tư sản
trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng. Khi thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác
thuộc địa lần thứ hai, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
ngày càng trở nên gay gắt, các giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội Việt Nam đều bước
lên vũ đài chính trị. Trong đó, hoạt động có ảnh hưởng rộng và thu hút nhiều học sinh,
sinh viên yêu nước ở Bắc Kỳ là tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái
Học lãnh đạo. Mục đích của Việt Nam Quốc dân Đảng là đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp
đấu tranh vũ trang nhưng theo lối mạnh động, ám sát cá nhân, lực lượng chủ yếu là
binh lính, sinh viên,... Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở một số tỉnh miền Bắc, chủ yếu và
mạnh nhất là ở Yên Bái, tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng bị thất bại. Sự thất bại của
cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào ngày 9/2/1930 đã đánh dấu chấm hết cho phong trào yêu
nước Việt Nam theo khuynh hướng chính trị tư sản.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những
hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của
giai cấp tư sản ở Việt Nam nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam
rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo
sự nghiệp giải phóng dân tộc, chưa có đường lối chính trị rõ ràng và một hình thức tổ
chức chặt chẽ.
Tóm lại, phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều
thất bại nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng: Thứ nhất, đó là sự tiếp nối truyền thống
yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Thứ hai, chứng tỏ con đường cứu nước
theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế tắc. Đó là cơ sở thực tiễn để các nhà yêu
nước Việt Nam tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm cách mạng của Hồ Chí
Minh. Thứ ba, đặt ra nhiệm vụ lịch sử cấp thiết cho những người yêu nước Việt Nam
lúc bấy giờ, đó là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước
đúng đắn để có thể thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và những yêu cầu đặt ra đối
với cách mạng Việt Nam
Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm
đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của cuộc
cách mạng tiêu biểu như cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789) nhưng cũng
nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc

9
khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc thật
sự cho nhân dân các nước nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm hiểu cách mạng tháng 10 Nga năm
1917. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam”3. Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải và con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam và vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với
phong trào cách mạng thế giới.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920). Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự
kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
ngoài con đường cách mạng vô sản”4. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối
với phong trào cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Về tư tưởng – chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua đó, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho
Việt Nam. Những quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
được thể hiện qua các sách báo, tài liệu mà Người gửi về Việt Nam như: Báo Người
cùng khổ, báo Nhân đạo, báo Đời sống công nhân, báo Thanh niên, Bản án chế độ

3
Hồ Chí Minh (1995), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.274.
4
TS. Phạm Hảo (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-
tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-voi-qua-trinh-phat-trien-cua-cach-mang-viet-nam-2046, truy cập ngày 12/03/2024.

10
thực dân Pháp, Đường cách mệnh,... Nội dung căn bản của những tư tưởng cách mạng
giải phóng dân tộc của Người bao gồm:
Thứ nhất, tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: đó là cách mạng giải
phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Thứ hai, lực lượng cách mạng: bao gồm “sỹ (phong kiến), nông (nông dân),
công (công nhân), thương (tư sản và tiểu tư sản)”, trong đó công – nông là “chủ cách
mệnh”, “là gốc cách mệnh”.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Thứ ba, lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản.


bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Thứ tư, về quan hệ với cách mạng thế giới: Cách mạng giải phóng dân tộc nằm
trong quỹ đạo, quan hệ của cách mạng vô sản thế giới... Cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng phải chủ
động và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Thứ năm, về phương pháp cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, vì vậy phải động viên, tổ chức và lãnh đạo đông đảo quần chúng... Quần chúng
một khi được giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam

11
Về tổ chức, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc).
Tháng 6/1925 người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương trình và
điều lệ của hội nêu rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau
khi cách mạng thành công, hội chủ trương thành lập chính phủ nhân dân, mưu cầu
hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa thực hiện, đoàn
kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới. Từ năm 1925 đến
năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị
cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm
kinh tế chính trị trong nước. Năm 1928, hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa
hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường quan điểm giai cấp
công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào
phong trào cách mạng Việt Nam. Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt
Nam ưu tú gửi đi học lại trường Đại học Phương Đông (Liên bang Xôviết) và trường
Lục Quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt
đầu phát triển cơ sở, đến năm 1927, các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây
dựng cơ sở trong Việt kiều ở Thái Lan. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tuy chưa
phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm,
lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn đến sự ra đời của các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam.
Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, các cuộc đấu tranh của công nhân Việt
Nam trong giới chủ diễn ra với hình thức sơ khai như: bỏ trốn tập thể, phá giao kèo,
đưa đơn phản kháng… về sau tiến đến hình thức đấu tranh cao hơn như bãi công.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Trong những năm 1919 – 1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình
thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài
Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi
Nam Định 30/4/1925 đòi chủ nghĩa tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập…Nhìn
chung, phong trào công nhân năm 1919 – 1925 đã có những bước phát triển so với
trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, các cuộc
đấu tranh của công nhân diễn ra quy mô lớn hơn với thời gian lâu hơn.
Trong những năm 1926 – 1929 phong trào công nhân dân dưới sự lãnh đạo của
các tổ chức như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, công hội đỏ và các tổ chức

12
cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam mang tính
chất chính trị rõ rệt, mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành,
và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản. Cùng vào thời gian này phong trào yêu nước phát triển
mạnh mẽ đặc biệt là phong trào nông dân, diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Năm
1927, nông dân làng Ninh Thạnh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và chủ
nghĩa chiếm ruộng đất. Nông dân các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình,
Nghệ An, Hà Tĩnh đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất đòi chia ruộng công. Phong
trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân,
phong kiến. Chủ nghĩa Mác – Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái
Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”5. Nó lôi cuốn những người yêu
nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát
triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo. Chỉ trong một thời
gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ
có Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929). Ở Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng
(7/1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929). Điều đó phản
ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản
hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức
thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người
chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy
tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng
sản duy nhất ở Việt Nam.
BbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
Tóm lại: ..
nnnnnnnnnnnnnnnnnnnn
1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

5
PGS.TS Bùi Đình Phong (2019), Dấu ấn của Lênin với thời đại và cách mạng Việt Nam,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/v-i-lenin/nghien-cuu-hoc-tap-tu-
tuong/dau-an-cua-lenin-voi-thoi-dai-va-cach-mang-viet-nam-3505, truy cập ngày 12/03/2024.

13
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

1.2.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên


Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
“Cương lĩnh chính trị đầu tiên” của Đảng xác định những nhiệm vụ cụ thể của
cách mạng Việt Nam:
Về mặt chính trị: Đưa mục tiêu đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh
và tổ chức quân đội công nông, giành độc lập cho dân tộc lên vị trí hàng đầu. Nghĩa là
nhiệm vụ hàng đầu đặt ra là phải đánh đuổi thực dân, sau đó là lật đổ phong kiến,
giành lại độc lập về cho nhân dân Việt Nam. Chỉ có khi cách mạng hướng đến độc lập,
tự do cho toàn dân thì mới có thể thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Về mặt kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp
lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh. Xác định rõ mục tiêu mà
cách mạng Việt Nam hướng đến là đế quốc vì lúc bấy giờ, phần lớn sản nghiệp đều
trong tay chúng chứ không phải là phong kiến Việt Nam. Toàn bộ sản nghiệp thu được
sẽ giao lại cho nhân dân. Chính phủ công nông binh là chính phủ của nhân dân, giao
ruộng đất lại cho Chính phủ cũng như muốn nói rằng ruộng đất giành lại là của nhân
dân, giải quyết tình trạng mất đất, mất ruộng của dân cày.
Về mặt văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá. Vì thực tiễn nhân dân Việt Nam lúc
bấy giờ, họ khao khát tự do, họ muốn thoát khỏi áp bức, bóc lột, mong muốn một xã
hội bình đẳng. Do đó, điều này sẽ thu hút được đông đảo quần chúng tham gia đấu
tranh.

bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

14
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Về tập hợp lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân – đây là
lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Đảng chủ trương
đoàn kết toàn bộ giai cấp, lực lượng tiến bộ, yêu nước tập trung chống đế quốc và tay
sai. Thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi
các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, tổ chức yêu nước, cách mạng trên cơ sở
đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam 6. Vì lúc
bấy giờ, toàn thể nhân dân Việt Nam đều có thái độ thù địch đối với Pháp, là một yếu
tố để có thể tập hợp, làm hùng hậu lực lượng cách mạng. Cương lĩnh còn xác định lực
lượng nòng cốt là nông dân và công nhân, trong đó, công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Vì họ đều có tinh thần cách mạng triệt để khi không còn gì để mất, chỉ có
cách mạng thành công thì họ mới có thể có được tự do. Giai cấp công nhân là giai cấp
“vô sản triệt để”, không còn tài sản, do đó, chỉ khi công nhân lãnh đạo mới có thể đưa
cách mạng Việt Nam đi đúng hướng, giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc lột,
hướng tới xã hội bình đẳng.

bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Về phương hướng chiến lược: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội chủ nghĩa”. Đảng xác định cách mạng Việt Nam phải trải
qua 3 giai đoạn đi từ cách mạng tư sản dân quyền sau đó đến thổ địa cách mạng và
tiến lên cộng sản chủ nghĩa, chỉ duy nhất con đường này mới đem lại thắng lợi. Giải
quyết từng nhiệm vụ một, đặt giải phóng dân tộc lên ưu tiên hàng đầu, thổ địa cách
mạng không phải là một nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền, diễn ra đồng thời
với chống đế quốc cách mạng mà là phải tự tách thành 1 giai đoạn riêng và tiến hành
sau. Vì thực tế lúc đó ruộng đất dù quan trọng nhưng không quan trọng bằng việc lật

6
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội, tr.66.

15
đổ đế quốc, giải quyết vấn đề độ c lập dân tộc, Đảng xác định mâu thuẫn giữa nông
dân và địa chủ Việt Nam không quá xâu sắc, vấn đề ruộng đất luôn tự điểu hòa theo
dòng chảy của lịch sử. Vì vậy trước tiên cần làm cách mạng tư sản dân quyền trước để
dành độc lập dân tộc, đồng thời xóa bỏ sự cai trị về chính trị của phong kiến, thực hiện
dân quyền, dân chủ sau đó tiến hành thổ địa cách mạng xóa bỏ triệt để phong kiến,
giành lại đất đai cho nông dân. Cương lĩnh cũng không quên đề ra con đường phát
triển đất nước sau khi chế độ phong kiến bị xoá bỏ, đó là đi lên Chủ nghĩa Xã hội và
hướng đến Cộng sản Chủ nghĩa, một xã hội giúp thoả mãn nguyện vọng của nhân dân
Việt Nam lúc bấy giờ.
Về phương pháp tiến hành cách mạng: Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh
rằng mọi nỗ lực nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình với chính quyền thực dân
Pháp đã không mang lại kết quả mong muốn, mà ngược lại đã dẫn đến hậu quả đau
lòng là mất mát chủ quyền quốc gia. Những bài học đắt giá từ quá khứ, từ sự nhượng
bộ vô ích của triều đình nhà Nguyễn, cho đến thất bại của chính sách bảo hộ và cải
cách của Phan Bội Châu, đều chỉ ra rằng chỉ có thông qua cuộc đấu tranh vũ trang,
mạnh mẽ và quyết đoán chúng ta mới có thể đánh thắng kẻ thù, và tái lập chính quyền
của nhân dân.
Xác định tinh thần đoàn kết: Để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Cương
lĩnh chỉ rõ không chỉ sức mạnh nội tại mà còn cần sự đoàn kết quốc tế. Cương lĩnh
khẳng định rằng sự ủng hộ từ các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản toàn cầu, đặc
biệt là từ giai cấp vô sản Pháp là yếu tố không thể thiếu trong cuộc đấu tranh. Cách
mạng vô sản Việt Nam là một phần không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới,
và do đó, việc đoàn kết các giai cấp bị áp bức, bóc lột là bước đi chiến lược, nhằm
hình thành một liên minh toàn cầu chống lại ánh thống trị và bất công. Sự đoàn kết
này không chỉ là nền tảng cho sự thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
mà còn là động lực cho sự tiến bộ và phát triển của cách mạng vô sản quốc tế.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”, “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số
lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng 7”. Chỉ
có duy nhất Đảng Cộng sản là đủ khả năng tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân
cũng như lãnh đạo, đề ra phương hướng chiến lược đúng đắn.
Tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam:
Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra gồm 2 mục tiêu cơ bản: Khẳng định chủ quyền dân
tộc và thúc đẩy quyền dân chủ. Trọng tâm là cuộc chiến chống lại sự áp bức của Pháp
và lực lượng phong kiến phản động, mục tiêu cấp bách là dành lại quyền tự do và độc
7
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.67.

16
lập cho dân tộc Việt Nam. Các nhiệm vụ cách mạng không chỉ dừng lại ở mặt trận
chính trị mà còn lan tỏa sâu rộng đến các lĩnh vực kinh tế và xã hội, phản ánh chính
xác những vấn đề cấp thiết cần được giải quyết: nền kinh tế suy tàn đời sống nhân dân
ngày càng khốn khó và mâu thuẫn gay gắt giữ nhân dân Việt Nam và lực lượng thống
trị cùng tay sai của chúng. Cương lĩnh cam kết thực hiện cuộc cách mạng toàn diện,
triệt để nhằm loại bỏ hoàn toàn sự đô hộ và bóc lột khắc nghiệt từ bên ngoài, từ đó
giải phóng hoàn toàn dân tộc, giải phóng các giai cấp lao động, xây dựng một xã hội
tự do, công bằng.
Việc xác định lực lượng cách mạng là phải đoàn kết toàn dân, trong đó công
nhân, nông dân là lực lượng chủ đạo, công nhân là giai cấp lãnh đạo là vô cùng đúng
đắn khi Cương lĩnh đã rút ra bài học từ những phong trào yêu nước đi trước, đều thất
bại vì đều diễn ra lẻ tẻ, thiếu sự hợp tác, thống nhất, đồng thời, cũng đã thành công
xác định đúng đắn lực lượng nòng cốt và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Đồng thời,
Cương lĩnh đã không bỏ quên những bộ phận tư sản dân tộc, những tiểu tư sản và tiểu,
trung địa chủ yêu nước vì họ cũng là một thành tố quan trọng làm nên thành công của
cách mạng và ở họ vẫn tồn tại tinh thần dân tộc cũng như mâu thuẫn sâu sắc với đế
quốc thực dân. Cương lĩnh đã rất sáng suốt khi nhận ra chỉ có liên minh công - nông
thôi là chưa đủ mà phải là đoàn kết toàn dân, toàn thể giai cấp đứng lên đấu tranh.
Phương pháp bạo lực cách mạng là giải pháp tối ưu lúc bấy giờ. Với lòng căm
phẫn của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với thực dân xâm lược, con đường bạo lực
cách mạng chính là con đường đúng đắn nhất để giành lại độc lập dân tộc, giúp xoá đi
lòng căm phẫn của nhân dân, đồng thời, đánh đuổi hoàn toàn bọn thực dân xâm lược.
Về phương hướng chiến lược, Cương lĩnh đã chỉ ra được ba giai đoạn mà cách mạng
Việt Nam phải trải qua: cách mạng phản đế, đến thổ địa cách mạng và cuối cùng đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chỉ có khi từng nhiệm vụ được thực hiện một cách triệt để thì mới
có thể thành công, trong đó phản đế là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu vì mâu thuẫn gay
gắt lúc bấy giờ là giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với Pháp.
Lúc bấy giờ, trên thế giới đang tồn tại rất nhiều những áp bức, bóc lột, nhiều
quốc gia, dân tộc phải chịu sự đàn áp của chủ nghĩa đế quốc, và đây chính là một điều
kiện khách quan thuận lợi để quần chúng nhân dân có thể tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế, từ các quốc gia thuộc địa, từ giai cấp vô sản quốc tế, tạo thành làn sóng nổi
dậy, giành độc lập, giành chủ quyền. Do đó, tính đoàn kết quốc tế cũng đã được nêu
cao.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được Cương lĩnh xác định là một trong những yếu tố
quan trọng, quyết định thành công của phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc. Các
phong trào trước đây, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại chính là việc chưa có một
tổ chức kêu gọi toàn dân đoàn kết khởi nghĩa và thiếu đi đường lối, kế hoạch cụ thể rõ
ràng. Do đó, Cương lĩnh đã chỉ rõ cần có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kêu gọi,

17
vân động, đoàn kết quần chúng nhân dân chiến đấu cũng như vạch ra đường lối để
phát triển.
Tóm lại:
Đảng Cộng sản Việt Nam ….
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản ánh một
cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện bản lĩnh chính
trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa
nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát
thực thái độ của các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, văn
kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng
thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng cách mạng
để thực hiện đường lối chiến lược đã đề ra.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Việt Nam dưới ách thống trị của Pháp đã trở nên kiệt quệ về kinh tế, suy thoái
về chính trị, văn hoá. Trong xã hội lúc bấy giờ cũng phân hoá thành nhiều giai tầng
với thái độ chính trị khác nhau. Mâu thuẫn xã hội gay gắt, trong đó, sâu sắc hơn cả là
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân xâm lược. Trước tình hình đó, vào
những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930, phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến và khuynh hướng tư sản đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp
nhưng do còn thiếu đường lối chính trị đúng đắn, không có đủ sức hút để tập hợp toàn
dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp, nên tất cả đều lần lượt
thất bại. Và thực tiễn lúc bấy giờ đòi hỏi phải có một đường lối đấu tranh, cứu nước
thích hợp, có thể tập hợp đông đảo nhân dân cũng như phù hợp với thực trạng Việt
Nam lúc bấy giờ. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm
bôn ba, đã lựa chọn được con đường đấu tranh theo khuynh hướng chính trị vô sản.
Sau khi lựa chọn được con đường phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng lý luận cách
mạng Việt Nam và chuẩn bị chu toàn cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đồng thời,
truyền bá tư tưởng Mác - Lênin, dấy lên phong trào đấu tranh khuynh hướng chính trị
vô sản. Sau khi ba tổ chức cộng sản đầu tiên ra đời, phong trào yêu nước khuynh
hướng vô sản tiếp tục phát triển và đòi hỏi cần một chính đảng thống nhất để lãnh đạo
quần chúng.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 6/1 đến ngày
7/2/1930, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, thảo luận và thông qua cách văn kiện quang
trọng do Người soạn thảo trong đó có hai văn kiện hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của xã hội và của

18
cách mạng, xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam,
đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng cách
mạng Việt Nam. Đến ngày 24/2/1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
chính đảng duy nhất được hoàn thành, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Theo Cương
lĩnh, xác định:
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Lực lượng cách mạng: toàn thể dân tộc Việt Nam, nông dân là lực lượng chủ
đạo, công nhân là giai cấp lãnh đạo. Đường lối chiến lược: tiến hành cách mạng tư sản
dân quyền, sau đó là thổ địa cách mạng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp cách mạng: bạo lực cách mạng.
Tinh thần đoàn kết quốc tế: khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải
tranh thủ sự đoàn kết quốc tế, sự ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Đảng Cộng sản lãnh đạo, quán triệt tư tưởng và đề ra đường lối đấu tranh cho
cách mạng Việt Nam.

19
CHƯƠNG 2
LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 - 1945)

2.1. Luận cương chính trị


2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị
Ngay sau khi Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam kết thúc vào ngày
18/02/1930, đã đặt cột mốc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản Cương lĩnh
chính trị đầu tiên, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và thông qua tại Hội nghị. Tuy nhiên,
sau khi nhận được thông báo và toàn bộ tài liệ`u về văn kiện từ Nguyễn Ái Quốc trình
ra, Quốc tế Cộng sản đã khiển trách một số nội dung được trình bày trong văn kiện là
không phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra một số nội
dung cần được hiệu chỉnh lại như sau:
Một là, vấn đề đặt tên, trong khi cả ba nước Đông Dương đều đang bị Thực dân
Pháp đô hộ, việc đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam được xem là việc làm đơn
phương, ích kỉ, vì cả cả ba nước đều có một kẻ thù chung nhưng lại chia ra 3 Đảng
riêng biệt.

Hai là, vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng, Chủ trương của cương lĩnh là tập
hợp tất cả các giai cấp đồng lòng yêu nước, muốn hợp sức chống lại ách thống trị của
thực dân Pháp. Điều này là không phù hợp với quan điểm của Quốc tế Cộng sản vì đã
đưa giai cấp tư sản và phong kiến vào lực lượng cách mạng Đông Dương.

Ba là, về việc giải quyết hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, Cương
lĩnh chính trị đầu tiên đã tách biệt 2 vấn đề “thổ địa cách mạng” và “tư sản dân
quyền”, không đồng thời làm hai việc này. Trái với quan điểm đó, Quốc tế Cộng sản
cho rằng, phải chống lại phong kiến một cách triệt để và toàn diện, đầu tư toàn bộ lực
lượng để đánh phong kiến.

Trong bối cảnh lúc bấy giờ, Đồng chí Trần Phú đã được Quốc tế Cộng sản và
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước sau một thời gian dài học tập ở Liên Xô và
được bổ nhiệm vào Ban Chấp hành Trung ương đương thời, sau đó, chính đồng chí đã
chỉ đạo hội nghị Trung ương lần thứ nhất (14-30/10/1930 tại Hương Cảng (Trung
Quốc). Tại đây, Đảng thông qua một số các nội dung quan trọng sau đây:

Một là, quyết định ra Án Nghị quyết thủ tiêu Cương lĩnh chính trị đầu tiên
(02/1930).

20
Hai là, quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản
Đông Dương theo đúng tinh thần chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản.

Ba là, thảo luận Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Điều
lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng.

Bốn là, cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, đồng chí Trần Phú làm
Tổng Bí thư.

2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị


Nhiệm vụ cách mạng

Luận cương nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng: “Trong lúc đầu, cuộc cách
mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền”, “có tánh chất thổ
địa và phản đế”8. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thành công, sẽ tiếp tục “phát
triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa ”9.
Như vậy, văn kiện này xác định trong cách mạng tư sản dân quyền có cả thổ địa, có cả
phản đế. Tức là, việc chống đế quốc và chống phong kiến cần được tiến hành cùng
một lúc và chống cả về chính trị lẫn kinh tế. Trong khi đó, Cương lĩnh chính trị đầu
tiên lại đặt thổ địa cách mạng ra ngoài cách mạng tư sản dân quyền và chống phong
kiến chỉ dừng lại về mặt chính trị, còn chống đế quốc cả về kinh tế lẫn chính trị.

b. Lực lượng cách mạng

Luận cương chính trị xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực
chính của cách mạng tư sản dân quyền. Trong đó, “vô sản giai cấp thành một động
lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương, và lại là giai cấp lãnh đạo cho
dân cày và quần chúng lao khổ làm cách mạng”10. Bên cạnh đó, giai cấp phong kiến
được xem là đối tượng cần phải đánh đổ, do vậy mà trong tập hợp lực lượng cách
mạng, văn kiện này hiển nhiên không tập hợp phong kiến.
Về giai cấp tư sản, văn kiện này nhận định rằng đối với đế quốc chủ nghĩa thì
bọn chúng có vị trí không đều nhau. Cụ thể, “bọn tư bổn thương mại” (tư sản thương
nghiệp) sẽ đứng về cùng phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ để chống lại cách
mạng. Mặt khác, “bọn tư bổn công nghệ” (tư sản công nghiệp) chỉ đứng về mặt quốc
gia cải lương và khi phong trào cách mạng nổi lên cao thì bọn này sẽ theo phe đế quốc
chủ nghĩa. Như vậy, theo nhận định của Đảng thì giai cấp tư sản nói chung sớm muộn
gì cũng theo đế quốc, chống lại cách mạng, do vậy, chúng không thể là một bộ phận
trong lực lượng cách mạng được.

8
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.97.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.98.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.101.

21
Đối với giai cấp tiểu tư sản, văn kiện nêu rõ: bọn thủ công nghiệp có ác cảm
với cả đế quốc và phong trào cách mạng vô sản cho nên đối với cách mạng thì thái độ
của chúng rất chi là do dự; bọn tiểu thương gia thì không tán thành cách mạng; bọn
tiểu tư sản trí thức thì có tinh thần hăng hái tham gia chống đế quốc chủ nghĩa nhưng
chỉ vào thời kỳ đầu mà thôi. Vậy, giai cấp tiểu tư sản cũng không thể trở thành lực
lượng tham gia cách mạng vô sản được.
c. Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Luận cương đã được chỉnh sửa theo ý đồ của Quốc tế Cộng sản, từ “chỉ mỗi ở
Đảng Cộng sản Việt Nam” thành phạm vi ba nước Đông Dương

2.1.3 Nhận xét và so sánh Luận cương chính trị (10/1930) và Cương lĩnh chính trị
(2/1930)
a. Nhận xét Luận cương chính trị (10/1930)

Về ưu điểm, Luận cương chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc
về chiến lược của cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra.
Thứ nhất, xác định phương hướng chiến lược của cách mạng bao gồm các giai
đoạn chính như: cách mạng tư sản dân quyền (thổ địa cách mạng) và tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, xác định và tách biệt rõ hai nhiệm vụ căn bản của cách mạng là chống
đế quốc và chống phong kiến.
Thứ ba, khẳng định lực lượng quan trọng, chính yếu của cách mạng chính là
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.
Thứ tư, xác định nhiệm vụ, vai trò cốt yếu của Đảng Cộng sản là tổ chức đại
biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản, là nhân tố lãnh đạo quan trọng, duy nhất của
cách mạng.
Thứ năm, nhận định phương pháp cách mạng xuyên suốt là bạo lực cách mạng.
Thứ sáu, tái khẳng định mối quan hệ khăng khít, mật thiết giữa cách mạng
Đông Dương với cách mạng vô sản thế giới hay giữa giai cấp vô sản Đông Dương với
giai cấp vô sản quốc tế.
Về nhược điểm,
Thứ nhất, hạn chế trong đánh giá mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Đông Dương –
quá đề cao, nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp.
Thứ hai, hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến. Đó là Đảng đã quá nhấn mạnh vấn đề chống phong kiến, thậm
chí còn cho rằng phản đế và phản phong có mối quan hệ khăng khít, không thể tách
rời.

22
Thứ ba, trong tập hợp lực lượng cách mạng, Luận cương đã đề cao quá mức vai
trò của công – nông trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng lại chưa nhận
thấy được khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác như: phong kiến, tư sản
và tiểu tư sản.
Thứ tư, hạn chế trong xác định phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc. Với việc
khuếch trương phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc từ Việt Nam thành trên toàn cõi
Đông Dương, Luận cương chưa thực sự đề cao quyền tự quyết của các dân tộc, chưa
khai thác được tính năng động, sáng tạo của từng dân tộc trong sự nghiệp tự giải
phóng cho chính mình.
Nguyên nhân của những hạn chế kể trên xuất phát từ việc nhận thức chưa đầy
đủ về thực tiễn cách mạng ở thuộc địa, bên cạnh đó còn do chịu ảnh hưởng của tư
tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế
Cộng sản và một số Đảng Cộng sản lúc bấy giờ.

2.2. Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến năm
1945

2.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939
Tình hình thế giới: Đầu tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, cụ
thể là ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Sau
khi Pháp tham gia chiến tranh, chính phủ Pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước
và phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng
Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được
tăng cường, lệnh thiết lập quân luật được ban bố. Ngày 28/9/1939, Toàn quyền Đông
Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra
ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm
hội họp và tụ tập nơi đông người,…
Tình hình Việt Nam: Do tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền
Pháp thực thi chính sách thời chiến một cách thô bạo ở Đông Dương. Là thuộc địa
đem lại lợi ích kinh tế hàng đầu cho Pháp, trong chiến tranh, Đông Dương càng bị
thực dân Pháp bóc lột ghê gớm. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, phát
xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính sách
tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Ngay sau
khi Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mất,
chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời chú trọng các đô thị.
Nội dung Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939
Thứ nhất, nhiệm vụ cách mạng: Sau khi phân tích rõ mâu thuẫn chủ yếu ở
Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, hội nghị
xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế

23
quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn
độc lập. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, thay bằng
khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và
địa chủ phản bội dân tộc chia cho dân cày. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận
Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương
nhằm đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc
Đông Dương. Hội nghị tháng 11/1939 tiếp tục khẳng định lại tính đúng đắn của
Cương lĩnh chính trị đầu tiên khi nhận định rõ mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
đế quốc và toàn thể dân tộc bị áp bức bóc lột. Đứng trước lợi ích của dân tộc và lợi ích
của cá nhân, Hội nghị đã nhận định rõ rằng là vấn đề ruộng đất tuy quan trọng nhưng
vấn đề dân tộc vẫn quan trọng hơn, khi đã đánh đổ được đế quốc xâm lược thì vấn đề
ruộng đất cũng sẽ được giải quyết. Đồng thời trong Hội nghị này đã bổ sung một điểm
quan trọng so với Cương lĩnh, đó chính là tịch thu ruộng đất địa chủ phản bội dân tộc
chia cho dân cày.
Thứ hai, lực lượng cách mạng: Liên minh công- nông là "hai lực lượng chính
của cách mạng" để đoàn kết tất cả các giai cấp các đảng phái, các dân tộc và cá nhân
yêu nước ở Đông Dương nhằm đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai.
Thứ ba, phương pháp cách mạng: Hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi
quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và
tay sai, từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp
“bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc".
Thứ tư, phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: trên toàn Đông Dương. Đây là điểm
hạn chế so với Cương lĩnh, vì tình hình kháng chiến ở các nước Đông Dương là khác
nhau và nếu tiến hành trên phạm vi lớn sẽ khó có thể tập hợp lực lượng một cách triệt
để và không khai thác được hết quyền tự quyết của từng dân tộc.
Nhận xét: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939 đã khắc
phục được những hạn chế so với Luận cương chính trị (10/1930) khi làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và thổ địa, xác định rõ nhiệm vụ phản đế là quan
trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng không tiến hành nhất loạt ngang nhau
giữa hai nhiệm vụ đó. Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng tháng
11/1939 đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận và đường lối phương pháp
cách mạng của Đảng, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng.

2.2.2. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940
Tình hình thế giới: Tháng 6-1940 nước Pháp, một cường quốc thực dân châu
Âu bị Đức chiếm đóng. Ở Phương Đông, phát xít Nhật nổi lên trở thành một thành
viên quan trọng của trục phát xít. Mục tiêu của Nhật là nhanh chóng cướp lấy những
thuộc địa và nửa thuộc địa rộng lớn của các nước đế quốc như: Trung Quốc, Đông

24
Dương và các nước Đông Nam châu Á. Tháng 9-1940 đế quốc Pháp cam chịu đầu
hàng, để quân Nhật chiếm Đông Dương.

Tình hình Việt Nam: Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
Việt Nam. Tại Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện chính sách thống trị thời chiến phản
động bằng cách phát xít hóa bộ máy thống trị; ban hành lệnh tổng động viên, thực
hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”. Ngày 22/9/1940, phát xít Nhật vào Việt Nam. Sau
đó một ngày, ngày 23/9/1940, Pháp đầu hàng Nhật và câu kết với nhau để thống trị,
bóc lột nhân dân Việt Nam, đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh một cổ hai tròng. Chính
vì thế, đời sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với phát
xít Pháp - Nhật ngày càng gay gắt.

Trước tình thế ấy, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940 đã
xác định các nhiệm vụ được đặt ra trong hoàn cảnh mới. Hội nghị đã xác định nhiệm
vụ cần phải giải quyết là “Cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời
tiến, không thể cái làm trước, cái làm sau”. “Mặc dù lúc này khẩu hiệu cách mạng
phản đế - cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn song nếu không
làm được cách mạng thổ địa thì cách mạng phản đế khó thành công. Tình thế hiện tại
không thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông
Dương”.

Về vấn đề lực lượng cách mạng, tại Hội nghị đã cho rằng giai cấp công nhân,
nông dân và phần tử lao khổ không giống như giai cấp phong kiến, tư sản và tiểu tư
sản. Vì thế vô tình tạo ra sự phân biệt trong lực lượng, không thể thống nhất được toàn
dân tham gia kháng chiến.
Nhận xét: tại Hội nghị Trung ương 11/1940, Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở,
chưa thật sự dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc
lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng 11/1939. Và do có sự phân chia các giai
cấp trong xã hội, nên Hội nghị tháng 11/1940 đã vô tình làm chia rẽ khối đại đoàn kết,
không tạo được sự liên kết giữa tất cả các thành phần yêu nước và không thấy được
khả năng cách mạng của các giai cấp khác như Hội nghị tháng 11/1939 đã nêu lên.

2.2.3. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 05/1941
Tình hình thế giới: Ngày 22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô, thế giới hình thành
hai trận tuyến: một bên là lực lượng dân chủ tiến bộ do Liên Xô đứng đầu; một bên là
khối Phát Xít Đức-Ý-Nhật. Tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh
giữa các lực lượng dân chủ với lực lượng phát xít.

Tình hình Việt Nam: Nhân dân dưới hai tầng áp bức của Nhật và Pháp. Mâu
thuẫn giữa nhân dân với Nhật và Pháp ngày càng gay gắt. Vận mệnh dân tộc trở nên

25
nguy vong không lúc nào bằng. Trong bối cảnh ấy, ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc
về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị
Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó – Cao Bằng. Về nhiệm vụ cách
mạng, Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã nhấn mạnh: “Vấn đề chính là nhận định
cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống
Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất”. Tại Hội nghị đã hết sức nhấn
mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phát xít Nhật, bởi vì dưới hai tầng áp bức Nhật –
Pháp, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không
lúc nào bằng”. Ở Đại hội đã dứt khoát khẳng định chủ trương “phải thay đổi chiến
lược” và giải thích: “ Cuộc cách mạng Đômg Dương hiện tại không phải là cuộc cách
mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền
địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải
phóng”. Trung ương Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân
quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”. Để thực hiện nhiệm vụ đó,
Hội nghị tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”,
thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Đứng trước tình thế
mới là Việt Nam cùng lúc chịu hai tầng áp bức bóc lột, Đại hội đã xác định đúng
nhiệm vụ cần thiết lúc bấy giờ là giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc với bọn đế quốc
xâm lược, đồng thời thực hiện tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho
dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức giải quyết
được vấn đề ruộng đất cho dân cày. Qua đây cho ta thấy được Hội nghị lần thứ tám đã
hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục
triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930, khẳng định lại đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

Lực lượng cách mạng: Tất cả các giai cấp, những người Việt Nam yêu nước
trong Mặt trận Việt Minh để giải phóng dân tộc. Tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân
tộc, “không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có
lòng yêu nước thương nòi cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả
ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”. Các tổ chức quần chúng trong Mặt trận
Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Trong việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc,
“điều cốt yếu là không phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản, mà điều cốt
yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quốc”.

26
Đây là quan điểm đúng đắn của Đại hội tháng 5/1941 nêu ra, kế thừa và tiếp
tục phát huy tính đúng đắn của Đại hội tháng 11/1940 và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã đề ra khi tất cả các giai cấp cùng đứng lên chống giặc giành độc lập dân tộc, nhìn
thấy được khả năng cách mạng của tất cả các tầng lớp giai cấp mà không phân biệt
giai cấp hay địa vị xã hội, chỉ cần là người có lòng yêu nước đều có thể tham gia. Và
nó đã khắc phục được những hạn chế mà Luận cương, chỉ cho rằng trong lực lượng
cách mạng không nên có các phần tử khác, chỉ có giai cấp vô sản bị áp bức bóc lột
mới nên có mặt tham gia kháng chiến, những giai cấp khác không có tinh thần kháng
chiến lâu dài vì gắp kết lợi ích với bọn thực dân.

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Đại hội đã quyết định giải quyết vấn đề dân
tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự
quyết”. Chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức của nhà nước “của chung cả
toàn thể dân tộc”. Hội nghị chỉ rõ “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính
quyền Xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng
hòa”.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 05/1941 đã khắc phục được
đề ra tại Hội nghị 11/1939 khi quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước ở Đông Dương. Qua đây có thể thấy rằng Đảng đã từng bước nhận định rõ
hơn trong quá trình thực tiễn tình hình riêng của từng nước, vì quá trình đấu tranh của
từng nước trong khu vực Đông Dương là khác nhau, phạm vi quá lớn không thể tập
trung được lực lượng và kiểm soát tốt được tình hình, đồng thồi sẽ không khai thác hết
được quyền tự quyết của dân tộc. Đây là hạn chế kéo dài và đã được Hội nghị tháng
5/1941 khắc phục và một lần nữa cho thấy được tính đúng đắn của Cương lĩnh.

Tóm lại:

Hội nghị tháng 11/1939, nhấn mạnh được mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải giải
quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp-Nhật.
Nhấn mạnh được nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ
địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của
đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng,
giảm tô, giảm tức. Bên cạnh đó, Hội nghị tháng 5/1941 đã tập hợp được tất cả các giai
cấp cùng nhau tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo khối đại đoàn kết trong dân
tộc, nhìn thấy được khả năng cách mạng của tất cả tầng lớp. Với việc quyết định giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, Hội nghị đã có bước
tiến lớn trong việc nhìn nhận và giải quyết vấn đề riêng của từng nước, khai thác được
quyền tự quyết của từng dân tộc. Như vậy, Nghị quyết hội nghị ban chấp hành trung

27
ương 5/1941 đã khắc phục triệt để được các hạn chế của Luận cương chính trị tháng
10/1930, khẳng định lại tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đại hội II
thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội kháng chiến kiến
quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động
Việt Nam”.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


LCCT
11/1939
11/1940
5/1941

28
CHƯƠNG 3
CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ HOÀN CHỈNH
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN

3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

3.1.1. Bối cảnh lịch sử


Về tình hình thế giới: Trong những năm 1946-1950, tình hình thế giới đã có
nhiều chuyển biến mới. Liên Xô không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đồng thời các
nước Đông Âu cũng bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa ra đời cũng cổ vũ phong trào cách mạng thế giới. Tuy nhiên, Mỹ
lại tang cường giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh ở Đông
Dương.
Về tình hình trong nước: Sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dày dạn kinh nghiệm lãnh
đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm đoàn kết của toàn dân tộc. Tuy nhiên,
nước ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn khi quân đội đế quốc dưới danh giải
giáp quân Nhật Bản lũ lượt tiến vào Việt Nam. Ở miền Bắc có 20 vạn quân Trung Hoa
dân quốc theo sau là Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) với âm mưu
thành lập chính phủ bù nhìn, tiêu diệt Đảng Cộng sản và chính quyền còn non trẻ của
nhân dân Việt Nam. Ở miền Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào tạo điều kiện cho
Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta còn đối mặt với nạn đói và nạn
dốt với hơn 90% dân số mù chữ, trong khi ngân sách nhà nước hầu như trống rỗng.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
Những yêu cầu Việt Nam đặt ra????

29
3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
Nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong nước và quốc tế, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập (2-1951). Tại đây, toàn bộ đường lối cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội đúc kết khái
quát trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam với những nội dung chủ yếu:
Một là, xác định tính chất xã hội: xã hội Việt Nam có ba tính chất: “dân chủ
nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến” , nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này
là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa và mâu thuẫn này
đang được giải quyết trong quá trình chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Hai là, xác định đối tượng cách mạng: “...cách mạng Việt Nam có hai đối
tượng: Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế
quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này
là phong kiến phản động”.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Ba là, xác định nhiệm vụ cách mạng: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách
mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật
sự cho dân tộc; xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”.
Các nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau; nhiệm vụ chính lúc này là hoàn
thành giải phóng dân tộc; phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết
thắng quân xâm lược.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

Bốn là, xác định lực lượng cách mạng và lãnh đạo cách mạng: Động lực của
cách mạng Việt Nam gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản
và tư sản dân tộc; những thân sĩ (địa chủ) yêu nước, tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp
và phân tử đó họp lại thành nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức
với giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

30
Năm là, xác định tính chất, đặc điểm của cách mạng: Cương lĩnh chỉ rõ: “Cách
mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo, cho nên con đường tất yếu là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một
quá trình lâu dài, và “đại thể trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ
yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng,
phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ
chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội” .
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen lẫn với nhau; nhưng mỗi
giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm.
Sáu là, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và kiến thiết quốc gia. Chính
cương chỉ rõ: vì nhân dân ta phải chống lại bọn xâm lược mạnh hơn mình nên cuộc
chiến tranh của ta phải lâu dài. Dân tộc Việt Nam phải đấu tranh gian khổ nhưng nhất
định sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn. Đảng phải tập trung lực lượng lãnh đạo chiến
tranh; mọi chính sách khác như văn hoá giáo dục, chính sách tôn giáo, chính sách dân
tộc, chính sách mặt trận… đều phải hướng vào mục tiêu chung là “đẩy mạnh kháng
chiến đến thắng lợi” .
Bảy là, trong quan hệ quốc tế, Chính cương xác định: “Cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào giải phóng dân tộc, bảo vệ hoà bình và dân chủ trên thế
giới” .
Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
Tóm lại:

3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh


Một là, về tính chất xã hội Việt Nam.
Cương lĩnh////
Luận cương
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
Sự bổ sung của văn kiện 3 ????
Nếu như Luận cương chính trị chỉ xác định tính chất xã hội Việt Nam là sự mâu
thuẫn gay gắt giữa “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên
thì địa chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa”. Nhưng khi với Chính cương đã

31
được bổ sung thêm thành “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến”,
và đã phân biệt rõ mâu thuẫn chủ yếu lúc này là với chủ nghĩa đế quốc.
Hai là, về đối tượng của cách mạng. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đối
tượng của cách mạng Việt Nam được xác định là đế quốc, phong kiến và tư sản
phản cách mạng và trong Luận cương chính trị, đối tượng của cách mạng được xác
định là phong kiến và đế quốc. Đến Chính cương Đảng Lao động Việt Nam thì đã xác
định đúng đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược còn phong kiến chỉ là đối
tượng phụ.
Ba là, về nhiệm vụ cách mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng xác định
nhiệm vụ của cách mạng nước ta là: đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản phản
cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập, tự do. Đến Luận cương chính trị thì
“tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư
bổn”, “ thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để”. Đồng thời, “tranh đấu để đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Còn trong Chính
cương Đảng thì xác định nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân
tộc; phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược, bên cạnh
đó còn nhiệm vụ phụ là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội.
Bốn là, về lực lượng cách mạng. Cương lĩnh xác định rằng, lực lượng cách
mạng gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước: công nhân; nông dân; tiểu tư
sản; trung, tiểu địa chủ; tư sản dân tộc yêu nước. Về Luận cương chính trị, xác định
giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó, “vô sản
giai cấp thành một động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương, và lại
là giai cấp lãnh đạo cho dân cày và quần chúng lao khổ làm cách mạng”. Trong khi
đó, Chính cương Đảng xác định lực lượng cách mạng đã mở rộng thành giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc; những thân sĩ (địa chủ)
yêu nước, tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phân tử đó họp lại thành nhân dân mà
nền tảng là công, nông và lao động trí thức với giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng.
Năm là, về các giai đoạn phát triển của cách mạng.
bbbbbbbbbbbbbbBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB
BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB

3.2.2. Giá trị thực tiễn


Một là, đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc (1930-
1975). Chính cương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định đúng đối tượng cách chính

32
của cách mạng là chủ nghĩa đế quốc xâm lược và có định hướng chính xác về các giai
đoạn phát triển của cách mạng. Chính cương cũng nêu rõ các chính sách trong nhiều
lĩnh vực nhằm đẩy mạnh kháng chiến và xác định đường lối đúng đắn trong công cuộc
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Hai là, đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Chính cương
của Đảng khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam, nêu cao
tinh thần bảo vệ Tổ quốc. Chính cương cũng định hướng quá trình phát triển kinh tế
và xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa và xây dựng đất nước đoàn kết và thống nhất
giữa các tầng lớp nhân dân.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3


Chính cương là sự bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển đường lối của Đảng. So
với Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị thì Chính cương đã khắc
phục được phần lớn những hạn chế đã được kiểm nghiệm dựa trên cơ sở lý luận và
thực tiễn trong cách mạng Việt Nam (1930-1975), trong đó có vai trò và sự cống hiến
vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh, sự kiên định, trí tuệ, bản lĩnh, không ngừng
sáng tạo của Đảng trên công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

33
PHẦN KẾT LUẬN
Thời kỳ phong kiến suy đồi ở Việt Nam đã mở ra một thời kỳ cai trị áp bức từ
thực dân Pháp, đẩy dân chúng vào cuộc chiến đấu khốc liệt để giành lại độc lập và cải
tổ văn hóa. Tuy nhiên, các cuộc nổi dậy đầu tiên thất bại trước sức mạnh của Pháp.
Điều này đã thúc đẩy xu hướng tư tưởng mới, đặc biệt là Marx-Lênin, với mục tiêu
tập hợp sức mạnh dân tộc chống lại thực dân. Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí
Minh, đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu
tiên, đánh dấu một bước quan trọng trong cuộc cách mạng chống Pháp.

Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 đã xác định rõ mục tiêu chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là đánh đổ thực dân Pháp và giành độc lập dân tộc. Trải qua
giai đoạn từ 1939 đến 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển và khắc phục
những hạn chế của mình, từ việc xác định nhiệm vụ cách mạng cho đến giải quyết các
vấn đề dân tộc. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng đã đánh dấu một bước trưởng
thành mới về tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng, góp phần vào chiến thắng của
cuộc kháng chiến chống Pháp và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.

34
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội.
2. TS. Phạm Hảo (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình phát triển của cách
mạng Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-
chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-voi-
qua-trinh-phat-trien-cua-cach-mang-viet-nam-2046, truy cập ngày 12/03/2024.
3. Hồ Chí Minh (1995), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
4. Hồ Chí Minh (2009), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
5. PGS.TS Bùi Đình Phong (2019), Dấu ấn của Lênin với thời đại và cách mạng
Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-
minh/v-i-lenin/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/dau-an-cua-lenin-voi-thoi-dai-va-
cach-mang-viet-nam-3505, truy cập ngày 12/03/2024.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.97.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.98.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.101.

35

You might also like