You are on page 1of 47

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA



BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG


ĐỀ TÀI: QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN
TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

LỚP L02 --- NHÓM 16 --- HK 231

Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Bích Hồng

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên


Lâm Trúc Quỳnh 2014331
Nguyễn Huỳnh Hoàng Quý 2014324
Lê Ngọc Sử 2014393
Hoàng Tuấn Tài 2114680
Lai Cẩm Tài 2014407
Lê Quốc Tài 2112223

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM
Chữ
STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả

1. Lâm Trúc Quỳnh 2014331 Chương 2 + Mở đầu 100%

Nguyễn Huỳnh
2. 2014324 Chương 3 + Tổng kết 100%
Hoàng Quý

3. Lê Ngọc Sử 2014393 Chương 2 + Mở đầu 100%

Tổng hợp và hiệu


4. Hoàng Tuấn Tài 2114680 100%
chỉnh word

5. Lai Cẩm Tài 2014407 Chương 3 + Tổng kết 100%

6. Lê Quốc Tài 2112223 Chương 1 100%

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

Lai Cẩm Tài


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1


PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................ 4
Chương 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG
TRỊ, KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG........................................................................ 4
1.1. Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ............................. 4
1.1.1. Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp . 4
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ cuối
thế kỷ XIX đến đầu năm 1930 ......................................................................................... 6
1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và những yêu cầu đặt ra đối
với cách mạng Việt Nam ................................................................................................. 9
1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên.... 12
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ............................................................ 12
1.2.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên ............................................................................. 12
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 16
Chương 2 LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 – 1945) ........................................ 18
2.1. Luận cương chính trị ........................................................................................... 18
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị ................................................................ 18
2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị.................................................................... 19
2.2. Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến
năm 1945 ...................................................................................................................... 22
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939 ............ 22
2.2.2. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940 ............ 24
2.2.3. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 05/1941 ............ 25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 26
Chương 3 CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ HOÀN
CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN ........ 28
3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ........... 28
3.1.1. Bối cảnh lịch sử .................................................................................................. 28
3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ............................................. 29
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân ... 34
3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh ............................................................................ 34
3.2.2. Giá trị thực tiễn .................................................................................................. 36
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 39
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................... 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 42
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, những chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề. Lúc
này, các phong trào dân tộc Việt Nam mang khuynh hướng chính trị phong kiến và tư
sản từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã liên tiếp thất bại, con đường giải phóng dân
tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến và tư sản là không thành công, độc lập dân tộc
không gắn liền với chủ nghĩa phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản. Đứng trước thực tiễn
đó, nhân dân ta cần phải đấu tranh đứng lên chống lại thực dân Pháp, đồng thời xóa bỏ
chế độ phong kiến và lựa chọn con đường phát triển cho đất nước. Lịch sử đặt ra yêu
cầu cấp thiết: phải tìm một con đường cứu nước mới. Trong quá trình tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa.Những lý tưởng của Hồ
Chí Minh đã làm cở sở cho sự phát triển của con đường cách mạng vô sản, cũng như
sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư
tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta; là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự
ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại. Sự ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đánh dấu bước phát triển vượt
bậc của cách mạng Việt Nam khi có một tổ chức lãnh đạo chính thức.
Từ khi đảng ra đời cùng với cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cho đến
Chính cương Đảng lao động Việt Nam là cả một quá trình đảng từ bước hoàn chỉnh và
phát triển đường lối chiến lược của cách mạng cũng như bổ sung và khắc phục những
hạn chế. Bổ sung thêm về mặt lí luận, hoàn chỉnh về mặt lí luận .Và nhờ vậy đã giúp
cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 93 năm lịch sử đấu tranh đầy gian khổ và
hy sinh, đồng thời xây dựng nên một lịch sử vinh quang đáng tự hào. Từ cuộc cách
mạng tháng 8, với bản tuyên ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh. Đảng đã luôn đứng
vững và lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua những thách thức lớn, từ cuộc chiến
tranh với Pháp và Mỹ đến quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Đảng đã kiên trì
theo đuổi lý tưởng và mục tiêu cách mạng, bổ sung và phát triển đường lối dưới sự
khích lệ của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự đoàn kết của Nhân dân và sự lãnh đạo của
Đảng đã giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, từ ổn định kinh tế, kiểm
soát lạm phát. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc

1
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho Nhân dân Việt Nam, với sự thấm
nhuần rằng lợi ích của Nhân dân luôn gắn liền với lợi ích của Đảng và lý tưởng của
Đảng cũng là mơ ước của Nhân dân. Đặc biệt trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế Đảng đã đưa vị thế của Việt Nam trong trường quốc tế ngày cảng cao, mở
rộng hợp tác một cách chiến lược và toàn diện với nhiều quốc gia trên thế giới, những
nước lớn trên thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thành công, Đảng cũng vướng phải
một số hạn chế do nhận thức chưa đầy đủ Đảng đã có một số những chính sách chủ
trương còn nhiều hạn chế sai lầm ảnh hưởng đến những quá trình đấu tranh giải phóng
dân tộc và phát triển đất nước. Mặt khác dưới tác động của nền kinh tế thị trường, sức
mạnh của đồng tiền và một bộ phận đảng viên đã bị tha hóa, biến chất. Thậm chí có
những đảng viên cấp cao không vượt qua cám dỗ của đồng tiền vướng phải vòng lao
lí.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập phát triển mang cho Việt Nam nhiều
những cơ hội cho phát triển cùng với đó là nhiều thách thức trong đó có những thách
thức căng thẳng và các thể lực luôn tìm cách chống phá. Đặt biệt khi chế độ xã hội
chủ nghĩa rơi vào thoái trào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tan rã. Trên thế
giới chỉ cong một số ít quốc gia tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa. Do vậy để thủ
tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tìm cách chống phá và Việt Nam là trọng tâm.
Việc nghiên cứu quá trình Đảng từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Chính cương Đảng Lao
động Việt Nam để hướng đến những mục tiêu:
Có đầy đủ những cơ sở về mặt khoa học trong thực tiễn. Từ thực tiễn để khẳng
định sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam một đảng lãnh đạo duy nhất đối với cách
mạng Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử là tất yếu và không thể thay đổi. Trong
suốt quá trình ấy độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa .Giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mặc dù trong quá trình lãnh đạo tuy đảng có mắc những sai lầm
song một khi đầy bản lĩnh tất cả vì vấn đề dân tộc và từng bước khắc phục những hạn
chế nếu Đảng tất cả một lòng vì dân và vì nước. Qua đó giúp ta có những cơ sở để bác
bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực trong vấn đề chống phá Đảng, chống
phá nhà nước và những công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của Việt Nam, góp
phần cho chúng ta có những nhận thức đúng đắn và rõ ràng hơn để khẳng định trong
nhận thức của mình là trong suốt quá trình ấy ta cần thiết phải bảo vệ định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước nghĩa là bảo vệ công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước của Việt Nam.
Với những lí do trên nhóm, chọn chọn đề tài: “Quá trình hoàn thiện đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Chính

2
cương Đảng Lao động Việt Nam” làm bài tập lớn để kết thúc môn học Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống
trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng;
Hai là, phân tích được nội dung của Luận cương chính trị với những ưu điểm
và hạn chế và quá trình khắc phục hạn chế về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
của Đảng;
Ba là, làm rõ nội dung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn
chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng.
Bốn là, làm rõ giá trị của việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân
chủ Nhân dân đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam.

3
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ, KHAI
THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.1. Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1.1.1. Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
Sau cuộc tấn công đầu tiên của thực dân Pháp vào Đà Nẵng năm 1858, triều
đình nhà Nguyễn đã từng bước thoả hiệp với các Hiệp ước năm 1862, 1874, 1883 và
đến ngày 6/6/1884, với Hiệp ước Patơnốt, Việt Nam đã hoàn toàn trở thành thuộc địa
của thực dân Pháp.
Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu triển khai những cuộc khai thác thuộc địa
ở Việt Nam với mưu đồ biến nước ta nói riêng và các nước Đông Dương nói chung
thành thị trường tiêu thụ hàng hoá “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên,
bóc lột lao động, áp đặt nhiều thuế khoá nặng nề.
Về kinh tế: chúng thi hành chính sách độc quyền kinh tế, khai thác, vơ vét triệt
để nước ta để phục vụ cho tư sản Pháp; duy trì nền sản xuất phong kiến lạc hậu khiến
cho nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, tiến triển chậm, què quặt, phiến diện
và lệ thuộc vào Pháp.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, chính sách
chuyên chế điển hình, đàn áp mọi phong trào và hành động yêu nước của người Việt
Nam, mọi quyền tự do đều bị cấm; thi hành chính sách “chia để trị”, chia rẽ ba nước
Đông Dương, Việt Nam bị chia thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với ba chế
độ cai trị riêng biệt. Chúng chia rẽ, gây thù hằn trong nhân dân giữa các dân tộc, các
tôn giáo.
Về văn hóa – xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ dàng
cai trị, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã
hội mới, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”…1
Dưới ách áp bức, bóc lột, nô dịch của thực dân Pháp, giai cấp cũ ở Việt Nam
dần bị phân hóa và giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với những thái độ khác nhau đối
với cách mạng Việt Nam:

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, trang 40

4
Giai cấp địa chủ bị phân hóa: một bộ phận câu kết với thực dân Pháp, trở thành
cánh tay đắc lực của chúng, áp bức, bóc lột nhân dân, đàn áp phong trào yêu nước của
ta; một bộ phận địa chủ phong kiến bị Pháp chèn ép, đã đứng lên đấu tranh, nêu cao
tinh thần dân tộc, bảo vệ chế độ phong kiến.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất và cũng là giai cấp bị bóc lột
nặng nề nhất, trước đây, nông dân vốn bị địa chủ bóc lột, chiếm đoạt ruộng đất, giờ
đây còn bị áp đặt nhiều thứ thuế khóa nặng nề từ Pháp. Do đó, bên cạnh mâu thuẫn
với địa chủ, còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân Pháp, trở thành lực lượng quan
trọng cho cách mạng Việt Nam.
Bộ phận nông dân mất hết ruộng đất phải đi làm cho các nhà máy, xí nghiệp,…
trở thành giai cấp công nhân, chịu đựng ba tầng áp bức, bởi thực dân Pháp, địa chủ và
tư sản, tuy nhiên vì ra đời muộn nên chịu nhiều ảnh hưởng của giai cấp công nhân
quốc tế, trở thành lực lượng độc lập có thể lãnh đạo cách mạng.
Tư sản Việt Nam ra đời sau giai cấp công nhân, gồm hai bộ phận: tư sản mại
bản, câu kết với thực dân Pháp, trở thành tay sai cho Pháp; bộ phận tư sản dân tộc bị
chèn ép rất nhiều bởi tư sản Pháp và tư sản Hoa, địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt vẫn
mang tinh thần yêu nước, sẵn sàng đứng lên chiến đấu cùng nhân dân.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do,
buôn bán nhỏ,... có đời sống bấp bênh, dễ phá sản. Đây là bộ phận có tinh thần dân
tộc, yêu nước, nhạy cảm với chính trị, thời cuộc, bị đế quốc và tư bản chèn ép, khinh
miệt.
Sĩ phu phong kiến cũng phân hóa: một bộ phận hướng sang tư tưởng dân chủ tư
sản hoặc tư tưởng vô sản; một bộ phận khởi xướng phong trào yêu nước, có ảnh
hưởng lớn.
Chính vì sự phân hóa giai tầng đa dạng, trong tình trạng đất nước vô cùng đặc
biệt - đất nước “thuộc địa nửa phong kiến” - khiến cho các giai tầng có thái độ chính
trị rất khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, toàn thể nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ đều
bị áp bức, bóc lột nặng nề bởi Pháp, không kể thuộc giai tầng nào, có trở thành tay sai
cho Pháp hay không, đều bị xem là những thành phần dưới trướng tư sản Pháp. Chính
vì vậy, mâu thuẫn trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với Pháp.
Như vậy, trước sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, nền kinh tế,
chính trị, văn hóa Việt Nam ngày càng sa sút, tụt hậu, đồng thời, xã hội dần phân hóa
thành nhiều giai cấp, tầng lớp; mâu thuẫn xã hội lúc bấy giờ không chỉ là mâu thuẫn
giữa nông dân với địa chủ mà còn có mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân với thực dân
xâm lược. Giữa hai mâu thuẫn ấy, sâu sắc hơn cả chính là mâu thuẫn với đế quốc xâm

5
lược. Bên cạnh đó, sau khi đã đánh đuổi được thực dân thì xóa bỏ chế độ phong kiến
cũng là một nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện. Như vậy, thực tiễn đã đặt ra cho xã
hội Việt Nam hai nhiệm vụ trọng yếu: đánh đuổi thực dân Pháp để giải phóng dân tộc
và chọn cho mình một con đường phát triển đất nước sau khi xóa bỏ chế độ phong
kiến.
Tóm lại, dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
Việt Nam đã có những sự biến đổi quan trọng về cả chính trị, kinh tế, xã hội. Nền kinh
tế ngày càng kiệt quệ, lỗi thời và lạc hậu. Những giai cấp vốn có bị phân hóa và giai
cấp, tầng lớp mới xuất hiện với thái độ chính trị khác nhau. Các sĩ phu phong kiến
cũng dần bị phân hoá. Những mâu thuẫn mới trong xã hội cũng dần xuất hiện mà
trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bộ phận
phong kiến phản quốc trở thành mâu thuẫn chủ yếu và ngày càng trở nên gay gắt, đặt
ra nhiệm vụ thực tiễn: chống đế quốc, giải phóng dân tộc, đồng thời lựa chọn con
đường phát triển đất nước lâu dài.
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư
sản từ cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930
Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của
nhân dân Việt Nam diễn ra liên tục, rộng khắp. Các phong trào liên tiếp nổ ra và có sự
chuyển biến từ khuynh hướng chính trị phong kiến sang khuynh hướng chính trị tư
sản.
Khuynh hướng chính trị phong kiến:
Năm 1884, dù triều đình nhà Nguyễn, với hiệp ước Patơnốt, đã đầu hàng trước
thực dân xâm lược, một bộ phận phong kiến yêu nước vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang
chống Pháp, tiêu biểu phải kể đến chính là phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua
Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết lãnh đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, diễn ra
sôi nổi, thể hiện tinh thần quật cường chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Ngày
1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển cho
đến năm 1896 mới kết thúc.
Tuy nhiên, ngọn cờ phong kiến đã không thể tập hợp rộng rãi toàn thể nhân dân
đứng lên chiến đấy, đến năm 1896, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại là
dấu mốc chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến với phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp ở Việt Nam.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nổ ra phong trào nông dân Yên
Thế ở Bắc Giang mà lãnh đạo là Hoàng Hoa Thám, đấu tranh kiên cường suốt 30
năm, song cũng vẫn thất bại do mang nặng “cốt cách phong kiến” – không mở rộng
hợp tác và thống nhất rộng rãi toàn dân.

6
Có thể thấy, những phong trào yêu nước lúc bấy giờ theo khuynh hướng phong
kiến đều nhận về kết cục thất bại mặc dù đã diễn ra rất sôi nổi, quyết liệt. Điều này là
bởi tư tưởng phong kiến không thể tập hợp được rộng rãi nhân dân kháng chiến mà
chủ yếu là diễn ra riêng lẻ theo từng bộ phận. Đồng thời, nhà nước phong kiến đã
không còn nhận được sự tin tưởng từ nhân dân sau khi đã nhiều lần để đất nước rơi
vào cảnh khốn cùng.
Khuynh hướng chính trị tư bản:
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu sự ảnh
hưởng, tác động của trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan
Bội Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư sản
trí thức của Việt Nam Quốc dân Đảng1.
Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo, với phương pháp bạo
động chống Pháp, đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập. Đến
năm 1908, do sự nhúng tay của thực dân Pháp, những thanh niên ấy đã bị trục xuất về
lại Việt Nam. Sau đó, với sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911), Phan Bội
Châu đã lập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội (1912) với tôn chỉ vũ trang đánh
Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hoà Dân quốc Việt Nam, đến cuối
cùng đã thất bại do kế hoạch thiếu rõ ràng.
Không đi theo con đường bạo động cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh lựa chọn con đường cải cách đất nước, bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân
quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp bằng cách “bảo hộ” Pháp tiến hành
cải cách, tuy nhiên, vì ông đã sai lầm khi đặt lòng tin vào thực dân xâm lược, “đặt vào
lòng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử hoàn sinh cho nước Nam,… Cụ không rõ
bản chất của đế quốc thực dân”2 nên công cuộc cải cách cuối cùng cũng đã thất bại.
Đứng trước công cuộc khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp, các giai
cấp, tầng lớp mới dần bước lên vũ đài chính trị, Nguyễn Thái Học đã chủ trương tổ
chức Việt Nam Quốc dân Đảng. Đến tháng 12/1927, tại Bắc Kỳ, Việt Nam Quốc dân
Đảng ra đời trên cơ sở các tổ chức yêu nước của tiểu tư sản với mục tiêu đánh đuổi
thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương
pháp đấu tranh vũ trang manh động, ám sát cá nhân, lực lượng chủ yếu là binh lính,
sinh viên,…Cuộc khởi nghĩa diễn ra ở một số tỉnh và mạnh mẽ nhất là ở Yên Bái
(2/1930). Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa Yên Bái dù diễn ra oanh liệt, vẫn là “một cuộc

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021) Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.45.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021) Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.46 - 47.

7
bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non để rồi chết luôn không bao giờ ngóc đầu
lên nổi”1, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thất bại.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản, dựa trên tư tưởng của tư bản
chủ nghĩa - một hệ tư tưởng hiện đại - cũng đã diễn ra rất mạnh mẽ, song cũng đều
thất bại. Bởi lẽ, với tư cách là một quốc gia thuộc địa, tiềm lực không quá mạnh mẽ,
việc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa dường như là quá sức đối với Việt Nam, phần
lớn đều phải dựa vào sự trợ giúp từ các nước bên ngoài - điều này đã được thể hiện
khi Phan Bội Châu đã cho thanh niên Việt Nam đi học tập tại Nhật Bản cũng như khi
Phan Châu Trinh cải cách đất nước đã phải dựa vào Pháp - và đồng thời là do đã
không thể tập hợp toàn dân kháng chiến.
Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài, đi từ khuynh hướng chính trị phong kiến
đến tư sản, phong trào yêu nước ở Việt Nam đều nhận lại kết cục thất bại bởi lẽ thực
tiễn đã cho thấy con đường phong kiến, con đường tư sản đều không phải là định
hướng thích hợp cho Việt Nam lúc bấy giờ. Trước hết là khuynh hướng chính trị
phong kiến, vì nhà nước phong kiến đã cho thấy sự bất lực của mình trong việc bảo vệ
đất nước trước sự xâm lược của Pháp, do đó, việc đi theo khuynh hướng này thiết lập
lại chế độ phong kiến sau khi phong trào thành công không thể thu hút đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia. Đối với khuynh hướng chính trị tư sản, với tình trạng kiệt
quệ của nền kinh tế, suy thoái về mặt văn hoá - giáo dục đã khiến cho nước ta không
còn đủ tiềm lực để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, đồng thời, trước mâu thuẫn
hiện thời trong xã hội, việc đi lên tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không có sức hút với
đông đảo quần chúng nhân dân.
Thực tiễn Việt Nam bấy giờ yêu cầu một con đường đấu tranh, một khuynh
hướng chính trị có thể thu hút đông đảo quần chúng nhân dân - cho họ thấy được một
xã hội nơi mà họ được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột sau khi thành công - và đồng
thời còn phải nằm trong khả năng mà nước Việt Nam có thể thực hiện được.
Tóm lại, vào những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930, phong trào yêu
nước theo khuynh hướng phong kiến và khuynh hướng tư sản đã diễn ra quyết liệt,
liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều khuynh hướng khác nhau, song đều hướng đến
mục tiêu giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, do còn thiếu đường lối chính trị đúng đắn
để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội, chưa có một tổ
chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được
phương pháp đấu tranh thích hợp, nên tất cả đều lần lượt thất bại. Mặc dù đã thất bại,
các phong trào yêu nước đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, thúc

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021) Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.48.

8
đẩy những nhà yêu nước, những thanh niên tri thức lựa chọn một con đường mới, một
giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế thời đại.
1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và những yêu cầu đặt
ra đối với cách mạng Việt Nam
Đứng trước thực trạng khốn cùng của đất nước cũng như chứng kiến sự thất bại
của biết bao phong trào yêu nước. Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng thực tiễn nước Việt
Nam bấy giờ yêu cầu phải có một con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc
phù hợp. Năm 1911, ông ra đi tìm đường cứu nước và xuyên suốt mười năm bôn ba,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đấu tranh theo khuynh hướng chính trị vô sản,
phù hợp với thực đất nước Việt Nam cũng như đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của
toàn thể nhân dân.
Sau khi lựa chọn được con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung
xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh có
thể nói là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ
thể của nước ta, xác định:
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì lúc bấy giờ tại Việt Nam, mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân với thực dân Pháp đang là mâu thuẫn cấp bách cần được giải
quyết, do đó, giải phóng dân tộc phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Sau đó, khi nhân
dân đã được giải phóng, đất nước sẽ đi lên xã hội chủ nghĩa, đây cũng chính là xã hội
có thể thoả mãn nguyện vọng của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Lực lượng cách mạng: bao gồm “sỹ, nông, công, thương” , tức là bao gồm
đông đảo nhân dân cả nước từ “sỹ” là các tầng lớp tri thức, “nông” là những nông dân
làm ruộng đến “công” là giai cấp công nhân lao động và “thương” là những người làm
về thương mại. Vì toàn thể nhân dân Việt Nam đều có lòng căm thù sâu sắc đối với
Pháp, nên toàn thể nhân dân đều có thể trở thành một phần trong lực lượng cách
mạng, đều sẵn sàng đứng lên đấu tranh giành độc lập. Hơn nữa, để đối đầu với một
thế lực lớn mạnh như Pháp, lực lượng bắt buộc phải thật hùng hậu, không thể nào là
đơn lẻ bất kỳ một giai tầng nào.
Lãnh đạo cách mạng: Đảng Cộng sản là duy nhất vì chỉ có Đảng Cộng sản mới
đủ khả năng tập hợp đông đảo toàn thể nhân dân đứng lên chiến đấu.
Quan hệ với cách mạng thế giới: cách mạng vô sản Việt Nam nằm trong quỹ
đạo của cách mạng vô sản quốc tế và có mối liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở
chính quốc. Sau khi đã giải phóng dân tộc thì phải đi lên Chủ nghĩa Xã hội nhằm giải
quyết vấn đề giai cấp thì mới có thể giải quyết vấn đề dân tộc vì chỉ khi có thể xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, xoá bỏ mâu thuẫn giai cấp thì tình trạng dân tộc này bóc

9
lột dân tộc khác, sự thù địch giữa các dân tộc mới biến mất theo đó. Tuy nhiên, chúng
ta phải chủ động đấu tranh và phong trào giải phóng dân tộc có khả năng sẽ thành
công trước cách mạng vô sản ở Pháp.
Phương pháp cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp chung
của toàn thể các giai tầng ở Việt Nam vì nhân dân chính là nòng cốt của cách mạng
chứ không phải chỉ là những cá nhân anh hùng, chỉ cần nhân dân giác ngộ, có đường
lối rõ ràng, có lãnh đạo thì lực lượng sẽ vô cùng lớn mạnh.
Cuối năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung
Quốc), tiếp xúc với các thanh niên trong tổ chức “Tâm tâm xã” và từ đó lựa chọn một
số thanh niên tích cực để tuyên truyền giác ngộ và thành lập Cộng sản đoàn. Tháng
2/1925, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn một số thanh niên tích cực, yêu nước thành lập tổ
chức “Cộng sản đoàn”. Tháng 06/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, trụ sở tại Quảng Châu, với mục đích: làm cách mệnh dân tộc
và sau đó làm cách mạng thế giới; phát hành Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của
báo chí cách mạng Việt Nam. Đồng thời, mở các lớp đào tạo cán bộ cho các thanh
niên tích cực sang Quảng Châu về lý luận chính trị để chuẩn bị cho mặt trận sự ra đời
của chính đảng vô sản đầu tiên cảu giai cấp công nhân Việt Nam
Từ khi ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thực hiện chủ trương
“Vô sản hoá”, đưa các thành viên tham gia vào các nhà máy, xí nghiệp, bến cảng, đồn
điền để tuyên truyền và vận động cách mạng. Với những hoạt động tích cực sau khi
thành lập, chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận, lôi cuốn những người yêu
nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, dấy lên cao trào đấu tranh mạnh
mẽ, sôi nổi khắp cả nước, đặc biệt là phong trào công nhân trong đó giai cấp công
nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Và kể từ đây, phong trào
yêu nước khuynh hướng vô sản nở rộ, phát triển mạnh mẽ, đi từ tự phát đến tự giác.
Giai đoạn tự phát: Trước những năm 1925, do chưa có chủ trương và đường
lối cách mạng đúng đắn, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản thường
có quy mô nhỏ hẹp do sự yếu thế của giai cấp công nhân lúc bấy giờ. Ở giai đoạn này,
phong trào công nhân vẫn còn nhiều hạn chế, phần lớn diễn ra trong các nhà máy, xí
nghiệp, đồn điền với mục đích chủ yếu là tập trung vào kinh tế và hầu hết các phong
trào đều diễn ra tự phát. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son vào tháng
08/1925 bùng nổ có nhà lãnh đạo và được tổ chức chặt chẽ, là cuộc khởi nghĩa duy
nhất có đường lối rõ ràng trong giai đoạn này, đánh dấu một bước ngoặt lớn của
phong trào công nhân, phong trào yêu nước khuynh hướng vô sản ở Việt Nam.
Giai đoạn tự giác: Từ năm 1925 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam nói
chung và phong trào công nhân nói riêng đã được thúc đẩy một cách nhanh chóng,
10
nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Trong năm
1926, hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra mạnh mẽ như: cuộc bãi công
của công nhân ở nhà máy sợi Nam Định, xi măng Hải Phòng ,… đặc biệt là hai cuộc
đấu tranh với quy mô lớn như các đồn điền Cam Tiêm, Phú Riềng ở phía Nam. Năm
1927, có đến hai mươi bảy cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân được bùng nổ,
phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản nở rộ khắp cả nước. Năm 1928-1929,
với hơn bốn mươi cuộc đấu tranh có quy mô và chất lượng, tăng gấp 2,5 lần so với hai
năm 1926-1927, đã đem đến một kết quả là ba tổ chức cộng sản đầu tiên của Việt nam
ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929),
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929). Đây chính là giai đoạn đỉnh cao của các
phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Những yêu cầu đặt ra đối với cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ:
Khi phong trào yêu nước khuynh hướng vô sản bước vào giai đoạn tự giác,
hình thức đấu tranh ở giai đoạn này chủ yếu là đình công với mục đích là đấu tranh cả
về kinh tế và chính trị chứ không đơn thuần vì quyền lợi kinh tế như giai đoạn trước.
Quy mô rộng khắp cả nước, có sự lãnh đạo, đoàn kết của toàn dân, cũng nhờ đó mà
sức mạnh của các phong trào yêu nước vô sản tăng lên gấp bội. Đấu tranh giành độc
lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của
cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết
Bên cạnh đó, lúc bấy giờ, Việt Nam đang tồn tại đồng thời ba tổ chức cộng sản
cùng hoạt động. Với phong trào yêu nước đang ngày một phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi
cần phải có một chính đảng thống nhất để kêu gọi và lãnh đạo quần chúng nhân dân
chiến đấu, quán triệt tư tưởng, đưa ra đường lối cách mạng đúng đắn.
Tóm lại, nhận định được thực tiễn cùng những yêu cầu mà thực tiễn đặt ra cho
cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước và tìm ra con
đường đấu tranh theo khuynh hướng chính trị vô sản, cùng với đó xây dựng lý luận
cách mạng Việt Nam và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên sau khi được thành lập đã truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin,
vận động nhân dân đấu tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân, đi từ tự phát đến tự giác. Phong
trào phát triển đến đỉnh cao vào giai đoạn 1928-1929 dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức
cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Cũng cùng lúc này, một yêu cầu được đặt ra đối với
cách mạng ở Việt Nam đó chính là việc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt
với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ cũng như đòi hỏi phải có một chính đảng
thống nhất.

11
1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên
của Quốc tế Cộng sản, ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hồng Kông (Trung
Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
đến họp tại Cửu Long (Hồng Kông), tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam1.
Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
thành phần tham dự gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và 2 đại biểu
của An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của
Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn kiện quan trọng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo:
Chánh cương vấn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt
của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt nam. Hội nghị xác định Đảng là để
lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, xây dựng xã hội
cộng sản. Hội nghị chủ trương tổ chức Trung ương lâm thời để lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ, tỉnh bộ,
thành bộ hoặc đặc biệt bộ và Trung ương, xây dựng các tổ chức công hội, nông hội,
cứu tế, tổ chức phản đế, xuất bản tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Đến ngày 24/2/1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính
đảng duy nhất được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp uỷ Đảng Cộng sản
Việt Nam, chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Và kể từ giờ, Việt Nam đã có một chính đảng thống nhất – Đảng Cộng sản Việt
Nam.
1.2.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Chính cương vắn tắt
của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng, phản ánh về đường hướng phát triển và
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Hai văn
kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, xác định mục tiêu chiến
lược của cách mạng Việt Nam.
Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam, một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, trong đó thì mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với đề quốc ngày càng gay gắt và cần được giải quyết, nội dung cơ bản như sau: Xác
định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.60.

12
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định những nhiệm vụ cụ thể của
cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội
công nông, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Nghĩa là nhiệm vụ
hàng đầu đặt ra là phải đánh đuổi thực dân, sau đó là lật đổ phong kiến, giành lại độc
lập về cho nhân dân Việt Nam. Chỉ có khi cách mạng hướng đến độc lập, tự do cho
toàn dân thì mới có thể thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn
của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh. Xác định rõ mục tiêu mà cách
mạng Việt Nam hướng đến là đế quốc vì lúc bấy giờ, phần lớn sản nghiệp đều trong
tay chúng chứ không phải là phong kiến Việt Nam. Toàn bộ sản nghiệp thu được sẽ
giao lại cho nhân dân. Chính phủ công nông binh là chính phủ của nhân dân, giao
ruộng đất lại cho Chính phủ cũng như muốn nói rằng ruộng đất giành lại là của nhân
dân, giải quyết tình trạng mất đất, mất ruộng của dân cày.
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hoá. Vì thực tiễn nhân dân Việt Nam lúc bấy
giờ, họ khao khát tự do, họ muốn thoát khỏi áp bức, bóc lột, mong muốn một xã hội
bình đẳng. Do đó, điều này sẽ thu hút được đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh.
Về lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân – đây là lực lượng
cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Đảng chủ trương đoàn kết
toàn bộ giai cấp, lực lượng tiến bộ, yêu nước tập trung chống đế quốc và tay sai. Thực
hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp,
tầng lớp nhân dân yêu nước, tổ chức yêu nước, cách mạng trên cơ sở đánh giá đúng
đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam1. Vì lúc bấy giờ, toàn
thể nhân dân Việt Nam đều có thái độ thù địch đối với Pháp, là một yếu tố để có thể
tập hợp, làm hùng hậu lực lượng cách mạng. Cương lĩnh còn xác định lực lượng nòng
cốt là nông dân và công nhân, trong đó, công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Vì
họ đều có tinh thần cách mạng triệt để khi không còn gì để mất, chỉ có cách mạng
thành công thì họ mới có thể có được tự do. Giai cấp công nhân là giai cấp “vô sản
triệt để”, không còn tài sản, do đó, chỉ khi công nhân lãnh đạo mới có thể đưa cách
mạng Việt Nam đi đúng hướng, giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc lột, hướng tới
xã hội bình đẳng.

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.66.

13
Phương hướng chiến lược: "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội chủ nghĩa". Cách mạng Việt Nam phải trải qua 3 giai đoạn đi từ
cách mạng tư sản dân quyền sau đó đến thổ địa cách mạng và tiến lên cộng sản chủ
nghĩa, và cũng chỉ có con đường này mới có thể đưa đến thắng lợi: giải quyết từng
nhiệm vụ một, ưu tiên giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thổ địa cách mạng không phải
là một nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền, diễn ra đồng thời với chống đế
quốc cách mạng, mà phải là một giai đoạn cách mạng riêng sau đó. Vì lúc bấy giờ,
ruộng đất tuy quan trọng nhưng không quan trọng bằng việc lật đổ đế quốc, giải quyết
vấn đề dân tộc - vì mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ ở Việt Nam không quá sâu
sắc, vấn đề ruộng đất từ xưa đến nay vẫn luôn được tự điều hoà. Do đó, trước tiên, cần
thực hiện tư sản dân quyền cách mạng trước để giành lại độc lập dân tộc, đồng thời
xoá bỏ sự cai trị về mặt chính trị của chế độ phong kiến, thực hiện dân quyền, dân chủ
và sau đó mới tiến hành thổ địa cách mạng, xóa bỏ triệt để chế độ phong kiến, giành
lại đất đai cho nông dân. Cương lĩnh cũng không quên đề ra con đường phát triển đất
nước sau khi chế độ phong kiến bị xoá bỏ, đó là đi lên Chủ nghĩa Xã hội và hướng
đến Cộng sản Chủ nghĩa, một xã hội giúp thoả mãn nguyện vọng của nhân dân Việt
Nam lúc bấy giờ.
Về phương pháp tiến hành cách mạng: Cương lĩnh đã khẳng định phải bằng
con đường bạo lực cách mạng của quần chúng. Vì thực tiễn trước đó đã chứng minh
hoà hoãn với Pháp là hoàn toàn vô dụng, ngược lại, đã để mất nước, chính là một bài
học kinh nghiệm rút ra từ những phong trào đi trước, khi sự nhân nhượng của triều
đình Nguyễn không đổi lại sự hoà bình với thực dân Pháp mà thay vào đó là thực
trạng nước Việt Nam bị biến thành thuộc địa của chúng. Hay cũng từ sự kiện Phan
Châu Trinh bảo hộ Pháp cải cách nước Việt Nam cũng đi đến con đường thất bại. Với
bọn thực dân, chỉ có đấu tranh bằng vũ lực, đánh bại chúng mới có thể giành lại chính
quyền.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh chỉ rõ khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, phải tranh thủ sự đoàn kết quốc tế, sự ủng hộ của các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Vì cách mạng vô sản
Việt Nam nằm trong quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, do đó, cần phải đoàn kết,
liên hiệp với những quốc gia thuộc địa cũng như các giai cấp bị áp bức, bóc lột trên
thế giới, hình thành một liên minh toàn cầu.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”, “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số

14
lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”1. Chỉ
có duy nhất Đảng Cộng sản là đủ khả năng tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân
cũng như lãnh đạo, đề ra phương hướng chiến lược đúng đắn.
Tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam:
Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra bao hàm hai nội dung: dân tộc và dân chủ,
chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ dân tộc, mục
tiêu trước mắt là giành lấy độc lập tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Những nhiệm
vụ về phương diện kinh tế và xã hội vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội cần
giải quyết – nền kinh tế dần kiệt quệ, nhân dân ngày càng đói khổ, mâu thuẫn sâu sắc
giữa toàn thể người dân Việt Nam với đế quốc và tay sai – vừa thể hiện tính cách
mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại
bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Việc xác định lực lượng cách mạng là phải đoàn kết toàn dân, trong đó công
nhân, nông dân là lực lượng chủ đạo, công nhân là giai cấp lãnh đạo là vô cùng đúng
đắn khi Cương lĩnh đã rút ra bài học từ những phong trào yêu nước đi trước, đều thất
bại vì đều diễn ra lẻ tẻ, thiếu sự hợp tác, thống nhất, đồng thời, cũng đã thành công
xác định đúng đắn lực lượng nòng cốt và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Đồng thời,
Cương lĩnh đã không bỏ quên những bộ phận tư sản dân tộc, những tiểu tư sản và tiểu,
trung địa chủ yêu nước vì họ cũng là một thành tố quan trọng làm nên thành công của
cách mạng và ở họ vẫn tồn tại tinh thần dân tộc cũng như mâu thuẫn sâu sắc với đế
quốc thực dân. Cương lĩnh đã rất sáng suốt khi nhận ra chỉ có liên minh công - nông
thôi là chưa đủ mà phải là đoàn kết toàn dân, toàn thể giai cấp đứng lên đấu tranh.
Phương pháp bạo lực cách mạng là giải pháp tối ưu lúc bấy giờ. Với lòng căm
phẫn của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với thực dân xâm lược, con đường bạo lực
cách mạng chính là con đường đúng đắn nhất để giành lại độc lập dân tộc, giúp xoá đi
lòng căm phẫn của nhân dân, đồng thời, đánh đuổi hoàn toàn bọn thực dân xâm lược.
Về phương hướng chiến lược, Cương lĩnh đã chỉ ra được ba giai đoạn mà cách
mạng Việt Nam phải trải qua: cách mạng phản đế, đến thổ địa cách mạng và cuối cùng
đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có khi từng nhiệm vụ được thực hiện một cách triệt để thì
mới có thể thành công, trong đó phản đế là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu vì mâu thuẫn
gay gắt lúc bấy giờ là giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với Pháp.
Lúc bấy giờ, trên thế giới đang tồn tại rất nhiều những áp bức, bóc lột, nhiều
quốc gia, dân tộc phải chịu sự đàn áp của chủ nghĩa đế quốc, và đây chính là một điều

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, tr.67.

15
kiện khách quan thuận lợi để quần chúng nhân dân có thể tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế, từ các quốc gia thuộc địa, từ giai cấp vô sản quốc tế, tạo thành làn sóng nổi
dậy, giành độc lập, giành chủ quyền. Do đó, tính đoàn kết quốc tế cũng đã được nêu
cao.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được Cương lĩnh xác định là một trong những yếu tố
quan trọng, quyết định thành công của phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc. Các
phong trào trước đây, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại chính là việc chưa có một
tổ chức kêu gọi toàn dân đoàn kết khởi nghĩa và thiếu đi đường lối, kế hoạch cụ thể rõ
ràng. Do đó, Cương lĩnh đã chỉ rõ cần có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kêu gọi,
vân động, đoàn kết quần chúng nhân dân chiến đấu cũng như vạch ra đường lối để
phát triển.
Tóm lại, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản
ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện bản
lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội
thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những
mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là việc đánh giá đúng
đắn, sát thực thái độ của các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ
đó, văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam,
đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng cách
mạng để thực hiện đường lối chiến lược đã đề ra.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Việt Nam dưới ách thống trị của Pháp đã trở nên kiệt quệ về kinh tế, suy thoái
về chính trị, văn hoá. Trong xã hội lúc bấy giờ cũng phân hoá thành nhiều giai tầng
với thái độ chính trị khác nhau. Mâu thuẫn xã hội gay gắt, trong đó, sâu sắc hơn cả là
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân xâm lược. Trước tình hình đó, vào
những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930, phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến và khuynh hướng tư sản đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp
nhưng do còn thiếu đường lối chính trị đúng đắn, không có đủ sức hút để tập hợp toàn
dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp, nên tất cả đều lần lượt
thất bại. Và thực tiễn lúc bấy giờ đòi hỏi phải có một đường lối đấu tranh, cứu nước
thích hợp, có thể tập hợp đông đảo nhân dân cũng như phù hợp với thực trạng Việt
Nam lúc bấy giờ. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm
bôn ba, đã lựa chọn được con đường đấu tranh theo khuynh hướng chính trị vô sản.
Sau khi lựa chọn được con đường phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng lý luận cách
mạng Việt Nam và chuẩn bị chu toàn cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đồng thời,
truyền bá tư tưởng Mác - Lênin, dấy lên phong trào đấu tranh khuynh hướng chính trị
vô sản. Sau khi ba tổ chức cộng sản đầu tiên ra đời, phong trào yêu nước khuynh

16
hướng vô sản tiếp tục phát triển và đòi hỏi cần một chính đảng thống nhất để lãnh đạo
quần chúng. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 6/1 đến
ngày 7/2/1930, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, thảo luận và thông qua cách văn kiện
quang trọng do Người soạn thảo trong đó có hai văn kiện hợp thành Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của xã hội
và của cách mạng, xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng
cách mạng Việt Nam. Đến ngày 24/2/1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất được hoàn thành, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Theo Cương lĩnh, xác định:
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Lực lượng cách mạng: toàn thể dân tộc Việt Nam, nông dân là lực lượng chủ
đạo, công nhân là giai cấp lãnh đạo.
Đường lối chiến lược: tiến hành cách mạng tư sản dân quyền, sau đó là thổ địa
cách mạng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp cách mạng: bạo lực cách mạng.
Tinh thần đoàn kết quốc tế: khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải
tranh thủ sự đoàn kết quốc tế, sự ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Đảng Cộng sản lãnh đạo, quán triệt tư tưởng và đề ra đường lối đấu tranh cho
cách mạng Việt Nam.

17
Chương 2
LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 – 1945)
2.1. Luận cương chính trị
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị
Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua Hội nghị thành lập Đảng xác định
nhiều nội dung quan trọng, phù hợp với đặc điểm và mâu thuẫn trong xã hội Việt
Nam, là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam trong
đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết. Như
vậy, Cương lĩnh đã đưa ra rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù
của cách mạng vô sản. Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã nêu rõ ra nhiệm vụ cấp bách
lúc bây giờ là chống đế quốc về mặt chính trị lẫn kinh tế, chỉ chống phong kiến về mặt
chính trị là phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản. Tuy
nhiên, những quan điểm đúng đắn của Cương lĩnh lại chưa được Quốc tế Cộng sản
công nhận. Đầu tiên, họ chỉ công nhận một Đảng duy nhất ở Đông Dương không công
nhận Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, Quốc tế Cộng sản cho rằng không được
đặt thổ địa ra ngoài cách mạng tư sản dân quyền, phải chống phong kiến và xem đó là
nhiệm vụ cốt lõi của thuộc địa phương Đông. Vì vậy, mâu thuẫn với quan điểm của
Quốc tế Cộng sản trong vấn đề tập hợp lực lượng. Họ không chấp nhận trong lực
lượng cách mạng có giai cấp phong kiến, tư sản và tiểu tư sản. Và cuối cùng, Quốc tế
Cộng sản cho rằng chống đế quốc là để Đông Dương độc lập và sau đó lập ra chính
phủ của liên bang Đông Dương mà không phải là chính phủ của Việt Nam. Mặc dù
đây là một văn kiện hoàn toàn đúng đắn tuy nhiên, có một vài nội dung trái với lại với
quan điểm của Quốc tế Cộng sản.
Do những mâu thuẫn trên với quan điểm của Quốc tế Cộng sản nên tháng
4/1930, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Trần Phú được cử từ Liên xô về nước.
Sau đó, tháng 7/1930, Trần Phú được cử vào ban chấp hành trung ương và được giao
nhiệm vụ chuẩn bị cho hội nghị lần thứ nhất của Đảng vào tháng 10/1930. Trong
khoảng thời gian hai tháng, ông phải khảo sát thực tiễn tại Việt Nam. Lúc bấy giờ,
phong trào cách mạng ở Việt Nam phát triển rất mạnh và đến tháng 9/1930 thì phát
triển đến đỉnh cao. Một số địa phương ở các tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã có chính
quyền Xô Viết và lực lượng trong các phong trào lúc này chủ yếu là nông dân và công
nhân.

18
Từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị
lần thứ nhất tại Hương Cảng (Hồng Kông, Trung Quốc) đã đưa ra quyết định:
Một là, thông qua Nghị quyết “Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm
vụ cần kíp của Đảng”;
Hai là, đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương;
Ba là, thảo luận Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương nhằm
thay thế cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ
Đảng và điều lệ các tổ chức quần chúng.
Bốn là, cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức, bầu đồng chí Trần Phú
làm Tổng Bí thư của Đảng.
2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị
Do còn hạn chế trong đánh giá thực tiễn của xã hội thuộc địa với những tàn tích
phong kiến còn nặng nề ở Việt Nam, ảnh hưởng bởi những nhận thức không đúng về
các nước thuộc địa ở phương Đông của Quốc tế Cộng sản, nên tại Hội nghị lần thứ
nhất của Đảng đã không thừa nhận những quan điểm đúng đắn của Cương lĩnh chính
trị đầu tiên, thậm chí phê bình gay gắt những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Hội
Việt Nam cách mạng Thanh niên tại Hội nghị thành lập Đảng, đồng thời ra Án nghị
quyết thủ tiêu Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đây là quyết định không đúng của Đảng
lúc bấy giờ. Hạn chế này của Đảng cần có thời gian khắc phục.

Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương gồm tám nội dung
chính sau đây:
Đầu tiên, Luận cương xác định mâu thuẫn cơ bản trong xã hội. Nhấn mạnh
mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là một
bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư
bản và đế quốc chủ nghĩa.
Tuy nhiên, mâu thuẫn gay gắt này gắn liền với đặc điểm của xã hội phương
Tây, còn tại phương Đông, mâu thuẫn xã hội vẫn có nhưng không gay gắt. Do ở
phương Đông, nền kinh tế rất lạc hậu nên sự phân hóa giai cấp không quyết liệt và
không gay gắt giống như phương Tây. Bên cạnh đó, Luận cương đã đặt địa chủ phong
kiến và tư sản Việt Nam đứng một phe với đế quốc là không phù hợp. Vì chỉ có một
bộ phận phong kiến (đại địa chủ) và tư sản (tư sản mại bản) là đứng cùng phe với đế
quốc chứ không phải toàn bộ. Từ đây ta thấy, lúc này đây những người cộng sản trẻ
tuổi nhận thức thực tiễn có hạn chế và từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành chủ
trương có hạn chế.

19
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương xác định cách mạng
Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế,
sau khi cách mạng tư sản dân quyền thành công sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư
bản chủ nghĩa và đi thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Về mặt chiến lược văn
kiện xác định, chiến lược cách mạng có hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là cách mạng
tư sản dân quyền gồm có thổ địa và phản đế; giai đoạn thứ hai là cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Từ đây ta thấy rằng, so với Cương lĩnh, Luận cương cũng đồng quan điểm
với Cương lĩnh ở việc là lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ cách mạng, Luận cương xác định cách mạng tư sản dân quyền có
nhiệm vụ là đánh đổ phong kiến để thực hành cách mạng ruộng đất cho triệt để và
đánh đổ đế quốc Pháp để cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Không được tách rời
hai nhiệm vụ này và đặt vấn đề thổ địa làm nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng tư sản dân
quyền.
Ở Cương lĩnh thì có cách xử lý khác nhau về mối quan hệ chống đế quốc và
phong kiến, cách mạng tư sản dân quyền không có thổ địa và thổ địa đặt ra ngoài cách
mạng tư sản dân quyền ở một giai đoạn sau và chỉ tập trung vào nhiệm vụ chống đế
quốc, chỉ chống phong kiến về mặt chính trị mà không chống phong kiến về mặt kinh
tế. Do đó, đẩy bộ phận phong kiến yêu nước ra khỏi cách mạng thì điều này không
phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Vấn đề ruộng đất tuy quan trọng nhưng vấn đề dân
tộc còn quan trọng hơn.
Về lực lượng cách mạng, văn kiện xác định giai cấp vô sản vẫn là lực lượng
chính, dân cày là động lực mạnh của cách mạng. Luận cương cho rằng: Giai cấp tư
sản, tư sản thương nghiệp, tư sản công nghiệp, là đứng về phe đế quốc chống lại cách
mạng; Giai cấp tiểu tư sản gồm bộ phận thủ công nghiệp có thái độ do dự, không
muốn tham gia cách mạng, tiểu thương gia thì không tán thành cách mạng và tiểu trí
thức thì chỉ hăng hái chống đế quốc trong thời kỳ đầu, nhưng đến khi cách mạng phát
triển “cũng sẽ theo phe đế quốc mà chống cách mạng”. Ngoài ra, Ban Thường vụ
Trung ương chủ trương “tiêu diệt địa chủ”, tịch thu tất cả ruộng đất của địa chủ mà
giao cho bần và trung nông”1.
Nhận thức này không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Ở Việt Nam, trí thức
chúng ta có tinh thần yêu nước như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú – tổng bí thư của
Đảng cũng là tác giả của bản luận cương này, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên
là nòng cốt của Đảng, lực lượng tiền thân của Đảng cũng xuất thân từ tiểu tư sản trí

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.235-
236.

20
thức. Ở Việt Nam, tất cả các giai cấp mức độ khác nhau đều mâu thuẫn với thực dân
Pháp. Nhưng văn kiện này lại xác định chỉ có công nhân nông dân và phần tử lao khổ
là lực lượng tham gia cuộc cách mạng này, nghĩa là chỉ có người nghèo mới tham gia
cách mạng khác với văn kiện đầu tiên là tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Về phạm vi cách mạng, đánh đổ đế quốc để Đông Dương độc lập, phạm vi quá
rộng sẽ dẫn đến không khai thác được quyền tự quyết của dân tộc, tinh thần yêu nước
của người dân, của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng cho chính dân tộc mình. Bên
cạnh đó, việc tập hợp lực lượng ở Việt Nam để giải phóng cho toàn Đông Dương sẽ
làm cho lực lượng của ta bị phân tán.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần
chúng về con đường tình “ võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, Đảng
phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch và giành lấy chính
quyền công nông. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải
theo khuôn phép nhà binh”. Việc xác định cách mạng phải sử dụng bạo lực đã khẳng
định quan điểm đúng đắn của mà Cương lĩnh đã đề ra: không được thỏa hiệp với Pháp
và phải sử dụng bạo lực cách mạng.
Trong quan hệ với cách mạng thế giới, cách mạng Đông Dương là một bộ phận
của cách mạng thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với
giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mất hết liên hệ với
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Điều này hoàn toàn
đồng quan điểm với Cương lĩnh.
Về lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản lãnh đạo là điều kiện cốt yếu cho
thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn,
có kỷ luật, tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiền phong của giai
cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là đại biểu chung
cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt mục đích cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản. Những quan điểm này đã khẳng định lại được quan điểm của
Cương lĩnh.
Nhận xét: Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về
chiến lược của cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu ra. Luận cương có
những ưu điểm trong phương hướng chiến lược cách mạng gồm cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa; xác định hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến; phương pháp cách mạng là bạo lực cách mạng; quan hệ mật thiết với cách mạng
thế giới; lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản. Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế:
chưa xác định đúng mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phương Đông, chưa xem xét đúng
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, vẫn còn nhấn mạnh
nhiệm vụ chống phong kiến khi đặt vấn đề thổ địa lên hàng đầu và không tách rời với
21
nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, không tập hợp được lực lượng toàn dân tộc mà chỉ một bộ
phận người nghèo ở Việt Nam; chưa thấy được khả năng cách mạng của các giai cấp
phong kiến, tư sản và tiểu tư sản; và cuối cùng là giải quyết vấn đề dân tộc trên phạm
vi toàn Đông Dương, phạm vi quá rộng, làm phân tán lực lượng, không khai thác
được quyền tự quyết và không thể hiện được tinh thần yêu nước của từng quốc gia,
dân tộc. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ và thực tiễn
cách mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều
đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong quốc tế cộng sản và một số Đảng Cộng Sản trong
thời gian đó. Hạn chế này của Đảng cần có thời gian khắc phục.
2.2. Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến
năm 1945
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939
Bối cảnh thế giới
Trong thời kỳ đế quốc vì sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, các đế
quốc thiếu nguyên liệu, thiếu thị trường phải đánh nhau để chia lại thế giới. Vào lúc
này, chiến tranh thế giới lần thứ hai đã chuyển sang giai đoạn hai. Ngày 1/9/1939,
Đức tấn công Ba Lan, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chính phủ Daladier, chính
phủ của Pháp, thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận Nhân dân Pháp tan vỡ. Ở Đông Dương,
bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố. Ngày 28/9/1939,
Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản
Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và
nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người...
Bối cảnh trong nước
Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Đông Dương và
Việt Nam. Tại Việt Nam, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa
bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính sách “kinh
tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh
đế quốc.
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng đã kịp thời rút
vào hoạt động bí mật bằng nhiều hình thức vô cùng nhạy bén, chuyển trọng tâm công
tác về nông thôn, tham gia vào hội đồng quản hạt ở địa phương, bí mật đưa người vào
nhiều nơi, tham gia vào những nơi lãnh đạo nhằm khôi phục lực lượng nhân dân để
chuẩn bị cho các giai đoạn sau.
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng (11/1939) diễn ra tại Bà Điểm xác định rõ nhiệm vụ cách mạng, xác định
22
mục tiêu chiến lược trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc
Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị chỉ rõ: “Bước đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn là con
đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da
vàng để giành lấy giải phóng độc lập”, “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây
giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới”, “ nhiệm vụ chính cốt của
cách mệnh là đánh đổ đế quốc”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền
lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng
phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”1. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương lúc này, tạm gác lại vấn đề thổ địa.
Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, xác định rõ
nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng không tiến
hành nhất loạt ngang nhau giữa hai nhiệm vụ đó. Tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa
chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của đế quốc
và Việt gian cho dân cày nghèo”. Sau khi giành được độc lập thì thành lập Chính Liên
bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương.
Về lực lượng cách mạng, chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân
yêu nước ở Đông Dương nhằm đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập
hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương. Hội nghị chỉ rõ tất cả các dân tộc, các giai
cấp, trừ một số phản động làm tay sai đế quốc, “đều phải gánh những tai hại ghê gớm
của đế quốc chiến tranh, đều căm tức kẻ thù chung là đế quốc chủ nghĩa”. Với quan
điểm toàn diện, Trung ương Đảng đã chỉ rõ những hạn chế của các giai cấp địa chủ và
tư sản, đồng thời cũng khẳng định mặt tích cực của họ: “Đám đông trung tiểu địa chủ
và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc”.
Giải quyết vấn đề dân tộc, trên phạm vi toàn Đông Dương.
So với hội nghị 10/1930, nhận thức của Đảng về đường lối cách mạng đã thay
đổi. Thay đổi trong việc tạm gác lại thổ địa, nhận thức đúng mục tiêu cốt lõi là đánh
đổ thực dân Pháp và tay sai - đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải
phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước. Bên cạnh đó,
thay đổi trong nhận thức về lực lượng toàn dân tộc Việt Nam. Và sau khi giành được
độc lập sẽ thành lập Chính Liên bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương. Và đây cũng là
thời điểm mới phát triển hơn so với luận cương chính trị đầu tiên là chính phủ công
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.534-
539.

23
nông theo hình thức Xô Viết, lực lượng đông đảo rộng hơn nhiều so với chính phủ
công nông. Nhưng vẫn còn hạn chế ở chỗ là Liên bang Đông Dương là của chung ba
nước Đông Dương. Tuy nhiên, giống như Luận cương chính trị 10/1930, vẫn giải
quyết vấn đề dân tộc trên toàn Đông Dương, chưa phát huy được quyền tự quyết của
dân tộc.
2.2.2. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940
Về bối cảnh thế giới, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào những giai đoạn
căng thẳng. Tháng 6/1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tướng Pétain ký
văn bản đầu hàng Đức. Tướng Charles De Gaulle ra nước ngoài để xây dựng lực
lượng kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng 6/1941,
Đức tiến công Liên Xô. Tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa
các lực lượng dân chủ với các lực lượng phát xít.
Về bối cảnh trong nước, ngày 22/9/1940, phát xít Nhật kéo quân vào Việt Nam,
thực dân Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông
Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Dẫn đến
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và Pháp - Nhật ngày càng gay gắt.
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng (11-1940) lập lại Ban Chấp hành Trung ương và cho
rằng: “Cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái
làm trước, cái làm sau”. “Mặc dù lúc này khẩu hiệu cách mạng phản đế - cách mạng
giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn song nếu không làm được cách mạng
thổ địa thì cách mạng phản đế khó thành công. Tình thế hiện tại không thay đổi gì tính
chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương”1.
Về lực lượng cách mạng, vấn đề về tập hợp lực lượng cách mạng cũng gặp hạn
chế. Đại hội xác định, “chính sách bòn vét của đế quốc Pháp làm cho nhân dân Đông
Dương từ giàu đến nghèo đều cảm thấy sự thiệt thòi vô kể”, vì thế, “trừ một số ít bọn
phong kiến bản xứ, một phần đại tư bản, đại địa chủ và một nhóm tiểu tư sản nhát gan
đi theo Pháp hay Nhật, còn hầu hết các tầng lớp nhân dân hiện nay đương căm tức với
đế quốc Pháp, hoặc ít nhiều căm ghét chúng”2. Tuy nhiên, có sự phân biệt trong lực
lượng, hội nghị cho rằng giai cấp công nhân, nông dân và phần tử lao khổ không
giống như giai cấp phong kiến, tư sản và tiểu tư sản.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.68,
74.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.53-
54.

24
So với Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (11/1939), thì đây là một
bước lùi khi Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật dứt khoát với chủ trương
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu cùng với đó là sự phân biệt trong tập
hợp lực lượng cách mạng dẫn đến vẫn chưa thể tập hợp được lực lượng toàn dân tộc.
2.2.3. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 05/1941
Về bối cảnh thế giới, chiến tranh thế giới lan rộng, Đức ráo riết chuẩn bị tấn
công Liên Xô, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Mỹ và Nhật tham chiến.
Về bối cảnh ở Việt Nam, hoạt động kinh tế và bộ máy cai trị ở Đông Dương
đều bị phát xít hóa. Điều này làm cho mâu thuẫn của dân tộc Đông Dương và Pháp –
Nhật ngày càng căng thẳng. Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước và làm việc ở Cao Bằng. Từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ở lán Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng).
Về nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị chủ trương “thay đổi chiến lược” và giải
thích rõ về nội dung sự thay đổi đó: “cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không
phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn
đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề
cần kíp “dân tộc giải phóng”. “Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết rằng nếu không
đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn
đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được. Vậy thì trong lúc này
muốn giải quyết nhiệm vụ giải phóng không thể đưa thêm một nhiệm vụ thứ hai chưa
cần thiết với toàn thể nhân dân, giải quyết mà có hại cho nhiệm vụ thứ nhất”". Vấn đề
ruộng đất mà Hội nghị 8 bàn đến là chia lại công điền, và chia ruộng đất “tịch thu của
Việt gian phản quốc”, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ
không phải của địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và
kinh tế. Vì thế, “Trong khi tuyên truyền, không được dùng những khẩu hiệu quá thời...
Không nên nói đánh đổ Nam triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của địa chủ mà nói
diệt trừ bọn Việt gian phản quốc”1.
Về lực lượng cách mạng, Hội nghị chủ trương: “trước hết tập trung cho được
lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú
nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất
mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh
tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai
cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật,

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.112-
127.

25
đó là công việc cốt yếu của Đảng ta”1. Hội nghị chỉ rõ “chiến thuật hiện tại của Đảng
ta là phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức
được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân”, vì thế “mặt trận hiệu triệu của Đảng
ta hiện nay không thể gọi như trước là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương, mà phải đổi ra cái tên khác cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực
dễ hiệu triệu hơn”. Đó là Việt Nam độc lập đồng minh với các đoàn thể quần chúng
mang tên “cứu quốc”. Khi tổ chức một đoàn thể cứu quốc điều cốt yếu “không phải là
những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản”, mà là “có tinh thần cứu quốc và muốn
tranh đấu cứu quốc”2.
Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, Hội nghị đã giải quyết vấn đề dân tộc
trong từng nước ở Đông Dương, thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng. Và Việt
Nam đã tách ra khỏi Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương và thành lập Mặt trận Việt
Nam độc lập đồng minh nghĩa là mặt trận Việt Minh. Thi hành chính sách “dân tộc tự
quyết”. Chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa theo tinh thần dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể
dân tộc”.
So với hội nghị 11/1939, nhận thức của Đảng về đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc đã được hoàn chỉnh về nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng và
lối đi sau khi cách mạng thành công.
So với luận cương chính trị 10/1930, Hội nghị trung ương lần thứ tám đã khắc
phục được tất cả các hạn chế của luận cương trên và hoàn chỉnh chỉ đạo chiến lược
cách mạng Việt Nam. Khắc phục những hạn chế về nhận thức trong nhiệm vụ cách
mạng – đặt nhiệm vụ phản đế lên hàng đầu; nhận thức trong tập hợp lực lượng – tập
hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thu gọn phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc lại –
giải quyết ở từng nước Đông Dương phát huy được quyền tự quyết của dân tộc, và
cuối cùng là sau khi cách mạng thành công thì đi đến thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, đưa cách mạng Việt Nam đến một cao trào mới, trực tiếp đấu tranh
giành độc lập dân tộc.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Luận cương chính trị và các nghị quyết hội nghị, Đảng đã từng bước hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc qua các giai đoạn. Luận cương chính trị

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.112-
113.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.122-
125.

26
có những ưu điểm nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Các hạn chế đó là đã
quá đề cao vấn đề đấu tranh giai cấp mà không đặt vấn đề chống đế quốc lên hàng
đầu, chưa tập hợp được lực lượng toàn dân tộc và phạm vi giải quyết các vấn đề dân
tộc trên toàn Đông Dương nên chưa phát huy được quyền tự quyết của dân tộc. Đó là
những hạn chế mà Đảng cần phải có thời gian để khắc phục.
Những hạn chế mà Luận cương vướng phải đã được khắc phục qua các Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu, bảy và tám. Tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ sáu 11/1939, Đảng đã đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên
hàng đầu và tạm gác vấn đề ruộng đất và đã tập trung được lực lượng toàn dân tộc là
những điểm mới của Hội nghị lần này so với Luận cương. Tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ bảy 11/1940, mặc dù Đảng đã khẳng định những nội
dung đúng đắn của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu 11/1939.
Tuy nhiên, Đảng lại có những sự lăn tăn về vấn đề chống đế quốc và phong kiến cũng
như tập hợp lực lượng cách mạng. Và đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
5/1941, tất cả những hạn chế của Luận cương đã được khắc phục. Đặt nhiệm vụ chống
đế quốc lên hàng đầu, tập hợp lực lượng tất cả các giai cấp trong mặt trận Việt Minh,
và để giải phóng cho đất nước Việt Nam. Điều đó đã góp phần cho thắng lợi Cách
mạng Tháng Tám thành công.

27
Chương 3
CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ HOÀN CHỈNH
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Ngày 01/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa được thành lập đi theo mô hình nhà nước chủ nghĩa xã hội. Điều này
mang lại một ý nghĩa vô cùng to lớn giúp đánh đổ một phần của hệ thống thuộc địa và
cũng như cổ vũ các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó góp phần
mở rộng thêm và đưa chủ nghĩa xã hội đến sát biên giới Việt Nam tạo điều kiện thuận
lợi cho các phong trào đấu tranh giải phóng của nước ta.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai với sự thắng lợi của quân đồng minh trước các
nước phát xít trong đó có Nhật, Đức, Ý đã bị đánh bại hoàn toàn. Sau hội nghị Lanta
năm 1945, thế giới dần trở thành trật tự hai cực. Giữa một bên là khối xã hội chủ
nghĩa do Liên Xô đứng đầu và một bên là các nước tư bản do Mĩ đứng đầu. Từ đây,
Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước nước trong thời kì ở
Đông và Trung Âu được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Liên Xô nên đã chọn con đường
phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước
thuộc địa trong thời kì này dạng cao các nước thuộc địa ở châu Á, châu phi và khu vực
Mỹ Latinh lần lượt đứng lên giành độc lập.
Với sự phát triển nhanh chóng của khối xã hội chủ nghĩa đe dọa đến chiến lược
toàn cầu của Mỹ. Mỹ đã quyết định can thiệp vào nhiều khu vực trên thế giới như ở
Đông Dương và bán đảo Triều Tiên nhằm ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ
nghĩa xã hội. Năm 1950 ở Đông Dương, Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tranh của Pháp
tại Đông Dương để hỗ trợ Pháp củng cố quyền lực tại khu vực này. Làm cho tình hình
Việt Nam trở nên khó khăn gấp bội khi không chỉ phải đối phó với Pháp mà còn phải
đối phó với sự can thiệp của Mỹ.
Tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam (1946 – 1950)
Vào cuối năm 1946, Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn khi ta bắt đầu cuộc chiến ấy mà không có
bất kì sự giúp đỡ nào từ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa anh em. Với nội dung
cơ bản của đường lối kháng chiến là “dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng

28
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”1 đã giúp cho dân tộc
ta phát huy được hết sức mạnh. Nhờ đó, đã làm cho Pháp sa lầy vào cuộc chiến tranh
ở Việt Nam mà không thu lại kết quả khả quan nào.
Việc chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp bị phá sản của Việt Nam,
vì vậy Mỹ đã can thiệp để giúp Pháp thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Nhưng dù
đã nhận được sự viện trợ hùng hậu từ Mỹ, Pháp vẫn phải nhận lấy những thất bại trên
chiến trường Việt Nam. Một vài chiến thắng tiêu biểu của Việt Nam như chiến dịch
Việt Bắc (7-10 đến 20-12-1947), chiến dịch Bắc Quảng Nam (7-1949), chiến dịch
Sông Thao (19-5 đến 18-7-1949) và nhiều chiến dịch khác nữa đã góp phần khẳng
định thế và lực của Việt Nam hiện thời đủ sức để đương đầu và chiến thắng thực dân
Pháp. Chính từ những lý do trên Việt Nam đã khẳng định được sức mạnh của mình,
được các nước trong khối xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Bên cạnh những khó khăn thì nhờ vào sự ủng hộ của bạn bè quốc tế mà Việt
Nam nhận được nhiều hỗ trợ hơn, từ đó thế và lực của dân tộc ta được củng cố. Việc
đấu tranh giải phóng dân tộc có được những điều kiện thuận lợi hơn.
Yêu cầu đặt ra cho cách mạng Việt Nam
Dựa vào bối cảnh lịch sử và tình hình thế giới, Việt Nam đã đặt ra những yêu
cầu để thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Thứ nhất, Đảng phải công khai đứng
ra lãnh đạo cách mạng đến thành công. Thứ hai, yêu cầu cấp thiết nhất lúc này là Việt
Nam cần bổ sung hoàn chỉnh đường lối chiến lược của Đảng do so với thực tiễn
đường lối trong những cương lĩnh trước kia không còn phù hợp với tình hình Việt
Nam hiện tại.
Tháng 2/1951 đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng được tổ chức ở tỉnh
Tuyên Quang, tại hội nghị này đã thông qua chính cương của Đảng lao động Việt
Nam. Tại đại hội này tổng bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách
mạng Việt Nam đó là đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
Thế giới và Việt Nam
Sau chiến tranh thế giới thứ hai sau khi chế độ phát xít sụp đổ hoàn toàn trên
toàn thế giới làm cho cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thêm trầm trọng. Liên
Xô là nước đứng đầu của phe dân chủ chống đế quốc ngày càng cường thịnh làm cho
phong trào dân chủ ở các nước thuộc địa lên cao. .

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, tr.149.

29
Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này của công nhân và nhân dân thế giới là duy trì
hòa bình. “Dưới sự lãnh đạo của Liên Xô đứng đầu là thống chế Xtalin, phe dân chủ
mở rộng thành mặt trận hoà bình thế giới, kiên quyết chống bọn gây chiến”1. Và sau
chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ sự thắng thế của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa
phát xít, cách mạng dân chủ nhân dân lan rộng trên toàn thế giới và đã thành công ở
nhiều nước ở Trung Đông Âu và Viễn Đông.
Chế độ dân chủ nhân dân thành lập, tách những nước đó ra khỏi hệ thống đế
quốc chủ nghĩa. Phong trào giải phóng những nước thuộc địa và nữa thuộc địa diễn ra
sôi nổi làm lay chuyển hệ thống đế quốc chủ nghĩa đến tận nền tảng. Do sự lớn mạnh
của các phong trào nêu trên bọn đế quốc trong đó có Anh, Pháp, Hà Lan đã dùng
những thủ đoạn xảo quyệt để mua chuộc giai cấp tư sản và địa chủ bản quốc để duy trì
sự thống trị.
Nhưng những dân tộc thuộc địa lúc này đã nhận ra rõ bản chất của những nước
đế quốc và con đường duy nhất để cứu sống dân tộc là đoàn kết, kiên lạc mật thiết với
nhân dân thế giới và kiên quyết đấu tranh bằng vũ trang lâu dài dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Trong giai đoạn này Việt Nam là một tiền đồn của phe dân chủ ở
Đông Nam Á và tiêu biểu là cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào giải
phóng dân tộc, bảo vệ hòa bình và dân chủ trên thế giới.
Nội dung của chương đầu tiên là về bối cảnh của thế giới sau chiến tranh thế
giới thứ hai sau khi chế độ phát xít sụp đổ hoàn toàn trên toàn thế giới làm cho cuộc
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thêm trầm trọng. Liên Xô nước đứng đầu của phe
dân chủ chống đế quốc ngày càng cường thịnh làm cho phong trài dân chủ ở các nước
thuộc địa lên cao. Mặt khác, Mỹ là nước đứng đầu phe đế quốc phản dân chủ do Mỹ
cầm đầu ngày càng suy tàn làm cho cán cân quyền lực trên thế giới bị mất cân bằng.
Từ đó nguy cơ chiến tranh để tranh giành ảnh hưởng của hai phe thông qua chiến
tranh ủy nhiệm ngày càng rõ rệt. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này của công nhân và
nhân dân thế giới là duy trì hòa bình. “Dưới sự lãnh đạo của Liên Xô đứng đầu là
thống chế Xtalin, phe dân chủ mở rộng thành mặt trận hòa bình thế giới, kiên quyết
chống bọn gây chiến”2. Và sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ sự thắng thế của chủ
nghĩa xã hội so với chủ nghĩa phát xít, cách mạng dân chủ nhân dân lan rộng trên toàn
thế giới và đã thành công ở nhiều nước ở Trung Đông Âu và Viễn Đông. Chế độ dân
chủ nhân dân thành lập, tách những nước đó ra khỏi hệ thống đế quốc chủ nghĩa.
Phong trào giải phóng những nước thuộc địa và nửa thuộc địa diễn ra sôi nổi làm lay

1
Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, https://binhdinh.dcs.vn/hoat-
dong-tuyen-truyen/-/view-content/163324/cach-mang-thang-tam-nam-1945-buoc-ngoac-vi-dai-trong-lich-su-
dan-toc-viet-nam, truy cập ngày 17/10/2023.
2
Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, https://binhdinh.dcs.vn/hoat-
dong-tuyen-truyen/-/view-content/163324/cach-mang-thang-tam-nam-1945-buoc-ngoac-vi-dai-trong-lich-su-
dan-toc-viet-nam, truy cập ngày 17/10/2023.

30
chuyển hệ thống đế quốc chủ nghĩa đến tận nền tảng. Do sự lớn mạnh của các phong
trào nêu trên bọn đế quốc trong đó có Anh, Pháp, Hà Lan đã dùng những thủ đoạn xảo
quyệt để mua chuộc giai cấp tư sản và địa chủ bản quốc để duy trì sự thống trị. Nhưng
những dân tộc thuộc địa lúc này đã nhận ra rõ bản chất của những nước đế quốc và
con đường duy nhất để cứu sống dân tộc là đoàn kết, kiên lạc mật thiết với nhân dân
thế giới và kiên quyết đấu tranh bằng vũ trang lâu dài dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân. Trong giai đoạn này Việt Nam là một tiền đồn của phe dân chủ ở Đông
Nam Á và tiêu biểu là cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào giải phóng
dân tộc, bảo vệ hòa bình và dân chủ trên thế giới.
Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam
Xã hội Việt Nam trước và sau khi bị xâm lược
Tình hình Việt Nam trước và sau khi thực dân Pháp đô hộ. Ở thời kì trước khi
có sự xuất hiện của thực dân Pháp xã hội Việt Nam căn bản là một xã hội phong kiến
khép kín. Chế độ quân chủ chuyên chế ở Việt Nam kéo dài hàng ngàn năm qua nhiều
triều đại để lại nhiều phong tục tập quán phong kiến, những chính sách đã lỗi thời và
cùng với đó là thái độ bảo thủ của triều đình trong việc đổi mới đất đã cơ bản làm cho
đất nước kém pháp triển hơn các nước tư bản đế quốc có âm mưu xâm lược. Với nền
tảng xã hội là kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì phần lớn người dân sống ở thời kì này
có mức thu nhập không quá lớn.
Và sau khi đã có được thời cơ thích hợp thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước
ta trong bối cảnh đất nước có nhiều bất ổn và kinh tế kém phát triển. Đất nước biến
thành một thị trường độc chiếm nơi mà người Pháp ra sức bóc lột, vơ vét, xây dựng
các cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình cai trị thuộc địa.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai Nhật tiến hành xâm lược nước ta nhằm hất
cẳng Pháp ra khởi Đông Dương để tranh giành ảnh hưởng. Nhân dân Việt Nam phải
chịu hai tầng xiềng xích làm cho cuộc sống đã vốn khó khăn nay nhân lên gấp bội.
Dưới sự áp bức bốc lột của bọn thực dân và đế quốc phản cách mạng nhiều cuộc khởi
nghĩa đã bùng nổ. “Các khu cǎn cứ du kích phát triển và chính quyền nhân dân thành
lập ở khu giải phóng Việt Bắc” 1. Nǎm 1945, bị quân đội Xô viết đánh bại, phát xít
Nhật đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản
Đông Dương, nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nước Cộng hoà dân chủ
Việt Nam thành lập và những cải cách dân chủ được thực hiện.

1
Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, https://binhdinh.dcs.vn/hoat-
dong-tuyen-truyen/-/view-content/163324/cach-mang-thang-tam-nam-1945-buoc-ngoac-vi-dai-trong-lich-su-
dan-toc-viet-nam, truy cập ngày 17/10/2023.

31
Tính Chất xã hội Việt Nam
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đã xác định tính chất của xã hội Việt
Nam tại thời kì này gồm có 3 tính chất đó là “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa
và nửa phong kiến”, ba tính chất này mâu thuẫn và đấu tranh lẫn nhau. Việt Nam xác
định để giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực phản động
chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Thì cần có một cuộc kháng chiến với đối tượng
đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ và bọn phong
kiến phản động.
Đối tượng cách mạng
Về cách mạng Việt Nam gồm có hai đối tượng cách mạng một là chủ nghĩa để
quốc xâm lược cụ thể là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ và hai là phong kiến cụ
thể là phong kiến phản động. Và trong hai đối tượng đó thì đế quốc Pháp và bọn can
thiệp Mỹ là đối tượng đấu tranh chính của cách mạng Việt Nam, còn bọn phong kiến
phản động là đối tượng phụ. Cách mạng Việt Nam cần phải giải quyết mâu thuẫn này
bằng cách phát triển một xã hội Việt Nam theo con đường dân chủ nhân dân và tăng
cường đoàn kết dân tộc để chống lại các thế lực phản động chống phá. Từ đó, xã hội
Việt Nam sẽ có thể phát triển và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng
“Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.”1
Ba nhiệm vụ chính của nhân dân Việt Nam lúc này là đánh đuổi bọn đế quốc,
xóa bỏ những di tích phong kiến và cuối cùng là làm cho người cày có ruộng. Nền
tảng để thực hiện các nhiệm vụ này là sự đoàn kết của cả một dân tộc, từ đó tạo nên
một sức mạnh to lớn để hoàn thành các nhiệm vụ trên. Ba nhiệm vụ chính trên có mối
quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính lúc này là tập trung kháng chiến
chống bọn đế quốc xâm lược và giải phóng dân tộc hoàn toàn.
Động lực cách mạng
Cách mạng Việt Nam xác định động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là:
công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài
ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Và giai cấp lãnh đạo cách mạng là
giai cấp công nhân.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 433-
434.

32
“Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải
là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua một cuộc nội chiến cách
mạng. Đó là một thứ cách mạng điển hình trong điều kiện lịch sử hiện nay”.1
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân cách mạng dân chủ Việt Nam nhất
định sẽ tiến lên xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa. Đây là đường lối đấu tranh
kiên trì và sáng suốt được đảng, nhân dân nhất trí thực hiện.
Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai đoạn: giai đoạn
thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm
vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai
đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực
hiện chủ nghĩa xã hội.
Triển vọng phát triển cách mạng
Từ những giai đoạn trên ta thấy được cách mạng Việt Nam có đặc điểm là cuộc
cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng do giai cấp công
nhân đứng đầu thực hiện cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân nhất định sẽ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, việc xác định những nhiệm vụ trung tâm ở từng giai đoạn
cụ thể mấu chốt nhằm thực hiện con đường đấu tranh lâu dài đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam.
Chính sách của Đảng lao động Việt Nam
Đảng đã mở rộng nhận thức về lực lượng cách mạng không chỉ có tầng lớp
công dân và nông dân, mà còn cần phải có sự tham gia góp sức của tiểu tư sản thành
thị, trí thức, tư sản dân tộc và những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Với việc có
sự góp mặt của đa dạng thành phần để góp phần gia tăng sức mạnh, nhưng giai cấp
lãnh đạo vẫn là giai cấp công nhân điều đó khẳng định đường lối nhất quán của Đảng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tạo ra sự ổn định cho cách mạng. Đây là cuộc
cách mạng dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nên cần có thời
gian đấu tranh lâu dài, nhiều giai đoạn, từng giai đoạn phải được thực hiện cẩn thận và
liên kết với nhau để phát triển cách mạng đi lên, tuy mỗi giai đoạn có những mục tiêu
cụ thể riêng cần giải tập trung thực hiện nhưng chung quy lại mục tiêu cuối cùng của
cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc và giành lấy hòa bình cho đất nước.

1
Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, https://binhdinh.dcs.vn/hoat-
dong-tuyen-truyen/-/view-content/163324/cach-mang-thang-tam-nam-1945-buoc-ngoac-vi-dai-trong-lich-su-
dan-toc-viet-nam, truy cập ngày 17/10/2023.

33
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân
3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh
Một là, về tính chất xã hội Việt Nam.
Ở Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) xã hội Việt Nam lúc là xã hội nửa
phong kiến và nửa thuộc địa, tồn tại trong nó hai mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến. Ngoài ra
Cương lĩnh này cũng nhấn mạnh việc mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ở nước
ta lúc bấy giờ không gây gắt như những nước phương tây và đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu. Còn Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 lại xác định xã hội
Đông Dương gồm hai mâu thuẫn dân tộc và giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp cần
được giải quyết trước tiên. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) chỉ ra
rằng xã hội Viêt Nam gồm 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa
phong kiến. Ba tính chất ấy đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc
này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn
đó sẽ được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực
dân Pháp và bọn tay sai. So với Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị đã
khẳng định cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền, nghĩa là không còn
hình bóng của phong kiến, không chấp nhận sự có mặt của phong kiến trong tiến trình
cách mạng, vì vậy đặt nhiệm vụ chống phong kiến ngang hàng với chống thực dân,
cũng như giải phóng dân tộc. Thì chính cương Đảng Lao động Việt Nam tính chất xã
hội “Dân chủ nhân dân một phần thuộc địa nử phong kiến”, không quá gò ép việc loại
bỏ vì như hệ tư tưởng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên thì giải quyết phong kiến hiện
tại là chưa cần thiết.
Hai là, về đối tượng cách mạng.
So với Cương lĩnh chính trị đầu tiên thì chính cương Đảng Lao động Việt Nam
bổ sung thêm về đối tượng đối chính là sự can thiệp của đế quốc Mỹ và đối tượng phụ
cần được giải quyết đồng thời chính là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản
động. Còn so với Luận cương chính trị thì chính cương đã sửa đổi việc đặt đối tượng
chính và phụ. Luận cương đã chỉ ra rằng đối tượng chính ở đây là di tích phong kiến
và đối tượng phụ là đế quốc chủ nghĩa Pháp và bè lũ tay sai. Như vậy Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam đã khắc phục được hạn chế của Luận cương chính trị ở việc
đặt ra mục tiêu cần chú trọng hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Và bổ sung
thêm để hoàn chỉnh so với Cương lĩnh là có thêm đế quốc can thiệp Mỹ. Chia thành
hai loại đối tượng đồng với việc xác định quan trọng bây giờ là chống Pháp và Mỹ,
còn việc dọn tàn tích phong kiến, đặc biệt trong đây nhấn mạnh là chỉ có phong kiến
phản động thì làm sau khi nhiệm vụ chính đã hoàn thành.
34
Ba là, về nhiệm vụ cách mạng.
Trong cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ
giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng (nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng,
nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Luận cương xác định, lật
đổ phong kiến, tay sai rồi mới lật đổ Pháp. Nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc
được tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ
như vậy đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đang
ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng
đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng
đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất. Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam đã đưa ra nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cuộc cách
mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân
tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ này
quan hệ mật thiết với nhau, Song cái gì cần thiết thì làm trước, không dàn trải nhiều
vấn đề, khó xác định được cũng như khó thực hiện được như những gì mà Luận cương
chính trị (10/1930) đã đề cập như đề ra nhiệm vụ giai cấp (chống phong kiến) hơn
nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc); thực hành cách mạng thổ địa cách mạng triệt để,
trong đó “thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở đề giành
quyền lãnh đạo dân cày.
Bốn là, về lực lượng cách mạng.
Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân
và nông dân nhưng bên địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.
Ngoài việc xác định lực cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng
hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp
công nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc,
hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định
Tầng lớp tiểu tư sản mà chủ yếu là các phần tử lao khổ ở đô thị như người bán hàng
rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng. Các giai cấp và
tầng lớp khác: tư sản thương nghiệp và công nghiệp đứng về phía đế quốc chống lại
cách mạng; bộ phận thủ công nghiệp trong giai cấp tiểu tư sản có thái độ do dự; tiểu tư
sản thương gia không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức thì chỉ hăng hái tham
gia chống giặc vào thời kì đầu. Đối với Cương lĩnh thì Chính cương Đảng Lao động
Việt Nam đã bổ sung thêm cụ thể về các giai cấp tham gia kháng chiến như tiểu tư sản
thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu

35
nước và tiến bộ đều ủng hộ cho cách mạng. Ở Chính cương Đảng đã có sự sửa đổi so
với Luận cương chính trị về mặt lực lượng khi phát huy được sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc là tập hợp toàn bộ lực lượng yêu nước từ tư sản đến địa chủ.
Năm là, về các giai đoạn phát triển của cách mạng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) đã xác định đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh khẳng định việc đầu tiên cần làm là đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến. Sau khi
thành công sẽ xóa bỏ chế độ phong kiến, giao hết ruộng đất của đế quốc cho dân cày
nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Nhưng sau đó bảy tháng vào tháng 10 năm 1930 Luận cương chính trị của Đảng Cộng
sản Đông Dương và cho rằng nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là
mang lợi ích về cho dân đầu tiên, vì vậy việc làm quan trọng nhất là đánh đỗ chế độ
phong kiến và thực hiện thổ địa cách mạng cho triệt để. Luận cương còn xác định hai
nhiệm vụ chiến lược phản đế và phong kiến phải được đặt ngang hàng nhau. Sự bổ
sung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) so với Cương lĩnh chính trị
đầu tiên là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Đảng cần phải đoàn kết và lãnh đạo toàn
dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn. Sau đó Con đường xác định ở Chính
cương là đi lên chủ nghĩa xã hội, là con đường trải qua ba giai đoạn, mỗi giai đoạn
đều có nhiệm vụ trọng tâm: (1) giai đoạn thứ nhất nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải
phóng dân tộc, (2) giai đoạn thứ hai nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ,
hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân, (3) giai đoạn thứ ba nhiệm vụ chủ yếu là xây
dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn này
có mối liên hệ không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. So với bản
Luận cương chính trị (10/1930), cả hai đều hướng tới con đường xã hội chủ nghĩa
nhưng Chính cương Đảng Lao động VIệt Nam đã có sự phát triển rõ rệt trong nhận
thức về vấn đề quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Không còn là những khẳng định chung
chung, mơ hồ về vấn đề làm sao để bỏ qua giai đoạn phát triển của tư bản, để đi thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, mà đã dần dần vạch rõ cụ thể con đường đạt được mục tiêu này,
dù chưa quá chi tiết nhưng trước hết cũng cần phải có để tạo niềm tin và động lực để
tiếp tục vững vàng với lý tưởng đó.
3.2.2. Giá trị thực tiễn
Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc (1930-1975)
Đầu tiên, Sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là
kết quả của quá trình lựa chọn của chính lịch sử Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho
36
cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản
nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của
lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các
lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào
cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của
dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế
giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
Hai là, Giá trị của Cương lĩnh chính trị đầu tiên: đã phản ánh một cách súc tích
các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị
độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa
phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ
bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát
thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, đã xác
định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định
phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực
hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận
dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước
thuộc địa nửa phong kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi
trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết
hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh
nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn,
yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận

37
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn,
sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có
một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam,
đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế
của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng
Việt Nam.
Đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
Một là, sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam Khi đánh
giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (
bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn,
thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các
cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn
Việt Nam.”1
Hai là, đối với giá trị của Cương lĩnh chính trị đầu tiên: thực tiễn cách mạng
Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định sự đúng đắn của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 85 năm qua dân tộc Việt Nam đã
thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước
ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá,

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
thật, Hà Nội.

38
hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu
bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, là “Đại hội kháng
chiến thắng lơi”. Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao
động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng. Đại hội II là bài học sâu sắc về
quan điểm kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; kiên định giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; nắm chắc quan điểm bảo đảm trên hết và trước
hết lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã tập
trung phân tích, làm rõ bối cảnh tình hình quốc tế và những quyết định đúng đắn tại
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng nhằm đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn,
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định tầm vóc, giá trị lý luận và thực tiễn
của Chính Cương Đảng Lao động Việt Nam đối với tiến trình cách mạng nước ta.

39
PHẦN KẾT LUẬN

Từ trước năm 1945, kinh tế xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân
Pháp đã bị ảnh hưởng nặng nề trên tất cả lĩnh vực. Nhiệm vụ cấp bách lúc này của
Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc thực dân, tìm ra con đường giải phóng dân tộc và
xóa bỏ đi chế độ phong kiến lạc hậu. Từ những nhiệm vụ trên nhiều phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc được nổ ra trong nhiều năm nhưng đều thất bại vì đường lối
chưa đúng đắn và nhất quán.
Đứng trước tình hình của đất nước Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu
nước và tìm ra con đường đấu tranh theo khuynh hướng chính trị vô sản, cùng với đó
xây dựng lý luận cách mạng Việt Nam và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập tại Hông Kông (Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc Đảng đã thông qua 7 tài liệu, văn
kiện, trong đó nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên là sự kết hợp của Chính cương
vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên có ý nghĩa hết
sức quan trọng với cách mạng Việt Nam, với những đường lối đúng đắn và rõ ràng về
việc đề cao quyền tự quyết của dân tộc, tập hợp các thành phần trong xã hội không
phân biệt giai cấp để cùng nhau đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã trình bày
cụ thể, chi tiết về việc xác định phương thức cách mạng là cách mạng tư sản dân
quyền, hai nhiệm vụ chính của các mạng là đánh đổ phong kiến để thực hành cách
mạng ruộng đất cho triệt để và đánh đổ đế quốc Pháp để cho Đông Dương hoàn toàn
độc lập. Không được tách rời hai nhiệm vụ này và đặt vấn đề thổ địa làm nhiệm vụ cốt
lõi của cách mạng tư sản dân quyền.
Luận cương có những ưu điểm trong phương hướng chiến lược cách mạng gồm
cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa; xác định hai nhiệm vụ
chống đế quốc và phong kiến; phương pháp cách mạng là bạo lực cách mạng; quan hệ
mật thiết với cách mạng thế giới; lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản. Đó là những
ưu điểm chính ngoài ra luận cương chính trị còn góp phần quan trọng việc định hình
lý luận cách mạng và xác định được giai cấp lãnh đạo cách mạng. Song hành với các
ưu điểm thì luận cương chính trị cũng mang những hạn chế nhất định. Thứ nhất, chưa
xác định chính xác giữa hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là đấu tranh xóa bỏ
chế độ nô lệ, thực dân và xóa bỏ di tích phong kiến lạc hậu, nhiệm vụ nào là quan
trọng nhất. Từ đó, vẫn còn chưa đặt nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, đây là mặt hạn chế kìm hãm sự thành công của cách mạng Việt Nam. Thứ hai, là
chưa nhận thức rõ ràng về mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phương Đông và sức mạnh

40
của mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đấu tranh chống thực dân làm suy giảm đi
sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Cuối cùng, vẫn giải quyết các vấn đề dân tộc trên
toàn Đông Dương, đây là điểm hạn chế trong đường lối cách mạng. Luận cương có
những ưu điểm trong phương hướng chiến lược cách mạng gồm cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa; xác định hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến; phương pháp cách mạng là bạo lực cách mạng; quan hệ mật thiết với cách mạng
thế giới; lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam đã đưa ra những nhận định chính xác
về tính chất xã hội, đối tượng của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ cách mạng. Đặc
biệt về tính chất xã hội của Việt Nam được chia làm 3 tính chất đó là dân chủ nhân
dân, một phần thuộc địa, một nửa phong kiến. Đây là nét bổ sung và hoàn chỉnh so với
những định hướng ban đầu của Đảng. Tạo nên sự thống nhất và rõ ràng về đường lối
cách mạng trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân với các thế
lực phản động. Xác định đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam là đế quốc Pháp và
bọn can thiệp Mỹ. Và từ đây, những mâu thuẫn giữa các tính chất được giải quyết
trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp giải phóng dân tộc. Việc xác định và
giải quyết những mâu thuẫn trên khẳng định Đảng đã có sự quan tâm về tính chất dân
chủ và lợi ích của nhân dân.
Cái tên cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân có ý nghĩa là là việc vừa đánh
đuổi bọn đế quốc xâm lược giải phóng dân tộc, vừa đánh đổ chế độ phong kiến đem
về ruộng đất cho nhân dân và lực lượng tiến hành cách mạng là do nhân dân tiến hành.
Sự phát triển của cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân nhất định sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Và trong sự phát triển đấy dân tộc Việt Nam phải trải qua nhiều giai
đoạn gian khổ, khốc liệt lâu dài dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân nhắm đến
mục tiêu tự do, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân Việt Nam.

41
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban tuyên giáo trung ương (2018), Chính cương Đảng Lao động Việt Nam,
https://binhdinh.dcs.vn/hoat-dong-tuyen-truyen/-/view-content/163324/cach-mang-
thang-tam-nam-1945-buoc-ngoac-vi-dai-trong-lich-su-dan-toc-viet-nam, truy cập ngày
17/10/2023.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị
Quốc gia sự thật, Hà Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Lịch sử 12, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông
Dương, https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-
nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/luan-cuong-chanh-
tri-cua-dang-cong-san-dong-duong-532738.html, truy cập ngày 16/10/2023.

8. Kim Liên (2022), Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam. Làm rõ nội dung
của Chính cương 2/1951, https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-cong-
nghe-thanh-pho-ho-chi-minh/lich-su-dang-cong-san-viet-nam/chinh-cuong/30778838,
truy cập ngày 16/10/2023.

9. PGS.TS. Đào Duy Quát, Sự hình thành phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách
mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945,
https://lamdong.gov.vn/HOME/news/hotnews/SitePages/Su-hinh-thanh-phat-trien-hoan-
thien-duong-loi-chien-luoc-cach-mang-giai-phong-dan-toc-cua-Dang-thoi-ky-1930-
1945.aspx, truy cập ngày 16/10/2023.

10. PGS.TS Vũ Quang Hiển, Quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam,
https://elearning.hcmut.edu.vn/pluginfile.php/518334/mod_folder/content/0/Qtrinhhthan
hDCSVN%20%28TLTK%29.pdf?forcedownload=1, truy cập ngày 15/09/2023.

11. Thanh Sang (2022), Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, https://binhdinh.dcs.vn/hoat-dong-tuyen-truyen/-/view-

42
content/163324/cach-mang-thang-tam-nam-1945-buoc-ngoac-vi-dai-trong-lich-su-dan-
toc-viet-nam, truy cập ngày 17/10/2023.

12. Trâm Phạm Thanh Bảo (2020), Nội dung của Chính cương Đảng lao động Việt Nam,
https://www.studocu.com/id/document/universitas-tompotika/corporate-law/noi-dung-
cua-chinh-cuong-dang-lao-dong-viet-nam/16732993, truy cập ngày 16/10/2023.

43

You might also like