You are on page 1of 19

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC

***

BIÊN BẢN HỌP NHÓM THẢO LUẬN NHÓM 10

BỘ MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hình thức: Họp mặt trực tiếp

Địa điểm: Sân trường Học viện Tòa Án

Thời gian: 18h00, ngày 12 tháng 05 năm 2023

Thành viên có mặt: có mặt đầy đủ các thành viên

Nội dung cuộc họp:

1. Đưa ra nội dung đề tài, hướng dẫn thảo luận

2. Mỗi thành viên trong nhóm đưa ra ý kiến về đề tài thảo luận.

3. Nhóm trưởng phân công công việc cho từng thành viên trong nhóm tìm hiểu.

4. Thư kí ghi lại biên bản cuộc họp.

Thư ký Nhóm trưởng

Trang Vy

Phạm Quỳnh Trang Nguyễn Thế Vy

1
DANH SÁCH VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 10

STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ ĐÁNH


GIÁ
1 Phạm Quỳnh 060101096 Tổng hợp, đóng góp ý A+
Trang kiến, chỉnh sửa Word
2 Đặng Thị Mỹ 060101097 Tìm nội dung, đóng góp ý A+
Trân kiến, làm powerpoint
3 Bùi Việt Văn 060101098 Tìm nội dung, đóng góp ý A+
kiến
4 Trần Long Vũ 060101099 Tìm nội dung, thuyết trình A+
5 Nguyễn Thế Vy 060101100 Tìm nội dung, đóng góp ý A+
kiến

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................
NỘI DUNG...............................................................................................................
I. Cơ sở khoa học của bài học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội..............................................................................................................
1. Cơ sở lý luận......................................................................................................
2. Cơ sở thực tiễn...................................................................................................
II. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lí tưởng, mục tiêu, là nguồn gốc
sức mạnh của cách mạng, của Đảng và của dân tộc Việt Nam...........................
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội..................................................................
2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội.......................
3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại.................................................................................
4. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nguồn gốc sức mạnh của
cách mạng Việt Nam...........................................................................................
III. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội...............................................................................................
1. Kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đấu tranh giành
chính quyền (1930 - 1945)..................................................................................
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1945 – 1975
.............................................................................................................................
3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ 1975 đến
1986.....................................................................................................................
4. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới và đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.....................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................

3
MỞ ĐẦU
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạnh Việt Nâm từ khi có Đảng, là
ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam, đó là bài học được
Đại hội lần thứ IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt
Nam ta. Sau đó tiếp tục được Đại hội lần thứ V và VI của Đảng khẳng định và
đặc biệt được Đại hội VII của Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng kết
kinh nghiệm 15 năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả
nước.
Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong
những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc, là bài học kinh nghiệm to lớn và quý báu trong suốt tiến trình lãnh đạo
cách mạng và đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam và mãi là sợi chỉ đỏ chỉ
dẫn cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng ngày nay.
Bài học trên là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại cũng
như của đất nước ta, không những chỉ ra nguồn gốc thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trước đây mà còn chỉ ra những yếu tố đảm bảo tính đúng đắn của
đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.

4
NỘI DUNG

I. Cơ sở khoa học của bài học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội
1. Cơ sở lý luận
Một là: Dân tộc và giai cấp có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dân tộc
bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định.
Hai là: Sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai
cấp. Ở mỗi thời đại đều có giai cấp đứng ở vị trí trung tâm. Khi giai cấp vô sản
đứng ở vị trí trung tâm của thời đại thì độc lập dân tộc tất yếu gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội.
Ba là: Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, phong trào
giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Bốn là: Thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), mở ra thời kỳ mới:
Độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau. Giai cấp vô sản,
đại biểu cho phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa,
là giai cấp duy nhất có khả năng nắm vững ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc, đưa dân tộc tiến lên, dân tộc đó là dân tộc xã hội chủ nghĩa, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng tháng Mười Nga, mở
ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội
trên toàn thế giới. Các nước sau khi được giải phóng áp bức nô dịch của chủ
nghĩa đế quốc, xu hướng chung đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là: Lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, lợi ích quốc tế gắn liền với nhau.
Như vậy, từ sau cách mạng tháng Mười Nga thành công, giai cấp vô sản ở
vị trí trung tâm thời đại, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một tất yếu.
2. Cơ sở thực tiễn
* Thực tiễn thế giới
Trên thế giới đã diễn ra các cuộc cách mạng tư sản điển hình như cách
mạng tư sản Mỹ (1776), cách mạng tư sản Pháp (1789). Đó là các cuộc cách

5
mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo. Đó là những cuộc cách mạng không đến nơi,
thành quả cách mạng trao cho số ít giai cấp tư sản, nhân dân lao động vừa bị áp
bức bốc lột.
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), do giai cấp vô sản lãnh đạo, giành
thắng lợi triệt để, dân tộc độc lập thật sự, giai cấp công nhân, nhân dân lao động
được giải phóng, từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Cách mạng Tháng Mười mở ra thời đại mới, thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
* Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Thứ nhất: Lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, con đường
cứu nước giải phóng dân tộc không thể theo ý thức hệ phong kiến hay ý thức hệ
sư sản được mà chỉ có theo con đường cách mạng vô sản. Tức là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân ta
liên tục đứng lên kháng Pháp theo ý thức hệ tư tưởng phong kiến và theo ý thức
hệ tư tưởng tư sản. Tiêu biểu là: Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Huyết, Hoàng Hoa
Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học...
Thứ hai: Từ khi tìm thấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đã đưa cách mạng Việt Nam vào đúng quỹ đạo của cách mạng vô sản, gắn liền
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Thực tế cũng chỉ có con đường này mới
giải phóng dân tộc và đưa nhân dân ta tới ấm no hạnh, tự do, hạnh phúc.
Thứ ba: Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh
đầu tiên Đảng khẳng định: “Làm Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đó là chủ trương gắn liền độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng chủ trương: làm cách mạng tư sản
dân quyền thực hiện độc lập dân tộc và dân chủ rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là chủ trương gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng
tỏ ngay từ đầu khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định ngay con đường cứu nước
6
của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan của cách mạng
Việt Nam.
II. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lí tưởng, mục tiêu, là nguồn
gốc sức mạnh của cách mạng, của Đảng và của dân tộc Việt Nam
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
* Độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc chung nhất là quyền tự chủ, tự quyết của dân tộc - quốc
gia đối với vận mệnh của dân tộc mình, đối với việc tổ chức các hoạt động kinh
tế, chính trị, xã hội... trong phạm vi lãnh thổ của mình: chủ động thực hiện
đường lối, chính sách đối ngoại của quốc gia, không chịu sự can thiệp, chi phối
mang tính áp đặt từ bên ngoài. Đối với mỗi quốc gia dân tộc, độc lập có nghĩa là
người dân được thể hiện quyền làm chủ của mình, được hưởng các quyền tự do,
ấm no, hạnh phúc.
Độc lập của một dân tộc - quốc gia hàm chứa cả quyền bình đẳng giữa các
dân tộc, quốc gia trên thế giới. Độc lập dân tộc phải bảo đảm quyền bình đẳng
của quốc gia dân tộc trong các mối quan hệ quốc tế, được pháp lý quốc tế thừa
nhận và được khẳng định trên thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tranh đấu để đòi được những quyền
này của Pháp trong Bản Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946).
* Chủ nghĩa xã hội
Trước hết là một hệ thống học thuyết khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội có nền phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp, tiến bộ; đời sống nhân dân
ngày càng được cải thiện về mặt vật chất và tinh thần, giàu có, ấm no, hạnh
phúc; về phương diện chính trị thì quyền lực thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, xây dựng xã hội ngày càng dân chủ, công bằng, văn minh; giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loai; về
phương diện quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị.
7
Phong trào cách mạng: mở đầu là phong trào Cách mạng Tháng Mười Nga.
Làm xuất hiện đầu tiên trên thế giới một chế độ xã hội mới: sự ra đời của nước
Cộng hòa Liên bang Xô – Viết.
2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp nhau của
một tiến trình cách mạng. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là hai mục tiêu cụ thể của hai cuộc cách mạng trong đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, hoàn chỉnh chế độ
dân chủ nhân dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng dân tộc, dân chủ,
làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực chính trị, dân chủ,
vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân
trí… xây dựng một thể chế chính trị do dân làm chủ, xây dựng nền dân chủ
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội…. Cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa là giai đoạn tiếp theo của tiến trình cách mạng Việt Nam, sau khi kết
thúc giai đoạn trước là cách mạng dân tộc, dân chủ.
Theo Hồ Chí Minh, nếu nước được độc lập mà vẫn không được hưởng tự
do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Giành được độc lập dân tộc,
nhất định phải đưa dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, bởi những giá trị đích thực
của độc lập dân tộc chỉ có thể đạt được trong chủ nghĩa xã hội. Những giá trị
của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn hàm chứa trong nhau. Độc lập dân
tộc và hạnh phúc cho nhân dân chính là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội chính là hệ giá trị độc lập, tự do, hạnh phúc thông qua giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, cá nhân và cộng đồng.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có quan hệ mật thiết, tác động và
quyết định lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Độc lập dân
tộc là khát vọng, cũng là tiền đề để đưa đất nước phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được tiến
8
hành thuận lợi; chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao cả, là đích phải tới và cũng là
điều kiện để bảo đảm, củng cố độc lập dân tộc chân chính. Vì vậy, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng và dân tộc
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại
Giữa lúc cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Bôn ba khắp năm châu bốn biển vừa lao động vừa nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản như ở Pháp, Mỹ,… và tham gia các hoạt
động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành người sang lập ra Đảng Cộng
sản Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa
chọn con đường cách mạng của mình.
Khi đến với chủ nghĩa Mác Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy lí luận
cách mạng. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người diễn ra khi Người được
đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”
của Lênin.Và theo Người: “ Chính con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với CNXH, giai cấp vô sản
phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc…” Từ đây, Người đã quyết định đi
theo con đường cách mạng của Lênin, cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của
lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn đó dựa trên 2 căn cứ
chủ yếu:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã
mở ra thời đại mới-thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc
lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại
nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như giải pháp để giải quyết
vấn đề độc lập dân tộc.

9
Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được triệt để giai cấp vô sản và
nhân dân lao động khỏi ách bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lên làm chủ xã hội. Độc lập
dân tộc chỉ có gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nguồn gốc sức mạnh
của cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà
còn trở thành động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc lập
dân tộc ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp,
đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và các thành phần dân tộc, tạo nên lực lượng
cách mạng rộng lớn.
Mục tiêu của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của mọi người Việt Nam. Cùng
với đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân tộc,
luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy với quy mô và chất lượng mới.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối này đã trải qua
những giai đoạn phát triển với nội dung và hình thức, bước đi gắn liền với đặc
điểm của mỗi giai đoạn, tạo nên sức mạnh kì diệu đánh bại mọi kẻ thù, giành
độc lập và xây dựng, bảo vệ đất nước thắng lợi.
III. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Việc đánh giá một cách khách quan, khoa học quá trình phát triển nhận
thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, rút ra những bài
học kinh nghiệm thiết thực, tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối, đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ hết sức quan trọng, đáp ứng nguyện vọng và sự mong đợi của Nhân
dân. Trong đó, quá trình phát triển nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng đối với quá trình xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời kiên định mục tiêu độc lập
10
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho đến ngày hôm nay. Và quá trình phát
triển nhận thức của Đảng và thực tiễn cách mạng nước ta là minh chứng lịch sử
cho mối liên hệ biện chứng trên:
1. Kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền (1930 - 1945)
Trong giai đoạn 1930 – 1945, độc lập dân tộc được xem là nhiệm vụ trọng
tâm trước hết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo và được tiến
hành theo lập trường của giai cấp vô sản; mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra
trực tiếp mà là phương hướng tiến lên và để thực hiện mục tiêu đó, trước hết
phải tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong thời kỳ này thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng
Việt Nam là “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng đã hàm chứa các nội dung của độc lập dân tộc và
phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông
qua cương lĩnh vắn tắt, sách lược vắn tắt, Ch
ương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong đó, Đảng Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng
ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và chế độ
phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám 1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn
năm, chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại
này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
11
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1945 – 1975
* Giai đoạn 1945 – 1954
Sau khi giành được chính quyền cách mạng trong cả nước, trong hoàn cảnh
thù trong, giặc ngoài, mâu thuẫn dân tộc vẫn còn tồn tại gay gắt, Đảng xác định
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là giải phóng dân tộc, với tinh thần
“Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp,
cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến
trình thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân nhanh chóng xây dựng và củng cố chính quyền cách
mạng, chống “giặc đói”, “giặc dốt”, không ngừng nâng cao nội lực cách mạng,
là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chế
độ, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đề ra chủ trương vừa
kháng chiến vừa xây dựng chế độ dân chủ mới- chế độ nhân dân làm chủ. Báo
cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng nêu rõ:
“Về mục đích trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn
dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn; tranh lại thống nhất và độc lập
hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân xây dựng dân chủ mới, xây dựng điều kiện tiến lên
chủ nghĩa xã hội”7. Nhiệm vụ xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến chỉ được đặt
ra với yêu cầu thu hẹp bóc lột của giai cấp địa chủ, từng bước thực hành chính
sách ruộng đất.
Ngay trong tiến trình kháng chiến, nhiều tiền đề của chủ nghĩa xã hội được
tạo dựng:
Công cuộc xây dựng chính quyền mới, chính quyền của dân, do dân, vì
dân đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng;
Những yếu tố cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được xác lập;
Lĩnh vực văn hóa đạt nhiều thành tựu nổi bật;
Xoá nạn mù chữ trở thành phong trào quần chúng rộng lớn và có ý nghĩa
lâu dài;
12
Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính đã thực sự đi vào cuộc sống và trở thành nguyên nhân của mọi thắng lợi.
* Ở thời kỳ 1954 - 1975, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể hiện
ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc;
Cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Khi miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng ta khẳng định đồng thời
tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đây
là điều chưa có tiền lệ ở Việt Nam khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng.
Ở miền Bắc, chủ nghĩa xã hội không còn là định hướng mà đã trở thành
hiện thực. Do nhu cầu cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ đạo tiếp tục tiến hành cải cách
ruộng đất và giảm tô. Cải cách ruộng đất tuy đạt được những thành tựu cơ bản,
quan trọng nhưng đã phạm phải không ít những sai lầm, khuyết điểm. Tuy
nhiên, từ năm 1956, Đảng tiến hành sửa chữa sai lầm, khuyết điểm và được
nhân dân ủng hộ, tin tưởng, từ đó củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo tiền đề
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước.
Vì nhân dân cả nước đều có nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, nên chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc là chủ nghĩa xã hội thời chiến mang những nét đặc trưng
riêng biệt. Chủ nghĩa xã hội miền Bắc đã tạo ra sức mạnh tinh thần cổ vũ mạnh
mẽ nhân dân cả nước và sức mạnh vật chất to lớn phục vụ mọi yêu cầu của cuộc
chiến tranh giải phóng. Nhờ thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã
thể hiện đầy đủ vai trò quyết định nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Những thành tựu của miền Bắc còn tạo dựng tiền đề quan trọng cho thời
kỳ cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau này.
Sức mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta là kết quả
của quá trình phát huy cao độ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
13
hội, phát huy sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy trên nền tảng của tinh
thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Nhân dân cả hai miền Nam – Bắc cùng
chung sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai miền đất nước. Miền
Nam đã thể hiện đầy đủ nhất, xuất sắc nhất vai trò quyết định trực tiếp đánh
đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam, đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa.
Dựa vào sức mạnh của chế độ mới được thiết lập ở vùng giải phóng miền
Nam và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ để đi đến thắng lợi cuối cùng – hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ,
cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ 1975
đến 1986
Đối với Việt Nam, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, mà nhằm làm cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương
thức và biện pháp phù hợp hơn. Xác định đúng các chặng đường của thời kỳ
quá độ, hoạch định chính xác nhiệm vụ, mục tiêu cho mỗi chặng đường mới bảo
đảm kết hợp chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước bắt tay vào nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh gặp vô vàn khó khăn vì điểm xuất phát
thấp, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, đời sống nhân dân còn cực khổ.
Trong chặng đường đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng phải xác định đúng
hình thức, bước đi, giải pháp, chiến lược xây dựng đất nước nhằm một trong
những mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), trong kế hoạch 5
năm 1976-1980 đã vạch mục tiêu: Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân, tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Xét về mặt chủ quan, vì tư duy lý luận, tư duy kinh tế chưa được đổi mới,
chưa nhận thức đúng về bước đi ban đầu – chặng đường đầu tiên của thời kỳ
14
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên sau 5 năm phấn đấu gian khổ, hầu hết các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội IV đề ra đã không đạt được. Đời sống
kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, yếu kém. Nguồn nội lực đầu tư cho quốc
phòng, an ninh hạn chế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã xác định: Nhiệm vụ bức
thiết trước mắt là ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Đất nước bắt đầu đổi mới
từng phần, nhưng về cơ bản cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp vẫn tồn tại,
nên tình hình kinh tế - xã hội vẫn gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới và
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986), đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Đại hội khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
đồng thời, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình các nước xã hội chủ nghĩa diễn biến phức tạp và yêu cầu
đổi mới đất nước, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa
VI (tháng 3-1989), đề ra 6 nguyên tắc cơ bản đổi mới, trong đó nhấn mạnh:“
Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức
đúng hơn và có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng,
không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập…”
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội VII (1991) xác định, Việt Nam quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có biến chuyển to lớn và sâu sắc. Lịch sử
thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất
15
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần lần thứ VII của Đảng (1991), khẳng bài học đầu tiên của
cách mạng Việt Nam là: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở đảm bảo vệ vững chắc cho độc lập dân tộc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (1 – 2021) của Đảng cũng nhấn
mạnh: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tiến trình đổi mới là
sự tiếp tục vận động của những quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, được hình thành dựa trên những
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát
triển những nhận thức đúng đắn mà Đảng ta đã nhận thức được trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhận thức của Đảng ta, của nhân dân ta về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn;
hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
bản.
* Ý nghĩa
Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
một bài học kinh nghiệm lớn, có tính chất bao trùm của Đảng ta vì:
Từ khi có Đảng đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách
mạng Việt Nam. Là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của Đảng ta từ khi ra đời
cho đến nay.

16
Với đường lối cơ bản này, Đảng ta đã giải quyết thắng lợi cơ bản về chiến
lược, sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Là cơ sở cho Đảng ta cụ thể hóa những đường lối, chủ trương,
chính sách, mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong mỗi giai đoạn.
Cho phép Đảng ta khơi dậy được sức mạnh của quá khứ, của hiện tại, của
tương lai, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh
tổng hợp to lớn để xây dựng tổ quốc.

17
KẾT LUẬN
Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
một bài học kinh nghiệm lớn, có tính chất bao trùm của Đảng ta vì: từ khi có
Đảng, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt
Nam, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Với đường
lối cơ bản này, Đảng ta đã giải quyết thắng lợi một loạt vấn đề cơ bản về chiến
lược, sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cho phép Đảng ta khơi dậy được sức mạnh của quá khứ, của
hiện tại, của tương lai, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại, tạo
nên sức mạnh tổng hợp to lớn.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng, phù
hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, vì lợi ích của quần chúng nhân
dân. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chủ
trương nhất quán, đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Do đó, dù thời cuộc biến
đổi xoay vần ra sao thì giá trị độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn
là mục tiêu, lý tưởng trong ý thức và hành động. Mãi mãi giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, chắc chắn nhân
dân ta sẽ tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
đưa Việt Nam đến giữa thế kỷ XXI “trở  thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia
Sự thật
2. Sách giáo khoa Lịch sử 12, NXB Giáo dục Việt Nam
3. https://truongchinhtri.binhdinh.gov.vn/

19

You might also like