You are on page 1of 39

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


----------o0o----------

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
- QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC
CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
GVHD: ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG
Nhóm 5- Lớp A01
Sinh viên thực hiện: MSSV
1/ Lê Minh Tiến (nhóm trưởng) 1713478
2/ Hồ Sỹ Hoàng 1711380
3/ Đỗ Ngọc Phát 1612513
4/ Nguyễn Minh Quốc 1712851
5/ Đào Anh Tuấn 1613869
6/ Nguyễn Hữu Vương 1714036

Tp HCM, tháng 6/2020


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký
1. Lê Minh Tiến 1713478 Tổng hợp từ các thành
viên, mục lục, mở đầu, kết
luận
2. Hồ Sỹ Hoàng 1711380 Sự ra đời và giá trị thực
tiễn của Cương lĩnh chính
trị
3. Đỗ Ngọc Phát 1612513 Phong trào yêu nước theo
hệ tư tưởng phong kiến và
theo hệ tư tưởng tư sản
4. Nguyễn Minh 1712851 Phong trào yêu nước theo
Quốc hệ tư tưởng vô sản

5. Đào Anh 1613869 Sự ra đời và giá trị thực


Tuấn tiễn của việc Đảng Cộng
sản ra đời
6. Nguyễn Hữu 1714036 Bối cảnh lịch sử Việt
Vương Nam cuối XIX, đầu XX

Nhóm trưởng

Lê Minh Tiến
LỜI NÓI ĐẦU
Hơn 1 thế kỷ trước, nước Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chính
sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Những phong trào yêu nước đã liên tiếp nổ ra, nhưng đều thất bại. Con đường cứu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã đi vào bế tắc. Cách mạng Việt
Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo.
Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai
cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, nhân dân, có đủ uy tín và
năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Và với sự kiên thành lập Đảng ngày 3/2/1930, cùng sự ra đời của Luận cương
Chính trị, cả nước như tìm được nguồn ánh sáng mới cho Cách mạng Việt Nam.
Ánh sáng đó đã soi đường nhân dân ta, từ thân phận người dân mất nước, đã lần
lượt đánh bại sự xâm lược của các cường quốc, đưa đất nước ta bước vào kỷ
nguyên mới- kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Dù đang trong thời kỳ hòa bình, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng cùng những
đường lối trong Cương lĩnh chính trị là hành trang cơ bản để nước Việt Nam đi
đúng hướng, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển kinh
tế, xã hội,…và khẳng định vị thế của mình trong bản đồ Quốc tế
Với mong muốn làm rõ giá trị của việc thành lập Đảng cũng như Luận cương
chính trị cùng với sự hướng dẫn của Giảng viên Đào Thị Bích Hồng, nhóm 5 đã
hoàn thành bài tiểu luận này, với các nội dung chính như sau
Phần 1: Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Phần 2: Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Phần 3: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Qua bài tiểu luận này, nhóm chúng em muốn người xem có cái nhìn khái quát về
bức tranh toàn cảnh về Cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX nói
chung và sự ra đời của Đảng Cộng sản, Luận cương chính trị nói riêng.
Trong quá trình hoàn thành tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót, những vấn
đề chưa làm rõ. Kính mong Giảng viên Đào Thị Bích Hồng góp ý, nhận xét những
thiếu sót để nhóm chúng em rút kinh nghiệm. Chúng em xin chân thành cảm ơn
cô đã góp phần hướng dẫn để chúng em hoàn thành đề tài này.

Nhóm 5, lớp A01

1
PHẦN NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
1.1. Bối cảnh thế giới
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh,
Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước này, giai cấp tư sản tăng cường
áp bức, bóc lột giai cấp công nhân. Và cũng tại đây, phong trào công nhân phát triển từ
"tự phát" đến "tự giác", mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi
phải có lý luận tiên phong dẫn đường. Để đáp ứng đòi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra đời
với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đến cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau xâm chiếm thuộc địa và đã căn bản hoàn
thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách thống trị thực dân ở khắp các nước Á, Phi và
Mỹ Latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm các nước tư bản, có nền công
nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây, còn khu vực còn lại gồm các nước
thuộc địa và phụ thuộc, nền kinh tế còn lạc hậu, thường được gọi là phương Đông. Vấn
đề đặt ra cho các nước thuộc địa và phụ thuộc là làm thế nào để được giải phóng. Thế
giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế
quốc, thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng ở
các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản.
Sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra dồn dập, báo trước sự
chuyển biến của tình hình quốc tế. Cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các
nước đế quốc đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), làm
cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình
là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ápganixtan, Inđônêxia, v.v… Bão táp

2
cách mạng với "phương Đông thức tỉnh" là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong
giai đoạn này.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển
chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản
có thể thành công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung
bình; đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự
đoàn kết giữa giai cấp công nhân ở các nước tư bản và các dân tộc ở các nước thuộc
địa trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Thực tiễn chứng
minh lý luận của Lênin là đúng với thắng lợi của cuộc Cách mang Tháng Mười năm
1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn
lao đối với cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin
cùng các nhà cách mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc tế Cộng sản - một
tổ chức quốc tế của phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản ra đời đánh
dấu bước phát triển mới về chất của phong trào cách mạng vô sản và phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi thế giới.
1.2. Bối cảnh trong nước
Năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam theo trào
lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Sau khi đánh chiếm được
nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc
khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hóa.
Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất
và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai
thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ
nhanh.

Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt
Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị
mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du
nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì
quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong

3
kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển
lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm
trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp,
từtoàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc
Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam
triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng
bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính
sách chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị
riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông
Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận
giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là
giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.

Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự
ti,vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt
động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và
ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành
chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình
xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.

Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân
được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn
bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do
chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị
phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị
phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế,
nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có

4
mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân
và bọn phản động tay sai.

Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ
và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực
dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế
độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần
cùng hóa không lối thoát. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp.
Còn số đông vẫn phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề
ngay trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu của chính họ. Vì bị mất nước và mất
ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong kiến, đặc biệt sâu sắc
nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa
có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông
dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng to lớn nhất, một động
lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo
của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ
bé.Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều
kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam
không nhiều,thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.

Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:

Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu
những công trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền
lớn hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tô. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị
gắn liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.

Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản
loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và

5
cảtiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam,
nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển
được. Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất
nước, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có
tinh thần chống đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách
mạng không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ
thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa
những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung,
địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh
thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên
rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời
cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ
những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công
nông đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đông đảo
và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở
đô thị. Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu
tranh vì độc lập tự do của dân tộc.

Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ
sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở
nước ta.Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công
nhân đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã
phát triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm
1929), trong đó có hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than), và 81.200
công nhân đồn điền.

6
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số
dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các
trung tâm công nghiệp và các đồn điền.

Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân
quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp
bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị
bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất,
không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có
nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm,
sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách
mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.

Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách
mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và
khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc
cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức
lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học
thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân trở thành
người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông
Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề
về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa,
giáo dục, chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự
khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá"
đó chính là sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Hồ
Chí Minh từng nói về "nhà khai hoá" như sau: "Khi người ta đã là một nhà khai hoá
thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất" Và nếu
dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hoá "điều quân đội,

7
súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt
bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy!".1

Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa.
Mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành thuộc
địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị
đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó.

Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những
mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột
càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong
của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và
hình thức. Trái lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong
nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ
Chí Minh đã vạch rõ vấn đề này từ năm 1924 rằng: "Cuộc đấu tranh giai cấp không
diễn ra giống như ở phương Tây... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm
thiểu.Điều đó, không thể chối cãi được".2

II. Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước
Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân
Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến tiêu biểu là:
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết
lãnh đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. (Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc

1 Sđd, 2002, t.2, tr. 56, 115


2 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2000 , tr. 464.

8
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong
trào vẫn tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Thất bại của các phong trào
trên đã chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu
nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam).
Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo, diễn
ra tại Thanh Hóa
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra ở các
tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo,
diễn ra ở địa bàn Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885 – 1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương Văn
Nắm lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang. KN đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho
chúng nhiều khó khăn thiệt hại nhưng đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến
trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Do đó các nhà
yêu nước tiến bộ chủ trương một khuynh hướng đấu tranh mới đó là khuynh hướng dân
chủ tư sản.
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu
là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình
quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy Tân (1904), tổ chức phong trào Đông
Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành,
ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi
(1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục Hội (1912) với ý định tập
hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc,
nhưng rồi cũng không thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng
cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp,
làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt
Nam. Ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và
phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ, có
9
cuộc vận động Duy Tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào
đấu tranh chống thuế (1908).
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể
tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của
dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực
kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã
bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể
với những hình thức khác nhau.
Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp
trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc
quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực
dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản
và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần
chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì
họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản
thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa
đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà
xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng
thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê
(Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị
gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để
tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng
với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận
động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên,
càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị
phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như

10
Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu
là Phục Việt, Hưng Nam).
Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và
hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam
Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó
Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt
Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam
trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn
Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa
bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính
trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp
từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ
phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu
nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động,
các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối
cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với
cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái Bình,
Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân
Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn
chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô
vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong
trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình
thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp
tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu

11
cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp
thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một
giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của
nhân dân Việt Nam.
Các phong trào yêu nước cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 ở nước ta khi chưa có
Đảng ra đời đều bị thất bại là vì:
Các phong trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn chế về giai cấp, về
đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi các lực
lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng cơ bản (công nhân và nông
dân) cho nên thất bại.
Cuộc đấu tranh của ta nằm trong tình thế bị động, nên Pháp đã dập tắt nhanh chóng.
Gặp phải sai lầm trong quá trình đấu tranh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương,
phản đối chiến tranh và cầu viện nước ngoài.
Những cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các phong trào mang tính tự phát, trong
nội bộ chia rẽ.
Giai cấp tư sản Việt Nam còn quá nhỏ bé, yếu đuối cả về kinh tế và chính trị nên
không đủ sức giương ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Chưa có chính Đảng lãnh đạo. (Các phong trào thất bại như: phong trào Cần Vương,
cuộc khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Đông Du, Duy Tân…)
Tuy nhiên các phong trào yêu nước thất bại nhưng nó mang ý nghĩa rất quan
trọng
Góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khơi dậy ý chí dành độc lập của dân
tộc ta.
Phong trào yêu nước thất bại trong lúc này, chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ
tư tưởng phong kiến và tư sản không phù hợp với bối cảnh Việt Nam lúc này.

12
Thúc đẩy các nhà yêu nước, các thanh niên yêu nước có khuynh hướng dân chủ tư
sản phải lựa chọn một con đường mới, một giải pháp mới để cứu nước, giải phóng dân
tộc theo xu thế của thời đại, trong đó của Nguyễn Tất Thành.
Tạo cơ sở thuận lợi để những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin được
Nguyễn Ái Quốc truyền bá về nước. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng
vô sản. Nhân tố quan trọng cho việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản là một cuộc cách mạng mà theo
đó giai cấp công nhân tiến hành lật đổ tư bản.

Sơ lược quá trình tìm tòi con đường cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc (1911-
1920)

Ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời bến nhà Rồng (Sài Gòn)
ra đi tìm đường cứu nước. Người không dừng lại ở phương Đông như các vị tiền bối
mà sang phương Tây, đến tận hang ổ của kẻ thù để tìm con đường cứu nước
khác.Trên hành trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, Nguyễn Ái Quốc đã để tâm tìm
hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ (4/7/1776) và
cuộc cách mạng Pháp (14/7/1789). Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác
ái và quyền con người của các cuộc cách mạng đó nhưng cũng nhận thức rõ hạn chế
của nó. Người cho rằng đó là những cuộc “cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ nhưng kỳ thực ở trong thì nó bóc lột nông dân, ở ngoài
thì áp bức thuộc địa”.1 Từ đó, Nguyễn Ái quốc khẳng định con đường cách mạng tư
sản không thể đưa lại độc lập, hạnh phúc cho nhân dân các nước nói chung, cho nhân
dân Việt nam nói riêng.

Cách mạng tư sản Pháp, Mĩ là cuộc cách mạng không triệt để, không đến nơi đến
chốn vì khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái chỉ là lời nói suông, dân chúng đặc biệt là
người lao động vẫn bị bóc lột nặng nề bởi các tư sản chính quốc, cuộc sống người dân
vẫn nghèo khổ, không thể hiện được cái gọi là văn minh tiến bộ như họ đã nói với
chúng ta.

1 Đường Kách Mệnh, tr.296

13
Năm 1917 khi trở lại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập tổ chức “Hội những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp”.

Khi cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ và thắng lợi, Người đã “ủng hộ cách mạng
tháng 10 Nga chỉ theo cảm tính tự nhiên …chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của
nó”.1

Lúc đó Người đặt biệt quan tâm đến cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.
Người cho rằng: “Trên thế giới bây giờ chỉ có cách mạng mệnh Nga là đã thành công,
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”2

Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 6/1919, thay
mặt “Hội những người Việt nam yêu nước tại Pháp” Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới hội
nghị Vécxay bản “Yêu sách của nhân dân Việt nam” gồm 8 điểm, đòi chính phủ Pháp
thực hiện các quyền tự do dân chủ ở Việt nam. Những yêu cầu chính đáng và cấp thiết
đó không được chấp nhận và Người rút ra kết luận: “Những lời tuyên bố của chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa Uynxơn chỉ là trò bịp bợm, các dân tộc muốn được giải
phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của chính bản thân mình’’.3

Bản “Yêu sách của nhân dân Việt nam” đòi chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự
do dân chủ ở Việt nam. Vì Người muốn đòi những thứ mà Pháp có đó là quyền tự do,
quyền dân chủ đòi những thứ mà thực dân Pháp luôn mạnh miệng tuyên truyền cho
người dân và các nước thuộc địa về một đất nước tốt đẹp giàu mạnh.

Muốn giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của chính bản thân mình thì mới giữa
vững được nền độc lập, càng không bị phụ thuộc vào bất kì ai.

Tháng 3/1919 Lênin đã thành lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Như vậy, lúc
này trong phong trào công nhân quốc tế cùng tồn tại Quốc tế II và Quốc tế III. Các
Đảng Xã hội của giai cấp công nhân các nước đứng trước sự lựa chọn: tin và đi theo
quốc tế nào, đi theo con đường nào? Đảng Xã hội Pháp – tổ chức mà Nguyễn Ái Quốc

1Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 561.
2Hồ Chí Minh-Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, 1995, tr 280
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.674.

14
gia nhập từ đầu năm 1919 và bản thân Nguyễn Ái Quốc cũng đứng trước sự lựa chọn
đó.

Đúng lúc đó, tại đại hội lần II của Quốc tế cộng sản (khai mạc ngày 10/7/1920)
Lênin đã đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và thuộc địa’’(tác phẩm này
còn được gọi là Luận cương Lênin). Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản Luận cương
Lênin trên tờ báo Nhân đạo số ra ngày 16,17/7/1920. Luận cương đó đã đáp ứng đúng
nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ: tự do cho đồng bào, độc lập
cho tổ quốc. Từ đó Người “hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III’’. Người
rút ra kết luận: "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
ngoài con đường cách mạng vô sản".1

Tháng 12/1920 tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (còn gọi là đại hội Tua) đã nảy ra
cuộc tranh luận gay gắt về việc ra nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc tế II. Nguyễn Ái
Quốc đã bỏ phiếu giải tán Đảng Xã hội để sáng lập Đảng cộng sản Pháp và gia nhập
Quốc Tế thứ III.
Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước đã trở thành người cộng sản
đầu tiên của dân tộc Việt Nam, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc chưa có khuynh
hướng rõ ràng thành một chiến sĩ giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Cộng sản.
Như vậy, trải qua cuộc hành trình dài đầy gian khổ, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con
đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc mình, đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức
thiết của dân tộc mình là tìm ra một con đường cách mạng mới.

Những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ 1921 đến 1929:

Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải
phóng dân tộc theo học thuyết Mác- Lênin để truyền bá vào Việt Nam và từng bước
chuẩn bị tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.

Từ 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp.
Từ năm 1921, trong các bài báo về Đông Dương của mình, Nguyễn Ái quốc đã đặt

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.241

15
vấn đề: chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói
riêng không? Và Người đã đưa ra một luận điểm mới mẻ, đầy sáng tạo “chủ nghĩa
cộng sản thâm nhập vào Châu Á dễ dàng hơn vào châu Âu”1 sau khi phân tích những
điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể ở đó. Từ đó, Người khẳng định: “Cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa có tính chủ động, độc lập và có thể thành công trước cách
mạng ở chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên”

Trong những năm hoạt động ở Pháp , Nguyễn Ái Quốc đã viết tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp’’ sau này được in ở Pari vào năm 1925. Bản án chế độ thực dân
Pháp không chỉ là bản cáo trạng đơn thuần mà đã chỉ ra con đường thực hiện bản án là
cuộc đấu tranh tự giải phóng. “Tác phẩm đó đã đặt những viên đá đầu tiên tạo nền
tảng cho đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng ta”.

Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924 Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Liên Xô – trung
tâm của phong trào cộng sản quốc tế và tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về cách
mạng thuộc địa.

Trong thời gian này, Người còn viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng cộng sản
Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Trong các bài báo, bài phát
biểu của mình trong giai đoạn này, Nguyễn Ái Quốc đề cập đến 3 vấn đề.

Thứ nhất: Tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc
với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

Thứ hai: Vai trò quan trọng và sự cần thiết phải tổ chức, lãnh đạo giai cấp nông
dân ở các nước thuộc địa.

Thứ ba: Vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc: “chủ nghĩa dân tộc là
một động lực lớn của đất nước”.

Từ 11/ 1924 đến 2/1930 Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu (Trung Quốc),
ở nhiều nước khác và tích cực chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.

1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H. 1995, tr.35.

16
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, hạt nhân là
Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo báo Thanh niên. Đây là một
bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Để chuẩn bị về tư tưởng - chính trị cho việc thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyến Ái
Quốc đã vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong tác phẩm Đường kách mệnh (được in năm
1927). Nội dung cơ bản của tác phẩm Đường Kách mệnh như sau:
Thứ nhất: Khi phân tích tính chất của các cuộc cách mạng điển hình như cách
mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc đã kết luận: cách mạng
Pháp, cách mạng Mỹ là “cách mạng không đến nơi”, chỉ có cách mạng tháng Mười
Nga là thành công triệt để vì “dân chúng số nhiều được hưởng cái hạnh phúc, tự do,
bình đẳng”. Vì vậy, cách mạng Việt nam cần đi theo con đường cách mạng triệt để -
con đường cách mạng vô sản.
Tính chất của cách mạng Việt nam sẽ là cách mạng giải phóng dân tộc - một bộ phận
của cách mạng vô sản, mở đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: Bàn về lực lượng cách mạng: "Cách mạng là việc chung của cả dân chúng
chứ không phải là việc của một hai người", việc giải phóng dân tộc chủ yếu là do nhân
dân ta tự làm lấy, trong đó công nông là gốc của cách mạng.
Thứ ba: Bàn về đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, vì vậy cần được sự giúp đỡ của quốc tế.
Thứ tư: Bàn về phương pháp cách mạng: Phải giác ngộ và tổ chức quần chúng
cách mạng, làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, đoàn kết để đánh đổ
giai cấp áp bức mình.
Thứ năm: Bàn về vai trò của Đảng: cách mạng muốn thắng lợi thì trước hết phải có
Đảng cách mạng để ở trong thì tổ chức lãnh đạo dân chúng, ở ngoài thì liên lạc với
giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đảng có vững thì cách
mạng mới thành công.

17
Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm nền tảng. “Chủ nghĩa chân chính nhất là
chủ nghĩa Lênin”.1

Như vậy, tác phẩm Đường Kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị
cho việc thành lập Đảng và là cơ sở để hình thành nên Chính cương vắn tắt sau này.

Vậy đường cách mệnh chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết tới nhau. Cách mạng là việc của
toàn dân không phải của riêng một hai người do đó phải đoàn kết toàn dân. Cái cốt là
công nông phải làm chủ cách mệnh, công nông là gốc cách mệnh.

Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản:

Việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước làm dấy lên các cuộc đấu tranh mạnh mẽ, đặc biệt là cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân.

Trước năm 1919, phong trào công nhân mang tính chất tự phát, chủ yếu dưới các
hình thức sơ khai như: bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký sau đó
phát triển thành những hình thức: bãi công, biểu tình ở các quy mô nhỏ. Ví dụ như
cuộc bãi công của 200 công nhân viên chức ngành Liên hiệp thương mại Đông Dương
(1907)…

Từ năm 1919-1925 giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất
lượng. Phong trào dần mang tính tự giác. Nhiều cuộc bãi công lớn đã nổ ra.

Từ năm 1926-1929, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ hơn dưới sự lãnh
đạo và hoạt động của hội Việt nam cách mạng thanh niên.

Song song với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là phong trào đấu tranh
của nông dân.

Điều cần nói ở đây là phong trào công nhân và phong trào nông dân đã có tác dụng
hỗ trợ lẫn nhau. Nông dân đã quyên tiền ủng hộ công nhân hoặc che chở, đùm bọc

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289

18
công nhân khi phải về thôn quê tạm lánh địch khủng bố…
Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt nam

Cuối năm 1928-1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển
mạnh mẽ và mang tính thống nhất trong cả nước đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống
nhất của một Đảng cách mạng. Việt nam cách mạng thanh niên đã hoàn thành nhiệm
vụ lịch sử là chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ở nước ta và giờ đây không
còn phù hợp để lãnh đạo phong trào. Xu thế thành lập một Đảng cộng sản đã chín
muồi.

Phong trào Vô sản hóa (1928) của Hội Viẹt Nam Cách Mạng Thanh Niên diễn ra
mạnh mẽ nhất ở miền Bắc, làm cho phong trào cách mạng ở đây phát triển sôi nổi
hơn, yêu cầu thành lập đảng Cộng sản vì thế cũng xuất hiện sớm hơn. Cuối tháng
3/1929, tại 5D - Hàm Long- Hà Nội một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách
Mạng Thanh Niên ở kỳ bộ Bắc Kỳ lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm 7
người do đồng chí Trần Văn Cung làm bí thư chi bộ.

Tháng 5 năm 1929, tại Đại hội lần thứ nhất Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên
ở Hương Cảng – Trung Quốc, đoàn Đại biểu kỳ bộ Bắc Kỳ đề nghị giải tán tổ chức
Thanh Niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận
nên đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại Hội về nước.

Ngày 17/6/1929, tại 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cộng sản ở
miền Bắc họp Đại hội và quyết định thành lập Đông Dương cộng sản Đảng, thông qua
Tuyên ngôn, Điều lệ Đảng, xuất bản báo Búa Liềm, cử ra Ban chấp hành trung ương
lâm thời của Đảng. Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng là sự kiện đột phá
chính thức kết thúc vai trò của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên.

Trước tình hình đó, một số hội viên tiên tiến của Việt Nam cách mạng thanh niên ở
Trung Kỳ và Nam Kỳ cũng vạch ra kế hoạch thành lập tổ chức cộng sản.

An Nam cộng sản Đảng: Trước sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và nhu
cầu của phong trào cách mạng, các đồng chí trong Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh

19
Niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam cộng sản Đảng vào
tháng 8/1929.

Đông Dương cộng sản liên đoàn: Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng và An
Nam cộng sản Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá của Tân Việt cách mạng
Đảng.

Những đảng viên tiên tiến của tổ chức này đã tách ra lập các chi bộ cộng sản, xúc
tiến chuẩn bị mở đại hội thành lập Đảng. Tháng 9/1929 họ ra tuyên đạt về việc thành
lập Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Như vậy, chỉ trong một thời gian rất ngắn, ở Việt nam đã ra đời 3 tổ chức Cộng sản.

III. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam


3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
❖ Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Được nghe báo cáo về tình hình không thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở
trong nước và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị tan rã, Nguyễn Ái Quốc từ
Xiêm tới Trung Quốc vào ngày 23-12-1929. Người triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công ngày 6-1-
1930 để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-2-1930, các đại biểu về
nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960 quyết nghị "từ
nay trở đi lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập
Đảng".

Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải
tự phê bình và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến
tình trạng xung đột, công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và
thành thật hợp tác để thống nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về

20
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thảo luận thông qua Chính cương,
Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, cử
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.

Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản
Đảng đã phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm,
khuyết điểm của họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là:
điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công
hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe.

Đông Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện
công nhận đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe;
về mặt tổ chức, đảng có tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức
Thanh niên và Tân Việt.

Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng
Cộng sản.

Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
thông qua kế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam; thống nhất cách cử Ban Chấp hành Tung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
có năm ủy viên do Đông Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời có tổng số bảy ủy viên.

Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo. Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội,
Hội phản đế. Theo đó, Công hội và Nông hội sẽ thu hút những công nhân và nông
dân không thể kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội Phản
đế. Hội nghị xác định rõ thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên là cử cán bộ vào Nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ chức
này vào Hội Phản đế, đối với Tân Việt thì không giải tán và cũng đưa vào Hội

21
Phản đế, kết nạp những người ưu tú trong tổ chức đó vào Đảng. Đảng chủ trương
tranh thủ Quốc dân Đảng, thu nạp đảng viên của Đảng này vào Hội Phản đế. Để
thực hiện chủ trương đoàn kết các tố chức cách mạng trong Mặt trận phản đế,
"Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái
như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh, v.v. để thành
lập Mặt trận phản đế và về sau cá nhân hoặc tổ chức đều có thể gia nhập".

Đảng sẽ thành lập Hội Cứu tế do những đảng viên được Đảng cử ra phụ trách
và tuyên truyền phát triển hội viên. Hội Cứu tế làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị
bảo vệ những chiến sĩ cách mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất khi họ bị
chính quyền thực dân bắt bớ, kết án và tù đày…

Ngày 24-2-1930; chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời nhưng chưa có lực lượng, tổ chức,
chánh cương không cụ thể, chưa phải là một đoàn thể Bôn-sơ-vích chân chính
"nhưng có tinh thần cộng sản" và muốn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Xét
nguyện vọng chính đáng của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, ngày 24-2-1930,
hai đồng chí thay mặt cho đại biểu của Quốc tế Cộng sản (tức Nguyễn Ái Quốc)
là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu, hai đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời là Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) và Phạm Hữu Lầu
cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời Chấp ủy Đảng Cộng sản Việt
Nam ở Nam Kỳ đã họp Hội nghị, chấp nhận sự sáp nhập của Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam.”
Nghị quyết chỉ rõ Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cử một người tham gia
Lâm thời Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ; đồng thời, Lâm thời
Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Chấp ủy Liên đoàn phải thông báo
để cho các đồng chí trong Đảng biết Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam”1

1
Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb.Trẻ, 1999, tr.76-79

22
Như vậy, đến ngày 24/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc
hợp nhất của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là mốc son đánh dấu sự trưởng thành
của phong trào cách mạng Việt Nam, là bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt
Nam. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước.

❖ Cương lĩnh chính trị đầu tiên


1. Phương hướng chiến lược của cách mạng :

Cương lĩnh đã đề ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “ Tư sản
dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản ”

Phương hướng chiến lược mà cương lĩnh chính trị đầu tiên đã chỉ ra rằng cách
mạng Việt Nam sẽ phát triển qua 3 giai đoạn chiến lược :

Tư sản dân quyền cách mạng ➔ thổ địa cách mạng ➔ xã hội cộng sản

Giai đoạn thứ nhất là làm tư sản dân quyền cách mạng: có nghĩa là giảnh được độc
lập và quyền tự quyết cho dân tộc. Vì trong giai đoạn này đất nước ta đã gần như hoàn
toàn rơi vào tay thực dân pháp, chính quyền phong kiến hiện giờ chỉ như một chính
quyền bù nhìn, hoàn toàn không có sức mạnh về chính trị cũng như quân sự => thực
dân pháp ngày càng vơ vét tài nguyên, đàn áp nhân dân ta một cách dã man => Ưu tiên
số một hiện tại phải là nhanh chóng dành lại độc lập, giải phóng nhân dân ta khỏi ách
nô lệ, lầm than. Ngoài ra, để thực hiện được giai đoạn tiếp theo là thổ địa cách mạng
thì chúng ta phải đánh đổ được giai cấp địa chủ phong kiến, mà trong giai đoạn này
phần lớn đất đai đều nằm trong tay các đại địa chủ và phần lớn những đại địa chủ này
đều bắt tay cầu kết làm tay sai cho thực dân Pháp vì vậy có muốn đánh đổ được bọn
địa chủ tay sai này thì trước tiên phải đánh đổ được bọn chốn lưng cho chúng đó là
thực dân Pháp và chính quyền phong kiến.

Ta có thể thấy rằng thực hiện tư sản dân quyền cách mạng là một giai đoạn quan
trong phương hướng chiến lược cách mạng đã chỉ ra. Nó vừa là một giai đoạn cách

23
mạng nhằm mục đích là giành lại độc lập , tự chủ cho dân tộc, vừa là tiền đề, điều kiện
tiên quyết để thực hiện thổ địa cách mạng .

Giai đoạn thứ 2 là làm thổ địa cách mạng : là giải quyết mâu thuẫn giai cấp giữa
nông dân và địa chủ, giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất cho người nông dân.

Thực tiễn cho thấy trong suốt qua trính lịch sử ,dưới sự cai trị của chế độ phong kiến
giai cấp nông dân luôn luôn không ngừng bị giai cấp địa chủ áp bức và bóc lột sức lao
động làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ vốn đã rất gay gắt.
Nay, khi thực dân Pháp tiến vào xâm lược nước ta, phần lớn giai cấp địa chủ phong
kiến còn bắt tay cấu kết với thực dân pháp ra sức áp bức, bóc lột tầng lớp nông dân mốt
cách nặng nề hơn, làm cho mâu thuẫn có sẵn đã gay gắt nay càng gay gắt hơn nữa.
Đảng ta từ đầu đã nhận ra được giai cấp nông dân là giai cấp có lực lượng đông đảo, lại
chịu sự đàn áp kép từ cả thực dân pháp lẫn chế độ phong kiến nên họ sẽ là một trong
những lực lượng nòng cốt cho cách mạng Việt Nam sau này. Nhận ra được mâu thuẫn
gay gắt giữa một bên là nông dân và một bên là thực dân pháp và địa chủ phong kiến
tay sai => Tiền hành thổ địa cách mạng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà
cách mạng Việt Nam phải thực hiện.

Giai đoạn thứ cuối cùng sau khi thực hiện xong tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng chúng ta sẽ tiến hành đưa đất nước đi lên xã hội cộng sản.

2. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
Về chính trị : Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
việt nam hoàn toàn đươc độc lập, lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công
nông.

Nhiệm vụ chính trị mang trong mình toàn bộ nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền là thực hiện công cuộc đánh đổ đê quốc chủ nghĩa và chính quyền phong kiến
giành lại quyền độc lập, tự quyết cho cho dân tộc, từ đó tiến hành thổ địa cách mạng.
Nhưng trong tình thế hiện tại, chính quyền phong kiến đã mất toàn bộ quyền lực và sức
ảnh hưởng về chính trị của mình, thực dân pháp tại việt nam thì ngày càng lớn mạnh và
ra sức vơ vét sức người , sức của của nhân dân ta => Chúng ta cần phải nhanh chóng
xây dựng một nhà nước riêng làm nhiệm vụ vừa là đầu não chỉ huy , dẫn dắt nhân dân

24
ta làm cách mạng lại vừa là một đối trọng với chủ nghĩa đế quốc trên trường quốc tế, ta
cũng cần xây dựng một đội quân riêng, vừa là tấm khiên có thể bảo vệ cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc, vừa là vũ khí sắc nhọn giúp dân tộc ta giành lại và bảo vệ độc
lập, tự do.

Nhận định được sự cần thiết của việc thành lập một nhà nước mới, đảng ta đã xác
định tron cương lĩnh rằng một trong những nhiệm vụ hàng đầu là thành lập nhà nước
công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái ,tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn ( như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng,... ) của tư bản đế quốc chủ nghĩa pháp để giao cho chính phủ
công nông binh quản lý, tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và
nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Nếu như nhiệm vụ chính trị mang trong mình nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền thì nhiệm vụ về kinh tế lại mang trong mình nhiệm vụ của thổ địa cách mạng.
Như đã trình bày ở trên tầng lớp nông dân đang ngày càng bị đế quốc chủ nghĩa và bè lũ
địa chủ phong kiến tay sai áp bức, bóc lột. Vì vậy đảng đã chỉ rõ rằng ngay khi thực
hiện thành công cách mạng tư sản dân quyền, giành lại được đất nước, phải tịch thu
toàn bộ ruộng đất mà bọn đế quốc và địa chủ chiếm giữ rồi chia cho dân cày nghèo, loại
bỏ sưu thế cho dân cày nghèo. Có vậy nông dân mới có thể yên tâm chăm lo trồng trọt
sản xuất, không lo thiếu ăn, thiếu mặc.
Một điểm nữa trong nhiệm vụ về kinh tế mà cương lĩnh chính trị đã nêu ra đó là thực
hiện tịch thu toàn bộ của cải, quốc trái của tư bản đế quốc để giao cho Chính phủ công
nông binh quản lý. Vì đảng ta đã xác định từ đầu, khi chúng ta thực hiện cách mạng tư
sản dân quyền thì ắt sẽ có sự kháng cự từ thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Nên chúng ta
cũng xác định từ trước rằng sau trải qua một cuộc chiến lâu dài và thực hiện thành công
cách mạng tư sản dân quyền, giành lại được độc lập thì đất nươc ta sẽ rơi vào tình cảnh
thiếu thốn đủ bề. Và để bù đắp cho sự thiếu thốn về nhân lực lẫn vật lực đó thì không
hành động nào có thể khôn ngoan việc tịch thu toàn bộ sản nghiệp của chủ nghĩa đế
quốc, giao cho nhà nước công nông binh quản lý và từ đó có thể củng cố vững chắc
chính quyền khi còn non trẻ.

25
Ngoài thực hiện xử lý đối với ruộng đất và sản nghiệp giành lại được từ tay của chủ
nghĩa thực dân , đảng ta còn chủ trương nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế.
Nhận thấy và học hỏi được nhiều thành tựu trong việc phát triển kinh tế sau khi thực
hiện cách mạng vô sản của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và kết hợp với
lợi thế nguồn nhân lực ở nước ta, đảng ta nhanh chóng xác định công nghiệp sẽ là một
mũi nhọn kinh tế hàng đầu cần phát triển. Bên cạnh đó đất nước ta từ lâu đời đã có
truyền thống, thổ nhưỡng và rất nhiều kinh nghiệm trong việc canh tác nông nghiệp vì
vậy Đảng ta cũng không quên đặt nông nghiệp cũng là mũi nhọn song song với công
nghiệp. Và hai mũi nhọn này sẽ rẽ đường cho kinh tế nước ta đi lên sau khi giành lại
được chính quyền
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền , ... phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
Sau khi giành được chính quyền thì đảng ta chủ trương cho nhân dân ta tự do về văn
hóa, bên cạnh đó chúng ta cũng phải biết kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, bài trừ loại bỏ những tập tục thói quen xấu mạng nặng cốt cách, tư
tưởng phong kiến như trọng nam khinh nữ, chỉ có con trai mới được đi học, ...
Về giáo dục: Đảng ta chủ trương thay đổi cách giáo dục cũng như thay đôi hệ tư
tưởng. Từ phương pháp giáo dục phong kiến tuân theo hệ tư tưởng nho giáo sang
phương pháp giáo dục theo hướng công nông hóa mang theo tư tưởng hiện đại, mới mẻ.
3. Lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phân dân cày và
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong
kiến, phải làm các đoàn thể, thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới
quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia, phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, ...để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (như Đảng lập hiến,..) thì phải đánh đổ.
Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực
lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân
tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng
lợi hoàn toàn. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân,
26
Đảng chủ trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù
còn có những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Về vấn đề ruộng đất, "xương sống của
cách mạng thuộc địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những dung thích hợp
với từng thời kỳ cách mạng.Ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ
đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông
dân nghèo, từ đó thu phục cho được đại bộ phận dân cày và dựa vào dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ phong kiến và đế quốc. Sau khi cách mạng
giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, khi chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ
lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi
nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không bỏ sót bất kỳ lực lượng nào có thể góp sức cho
cách mạng, chủ trương liên lạc, lôi kéo tiều tư sản, trí thức, trung nông, các hội như Tân
Việt,.. đi vào phe cách mạng. Còn các lực lượng phản cách mạng thì thẳng tay đánh đổ
không khoan nhượng.
4. Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong khi liên lạc
với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
Do làm việc trong các đồn điền, nhà máy nên từ sớm giai cấp công nhân đã biểu
hiện rõ được những đặc điểm phù hợp với công cuộc lãnh đạo cách mạng của mình như:
Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Họ lại là một trong những tầng lớp
bị áp bức nặng nề nhất bởi đế quốc chủ nghĩa nên họ có thể dễ dàng gánh trách nhiệm
đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới. Hơn nữa giai cấp công
nhân có thể thấm nhuần tư tưởng Mác-Lênin, đồng thời tinh thần đấu tranh của họ ảnh
hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và
hành động, giai cấp công nhân đều có thể giữ vai trò lãnh đạo.
Do đảng mới được thành lập nên còn non trẻ chưa thể lập tức chống lại chủ nghĩa đế
quốc và tay sai nên khi liên lạc với các giai cấp khác phải cần thận tránh để lộ làm ảnh
hưởng đến công cuộc cách mạng của dân tộc.

27
5. Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: Cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới,nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Cương lĩnh của đảng đã xác định rõ ràng rằng Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô.
Giữa thời đại mà các nước tư bản đế quốc đang còn hùng mạnh và không ngừng bành
trướng tránh giành thuộc địa chúng ta phải hết sức tranh thủ, hợp tác với các lực lượng
tiến bộ khác trên thế giới. Như vậy trong quá trình tiến hành cách mạng phải không
ngừng truyên truyền, liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới,
đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp bởi vì Cách mạng vô sản Pháp có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cách mạng vô sản Pháp có giành thắng lợi
thì chính quyền thực dân Pháp ở thuộc địa mới suy yếu và từ đó cách mạng Việt Nam
mới có thể nhanh chóng giành được thắng lợi.
6. Phương pháp cách mạng: Phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam là
dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, đó là bạo lực cách mạng: Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến, đánh đổ các Đảng phản cách mạng, đánh trúc
bọn đại địa chủ và phong kiến.
7. Xây dựng đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định tới cho mọi
thắng lợi của Đảng. Vì thế đảng không chỉ kết nạp công nhân tiên tiến mà còn phải kết
nạp những người tiên tiến trong các giai cấp khác.

Qua việc tiến hành phân tích nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
cộng sản Việt Nam ta có thể tính đúng đắn trong đường lối đấu tranh của đảng và sự
đúng đắn đó còn được thể hiện thông qua các giai đoạn trong dòng lịch sử.

Thứ nhất là tại thời điểm Cương lĩnh được soạn thảo ( 1930 ):

Từ nội dung đã được nêu ra ở trên ta thấy được tính đúng đắn và sáng tạo của cương
lĩnh được thể hiện qua các vấn đề sau:

Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
một hệ thống lí luận tiến bộ đúng đắn và khoa học.

28
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng
tư sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp
nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh chủ trương: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.Qua đó, ta thấy rằng:
ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt
Nam là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là
điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta. Đồng
thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng sáng tạo và hợp lý lý luận cách mạng không
ngừng của chủ nghĩa MácLênin. Cương lĩnh khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư
sản dân quyền ở nước ta là chống đế quốc và chống phong kiến. Điều này cũng thể
hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể hiện ở
chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ
yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt
Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải
hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra.

Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên, Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc hơn
vấn đề đấu tranh giai cấp và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Đúng đắn và
sáng tạo ở chỗ: Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc
giải quyết các mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất.

Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định, ngoài giai cấp công nhân, thì cách
mạng “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nông…để kéo họ về phe
vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho trung lập”1. Như vậy,
ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ
trương phải tranh thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb.Chính trị quốc gia, HN, 2011, tr.3.

29
các loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp
khác ngoài công nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yêu
nước, như: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước…, vì thế cần phải tranh thủ
kéo họ về phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải
phóng dân tộc của Cương lĩnh, điều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng của giai cấp công nhân.

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới: Đây cũng là một nội
dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh vì: giai cấp tư sản ở các nước,
trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc
địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới.

Thứ hai là trong tình hình hiện nay:

Ngày nay tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên vẫn còn thể
hiện rất rõ nét.

Trước hết chính cương lĩnh khẳng định tính chất của cách mạng Việt nam là cách
mạng "tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ lên XHCN, tức là đã hoàn thành cơ bản
nhiệm vụ Cách mạng tư sản dân quyền và Cách mạng ruộng đất, vì vậy nhiệm vụ hàng
đầu hiện nay là xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH tiếp tục, kiên trì con đường đi lên
XHCN, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng định hướng xã hội chủ
nghĩa, tức là không thay đổi chiến lược cách mạng, không xa rời nguyên lí của Chủ
nghĩa Mác- Lênin mà làm cho nhiệm vụ ấy thực hiện có hiệu quả, vận động theo tiến
trình của lịch sử và dân tộc.

Cương lĩnh cũng khẳng định lực lượng cách mạng là công nhân, nông dân,tiểu tư
sản, trí thức.Đối với phú nông, trung nông hoặc tư sản thì phải lôi kéo lợi dụng họ hoặc
ít nhất là làm cho họ trung lập. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại ngày nay,

30
bên cạnh liên minh công nông làm nền tảng,chúng ta cần phát huy hơn nữa sức mạnh
đại đoàn kết của cả dân tộc, trong đó có mọi thành phần xã hội tạo nên sức mạnh tổng
hợp để tiến nhanh, tiến mạnh vào thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải nâng cao dần
trình độ của công-nông trong thời đại mới để họ làm chủ tư liệu sản xuất, bên cạnh đó
phát triển đội ngũ trí thức học sinh, sinh viên bởi đây là nguồn lực để phát minh cũng
như tiếp thu những thành tựu của nền văn minh nhân loại trong thời đại mới; tiếp tục
phát huy nguồn vốn và sự tranh thủ sự ủng hộ của các nhà tư sản lớn đề có thể tạo nội
lực tổng hợp.

Cương lĩnh cũng khẳng định Đảng Cộng sản - Đội tiên phong của giai cấp vô sản-
giữ vai trò lãnh đạo. Điều này có vai trò quan trọng trong việc chống âm mưu diễn biến
hoà bình, trong bối cảnh tình hình thế giới còn nhiều phức tạp với các cuộc bạo loạn lật
đổ, đảo chính. Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng không chỉ tạo nên một nền chính trị hoà
bình, ổn định mà còn tạo nên điều kiện cơ bản từ đó phát triển kinh tế, đảm bảo đời
sống nhân dân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Kiên trì sự lãnh đạo của một Đảng lãnh
đạo chính là tuân thủ nghiêm ngặt nguyên lí của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại
mới.Bên cạnh đó, Cương lĩnh khẳng định Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới vì vậy phải đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đây phải chăng cũng
chính là cơ sở mà sau này được Đảng ta kế thừa và phát huy: Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nước trên thế giới trong thời đại mới, bên cạnh đó chúng ta tích cực hội
nhập thế giới, góp phần tiếng nói của mình trong phong trào cách mạng thế giới, đoàn
kết tương trợ trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta dù còn rất vắn tắt, sơ lược nhưng đó là
một Cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về
quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc, trở thành kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng và đặc biệt có ý nghĩa lâu dài trong tiến tình vận
động cách mạng của Đảng ta, nhất là trong thời đại ngày nay.

31
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và
Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng
Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng
đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách
mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư
tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát
triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện
gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sự kiện thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh
chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa
ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết
được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách
mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới
cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực
lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành
động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này.
Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của
cách mạng Việt Nam trong suốt 85 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to
lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần

32
tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định sự
đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 90
năm qua dân tộc Việt Nam đã thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân
phận của người dân và từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành
một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân
Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội;
đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới. Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam
hơn 80 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nhận định: “Từ năm
1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian
khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực
dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến
vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược,
mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân
năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn
nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”1

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H. 2011.

33
KẾT LUẬN

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới có những chuyển biến vô
cùng quan trọng, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội đã mở,
đòi hỏi phải nhìn nhận được xu thế phát triển của thời đại từ đó đề ra đường lối và
tìm được giai cấp lãnh đạo phủ hợp.

Nước ta chịu ách thống trị và bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, mâu thuẫn
dân tộc diễn ra gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh của nhiều lực lưc và khuynh hướng
chính trị khác nhau đã nổ ra, nhưng đều thất bại. Phong trào cách mạng Việt Nam
đi vào con đường tăm tối tưởng như không có lối ra.

Bằng trí tuệ thiên tài cũng như khả năng nhận thức đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc
đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng dân tộc, mang lại độc
lập tự do cho nhân dân. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt
Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của đất nước.

Cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự ra đời của Cương lĩnh
chính trị đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng
lợi mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng
nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua đã chứng
minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Ở Việt Nam không có một lực lượng chính
trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy
tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa
dân tộc đến bến bờ vinh quang.

Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài
học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách
nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy.

34
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên
định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra
đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng.

Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc
phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu.

Là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí.

Là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên
tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện
thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục
phát triển.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 90 năm qua, chúng ta
càng trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả của cách mạng, càng thấm
thía và biết ơn vô hạn công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính
yêu; càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào thêm về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng,
thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh
một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân.

Suốt chiều dài lịch sử 90 năm qua, Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam
vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Trong thời kỳ mới, thời kỳ của hội nhập mạnh
mẽ, nhân dân tin tưởng, Đảng sẽ tiếp tục vững vàng lãnh đạo đất nước thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.

35
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ..........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................2
I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ....................... 2
1.1. Bối cảnh thế giới .............................................................................................. 2
1.2. Bối cảnh trong nước ........................................................................................ 3
II. Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam .............................................................................................................. 8
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến ....................................... 8
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản................................................ 9
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản ............................................. 13
III. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ......................................................... 20
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên ............ 20
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên ........................................................................................... 32
KẾT LUẬN ............................................................................................34

36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
CTQG, H. 2011.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

37

You might also like