You are on page 1of 15

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

BÀI TIỂU LUẬN CHÍNH TRỊ


ĐỀ TÀI: “SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ
MỘT YẾU TỐ KHÁCH QUAN”

GVHD : Th.s NGUYỄN THỊ QUẾ


Lớp học phần : CDKDXK22D5
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN YẾN NHI
Mã sinh viên : 1821180

Trang 1
MỞ ĐẦU

Cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng thế giới nên vận
động theo bối cảnh chung của thời đại. Hiện nay, hoà bình hợp tác, phát
triển là xu thế lớn. Xu thế toàn cầu hoá đã tạo ra những thời cơ và thách
thức. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên,
năng lượng, thị trường vốn, công nghệ,… giữa các nước ngày càng gay
gắt. Thế giới tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Nhiều vấn đề bức xúc
như chênh lệch giàu nghèo, gia tăng dân số, khan hiếm năng lượng, ô
nhiễm môi trường, bệnh tật…đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế
cần phối hợp giải quyết. Thành tựu của Đảng về công tác đối ngoại,
đường lối, chính trị, con người của chúng ta trong thời gian qua đã góp
phần giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao uy tín Việt
nam trong khu vực và thế giới. Cho nên, bài học lớn của Đảng trong quá
trình lãnh đạo cách mạng và trong công cuộc đổi mới là luôn luôn kết
hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại.Tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức, tiếp tục đổi
mới toàn diện, mạnh mẽ, phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu khách
quan của cách mạng nước ta.

Trang 2
NỘI DUNG CHÍNH

1. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước trước khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời:

Từ 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt nam và từng bước thiết
lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa
thực dân trên đất nước ta, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn.
Nhân dân ta rơi vào thân phận nô lệ, mất độc lập, tự do. Việt Nam
từng bước chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang nước thuộc địa,
nữa phong kiến. Xã hội có sự phân hoá giai cấp sâu sắc
Giữa thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình
trạng khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng. Giai cấp địa chủ phong
kiến từng bước đầu hàng và làm tay sai cho đế quốc xâm lược.
Chúng cấu kết với bạn đế quốc thực dân để áp bức, bóc lột nhân
dân, tước đoạt ruộng đất của nhân dân.
Giai cấp nông dân Việt Nam ra đời từ lâu đời, là lực lượng đa số
trong dân cư, họ bị đế quốc phong kiến bóc lột nặng nề. Họ vừa là
người dân mất nước, vừa bị chiếm đoạt ruộng đất nên rất kiên quyết
chống đế quốc phong kiến. Nhưng họ không thể lãnh đạo cách mạng
vì họ không đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến và không
có hệ tư tưởng độc lập.
Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm tiểu thương, tiểu chủ, công chức
trí thức, học sinh… cũng bị bọn thực dân và phong kiến chèn ép,
bóc lột. Họ có tinh thần yêu nước và dân chủ, giữ vai trò tích cực
trong truyền bá tư tưởng tiến bộ vào các tầng lớp nhân dân. Đây là
lực lượng nhạy bén về chính trị nhưng khi gặp khó khăn thường lay
động.
Giai cấp tư sản Việt Nam sinh ra từ chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân pháp. Trên thực tế, giai cấp tư sản Việt Nam ít về
số lượng, nhỏ bé về kinh tế và non yếu về chính trị lại bị thực dân
Trang 3
pháp thâu tóm quyền lợi kinh tế nên họ không có những điều kiện
khách quan để trở thành lực lượng độc lập cả về kinh tế lẫn chính trị.
Họ có hai bộ phận tư bản mại bản gắn với đế quốc, tư bản dân tộc.
Tư bản dân tộc bị tư bản mại bản, tư sản nước ngoài chèn ép. Mặt
khác họ cũng làm giàu bằng cách bóc lột người lao động. Do vậy,
giai cấp tư sản Việt Nam mang tính hai mặt. Một mặt vì mâu thuẫn
với đế quốc nên có khuynh hướng dân tộc dân chủ; mặt khác họ
cũng sợ cách mạng phát triển nên thường giao động về chính trị.
Bản chất tư tưởng của họ là cải lương, sẵn sàng thỏa hiệp với thực
dân, phong kiến.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong quá trình khai thác
lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 - 1914 ). Sau chiến tranh thế
giới lần thứ nhất( 1914–1918), giai cấp công nhân Việt Nam phát
triển với tốc độ nhanh. Trong xã hội thuộc địa nữa phong kiến, bị ba
tầng áp bức, bóc lột nên họ rất nghèo khổ. Vốn giàu lòng yêu nước
có tinh thần dân tộc cao nên họ có tinh thần cách mạng triệt để. Mặc
dù ra đời muộn nhưng giai cấp công nhân Việt nam có đầy đủ những
đặc điểm tiến bộ của giai cấp công nhân quốc tế: giai cấp tiên tiến,
cách mạng triệt để nhất, có tổ chức kỷ luật cao nhất, có tinh thần
quốc tế. Ngoài ra họ có liên minh tự nhiên với giai cấp nông dân,
giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng chủ lực của cách mạng và
là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong
kiến, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong
xã hội ngày càng gay gắt, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam, chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ phong kiến tay sai,
chỗ dựa của thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có liên quan chặt chẽ
với nhau nên việc giải quyết chúng trong quan hệ khăng khít. Giải
quyết mâu thuẫn thứ nhất là đánh đổ thực dân Pháp, giải quyết mâu
thuẫn thứ hai là đánh đổ địa chủ, phong kiến. Giải quyết đồng thời
cả hai mâu thuẫn mới thực sự đem lại độc lập cho dân tộc và ruộng
đất cho nông dân. Không chịu khuất phục ngay từ đầu bị xâm lược

Trang 4
nhân dân Việt Nam từ Nam ra Bắc liên tục đứng lên khởi nghĩa
chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ của các sỹ phu yêu nước. Sự thất
bại của phong trào Cần vương (1897) đã chấm dứt vai trò cứu nước
theo đường lối phong kiến.
Những năm đầu thế kỷ XX phong trào đấu tranh theo khuynh
hướng dân chủ tư sản phát triển tiêu biểu là:
Phong trào Đông du (1906-1908), do Phan Bội Châu lãnh đạo,
đưa thanh niên Việt Nam du học, dựa vào Nhật để chống Pháp cách
tân đất nước.
Phong trào Đông kinh nghĩa thục (1907) do Lương Văn Can
lãnh đạo tuyên truyền, đã phá thực dân, cải cách văn hoá.
Phong trào Duy Tân (1906-1908) do Phan Châu Trinh và Trần
Quý Cáp khởi xướng, phê phán xã hội phong kiến đề xướng cải cách
cách mạng văn hoá, trong khuôn khổ thống trị của thực dân Pháp với
khẩu hiệu: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” cổ vũ lập hội,
dùng nôị hoá, mở trường học.
Việt Nam Quốc dân đảng 12-1927 do Tấn tài, Nguyễn Thái
Học lãnh đạo nhưng cuối cùng tất cả đều thất bại.

Tóm lại, các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX ở Việt Nam tuy thất bại nhưng đã để lại một ý nghĩa to lớn.
Những thất bại đó đã chứng tỏ sự khủng hoảng và bế tắc đường lối
cứu nước ở nước ta. Cách mạng việt Nam bức thiết đòi hỏi lực
lượng lãnh đạo tiên tiến, với con đường đúng đắn để đưa cách mạng
tới thành công. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, phát triển và
trưởng thành đã mang đầy đủ các đặc điểm của giai cấp công nhân
hiện đại, là lực lượng chính trị độc lập nên có đầy đủ khả năng lãnh
đạo toàn dân hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp.

Trang 5
2. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ra đời của Đảng là một yếu tố
khách quan:

• Hoàn cảnh quốc tế:


- Cách mạng tháng 10 Nga (1917) thắng lợi mở ra một thời đại
mới trong lịch sử nhân loại, có tác dụng thức tỉnh các dân tộc đang
đấu tranh giải phóng.
- Những tư tưởng cách mạng cấp thiết dựa vào các nước thuộc
địa.
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chế quốc chủ nghĩa.
- Các mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản phát triển gay
gắt.
- Mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân.
- Cách mạng tháng 10 Nga mở ra thời đại cách mạng giải
phóng dân tộc.
- Chủ nghĩa Mác-Lenin trở thành hiện thực.
- Quốc tế Cộng sản được thành lập (3/1919).
• Trong nước:
- Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm
gay gắt thêm các mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
- Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặc biệt là các mâu
thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải
phóng.
- Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyên vọng tha thiết của
nhân dân ta, là nhu cầu bức thiết của dân tộc.

Từ đó, dẫn đến tác động của quốc tế đến Việt Nam. Chủ nghĩa tư
bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, đi xâm chiếm thuộc địa.
Hoặc, chiến tranh lần thứ nhất bùng nổ, cũng ảnh hưởng đến thuộc
địa. Cách mạng tháng 10 Nga, thành công ở nước Nga có một tiếng
vang lớn, quốc tế tạo ra những điều kiện ảnh hưởng tác động đến
những tư tưởng yêu nước, những khuynh hướng chính trị của Việt
Nam ta và các Đảng Cộng sản và quốc tế Cộng sản được ra đời.

Trang 6
3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam:

 Tìm ra con đường cứu nước và sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam:

Ngày 05/06/1911: Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước


tại bến cảng Nhà Rồng. Ra đi với hai bàn tay trắng với hướng đi là
các nước Phương Tây. Hành trình với tấm lòng yêu nước, thương
dân bao la. Người đã qua nhiều nơi vừa kiếm sống, vừa hoạt động
trong phong trào nhân dân lao động ở các nước Châu phi, Châu Âu,
Châu Mỹ,… Người kết luận rằng: bất kỳ ở đâu dù màu da, tiếng nói
khác nhau nhưng đều chỉ có hai dạng người đó là kẻ bóc lột và
Người bị bóc lột. Người đi tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn như
cách mạng Mỹ, Pháp. Người rút ra kết luận các cuộc cách mạng đó
đều không triệt để.
Giữa năm 1917: cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi và người
hướng theo cuộc cách mạng đó. Đồng thời, Người tham gia Đảng xã
hội Pháp, người thành lập hội những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp. Người thành lập báo Việt Nam, hội làm cơ quan ngôn luận.
Năm 1919: Người gửi đến các nước đế quốc thắng trận sau
chiến tranh thế giới họp ở Vacxay (Pháp), bản “yêu sách của nhân
dân An Nam”, yêu cầu thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của nhân
dân Đông Dương nhưng không được thực dân Pháp thừa nhận.
Tháng 7/1920: Nguyễn Ái Quốc đọc “ Sơ thảo lần thứ nhất luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin.
Tháng 12/1920: Tại đại hội Tua Pháp, Nguyễn Ái Quốc tán
thành đi theo quốc tế cộng sản tham gia sán lạp Đảng Cộng sản
Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ đây, người
tìm ra con đường cứu nước.Người nói “muốn cứu nước phải giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách
mạng vô sản”. Đây là bước ngoặc đánh dấu sự chuyển biến quyết
Trang 7
định mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Trong những năm 1921-1923, Người đã tham gia các Đại hội II,
III của Đảng Cộng sản Pháp, cùng những người cách mạng lập ra
hiệp hội thuộc địa, ra báo “người cùng khổ”. Tố cáo tội ác thực dân
Pháp.Tác phẩm quan trọng nhất “ bản án chế độ thực dân Pháp”
(1925) , Người đã tập trung phân tích bản chất bóc lột và phản động
của thực dân Pháp.
Tháng 6- 1923, Nguyễn Ai Quốc sang Liên Xô làm việc ở ban
Phương Đông của quốc tế cộng sản. Cuối 1924 Người về Quảng
Châu, Trung Quốc hoạt động phối hợp với các nhà tiến bộ lập ra
“Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” .
Giữa 1925 Người sáng lập ra “ Hội Việt Nam thanh niên cách
mạng”, cơ quan tuyên truyền của hội là tờ báoThanh niên làm cơ
quan ngôn luận truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Từ năm 1925 trở đi, đặc biệt từ 1928- 1929, phong trào công
nhân Việt Nam phát triển và đã mang tính chất thống nhất trong cả
nước. Các tổ chức công hội xuất hiện, lôi cuốn công nhân tham gia
ngày càng đông. Trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân ngày
càng cao. Họ đã trở thành lực lượng chính trị độc lập và đòi hỏi sớm
có bộ tham mưu lãnh đạo.
Sự phát triển rộng của Hội Việt Nam thanh niên dẫn tới sự ra
đời của ba tổ chức cộng sản đầu tiên. Ngày 17-6-1929 Đông dương
cộng sản Đảng thành lập;Tháng 8-1929 An Nam cộng sản Đảng ra
đời; Tháng 9-1929 Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời. Trong
một năm ra đời liên tục ba tổ chức, hoạt động riêng dẫn đến nguy cơ
chia rẽ. Yêu cầu khách quan bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc
này là sớm phải có một Đảng Cộng sản thống nhất.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất
yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại
mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả của quá
trình lựa chọn; sàn lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá

Trang 8
trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến
sĩ cách mạng đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc.

 Chuẩn bị những điều kiện về chính trị tư tưởng, tổ chức cho sự


ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:

Từ 1921-1923: Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp. Người đã


lập báo người cùng khổ. Người viết kịch “Con rồng tre”, viết báo
“Lời than vãn của bà Trưng Trắc”. Viết báo đăng lên các tạp chí,
Tạp chí Cộng sản người viết tác phẩm “ Bản án chế độ thực dân
Pháp” tại Pháp năm 1925.
Từ 1923-11/1924: Người hoạt động ở Liên Xô. Tham gia đại
hội V của Quốc tế Cộng Sản. Tham gia đại hội của tổ chức: Thanh
niên, phụ nữ hội nông dân.
Từ 11/1924-1927: Người hoạt động ở Trung Quốc. Mở các lớp
huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng cho cách mạng Việt Nam.
Những bài giảng được tập hợp lại năm 1927 với tên gọi “Đường
cách mệnh”
Những hoạt động trên để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin, chế
giễu sự bù nhìn của Triều đình nhà Nguyễn, khơi dậy tình thần yêu
nước của dân tộc Việt Nam.
Về tổ chức: Năm 1921 Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu
nước ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh thành lập Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức. Năm 1924,thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông. Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc tổ chức Tâm Xã để
thành lập nên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tiền thân của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra báo thanh niên làm cơ quan ngôn luận
cho hội. Tổ chức phong trào vô sản văn hóa, đem các thanh niên đã
được đào tạo tại Quảng Châu, Trung quốc xuống hầm mỏ xí nghiệp
để vận động quần chúng và nhân dân đứng lên đấu tranh và truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lenin cho họ.

Trang 9
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước:

Phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo
vệ nền độc lập dân tộc bắt đầu từ ngay từ năm 1858, khi thực dân
Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Từ năm 1858 đến trước năm 1930
đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục
tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu anh dũng
của quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Hoàng
Diệu; khởi nghĩa của Trương Định,… Đó là các cuộc khởi nghĩa
theo tiếng gọi “Cần Vương” của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện
Thuật, Hoàng Hoa Thám…; các phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân… Là cuộc khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức
trong Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo…
Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống thực
dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân cơ bản là
do đường lối cứu nước chưa đúng, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát
triển của xã hội Việt Nam. Thực tiễn của phong trào yêu nước Việt
nam đã đặt ra yêu cầu tìm con đường cứu nước mới.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với chính sách khai
thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt
Nam đã có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời là giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển
sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam tồn tại hai
mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân,
với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực
dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
gắn bó với nhau, không thể tách rời nhau.
Sự ra đời và ngày càng trưởng thành của giai cấp công nhân
Việt Nam mang trong mình chủ nghĩa yêu nước truyền thống cùng

Trang 10
với ý thức giai cấp là cơ sở để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là sự kết hợp giữa dân tộc và
thời đại. Ra nước ngoài, tìm con đường cứu nước mới, Nguyễn Ái
Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, trở
thành chiến sĩ giải phóng dân tộc và chiến sĩ cộng sản quốc tế.
Người đã hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế, nghiên cứu và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin qua các tài liệu tuyên truyền của
Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam
trong nước đón nhân. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam
đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên các phong trào
đấu tranh sôi nổi khắp cả nước, trong đó có giai cấp công nhân. Sự
phát triển của phong trào công nhân và của các tầng lớp nhân dân
đòi hỏi phải có Đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, đến cuối những năm
20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở
Bắc Kỳ.
Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở
Nam Kỳ.
Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành
lập ở Trung Kỳ.
Việc Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và sự ra đời của ba
tổ chức cộng sản ở Việt Nam phản ánh xu thế tất yếu và bước phát
triển nhảy vọt của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

Trang 11
5. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hình thành nên
tổ chức Đảng:

 Đảng Cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc:

Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống
lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Sự kết hợp của chủ nghĩa
Mác với phong trào công nhân đã dẫn đến sự ra đời chính đảng của
giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản Việt nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, phản
ánh xu thế khách quan của thời đại và điều kiện chín muồi của cách
mạng Việt nam. Đảng là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lenin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước.
Đảng Công sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập đã phát huy
truyền thống dân tộc, tinh hoa nhân loại, nắm vững quy luật phát
triển xã hội, phân tích thực tiễn đất nước, đề ra đường lối đúng đắn,
phù hợp nguyện vọng nhân dân.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam được xây dựng mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới không ngừng nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của Đảng.
Trong khó khăn gian khổ, Đảng vẫn vững vàng, kiên định
không xa rời mục tiêu lý tưởng, giữ vững bản chất cách mạng và
khoa học, không run sợ trước kẻ thù, tự khắc phục hoàn thiện mình.

 Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân , của nhân dân lao động và của cả dân
tộc:
Trang 12
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu và
con đường của cách mạng Việt Nam là hoàn thành, cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục đích đó biểu
hiện tâp trung cao nhất nguỵên vọng của giai cấp công nhân ,nhân
dân lao động và cả dân tộc, là nguồn gốc động lực dẫn đến sự thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến
hành sự nghiệp cách mạng.
Đảng lãnh đạo, xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước để
Nhà nước thực sự là công cụ chủ yếu thực hiện quyền làm chủ nhân
dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là: đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách lớn đề phát triển đất nước; lãnh đạo Nhà nước thể
chế hoá đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và hiến pháp,
pháp luật,…

 Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
giành những thắng lợi vĩ đại, tạo ra những bước phát triển mới
cho lịch sử dân tộc:

Kể từ khi ra đời qua 15 năm, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành thắng lợi vẻ vang trong cách mạng tháng 8 –1945 , lập nên
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới, độc
lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc cách mạng chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ (1945-1954), xoá bỏ chế độ thực dân, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đưa nước ta bước vào kỷ nguyên hoà
bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới(1986) làm thay đổi bộ mặt đất
nước, nâng cao vị thế nước ta, cũng cố vững chắc chủ nghĩa xã hội.

Trang 13
Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay,
Đảng tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo, phát huy bản lĩnh chính trị,
năng lực kinh nghiệm để lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới.

Trang 14
KẾT LUẬN

Chính vì vậy, tất cả sự kiện trên đã chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chứng tỏ rằng giai cấp công nhân đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác-
Lenin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở
lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc
phát triển của đất nước.

Trang 15

You might also like