You are on page 1of 37

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ 221 - NĂM HỌC 2022-2023
ĐỀ TÀI 3
LỚP L13 - NHÓM 23
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHAN DUY ANH

Sinh viên thực hiện MSSV Điểm BTL Ghi chú


Văn Thành Thuận 1912162

Phạm Trọng Thức 1915447 Nhóm trưởng


Lữ Thị Ngọc Thúy 1915395

Nguyễn Thị Thu Thủy 1915407


Lê Thị Tiên 1915457

TP. Hồ Chí Minh, 10/2022


BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LỚP: L13
NHÓM: 23
--------------
Chủ trì (nhóm trưởng): Phạm Trọng Thức
Thư ký (người ghi biên bản): Phạm Trọng Thức
Nội dung:
1. PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ:
STT HỌ VÀ TÊN NHIỆM VỤ GHI CHÚ
1 Văn Thành Thuận Phần 1.3
2 Phạm Trọng Thức Phần 2.1 và Kết luận
3 Lữ Thị Ngọc Thúy Phần 1.2
4 Nguyễn Thị Thu Phần 2.2
Thủy
5 Lê Thị Tiên Phần 1.1 và Mở đầu
2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VÀ THẢO LUẬN
- Ý kiến 1: Không có ý kiến gì
- Ý kiến 2: Không có ý kiến gì
3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
STT HỌ VÀ TÊN NHẬN XÉT VỀ QUÁ MỨC ĐỘ KÝ TÊN XÁC
TRÌNH THỰC HIỆN HOÀN THÀNH NHẬN
NHIỆM VỤ (%)
1 Văn Thành Thuận Hoàn thành đúng thời hạn Thuận
2 Phạm Trọng Thức Hoàn thành đúng thời hạn Thức
3 Lữ Thị Ngọc Thúy Hoàn thành đúng thời hạn Thúy
4 Nguyễn Thị Thu Thủy Hoàn thành đúng thời hạn Thủy
5 Lê Thị Tiên Hoàn thành đúng thời hạn Tiên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan 17
1.2.1. Bối cảnh lịch sử gắn liền với quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội 17
1.2.2. Tính tất yếu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội 18
1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa 21
1.3.1. Về chính trị 21
1.3.2. Về kinh tế 23
1.3.3. Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội 24
1.3.4. Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội 26
CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CÒN CÓ
GIÁ TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY HAY KHÔNG? 27
CÁC GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN
NAY 27
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội còn có giá trị trong giai đoạn
hiện nay không? Tại sao? 27
2.2. Các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong
công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay. 31
PHẦN KẾT LUẬN 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng
cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, cũng
là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mối quan hệ giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và
cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng cộng sản Việt Nam. Nhờ sức mạnh của độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đã giành được thắng lợi trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì thế mà trong bài
nhóm đã chọn tìm hiểu sâu sắc hơn về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội .Qua đó khẳng định được với Hồ Chí Minh, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
là xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh”, là thay đổi cả xã hội, cả thiên nhiên,
làm cho xã hội không còn người bóc lột người, mọi người đều được ấm no và hạnh
phúc, đều có quyền được học hành, có quyền hưởng tự do, dân chủ, công bằng và bình
đẳng. Đó cũng là tư tưởng nhất quán của Người về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20,
nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng
dân tộc và nhân loại. Qua 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đất nước Việt Nam đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Ðảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Ngày nay, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong
hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã
hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân, do Đảng cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Thực tiễn thời đại và đất nước đã có nhiều đổi thay, nhưng những quan niệm về
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đèn pha soi sáng
cho Đảng ta trong việc hoàn thiện, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ


NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

1.1.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác - Lênin từ lập trường
của một người yêu nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội
mới tốt đẹp. Người tiếp thu quan điểm của những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa
học, đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác -
Lênin trước hết là từ yêu cầu tất yếu của công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Người
tìm thấy trong lý luận Mác - Lênin sự thống nhất biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội (trong đó có giải phóng giai cấp) và giải phóng con người. Đó cũng là mục
tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản theo đúng bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở một phương diện nữa là đạo đức, hướng
tới giá trị nhân đạo, nhân văn Mácxít, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo
quan điểm của C.Mác và Ăngghen trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mà hai ông
công bố tháng 2-1848 : Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người.Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ
văn hóa. Văn hóa trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị,
kinh tế. Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là quá trình xây
dựng một nền văn hóa mà trong đó kết tinh, kế thừa phát triển những giá trị truyền thống
văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới,
kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.

Nhân dân Việt Nam xây dựng một xã hội như vậy theo quan điểm của Hồ Chí
Minh cũng tức là tuân theo một quy luật phát triển của dân tộc Việt Nam: độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết
8
để xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là một điều kiện
bảo đảm vững chắc, đồng thời là mục tiêu cho độc lập dân tộc hướng tới. Hồ Chí Minh
đã thấy rõ tính tất yếu của sự phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam
ngay khi trở thành người cộng sản năm 1920 và khẳng định điều đó trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiên trì nhất quán bảo vệ và phát triển
quan điểm này trong suối bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau,
mặc dù con đường phát triển ấy thực chất là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại
những gì là cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ. tốt tươi: mặc dù con đường ấy có
nhiều khó khăn, chông gai, phức tạp.

1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không
chỉ trong một bài viết hay trong một cuộc nói chuyện nào đó mà tùy từng lúc, từng nơi,
tùy từng đối tượng người đọc, người nghe mà Người diễn đạt quan niệm của minh, vẫn là
theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, nhưng với
cách diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy chất lý luận
chính trị phong phú, phức tạp được biểu đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống, của nhân dân
Việt Nam, rất mộc mạc, dung dị, dễ hiểu.

Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội
như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người
được phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội
đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người.

Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên
một số mặt nào đó của nó như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... với cách diễn đạt như
thế của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội thì chúng ta không nên tuyệt đối hóa từng mặt.
hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó, mà cần đặt trong một tổng thể chung. Chẳng hạn, khi
nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp II, cấp III và Hội nghị sư phạm vào tháng 7-
1956, Hồ Chí Minh cho rằng: "Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v.
làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn,

9
tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con":. Khi nhấn-mạnh mặt kinh tế, Hồ
Chí Minh nêu chế độ sở hữu công cộng của chủ nghĩa xã hội và phân phối theo nguyên
tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã
hội, về mặt chính trị, Hồ Chí Minh nêu chế độ dân chủ, mọi người được phát triển toàn
diện với tinh thần làm chủ.

Hồ Chí Minh nêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Xây dựng một xã hội như thế là trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. Cho nên, với động lực xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó là sức
mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

1.1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp cận khái niệm chủ nghĩa xã hội từ
nhiều góc độ khác nhau. Quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội luôn được trình bày,
diễn đạt dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ thông đại chúng; những nguyên lý
lý luận về chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh trình bày bằng ngôn ngữ của cuộc sống
hàng ngày. Định nghĩa chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh đề cập từ một số góc độ tiếp
cận cơ bản sau:

Định nghĩa xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội
hoàn chỉnh, là con đường để giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bất công. Hồ Chí Minh
khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh phúc...”1.

Cách định nghĩa chủ nghĩa xã hội này thường được Người sử dụng trước năm
1954 khi muốn nhấn mạnh xu thế tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 1, tr 461.

10
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó (chính trị, kinh tế,
văn hoá...) của nó. Khi đề cập chế độ sở hữu công cộng trong chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh nói: “...chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v làm của chung”. Đề
cập quan hệ phân phối theo lao động ở chủ nghĩa xã hội, Người cho rằng chủ nghĩa xã
hội là: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên
trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em...” 2. Trong lĩnh vực chính trị, Người nhấn
mạnh bản chất của chủ nghĩa xã hội là xây dựng nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì
dân. Nghiên cứu cách định nghĩa này của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng
ta phải đặt trong tổng thể quan niệm chung về chủ nghĩa xã hội để tránh tuyệt đối hoá
một mặt nào đó mà dẫn tới sai lầm trong nhận thức và hành động.

Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội,
chỉ rõ phương hướng, phương tiện đạt mục tiêu đó. Theo đó Người nói: chủ nghĩa xã hội
là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do…

Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó, Người
viết: “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và
do nhân dân tự xây dựng lấy” 3. Để nhấn mạnh động lực tinh thần trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Người coi: chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì cao xa, mà đó là những gì
rất cụ thể như ý thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước, sản xuất,
tiết kiệm…

Trên cơ sở nghiên cứu định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, chúng ta
có thể chỉ ra những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội là:

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động tính tích cực, sáng tạo của nhân dân vào sự
nghiệp xây dựng đất nước. Theo Hồ Chí Minh : “... chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ” và “mọi quyền lực trong nước đều

2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 8, tr 226.
3
Hồ Chí Minh , Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 10, tr556.

11
thuộc về nhân dân”4, nhà nước phải lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.

Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Theo Hồ Chí Minh:
“chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật...” 5; ở chủ nghĩa xã hội,
“nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ. Những phong tục tập quán xấu dần dần được
xóa bỏ. Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội”6.

Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người
với người là bạn, là đồng chí, anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có
cuộc sống vật chất, tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả
năng sẵn có của mình.

Theo Hồ Chí Minh: “chỉ trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mọi người mới có điều
kiện để cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của
mình”7.

Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý, “ai cũng phải lao động và có
quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không
làm thì không hưởng”8; các dân tộc trong nước đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ
tiến kịp miền xuôi; luôn đoàn kết hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.

Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân xây dựng lên: “Đó là một công trình
tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng” 9.

4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 291.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 586.
6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 8, tr 396.
7
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 291.
8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 23.
9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 291.

12
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là quan niệm khoa học,
hoàn chỉnh và hệ thống, mà cốt lõi của nó phản ánh một xã hội của con người, do con
người, vì con người, trước hết là người lao động. Đó là kết quả sự vận dụng sáng tạo
những dự báo khoa học của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn
Việt Nam. Quan điểm của Người đã phác thảo một mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa đích
thực với bản chất ưu việt, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, nhờ đó mà khơi dậy tính tích cực
chủ động, sáng tạo của mọi người Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1.1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu động lực của chủ nghĩa xã hội.

Về những mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội.

Bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội quan hệ chặt chẽ với nhau. Trên cơ sở
nhận thức đúng đắn, sáng tạo đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã
đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của quá trình xây dựng, hoàn thiện chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.

Với Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội cũng chính là mục đích
cao cả mà Người phấn đấu trọn đời là “... làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”[19]10. Đó chính là mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Hồ Chí
Minh. Theo Người, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là: “...Không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” 11. Mục đích
nâng cao đời sống nhân dân đó là tiêu chí để kiểm nghiệm, khẳng định tính cách mạng và
khoa học của các lý luận về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn chỉ đạo xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa.

Nêu bật mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Đồng thời
Người còn chỉ rõ những mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên các
lĩnh vực:

10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 4, tr 161.
11
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 10, tr 271.

13
Mục tiêu chính trị: Theo Hồ Chí Minh chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là
chế độ do nhân dân làm chủ. Người khẳng định: “nhà nước của ta là nhà nước dân chủ
nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo” 12. Đó là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong nhà nước dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về
nhân dân, “dân là chủ” chính phủ là đầy tớ chung của nhân dân”.

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ ra con đường và
biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, nâng cao năng lực hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng; tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
vai trò trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân trong lao động, bảo vệ Tổ quốc, tôn
trọng và chấp hành pháp luật... đồng thời có nghĩa vụ học tập, nâng cao trình độ mọi mặt
để xứng đáng vai trò người chủ đất nước.

Mục tiêu kinh tế: Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng chủ nghĩa tư bản khi nó tạo ra
được một nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở sự phát triển của sức sản xuất, của khoa
học và công nghệ. Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là “một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến”13. Và “Trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột
theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ngày
càng được cải thiện”14.

Nền  kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
chính như: Sở hữu nhà nước tức là sở hữu toàn dân, sở hữu hợp tác xã tức là sở hữu tập
thể của người lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ và một ít thuộc sở hữu của

12
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 586.
13
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 588.
14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 9, tr 592.

14
nhà tư bản. Trong đó “Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo
nền kinh tế quốc dân và nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên” [24]15.

Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần được phát triển toàn diện các ngành,
trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”.

Mục tiêu văn hoá - xã hội : Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự
phát triển về văn hoá và là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa Tư bản về mặt giải
phóng con người. Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hoá. Theo Người,
văn hoá - tư tưởng không phụ thuộc máy móc vào điều kiện vật chất, mức sống mà nó
cần đi trước một bước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp. Người đã nói: “Có  lẽ
cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hoá... nền văn
hoá nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ... chính vì vậy chúng tôi
đã đào tạo nhanh chóng các cán bộ cho tất cả các ngành hoạt động... để công nghiệp hoá
đất nước”16. Coi trọng vai trò của văn hoá, Người yêu cầu “cán bộ phải có văn hoá làm
gốc... ở nông thôn cũng vậy... nông dân phải biết văn hoá”17.

Nền văn hoá mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền văn hoá mới
mang tính dân tộc, khoa học và đại chúng; văn hoá “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân
tộc làm cơ sở”, “văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”,
“phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”. Muốn vậy, văn hoá phải phát
huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hoá tiên tiến thế giới.

Về vấn đề xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng con người mới, xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Theo Hồ Chí Minh: “muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”18. Con người xã hội chủ
nghĩa theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải là con người có tinh thần yêu nước, có tinh
thần và năng lực làm chủ, có tài năng đi liền với đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

15
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 9, tr 588.
16
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 10, tr 392.
17
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 8, tr 224.
18
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 10, tr 310.

15
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, giải phóng mọi tiềm năng
vốn có của con người nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt,
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò phụ nữ và vấn đề giải phóng phụ nữ. Theo Người
“Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”.

Về động lực của chủ nghĩa xã hội.

Muốn thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải
nhận thức, vận dụng và phát huy các động lực của chủ nghĩa xã hội, làm cho nó thực sự
trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Người, động lực
được biểu hiện ở cả hai phương diện: vật chất và tinh thần. Xét đến cùng, các động lực
phát huy tác dụng phải thông qua con người, do đó con người là động lực quan trọng và
quyết định nhất được biểu hiện trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.

Phát huy động lực con người với tư cách cộng đồng là phát huy sức mạnh đoàn kết
của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam với nòng cốt là công - nông - trí thức là động lực chủ
yếu để phát triển đất nước.

Đồng thời phải phát huy động lực con người với tư cách cá nhân người lao động.
Sức mạnh cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của cá nhân, thông qua sức mạnh từng
cá nhân. Do vậy, muốn phát huy sức mạnh cộng đồng cần có biện pháp đúng để khơi dậy,
phát huy động lực của mỗi cá nhân.

Theo Hồ Chí Minh, phải tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người, phải biết
sử dụng, kích thích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động trở thành động lực,
“đòn bẩy kinh tế” thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước.

Coi trọng các động lực kinh tế, song Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu việc phát
huy các động lực chính trị tinh thần của nhân dân: phải thường xuyên phát huy quyền làm
chủ của người lao động, coi trọng thực hành dân chủ như là “cái chìa khoá vạn năng có
thể giải quyết mọi khó khăn”19; thực hiện công bằng xã hội; phát huy vai trò điều chỉnh

19
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 12, tr 249.

16
của các nhân tố khác như: chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục, đạo đức, pháp luật... coi
đó là những động lực tinh thần không thể thiếu được của chủ nghĩa xã hội.

Ngoài các động lực bên trong nói trên, theo Hồ Chí Minh, đi đôi với việc phát huy
nội lực, phải thực hiện kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc
tế, tranh thủ được mọi thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.

Đồng thời với việc xác định đúng các động lực của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
còn chỉ rõ những trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội cần khắc phục.
Người yêu cầu phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bởi nó là căn bệnh mẹ
đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm, là kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội; phải đấu tranh
chống tham ô, lãng phí, quan liêu; chống chia rẽ, bè phái mất đoàn kết, vô kỷ luật, lười
biếng, bảo thủ, giáo điều v.v.

Theo Hồ Chí Minh, những động lực nêu trên là nguồn lực tiềm năng của chủ nghĩa
xã hội, muốn phát huy hết những khả năng tiềm tàng đó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng - nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội,
là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.

1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan

1.2.1. Bối cảnh lịch sử gắn liền với quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), phát động cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam. Với truyền thống chống ngoại xâm và tinh thần yêu
nước, nhân dân ta đã nhiều lần đứng lên chống Pháp theo các khuynh hướng khác nhau.
Các phong trào yêu nước tiêu biểu như phong trào Cần Vương (1885 – 1896) theo
khuynh hướng phong kiến, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do cụ
Phan Bội Châu lãnh đạo có xu hướng bạo động, trong khi đó cụ Phan Châu Trinh lại có
xu hướng cải cách. Mặc dù diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ nhưng các phong trào khởi nghĩa
đều nhanh chóng đi đến sự thất bại do nhiều hạn chế về nhận thức lịch sử và lập trường
giai cấp, chưa có đường lối cứu nước đúng đắn và lực lượng khởi nghĩa còn nhỏ lẻ.

17
Sau đó, sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vào năm 1917 đã mở ra
cánh cửa mới và là cột mốc quan trọng đối với các nước thuộc địa. Từ đó, khái niệm thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội bước đầu được hình thành. Tháng
6/1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô trực tiếp nghiên cứu về cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Xô viết; tận mắt chứng kiến những
thành tựu vĩ đại mà cuộc Cách mạng đem lại cho đất nước Xô viết. Những trải nghiệm
thực tế giúp Người rút ra được kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là
đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự
do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp
khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra
sức cho công, nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng để đập đổ
tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” 20. Người nhận thấy rằng Việt Nam ta
trải qua hàng nghìn năm dưới ách cai trị tàn bạo của chế độ phong kiến, thực dân, nhiều
khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm nhưng đều không đem lại kết quả
mà dân tộc ta khát khao đạt được. Do đó, cách mạng Việt Nam muốn thành công thì phải
đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.

1.2.2. Tính tất yếu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội

1.2.2.1. Các hình thái kinh tế – xã hội:

Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn
gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ
sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì các hình thái kinh tế xã hội có
khuynh hướng phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp đến
cao, lần lượt là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản nguyên thủy, hình thái kinh tế – xã hội

20
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.304

18
chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản
chủ nghĩa và hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa.

Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác khẳng định sự phát triển của
xã hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên21. Lịch sử xã hội do con người làm ra, con
người tạo ra các quan hệ xã hội của mình và đó là xã hội. Nhưng sự vận động của xã hội
lại tuân theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Thực
chất, nguồn gốc sâu xa của việc hình thái kinh tế – xã hội mới thay thế cái cũ là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất, sau đó làm
cho kiến trúc thượng tầng thay đổi. Sự thay đổi từng yếu tố cấu trúc của mỗi hình thài
kinh tế – xã hội này được thay thế bằng hình thái kinh tế – xã hội cao hơn. Sự thay thế
nhau giữa các hình thái kinh tế – xã hội như vậy là con đường phát triển chung của toàn
nhân loại và diễn ra một cách khách quan.

1.2.2.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu

Ngoài khẳng định tính chất lịch sử – tự nhiên, hay có thể hiểu là tính quy luật
khách quan của sự vận động xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đồng thời khẳng định
vai trò tác động của các nhân tố khác như điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính
trị, điều kiện tình hình quốc tế,… Từ đó tạo nên tính đa dạng trong sự phát triển của lịch
sử nhân loại. Tính chất đó có thể bao hàm những bước “bỏ qua” một hay vài hình thái
kinh tế – xã hội nhất định tùy thuộc vào điều kiện nhất định.

Năm 1953, Hồ Chí Minh nhận thấy: Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo
con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Có nước
thì phải qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội như các nước Đông Âu,
Trung Quốc, Việt Nam ta22. Người giải thích: Chế độ dân chủ mới là chế độ dưới sự lãnh
đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đã đánh đổ đế quốc và phong kiến; trên
nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên
chính theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin23.
21
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, tr.95
22
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.293
23
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.293

19
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu
nhưng tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội chủ
nghĩa ở mỗi quốc gia sẽ diễn ra khác nhau 24. Cụ thể, Việt Nam ta đã bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa mà sau khi đánh đổ đế quốc và phong kiến sẽ tiến thẳng đến
chủ nghĩa xã hội, do nhiều nguyên nhân

Sự phát triển mạnh mẽ từ cuộc cách mạng khoa học – công nghệ khiến lực lượng
sản xuất trên thế giới đã đạt đến trình độ cao, tạo ra cuộc cách mạng về lĩnh vực kinh tế,
tạo điều kiện thuận lợi để nước ta tranh thủ vốn, cơ sở vật chất – kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Điều kiện bên trong: Độc lập dân tộc là cơ sở, nền tảng để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ngược lại, xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội cũng là con đường duy nhất để nước ta
thoát khỏi gông xích của thực dân đế quốc. Sau khi các đường lối cứu nước theo tư tưởng
phong kiến, theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản đều đã áp dụng và lần lượt
thất bại, thì chỉ có con đường cách mạng vô sản đáp ứng được khát khao tự do của dân
tộc ta, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” 25. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
là nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con
người đoàn kết, yêu thương nhau26.

Ngoài ra, nếu đi theo hướng hình thành chế độ chủ nghĩa tư bản, có nguy cơ chính
quyền do nhân dân ta đổ xương máu giành lại được sẽ lại một lần nữa mất đi. Những
người dân lao động lại trở về địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Do đó, mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh không thể được thực hiện. Nhìn vào các
nước phát triển trên thế giới theo con đường tư bản chủ nghĩa, mặc dù có sự điều chỉnh
để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học nhưng thực tế vẫn không thể khắc phục được
những bất công xã hội đang tồn tại. Vì vậy, mặc dù tiến lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua

24
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, tr.96
25
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-mot-tat-yeu-lich-su-113142
26
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, tr.496.

20
chế độ tư bản là con đường mới mẻ và nhiều khó khăn, thử thách nhưng lại giảm được
đau khổ cho nhân dân lao động.

1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa

1.3.1. Về chính trị

1.3.1.1. Đặc trưng về mục tiêu chính trị:

“Chủ nghĩa xã hội là gì”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn giải rằng CNXH trước hết
phải làm cho nhân dân thoát nạn bần cùng, “là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân”27, “là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến
bộ”28, “là sung sướng, tự do” 29, “làm sao cho dân giàu nước mạnh” 30. Phải, một chế độ
“Xã hội ngày càng tiên tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” 31. Người
còn chỉ ra “XNCN không có bóc lột và áp bức dân tộc” 32, “một xã hội đảm bảo cho đất
nước phát triển rực rỡ, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng
cường”33.

Mục tiêu chính trị đặc trưng của CNXH ở nước ta thể hiện tập trung nhất ở tiêu
ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đó chính là mục tiêu chính trị chung của toàn dân
tộc, là mục tiêu để toàn dân đoàn kết phấn đấu. Mục tiêu chung đó gắn kết hữu cơ vấn đề
về vấn đề dân tộc với giai cấp, giải phóng dân tộc gắn với phục hưng dân tộc và phát triển
xã hội và con người Việt Nam. Rõ ràng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu chính trị
của CNXH ở Việt Nam mang đậm yếu tố vì dân tộc.

Quan niệm của Người về mục tiêu chính trị của CNXH ở Việt Nam thể hiện đặc
trưng chính trị của CNXH nước ta, là xây dựng một xã hội hòa bình, không áp bức bóc
lột. Một xã hội hạnh phúc, tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết. Một xã hội “Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc”.
27
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.469
28
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.97
29
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.396
30
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.226
31
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.591
32
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.559
33
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.560

21
1.3.1.2. Đặc trưng về tổ chức xã hội:

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lợi,
quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội hội cũng thuộc về nhân dân.34

“Chế độ ta là chế độ dân chủ”. Tức là nhân dân làm chủ.” Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn khẳng định như vậy.

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”35

Quan niệm trên của Người đã làm nổi bật lên đặc trưng chính trị khi Người nhấn
mạnh vấn đề nhà nước. Toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta đều do nhân dân cử ra, tổ
chức. Nói một cách khác, đó chính là dân chủ.

Khi phân rõ quyền hành và lực lượng, quan niệm của Người về tổ chức xã hội đặc
trưng của CNXH không chỉ dừng lại như những quan niệm cổ điện coi dân chủ là vấn đề
quyền lực thuộc về nhân dân mà còn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền lực là
xuất phát từ nhân dân. Quan niệm đó đã làm sáng tỏ quan điểm về cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng khi Hồ Chí Minh cho rằng công việc đổi mới, xây dựng, kháng
chiến kiến quốc là trách nhiệm của dân. Đồng thời quan niệm trên còn làm nổi bật và thể

34
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr.97
35
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.698

22
hiện rõ tư tưởng của Người về nền dân chủ XHCN - nền dân chủ lấy mục tiêu cao nhất là
vì con người và giải phóng triệt để con người.

Thông qua các quan điểm trên, người đã nêu lên một khía cạnh khác trong đặc
trưng chính trị của XHCN ở Việt Nam. Cũng như chỉ ra mục tiêu, xây dựng thiết chế xã
hội để nhân dân thực hiện và phát triển quyền làm chủ của mình.

1.3.2. Về kinh tế

Xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tài liệu sản xuất chủ yếu.36

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của
tư bản chủ nghĩa, đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu
tư liệu sản xuất tiến bộ.37

Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết
là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn
sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội.
Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.
Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”.
Nền đại công nghiệp phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố
tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao
năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương
thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù
hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và lô-gíc vận động như
đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại

36
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr.98
37
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr.98

23
để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã
hội xã hội chủ nghĩa.

Trước thời kỳ đổi mới, những ngành công nghiệp nặng như sản xuất máy móc,
thiết bị, sản xuất năng lượng hoặc vận tải hàng không, vận tải hàng hải loại vừa và lớn,
xây dựng kết cấu hạ tầng… cho đến lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm đều do kinh tế nhà
nước sở hữu và độc quyền kinh doanh. Ngày nay, với tư duy đổi mới, các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh, kể cả đầu tư nước ngoài đều có thể tham gia sản xuất kinh
doanh và có thể sở hữu một phần hoặc toàn bộ tùy theo tính chất và quy mô tư liệu sản
xuất mà trước đây hoàn toàn thuộc về nhà nước. Đảng và Nhà nước bằng luật pháp và
chính sách khuyến khích việc làm này, coi đó là thể hiện phương châm dân chủ trong
hoạt động kinh tế, là phương hướng quan trọng huy động các nguồn lực trong xã hội, của
mọi thành phần kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh, vì “dân giàu nước mạnh”.

1.3.3. Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội

Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm
sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.38

Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát triển
xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội. Văn hóa là tinh
hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh con người
và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa phải kết tinh tinh hoa và sức
mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các
giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, vì vậy, chính là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là
động lực và sức mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để
phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân

38
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr.98

24
tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội phát
triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là tiến bộ, khoa học và nhân văn. Cho
nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ
nghĩa là xã hội văn hóa cao. Những phẩm chất, những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa
là những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã hội tương lai. Tuy nhiên, nói như vậy
không có nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đại đồng không tồn tại những bản
sắc riêng biệt. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá
trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người khác nhau phải được độc lập tồn
tại, tôn vinh, phát huy, phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn
hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú
diện mạo văn hóa Việt Nam.

Văn hóa, đạo đức thể hiện trong mọi mặt của đời sống, song trước hết là ở các mối
quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội XHCN thể hiện rằng
trong xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người, con người tôn trọng nhau, đối xử
công bằng, bình đẳng, các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau. Người cho rằng, chỉ trong
CNXH, “chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa
mãn, mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính
cách riêng và sở trường riêng của mình39” mới tồn tại.

Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm bình đẳng không chỉ cho
cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một
quốc gia. Ngay trong xã hội hiện đại, ở các nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các
tộc người, các dân tộc cũng đang là vấn đề nan giải. Mặt khác, “đoàn kết” là sức mạnh -
đó là một chân lý. 

39
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.610

25
1.3.4. Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa xã hội hội là công trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản.40

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi
ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội, nên chính nhân dân là chủ thể, là
lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội. Trong sự
nghiệp này, Hồ Chí Minh khẳng định “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân
chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của
một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến thành công”.41

Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Sinh thời, Hồ Chí Minh thường
nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm quyền chứ không phải
đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng
ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” 3.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc tư tưởng, học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất
nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ

40
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr.100
41
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr.100

26
CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CÒN
CÓ GIÁ TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY HAY KHÔNG?

CÁC GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội còn có giá trị trong giai đoạn hiện
nay không? Tại sao?

Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen: thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thời kỳ cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu
từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ
sở vật chất và tinh thần của chủ nghĩa xã hội.Và giai đoạn từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kì quá độ chính trị. Muốn có một xã hội tốt đẹp,
thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân cần phải có thời gian cải tạo xã
hội cũ xây dựng xã hội mới. Đó chính là thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thời kì quá độ trải qua hai con đường: thứ nhất là quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội; và con đường thứ hai là quá độ gián tiếp từ các xã hội tiền tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ lịch sử
xã hội loài người gồm: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế - xã hội trước đó thì hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khác về chất so với tất cả các xã hội trước: không có
giai cấp, con người phát triển toàn diện.. Vì vậy, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản cần phải có thời gian cải tạo xã hội
cũ.

Mặc dù hiện nay các nước TBCN phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao
hơn các nước XHCN nhưng chúng ta không được thấy vẻ hào nhoáng bề ngoài đó mà
đánh giá bản chất của CNTB là tốt là rất nguy hiểm. Nếu xét góc độ triết học thì lấy hiện
27
tượng để quy ra bản chất là rất nguy hiểm. Bởi vì chúng ta thấy CNTB có được như ngày
hôm nay là do nó có sự tác động của nhiều yếu tố: do sự đấu tranh của quần chúng nhân
dân ở các nước đó rất quyết liệt thì CNTB buộc phải có những điều chỉnh nhất định có lợi
cho nhân dân lao động, trong đó có giai cấp công nhân. Để CNTB giàu có như ngày hôm
này thì cũng một phần lớn họ vơ vét bóc lột ở những nước nghèo đang phát triển, những
nước thuộc địa của họ, trong đó có cả VN. Như vậy nếu tìm hiểu lịch sử phát triển CNTB
thì chúng ta thấy mỗi nấc thang phát triển của CNTB đều thấm đẫm mồ hôi nước mắt
công sức của nhân dân lao động. Như vậy chúng ta không được lấy một hiện tượng để
quy về bản chất, sẽ sai ngay từ thế giới quan và phương pháp luận.

Từ những tháng đầu năm 1858 trở về trước, Việt Nam là một nước phong kiến độc
lập có chủ quyền; đến ngày 1/9/1858, Pháp xâm lược Việt Nam, sau hiệp định Pa Tơ
Nốt(1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa của thực dân Pháp, lúc này Việt Nam mất
chủ quyền. Thực dân Pháp câu kết với chế độ phong kiến cùng áp bức, bóc lột các tầng
lớp nhân dân lao động, xã hội Việt Nam lúc này xuất hiện nhiều mâu thuẫn, có hai mâu
thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa cả dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và giữa giai cấp
nông dân với địa chủ, phong kiến. Dưới ách cai trị của thực dân phong kiến, nhân dân ta
không cam chịu làm nô lệ, đã liên tục đấu tranh giành độc lập dân tộc, theo các khuynh
hướng của nông dân, trí thức, tư sản; các phong trào yêu nước sôi nổi, mạnh mẽ, liên tục
duy trì ngọn lửa cứu nước trong lòng dân tộc, nhưng tất cả đều thất bại, do thiếu tổ chức,
thiếu đường lối, chưa có Đảng Cộng Sản lãnh đạo. tiêu biểu như các cuộc khởi nghĩa
chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương; các cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự
lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm; phong trào Đông Du, Đông Kinh
Nghĩa Thục... do các sĩ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo. Mặc dù diễn ra mạnh mẽ ở khắp nơi nhưng tất
cả các phong trào đó đều thất bại vì thiếu một con đường và phương pháp đấu tranh đúng
đắn, phù hợp với tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ. Vì vậy, sau này
Hồ Chí Minh không đi theo con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ vì
đó là con đường cứu nước không thành, cho dù Nguyễn Tất Thành rất ngưỡng mộ các sĩ

28
phu yêu nước với tinh thần hy sinh xả thân vì đất nước. Ngày 5/6/1911 nguyễn tất thành
đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, ngày
28/1/1941, Người trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đi theo con đường cách
mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh lựa chọn, cách mạng Việt Nam đã đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Sau khi giành độc lập, vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào
thực tiễn cách mạng, Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (miền Bắc năm 1954, trên phạm vi cả nước
năm 1975). Đây là quá trình chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (quá độ gián tiếp) là tất yếu lịch
sử. Xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cùng với hậu quả chiến tranh và
những tàn dư xã hội phong kiến để lại, do đó thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam vô cùng khó khăn gian khổ, lâu dài mặc dù lợi thế của chúng ta là nước có
thể đi tắt, đón đầu về khoa học công nghệ. Vì vậy, phải đoàn kết toàn dân, phát huy mọi
tiềm năng trên các lĩnh vực, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tích lũy dần về lượng để
chuyển sang một chất mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.

  Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm.
Trong Chính cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Ngay từ khi tìm ra con
đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn loại hình quá độ gián tiếp lên
chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa phong kiến trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng cách
mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Vì vậy, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường phát triển
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và phù hợp. Chủ nghĩa tư bản tuy
đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng
như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của chế độ áp bức, bóc lột thì không thay
đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục; nhiều tệ

29
nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là vấn đề nóng bỏng. Do
vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài người muốn đạt tới.

Ngoài ra, điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đó là: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã được thử thách, được khẳng định và trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu cho
quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta; Nhà
nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đã được thiết
lập và củng cố qua công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời
của nhà nước xã hội chủ nghĩa khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; liên
minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã được
thiết lập, phát huy ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sẽ tiếp tục được
phát huy vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; sự giúp đỡ của phong trào cách mạng thế
giới và nhân loại tiến bộ mà trước hết là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh
em.

Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam xác định: Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa

Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh về lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng sâu sắc, luôn có sự kế thừa, bổ sung, hoàn thiện dần qua từng giai
đoạn. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc

30
lần thứ XIII với nhiều điểm mới, đặc biệt về việc xác định mục tiêu: Nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin xây dựng lên chủ nghĩa xã hội là một xã
hội mà ở đó Con người được giải phóng.Và dân chủ của tư bản chủ nghĩa là nền dân chủ
tư sản chỉ đem quyền lợi cho giai cấp tư sản nhưng đối với nền dân chủ của chủ nghĩa xã
hội là nền dân chủ của nhân dân và do nhân dân làm chủ.

2.2. Các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong công
cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay.

Trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay, các giải pháp vận vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội như sau

Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Thứ hai, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra
và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công
việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chừng nào và khi nào Nhà

31
nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ
sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều
hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa
phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.Nội dung này có
ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ”
và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống
phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Thứ ba, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu
của các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên
quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân
quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân
ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa
“đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây
là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán
bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ
nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo
đức, làm hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân,
làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân,
kính dân, tin cậy và trọng dân.

Thứ năm, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động
của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo

32
Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính
nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của
những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha
hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững
mạnh

Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách,
năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”,
toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo
dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri
thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà
nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý.

Thứ bảy, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi, thực
tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để
bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt
qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng
chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt
Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

33
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới.

Những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã đạt được trong thời gian qua, đặc
biệt là trong hơn 20 năm đổi mới, là một thực tế không ai có thể phủ nhận được. Con
đường đi tới của cách mạng nước ta đang có nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng gặp
không ít thách thức, khó khăn, nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO. Chúng ta tin tưởng
rằng, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, với sự kiên định mục
tiêu, lý tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cùng sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng,
nhân dân ta sẽ từng bước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

34
PHẦN KẾT LUẬN

Phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động. Đảm bảo đúng tính chất và
ý nghĩa đối với chủ nghĩa xã hội. Khi đó giai cấp lãnh đạo thể hiện cho tính đại diện
quyền lực nhà nước. Trong khi các quyền lớn nhất thuộc về nhân dân, các tầng lớp khác
nhau trong xã hội. Chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội. Bảo đảm
cho những tính chất thể hiện của chủ nghĩa xã hội được thực hiện. Thay đổi bộ mặt của
Tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt là trong tính chất quản lý, lãnh đạo, tập trung quyền lực.
Bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây cũng là tính chất giai thoa trong nhiệm
vụ được xác định. Với các tồn tại cần được loại bỏ. Nhằm tạo ra những thuận lợi cần thiết
khôi phục nền kinh tế, xã hội. Cùng với phát triển kinh tế, thúc đẩy những lợi ích mới bên
cạnh giá trị đóng góp vào nền kinh tế. Xã hội chủ nghĩa xã hội đặt ra tính đảm bảo cho
công bằng, bình đẳng và dân chủ. Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, các khó khăn rất lớn. Trong đó, với lý tưởng trong ứng dụng công nghệ, kỹ thuật
và khoa học hiện đại. Cùng với sự thúc đẩy đảm bảo cho chất lượng cuộc sống từng
người. Với tinh thần đó, sự chuyển dịch hay tác động diễn ra chậm mà chắc. Bên cạnh
các lợi thế và năng lực thời đó còn kém. Bởi vậy mà Việt Nam đã trải qua một thời kỳ
quá độ tương đối dài. Việt nam thực hiện bước chuyển mình bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ
nghĩa. Đây là hình thái xã hội mà quốc tế hướng đến nếu muốn thay thế bằng hình thức
Cộng sản xã hội chủ nghĩa.Những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã đạt được trong
thời gian qua là một thực tế không ai có thể phủ nhận được. Con đường đi tới của cách
mạng nước ta đang có nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít thách thức, khó
khăn. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội,
với sự kiên định mục tiêu, lý tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cùng sự lãnh đạo sáng
tạo, đúng đắn của Đảng, nhân dân ta sẽ từng bước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

35
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Truy cập tại: http://congdoan.quangtri.gov.vn/hoc-tap-va-lam-theo-tu-
tuong-dao-duc-phong-cach-ho-chi-minh/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-
xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-2435.html

2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập tại:
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-
chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-580609.html

3. 2011, Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật

4. 2011, Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội


https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/6789/tu-tuong-ho-
chi-minh-ve-chu-nghia-xa-hoi.aspx

6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
http://songda9.com/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-
nam-15714

7. 23/09/2010, Về đặc trưng kinh tế của Chủ nghĩa xã hội. Truy cập từ:
https://baolangson.vn/chinh-tri/4480-ve-dac-trung-kinh-te-cua-chu-nghia-xa-
hoi.html

8. Nguyễn Văn Huyên (30/09/2015), Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam theo tinh thẩn Đại hội XI của Đảng. Truy cập từ:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-
kien-dang/dac-trung-co-ban-cua-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-theo-tinh-
than-dai-hoi-xi-cua-dang-gs-ts-nguyen-864

36
9. Phạm Hồng Chương (26/09/2015), Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về đặc trưng chính trị của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập tại:
https://bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/4246-mot-so-quan-diem-cua-chu-tich-
ho-chi-minh-ve-dac-trung-chinh-tri-cua-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-
nam.html#:~:text=T%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB
%99i%20XI%2C%20%C4%90%E1%BA%A3ng,gi%C3%BAp%20nhau%20c
%C3%B9ng%20ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%E2%80%9D%3B

10. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập tại:
https://baodongkhoi.vn/quan-niem-cua-ho-chi-minh-ve-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-
nam-01102007-a153.html

11. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Truy cập tại:
https://minhtungland.com/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-chu-nghia-xa-hoi/

12. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Truy cập tại: https://loigiaihay.com/quan-niem-cua-ho-chi-minh-ve-dac-
trung-ban-chat-cua-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-c124a20357.html

13. Tưởng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Truy cập tại: https://sites.google.com/site/hochiminhk19/tu-
tuong-ho-chi-minh/tutuonghochiminhvechunghiaxahoivacondhuongquadholenchu
nghiaxahoiovietnam

14. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học

15. Giáo trình Triết học Mác – Lênin

16. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH
ở Việt Nam. Truy cập tại: https://vov.vn/chinh-tri/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-
tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-cnxh-o-viet-nam-858140.vov

17. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Một tất yếu lịch sử. Truy cập tại:
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-mot-tat-yeu-
lich-su-113142
37
18. Bàn luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay- Khoa học và
niềm tin. Truy cập tại:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/823613/ban-luan-
ve-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay---khoa-hoc-va-niem-
tin.aspx

19. Vì sao nói đi lên chủ nghĩa xã hội là lựa chọn duy nhất, đúng đắn của Đảng và dân
tộc ta? Truy cập tại: https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-
trao-doi/vi-sao-noi-di-len-chu-nghia-xa-hoi-la-su-lua-chon-duy-nhat-dung-dan-
cua-dang-va-dan-toc-ta-210.html

38

You might also like