You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC :TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN

TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC,
LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Tiến Đảm

Sinh viên thực hiện: Cao Thái Đồng

Mã số sinh viên: 22861005

Mã môn học: LLCT130105

Lớp: 22LC61DN2

Đồng Nai,Tháng 12 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC..3

1.1. Nguồn gốc của Nhà nước...............................................................................3

1.2. Bản chất của nhà nước....................................................................................4

1.2.1. Tính giai cấp của Nhà nước.....................................................................4

1.2.2. Tính xã hội của Nhà nước........................................................................5

1.3. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước......................................................................5

1.4. Chức năng cơ bản của Nhà nước....................................................................6

1.4.1. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại..............................................6

1.4.2. Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội..................................7

1.5. Các kiểu và hình thức Nhà nước.....................................................................7

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM................................................................................................10

2.1. Nhà nước pháp quyền...................................................................................10

2.1.1: Khái niệm nhà nước pháp quyền...........................................................10

2.1.2. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền.........................................11

2.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.......................................11

2.2.1. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...........11

2.2.2. Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền......12

2.2.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.............................................................................................................. 14

CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN......................................................................................18

TÀI LIỆU KHAM KHẢO......................................................................................19


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài

Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng Nhà nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xuất phát từ truyền thống dân tộc và đặc điểm Việt Nam, vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác – Lênin về nhà nước cách mạng. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
văn hóa của nhân loại về nhà nước pháp quyển và kinh nghiệm xây dựng nhà nước
pháp quyền của một số nước trên thế giới, từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, mang đậm nét dân tộc và nhân văn, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là sự tiếp tục phát
triểntư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ
buổi đầuđược thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã
mang nhữngyếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, gắn bó chặtchẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc.

Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây cũng là
quá trình tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự đồng thuận theo tư tưởng phát
triển của thời kỳ mới đã được Đảng Cộng sản Việt Nam để ra nhằm đạt tới mục tiêu
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đối với sự thành công của công cuộc
đổi mới đất nước nên tôi chọn đề tài “ Quan điểm Chủ nghĩa Mác –Lênin về nhà nước
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân ở Việt Nam hiện nay”.

Mục đích của đề tài

Mục đích: Trên cơ sở phân tích nghiên cứu vấn đề nhà nước và đi sâu phân tích việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì

1
nhân dân ở nước ta trong thời gian qua nhằm đưa ra những giải pháp góp phần hoàn
thiện bộ máy pháp quyền của nước ta hiện nay.

Nhiệm vụ: Đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền
của nước ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC

1.1. Nguồn gốc của Nhà nước

Trong xã hội nguyên thủy, với sự tồn tại của cộng đồng, thị tộc, bộ lạc mà chưa
xuất hiện Nhà nước, chưa có Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực giai cấp, duy
trì sự thống trị của giai cấp, đối lập với nhân dân. Xã hội tồn tại theo thể chế tự quản.
“Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên gắn liền với sự
phân chia xã hội thành giai cấp, thì sự phân chia đó làm cho Nhà nước trở thành một
tất yếu”

Điều này chứng tỏ, Nhà nước ra đời không phải xuất phát từ mục đích tự thân mà
xuất phát từ nhu cầu tồn tại và phát triển xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì
vậy, Ph.Ăngghen viết: “Vì Nhà nước nảy sinh ra từ những nhu cầu phải kiềm chế
những đối lập giai cấp, vì Nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của
các giai cấp, cho nên theo lệ thường, Nhà nước là của giai cấp có thế lực nhất, của các
giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có Nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống
trị về chính trị...” . Nhà nước ra đời để đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và thống trị xã
hội của giai cấp thống trị, để cho cuộc đấu tranh giai cấp không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn
nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội, để duy trì xã hội trong vòng “ trật tự”. Kế thừa quan
điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã làm rõ hơn về điều kiện ra đời, hình
thành và phát triển của Nhà nước, đó là: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì
Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những mâu
thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”. Như thế, Nhà nước là một hiện tượng lịch
sử, sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể, “Nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” và “bất cứ Nhà nước
nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”.

3
Như vậy, có thể nói nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện Nhà nước là từ quá trình
phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dôi dư dần dần của cải, xuất hiện độc
quyền về tư liệu sản xuất và phân phối của cải, nhưng nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự
ra đời của Nhà nước là các tầng lớp trong xã hội lao động không thể điều tiết được.
Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan nhằm "làm dịu" sự chia rẽ giai cấp, đồng
thời giữ gìn trật tự xã hội trong cái "trật tự" mà ở đó, địa vị và quyền lợi của giai cấp
vô sản được bảo đảm. Nhà nước là một hiện tượng xã hội nhưng đây không là hiện
tượng xã hội bất biến, thụ động mà Nhà nước là thực thể xã hội độc đáo, năng động,
linh hoạt và thường xuất hiện khi xã hội loài người phát triển ở một giai đoạn nhất
định và sẽ tan rã khi các điều kiện tự nhiên cho sự ra đời của nó mất đi

1.2. Bản chất của nhà nước

Bản chất của Nhà nước là vấn đề có tính xã hội, được thảo luận thường xuyên,
nhưng nó cũng là trọng tâm của các vấn đề chính trị và mọi tranh cãi chính trị. Có vô
số sự lý giải cho gốc gác của Nhà nước, nhưng nhìn chung, khi xem xét bản chất Nhà
nước người ta hay xem xét dưới 2 góc độ là tính giai cấp và tính xã hội.

1.2.1. Tính giai cấp của Nhà nước

Sự bùng nổ của công nghệ và thị trường lao động xã hội đã làm biến đổi cấu trúc
kinh tế xã hội của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Sau 3 lần phân công lao động xã hội
thì chế độ tư hữu xuất hiện để phân chia dân cư làm kẻ giàu người nghèo, với 2 giai
cấp cơ bản là địa chủ và nô lệ. Như vậy 1 xã hội mới ra đời đòi hỏi cũng cần có một tổ
chức quyền lực mới dập tắt tất cả những sự rối về giai cấp. Từ đây hình thành lên sự ra
đời của Nhà nước. Nhà nước ra đời một cách khách quan "Một lực lượng bắt nguồn từ
xã hội, một lực lượng cưỡi cọp hay đứng trên xã hội, có trách nhiệm làm giảm đi sự
xung đột và giúp duy trì sự xung đột đó ở trong phạm vi trật tự". Nhà nước ra đời từ sự
xuất hiện trong xã hội có giai cấp cũng phản ánh bản chất giai cấp đó. Bản chất giai
cấp Nhà nước thể hiện rõ ở việc Nhà nước là cơ quan quyền lực đặc biệt đặt trong tay
giai cấp thống trị và là phương tiện chủ yếu nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp. Nhà
nước mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Nhà nước là cơ quan hoặc phương
tiện thống trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội "Nhà nước theo đúng nghĩa đen
của nó là công cụ nhằm trấn áp riêng giai cấp này sang giai cấp khác" V.I.Lênin cũng
4
đã nhấn mạnh tư tưởng của C. Mác về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và Cách
mạng: "Theo Mác, Nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức
của một giai cấp này lên một giai cấp khác; đó là sự thiết lập một" trật tự ",trật tự này
mở rộng và chấm dứt sự áp bức kia thông qua việc làm giảm xung đột giai cấp"

1.2.2. Tính xã hội của Nhà nước

Tính xã hội của Nhà nước được biểu hiện bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, Nhà nước cũng phải chú ý đến việc chăm lo, bảo vệ, đáp ứng nhu cầu ở mức
độ thích hợp đối với mọi thành phần, giai cấp khác trong xã hội và những vấn đề lớn
của cả xã hội tính nhân loại là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất cứ Nhà nước
nào. Nhà nước sẽ không tồn tại nổi nếu không chú ý bảo vệ quyền lợi của giai cấp,
tầng lớp khác và không xử lý những vấn đề xã hội phát sinh. Theo xu thế đó, tính xã
hội và tính loài người của mỗi Nhà nước càng ngày càng được bộc lộ rõ rệt phù hợp
với quá trình phát triển không ngừng nghỉ của cuộc sống đương đại. Do vậy, không có
một Nhà nước nào thực sự hình thành và phát triển bền vững nếu cứ giữ tính giai cấp
(địa vị thống trị) mà lại "quên đi" tính xã hội (cơ chế xã hội) . Trong bất kỳ chế độ - xã
hội nào, giai cấp thống trị tuy có địa vị kinh tế - xã hội chi phối và định đoạt đối với
giai cấp khác, song cũng chỉ là phần của xã hội chứ chưa là toàn thể xã hội, vì vậy
ngoài việc bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị về kinh tế - xã hội thì giai cấp thống trị
phải cân bằng lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng của những người khác ngay kể cả
giai cấp đối lập với mình trong xã hội. Hơn nữa, Nhà nước phải giải quyết những vấn
đề khó khăn, phức tạp mà không một thiết chế xã hội nào khác đảm đương nổi nhằm
giữ vững và phát triển xã hội.

1.3. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước

Theo sự phát triển qua từng giai đoạn Nhà nước có năm đặc trưng cơ bản.

Một là, Nhà nước phân chia và quản lí dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ Nhà
nước thiết lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh thổi, quản lý cư dân theo đơn
vị hành chính lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn giáo,...

Hai là, Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị
thông qua việc thành lập bộ máy chuyên là nhiệm vụ quản lý Nhà nước và bộ máy

5
chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cảnh sát.v.v…) để duy trì địa vị của giai
cấp thống trị.

Ba là, Nhà nước có chủ quyền quốc gia Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình.- Nhà nước tự quyết định về chính
sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài

Bốn là, Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên
trong xã hội phải tuân theo. Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế.

Năm là, Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc. Để duy
trì bộ máy Nhà nước. Bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng. Giải quyết các công việc chung của xã hội.

Qua năm đặc trương trên nhằm phân biệt Nhà nước với các tổ chức chính trị, chính
trị xã hội khác (Đảng phái chính trị, Đoàn thanh niên, hiệp hội.v.v…), đồng thời cũng
là để phân biệt với các tổ chức thị tộc (trong xã hội công xã nguyên thuỷ). Qua đó cho
thấy vai trò to lớn của Nhà nước trong hệ thống chính trị mà các tổ chức khác không
có.

1.4. Chức năng cơ bản của Nhà nước

Chức năng Nhà nước là nhiệm vụ chung của cả hệ thống Nhà nước mà các cơ quan
Nhà nước cùng phải tham gia thực thi với nhiều cấp độ khác nhau, nó là phương thức
làm việc chủ đạo của Nhà nước phản ánh vị trí, vai trò sứ mệnh xã hội và lợi ích của
Nhà nước. Tuỳ theo cách nhìn, chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể phân
chia làm nhiều chức năng khác nhau.

1.4.1. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại

Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực Nhà nước, chức năng của Nhà nước
được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.

Chức năng đối nội của Nhà nước là việc thực hiện đường lối đối nội nhằm đảm bảo
ổn định xã hội thông qua những phương tiện sau: chính trị, pháp luật, tin và tuyên
truyền, văn hoá, giáo dục, . .. Chức năng đối nội được thực hiện trong hầu hết mọi hoạt

6
động chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục, . .. của từng đất nước, địa
phương nhằm đảm bảo sự thoả mãn các yêu cầu thiết yếu của đời sống xã hội. Chức
năng đối nội của Nhà nước thực hiện rất nhiều thông qua lăng kính giai cấp của giai
cấp cầm quyền.

Chức năng đối ngoại của Nhà nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối ngoại
của giai cấp thống trị nhà giải quyết mối quan hệ với các thể chế Nhà nước khác dưới
danh nghĩa là quốc gia dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao
đổi kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật, y tế, giáo dục,..của mình. Thực chất của chức
năng này là thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống trị trong các quốc gia khác nhau.

1.4.2. Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội

Căn cứ theo tính chất của quyền lực Nhà nước, chức năng của Nhà nước có thể chia
thành chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội. Chức năng thống trị chính trị
của Nhà nước là chức năng nhằm bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị. Là
chức năng thống trị giai cấp, Nhà nước phải sử dụng công cụ quyền lực nhằm duy trì
sự thống trị đó bằng qa hệ thống chính sách và pháp luật. Bộ máy quyền lực của Nhà
nước từ trung ương đến cở sở, nhân danh Nhà nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp những
sự chống đối của giai cấp tư sản, một số kẻ quá khích nhằm bảo vệ địa vị và lợi ích của
giai cấp thống trị. Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện
lợi ích quốc gia của các dân tộc, trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước
nhân danh xã hội thực hiện chức năng quản lý trật tự xã hội và giải quyết các vấn đề
cấp thiết của xã hội như: giáo dục, giao thông, y tế, văn hoá, bảo vệ môi trường sinh
thái v.v. .. nhằm duy trì sự cân đối chung của xã hội có "trật tự" theo quan điểm của
giai cấp thống trị. Tuy nhiên, theo Ph. Ăngghen, Nhà nước là đại biểu chung của cả xã
hội và trong chừng mực nó là Nhà nước của riêng giai cấp đại diện cho toàn bộ xã hội
trong thời đại mới. Mối quan hệ giữa hai chức năng thống trị chính trị và chức năng xã
hội của Nhà nước là mối quan hệ tương hỗ. Chức năng chính trị quy định mục tiêu,
phạm vi và kết quả việc thực hiện chức năng xã hội. Chức năng xã hội giữ vai trò là cơ
sở cho việc thực hiện chức năng chính trị và đảm bảo cho việc thực hiện chức năng
chính trị có hiệu quả.

1.5. Các kiểu và hình thức Nhà nước


7
Nhà nước tồn tại rất phong phú và đa dạng. Để dễ nhận biết, cần phải phân loại kiểu
và hình thức Nhà nước thành 2 loại: kiểu và hình thức Nhà nước dựa trên sự đối kháng
giai cấp và kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội.

 Kiểu và hình thức Nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp

Lịch sử loài người đã trải qua ba hình thái kinh tế - xã hội dựa trên sự đối đầu giai
cấp. Tương ứng với ba hình thái kinh tế - xã hội trên là ba kiểu Nhà nước của những
giai cấp thống trị. Một là, Nhà nước chủ nô hay còn gọi là Nhà nước chiếm hữu nô lệ
thực hiện sự chuyên chính của giai cấp thống trị đối với giai cấp nô lệ và tầng lớp lao
động. Chủ nô là người chiếm hữu tất cả đất đai và tư liệu sản xuất cùng với những
người lao động là nô lệ. Hình thức căn bản của Nhà nước chủ nô là Nhà nước chiếm
hữu và Nhà nước phong kiến. Hai là, Nhà nước quân chủ thực hiện sự chuyên chính
của giai cấp thống trị lên giai cấp lao động cùng một số người sản xuất khác. Hình
thức chủ yếu của Nhà nước ở phương Tây là Nhà nước phong kiến cha truyền con nối.
Ở phương Đông, hình thức Nhà nước phong kiến dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về
đất đai là hình thức quân chủ cha truyền con nối (quân chủ chuyên chế thống trị) . Dù
tồn tại dưới bất cứ hình thức nào thì Nhà nước này cũng vẫn là chính quyền của giai
cấp tư sản và quý tộc, là tổ chức bảo hộ các đặc quyền thống trị, là công cụ của giai
cấp địa chủ phong kiến sử dụng nhằm đàn áp, bóc lột nhân dân. Ba là, Nhà nước tư
bản thực hiện sự chuyên chính của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động khác. Nhà nước tư sản cũng được thực hiện dưới các hình thức khác
nhau, song nhìn chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình
thức dân chủ. V. I. Lenin đã phát biểu như vậy: "Các hình thức của Nhà nước tư sản
tuy rất khác biệt nhau, song thực chất đều là một: dù sao thì tất cả những Nhà nước ấy,
bất luận thế nào, cũng không hẳn là nền chuyên chính tư sản". Sự hình thành giai cấp
tư sản là một bước tiến về chất đối với sự ra đời của Nhà nước. Ở đấy, nó đã kết tinh
được các giá trị tiến bộ được sinh ra trong thời kỳ đầu của giai cấp công nhân thế giới,
mặt khác phản ánh được những vấn đề có tính nhân loại, mang tính nhân dân chứa
đựng trong một số chính sách xã hội đang được thực hiện ở nhiều quốc gia tư bản chủ

8
nghĩa. Tuy khác nhau ở hình thức tổ chức, song nhìn chung thì hầu hết những Nhà
nước tư bản vẫn là thể chế chuyên chính tư sản.

 Kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội

Về kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản là kiểu Nhà nước thích ứng với thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước chuyên chính vô sản được
xác lập khi cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động xoá bỏ Nhà nước của
các giai cấp bóc lột và tự tiêu vong khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Đây
là kiểu Nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản; được xây dựng và hoàn thiện theo
mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội; tổ chức nhân dân xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên cơ sở liên minh giai cấp công nông và tầng lớp trí thức, đặt dưới sự lãnh
đạo của đảng giai cấp vô sản; là kiểu Nhà nước có chức năng trấn áp và chức năng tổ
chức xây dựng nền kinh tế mới, xã hội mới. Cũng vì những tính chất đặc biệt như vậy
của Nhà nước vô sản mà những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng
định rằng Nhà nước vô sản là một kiểu Nhà nước đặc biệt trong lịch sử, đó là Nhà
nước không còn nguyên nghĩa, là Nhà nước nửa Nhà nước. Nhà nước vô sản do vậy
phải là chính quyền của nhân dân, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cũng do đó,
chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này.

9
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Nhà nước pháp quyền

Những nhà biên soạn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho biết: Hồ Chí Minh đã nhận
thấy rõ tầm quan trọng của luật pháp đối với quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong
bản Yêu sách dân An Nam được Nguyễn ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp)
năm 1919 nhưng đã bị bác bỏ. Sau này, khi có quyền lực, Hồ Chí Minh đã để ý đến
việc quản lý và điều hành đất nước một cách có hiệu quả bằng pháp luật.

2.1.1: Khái niệm nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lý hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều
phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền.
Nhà nước pháp quyền hình thức Nhà nước Cộng hòa trong đó Nhà nước xây dựng nên
pháp luật để quản lý xã hội và tự đặt mình dưới pháp luật. Mọi cơ quan Nhà nước đều
phải được tổ chức và chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp
luật. Công dân tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. Quyền công dân được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ. Trong Nhà nước pháp quyền, ba ngành lập pháp, hành pháp
và tư pháp độc lập với nhau. Vai trò của tòa án được đề cao. Điều kiện để có một Nhà
nước pháp quyền là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và
kịp thời. Điều này đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật và pháp điển hóa không ngừng
được thực hiện. Nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc dân chủ. Dân chủ là nền
tảng để hoàn chỉnh pháp luật. Pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền công dân.

Nhà nước pháp quyền là Nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thông
qua phiếu bầu phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ ban ra. Lý thuyết phân
quyền của Montesquieu vốn là nền tảng cho phần lớn Nhà nước phương Tây hiện đại
khẳng định sự phân chia 3 quyền (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và những giới hạn
của 3 thứ quyền lực này. Trong mô hình dân chủ nghị viện, quyền lập pháp (Nghị
viện) hạn chế quyền lực của phía hành pháp (Chính phủ) nên chính phủ không thể tự
do hành động theo sở thích của mình và phải luôn có được sự hậu thuẫn của Nghị viện,
nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân chúng. Cũng như thế, tư pháp cho phép tạo

10
ra sự đối trọng đối với một số quyết định của chính phủ. Khi ba nhánh quyền lực được
phân chia, mỗi nhánh đều muốn và tìm cho mình những quyền lực mới để mở rộng
quyền lực cho mình. Khả năng của mỗi nhánh quyền lực mở rộng là khác nhau, như
vậy sự mất cân bằng trong ba nhánh quyền lực sẽ bị lệch và đi tới thoái hóa pháp
quyền. Làm sao để Nhà nước pháp quyền được ổn định và duy trì sự cân bằng quyền
lực giữa ba nhánh.

2.1.2. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền

Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền có thể nói ngắn gọn như sau: Nhà nước
pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó pháp luật có vai trò tuyệt đối. Nhà
nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó quyền lực nhà nước thể hiện
được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân. Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ
chức nhà nước, trong đó có sự đảm bảo thực tế mối quan hệ hữu cơ về trách nhiệm và
quyền hạn giữa nhà nước với công dân.

2.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.2.1. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở liên
minh công - nông - trí; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc
gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh; góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Bản
chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự
điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo
đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng
trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.

Một là, Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp;

11
Hai là, Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn
trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật
gốc mang tính nền tảng;

Ba là, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình
đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối
xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội;

Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật; Năm là, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ
của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy
trong khuôn khổ luật pháp.

2.2.2. Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền

Hiện nay, quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi
mới) đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ III khoá VIII của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Văn kiện Đại hội Đảng khoá IX, X đã khẳng
định công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
những tiến bộ quan trọng:

Một là, đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân
chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức
sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ
về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cử, ở chất
lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của
nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí...

Ba là, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ quan
hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành

12
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

Bốn là, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước
đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách
nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ nhiều
yếu kém:

Một là, bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý,
điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.

Hai là, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát
huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường.
Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất
thoát nghiêm trọng.

Ba là, tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có
những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương - địa
phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy,
kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng
như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.

Bốn là, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và
bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảngvà hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước.

Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ máy
nhà nước, trong đó chủ yếu là:

13
Một là, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều
việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.

Hai là, về xây dựng nhà nước chưa có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát
sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như
tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước;
thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và
đủ mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.

Ba là, chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định
một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương
nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.

Bốn là, các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị.

Năm là, các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể,
thiết thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy
quyền làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cán
bộ, công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc theo
hiến pháp, pháp luật.

2.2.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam

“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta đang nỗ lực xây
dựng và hoàn thiện có đầy đủ cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn, là sự vận dụng sáng
tạo, hợp lý tri thức về nhà nước pháp quyền của thế giới vào thực tiễn Việt Nam, vừa
mang đầy đủ những giá trị phổ quát, chuẩn mực của một nhà nước pháp quyền, vừa
mang những nét đặc thù chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt Nam. Đó là sự đổi mới tư
duy lý luận về nhà nước của Đảng ta, từ tư duy lý luận về nhà nước chuyên chính vô
sản sang tư duy lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Chủ tịch nước
khẳng định. Về việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

14
Việt Nam, cụ thể là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có một số nội dung cần chú ý sau: Tính tất yếu phải xây dựng nhà nước
pháp quyền mà biểu hiện rõ nét của nó là tính tối thượng của pháp luật trong điều hành
và quản lý kinh tế - xã hội. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá hiện nay cần phải thự hiện những điểm cơ bản như: Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tiến hành cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước. Tiếp tục
phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương tăng cường pháp chế. Tiếp tục xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đồng thời kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị.

Xác định rõ ràng hơn nữa vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng
cơ quan nhà nước đối với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo quyền lực nhà nước là
đồng bộ, có sự phân công rạch ròi, thống nhất cao và đẩy mạnh kiểm soát quyền lực
nhà nước ".Giải pháp trên xuất phát từ thực tế chúng ta đang bối rối trong việc xác
định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Mặt khác, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết: "Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
phải tăng cường hơn nữa". Vì vậy, trong phần phương hướng, nhiệm vụ thứ 10 để tập
trung hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: "Xác định rõ hơn nữa vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của
Nhà nước, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội".

Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân,
doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc
hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy

15
dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, xã hội chủ nghĩa, thống
nhất, tiên tiến, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạchTiếp tục xây
dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiệu quả, công bằng, kỷ cương, liêm
chính, vì Tổ quốc, phục vụ Nhân dânTiếp tục kiện toàn tổ chức chính quyền địa
phương gắn với địa bàn nông thôn, thành thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc
biệt theo quy địnhTập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ phẩm chất,
năng lực, uy tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước. Gắn kết chặt chẽ
giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật

Qua phân tích các nội dung nêu trên cho thấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng đã đề ra hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ. Các giải pháp này có
quan hệ, tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Giải pháp đầu tiên tập trung xác định
rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát quyền lực.
Trên cơ sở xác định rõ chức năng, vai trò, vị trí từng cơ quan thì mới thực hiện các giải
pháp khác được. Giải pháp thứ hai tập trung vào xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ,
kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Nghĩa là hình
thành thể chế, cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình
một cách hiệu quả nhất. Giải pháp thứ ba tập trung vào đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan lập pháp và cơ quan giám sát tối cao
của Nhà nước. Giải pháp thứ tư tập trung vào xây dựng nền hành chính nhà nước phục
vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh,
công khai, minh bạch. Thiếu nền hành chính này thì Nhà nước không thể thực hiện tốt
chức năng quản lý của mình. Giải pháp thứ năm tập trung xây dựng nền tư pháp Việt
Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ

16
quốc, phục vụ Nhân dân. Giải pháp thứ sáu tập trung hoàn thiện tổ chức chính quyền
địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế
đặc biệt theo luật định. Giải pháp thứ bảy tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển đất nước.
Giải pháp thứ tám tập trung kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi
hành pháp luật.

17
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là quan điểm nhất quán của Đảng, thể hiện bản chất, tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa, vì vậy, việc thống nhất nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân là vấn đề căn bản nhất, bảo đảm cho quan điểm của Đảng được hiện thực
hóa trong những năm tới, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là vấn đề hết sức mới
lạ, cần có tính tích cực, năng động và trí tuệ vô cùng to lớn của Đảng, nhưng không thể
học theo các quan điểm và mô hình xây dựng của một số nước phương Tây với những
mô hình và chế độ chính trị khác. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam phải đảm bảo nguyên tắc của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền
và nhà nước pháp quyền. Vì vậy, yêu cầu đề ra là Đảng phải tiếp tục bảo đảm cả tính
hợp pháp trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin cậy, quan hệ gắn bó của
Đảng đối với nhân dân và tính sáng tạo khi chỉ đạo phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,
phục vụ yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, muốn tiến nhanh phù hợp với
xu hướng phát triển của xã hội văn minh, sự cầm quyền của Đảng trong quan hệ với
xây dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng phải thay đổi: quyền lực chính trị
của Đảng đi kèm với quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân.

Qua trình bày của bài tiểu luận ở trên, có thể thấy rằng xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN là một quá trình tương đối lâu mình
trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và hoà thiện nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Đối với học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân, phải tăng cường giáo dục, tuyên
truyền những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy lòng nhiệt tình
của tuổi trẻ, tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng, thái độ sống tích cực. Có sự phối hợp
chặt chẽ giữa gia đình, nhà dài với những bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi
mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ XHCN và
tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của
Ðảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp

18
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực
ở Việt Nam.

19
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1.Giáo trình Triết học Mác Lênin Nhà xuất bản chính trị Quốc gia giáo trình triết
học do GS. TS. Phạm Văn Đức chủ biên dành cho sinh viên đại học, cao đẳng.

2.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Triết học, 3 quyển, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà
Nội

3.https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-su-pham-hanoi/triet-hoc-mac-
lenin/10-nguon-goc-ban-chat-va-dac-trung-cuanha-nuoc/21723025

4.https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-quoc-gia-hanoi/nha-nuoc-va-
phap-luat/de-cuong-nha-nuoc-va-phap-luat-daicuong-2021/21172766

5.https://tcnn.vn/news/detail/51275/Giai-phap-xay-dung-hoan-thien-Nha-nuocphap-
quyen-xa-hoi-chu-nghia-Viet-Nam-theo-tinh-than-Nghi-quyet-Dai-hoiXIII-cua-
Dang.html

20

You might also like