You are on page 1of 39

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN

ĐỀ TÀI: NHÀ NƯỚC VÀ CON NGƯỜI

Nhóm sinh viên thực hiện: NHÓM 5


Lớp : K214022C
Khoa: Kinh tế đối ngoại

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………..……………………..3
I. Lý do chọn đề tài……………………………………………4
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài……………………………...4
III. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………..4
NỘI DUNG CHÍNH ……………………………………………………..5
MỤC 1: NHÀ NƯỚC ……………………………………………...5
I. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất……………………........5
II. Chức năng…………………………………………………..6
III. Đặc trưng cơ bản…………………………………………..14
IV. Các kiểu và hình thức …………………………………….14
MỤC 2: CON NGƯỜI …………………………………………...18
I. Khái niệm , bản chất……………………………………...18
II. Hiện tượng tha hóa và vấn đề giải phóng con người……..23
III. Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội, vai trò quần
chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử…….…………….26
IV. Vấn đề con người trong sự nghiệp Cách mạng……………34
V. Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam……….37
KẾT LUẬN ……………………………………………………………..38

2
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài

Có thể nói vấn đề nhà nước và con người là hai trong những vấn đề
quan trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất.
Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề
tài này luôn là một trong các trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc
biệt chú ý. Đặc biệt, các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã
hội học.v.v từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không
ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng
đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Hơn bất cứ một lĩnh vực nào
khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức
và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường
chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác
nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau.
Trong khi đó, tư tưởng về nhà nước lại có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong hệ thống lý luận của V.I.Lê-nin, bởi nó không thuần túy là những lý
thuyết khoa học mà gắn bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn
giản là những suy tư tinh thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn
sinh động của ông. Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của V.I.Lê-nin
về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề , chúng em đã chọn đề tài
tiểu luận : Nhà nước và con người .

II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu của đề tài là cái nhìn tổng quát quan điểm của triết học Mác -
Lênin về vấn đề nhà nước và con người như khái niệm, nguồn gốc, bản
chất cũng như các mối quan hệ xoay quanh hai vấn đề.

III. Nhiệm vụ nghiên cứu

Bài tiểu luận tập trung triển khai, phân tích 8 nội dung chủ yếu:

3
− Khái niệm, nguồn gốc , bản chất nhà nước.
− Chức năng của nhà nước.
− Các đặc trưng cơ bản của nhà nước.
− Các kiểu và hình thức nhà nước.
− Khái niệm , bản chất con người.
− Hiện tượng tha hóa và vấn đề giải phóng con người.
− Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội, vai trò quần chúng
nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
− Vấn đề con người trong sự nghiệp Cách mạng.
− Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam.

4
NỘI DUNG CHÍNH
MỤC 1: NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất:
1. Khái niệm nhà nước: 
Nhà nước được hiểu là "một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng
đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp
cầm quyền”.
2. Nguồn gốc của nhà nước:
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Chỉ đến
khi lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ
đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai
cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai
cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để
nguy cơ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời, đó là
nhà nước.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin nguyên nhân sâu xa của
sự  xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến
sự dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu. Nguyên nhân trực
tiếp dẫn tới sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội
gay gắt không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách
quan để làm dịu sự xung đột giai cấp, để duy trì xã hội trong vòng trật tự
mà ở đó, lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị được đảm bảo.
Lênin đã nhận định: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và
chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà
nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà
được". Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự
phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn
nữa.
3. Bản chất của nhà nước:

5
Bản chất nhà nước là thuộc tính bên trong gắn liền với nhà nước. Nhà
nước xuất hiện từ những nhu cầu chính là điều hòa mâu thuẫn giữa các giai
cấp đối kháng và quản lí xã hội trong vòng trật tự, ổn định. Nhà nước, về
bản chất, là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm
bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của nhà nước bao
gồm 2 thuộc tính: 
a. Tính giai cấp: 
Do nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong lòng xã hội có giai cấp nên nhà
nước có tính giai cấp sâu sắc. Để đảm bảo quyền và lợi ích, giai cấp thống
trị sử dụng nhà nước như một công cụ sắc bén để thực hiện sự bảo vệ giai
cấp của mình. Đồng thời để thiết lập, củng cố và duy trì trật tự, ổn định xã
hội. Nhà nước có thể tác động mạnh mẽ và toàn diện đến mọi mặt của đời
sống xã hội, thông qua ba dạng quyền lực: quyền lực về kinh tế, quyền lực
về chính trị, quyền lực về tư tưởng.
b. Tính xã hội:
Để dung hòa các mâu thuẫn xã hội và củng cố địa vị thống trị, nhà nước
phải quan tâm đến giải quyết mọi vấn đề trong lòng xã hội. Nhà nước cần
phải giải quyết các công việc mang tính xã hội, phục vụ lợi ích chung của
xã hội. Thực tế đã cho thấy, khi nhà nước làm tốt tính xã hội thì càng củng
cố quyền lực thống trị của giai cấp cầm quyền.
Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Không có và
không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước chung cho
mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh
tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với
quần chúng lao động. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do
nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị. 
Tuy nhiên cũng có trường hợp nhà nước có thể là sản phẩm của sự thỏa
hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp
khác. Hoặc cũng có khi nhà nước giữ một mức độ độc lập đối với hai giai
cấp đối địch khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới mức cân bằng nhất
định. Những trường hợp trên là có tính chất ngoại lệ và tạm thời.

6
II. Chức năng của nhà nước
1. Khái niệm chức năng của nhà nước:
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước, phù
hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi
điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong những giai đoạn phát triển của
nó. Chức năng của nhà nước trước hết phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã
hội cụ thể của đất nước trong từng thời kì phát triển của nó. Thực tế cho
thấy, nhà nước phải làm gì, làm như thế nào, điều đó phụ thuộc rất lớn vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vì vậy, các nhà nước khác nhau
có thể có chức năng khác nhau. Trong một nhà nước cụ thể, trong các giai
đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi
chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng cũng có thể khác
nhau. Đồng thời chức năng của nhà nước cũng phụ thuộc vào bản chất,
mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước. Tuy nhiên, chức năng của nhà nước
cũng là sự thể hiện bản chất của nhà nước, thông qua những hoạt động của
nhà nước, bản chất của nhà nước được thể hiện một cách đầy đủ, rõ nét
nhất. Chức năng nhà nước được thực hiện thông qua các hình thức cơ bản
là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.
2. Phân loại chức năng của nhà nước.
a) Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội:
● Chức năng thống trị chính trị:
Nhà nước có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện tập trung của quyền lực nhân
dân và tổ chức các hoạt động để thực hiện quyền lực ấy. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiết chế trung tâm của hệ thống chính
trị.        
− Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại diện chính thức cho mọi giai cấp và
tầng lớp trong xã hội. Điều đó tạo cho Nhà nước có cơ sở xã hội rộng
rãi, có thể triển khai nhanh chóng và thực hiện có hiệu quả
những quyết định, chính sách của mình.
− Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ sở hữu đối với những tư liệu sản
xuất quan trọng của xã hội và nguồn tài chính to lớn. Thông qua đó

7
Nhà nước điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát
triển hài hòa vì lợi ích chung của nhân dân.
− Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mang chủ quyền quốc gia. Chủ
quyền quốc gia  là thuộc tính pháp lý riêng biệt của Nhà nước. Nhà
nước là chủ thể của các điều ước quốc tế.
− Nhà nước có quyền lực công khai, bao trùm toàn xã hội, quyền lực
nhà nước có phạm vi tác động rộng lớn nhất so với quyền lực của các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Để thực hiện quyền lực của
mình, nhà nước có bộ máy hùng mạnh nhất, bao gồm đội ngũ công
chức đông đảo, được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống địa
phương, được vận hành theo những nguyên tắc, quy định thống nhất
và thông suốt, tạo thành hệ thống thống nhất và đồng bộ cùng thực
hiện quyền lực nhà nước.
− Nhà nước có pháp luật, công cụ quản lí xã hội có hiệu quả nhất.Nhà
nước sử dụng toàn bộ sức mạnh vật chất, tinh thần của mình để tổ
chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Khi cần thiết, nhà nước
sử dụng sức mạnh bạo lực của mình để đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

● Chức năng xã hội:


Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước tiếp cận dưới góc độ triết học có
hai chức năng là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng giai
cấp là chức năng bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền.
Chức năng xã hội là chức năng đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển.
Là những nhà duy vật biện chứng nên trong khi nhấn mạnh chức năng giai
cấp của nhà nước, Mác và Ăngghen không hề coi nhẹ chức năng xã hội
của nhà nước
Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa :
− Nhà nước coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
− Nhà nước xác định khoa học – công nghệ giữ vai trò then chốt trong
sự nghiệp phát triển kinh tế
− Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn văn hoá dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại,

8
− Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân
dân.
− Nhà nước tạo điều kiện để mỗi công dân đều có việc làm, khuyến
khích mở rộng sản xuất, thu hút sức lao động, tích cực trong việc giải
quyết vấn đề thất nghiệp…
− Nhà nước xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu
nhập giữa những người có thu nhập cao sang những người có thu
nhập thấp qua các chính sách về thuế.
− Nhà nước xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần đối với những người có công, người về
hưu, người già yếu cô đơn…
− Nhà nước chủ động tìm các biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội
như ma tuý, mại dâm…
⮚ Mối quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã
hội của Nhà nước:
− Do bản chất giai cấp, nhà nước bao giờ cũng đặt chức năng thống trị
chính trị của mình lên hàng đầu. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước
như một công cụ thống trị để duy trì quyền thống trị của mình, bảo
vệ địa vị và lợi ích của giai cấp mình. Chính vì vậy, chức năng thống
trị chính trị của nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối và định
hướng chức năng xã hội của nhà nước. 
− Tuy nhiên, để duy trì trật tự xã hội, nhà nước của giai cấp thống trị
còn phải thực hiện chức năng xã hội của mình. Ph. Ăngghen cho
rằng: “chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự
thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức
năng xã hội đó của nó” . Do vậy, chức năng xã hội của nhà nước có
vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại của nhà nước. Nếu chính
quyền nhà nước nào không chú ý tới chức năng xã hội thì sớm muộn
sẽ sụp đổ. Ph. Ăngghen đã chứng minh điều đó rằng, những chính
quyền chuyên chế đã xuất hiện và suy vong ở Ba Tư, Ấn Độ thời cổ
đại là do không chú ý tới việc “tưới nước cho các thung lũng” để
đảm bảo nền sản xuất nông nghiệp. 

9
− Như vậy, giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của
nhà nước luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Một nhà nước tồn
tại lâu dài khi giai cấp thống trị giải quyết ổn thỏa lợi ích của giai
cấp và lợi ích của toàn xã hội trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ
thể.
b) Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
● Chức năng đối nội của nhà nước:
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội
bộ đất nước.

o Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.

Đây là một trong những chức năng căn bản nhất của nhà nước ta. Muốn
tiến hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước phải có đủ
sức mạnh và kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù
địch, đảm bảo điều kiện ổn định cho Nhân dân sản xuất kinh doanh.
Muốn vậy, Nhà nước phải quan tâm xây dựng các lực lượng an ninh, các
cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời phải “phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị, tính tích cực cách mạng của khối đại đoàn kết toàn
dân, phối hợp lực lượng quốc phòng và an ninh trong cuộc đấu tranh bảo
vệ an ninh, trật tự” 

o Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.

Đây là một trong những chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quan trọng; bởi vì, việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp
bản chất của nhà nước kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Đồng thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh
của Nhà nước trong việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà
nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát triển của bản thân Nhà nước và chế độ.
Đảng ta nhấn mạnh “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ
với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng

10
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
dân chủ của nhân dân”
o Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Đây là chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa quan trọng,
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà
nước. Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện
có hiệu quả tất cả các chức năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là hoạt động thường xuyên, có ý
nghĩa quyết định đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội bằng pháp luật.

o Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.

Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng
đầu và là cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nhằm xây
dựng mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao động,
là người chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; là người nắm
trong tay các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp
luật, tài chính, ngân hàng…) và quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia.
Trên cơ sở đó, Nhà nước có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất kinh
doanh, phát triển kinh tế trong nước cũng như hợp tác quốc tế.

o Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao
động làm chủ; có nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và
công nghệ tiên tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

11
Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự nghiệp
giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công nghệ. Đó là quốc
sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò then chốt
của khoa học và công nghệ.
Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần thiết
cho việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức
quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ
kinh tế xã hội. 

● Chức năng đối ngoại của nhà nước:

Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và dân tộc khác. Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại
nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở
rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào
cách mạng thế giới. Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của chính sách đối
ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung
của nhân loại thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội” 

o Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực
hiện tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là
chức năng cực kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ
công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển
khai các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

o Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước
khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

12
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại
bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội” 

o Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư
bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến và chạy
đua vũ trang, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội 

⮚ Mối quan hệ giữa chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:

− Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt
của một thực thể thống nhất, hỗ trợ và tác động lẫn nhau nhằm thực
hiện đường lối đối nội và đường lối đối ngoại của giai cấp cầm
quyền. Trong mối quan hệ này, chức năng đối nội của nhà nước
giữ vai trò chủ yếu, vì, nhà nước trước hết, nếu không muốn bị sụp
đổ thì phải duy trì được trật tự xã hội, phải giải quyết những công
việc xã hội, để xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất có thể, theo
quan điểm của giai cấp thống trị. Có làm tốt chức năng đối nội thì
nhà nước mới có điều kiện để thực hiện tốt chức năng đối ngoại. 

− Khi chức năng đối ngoại được thực hiện tốt thì chức năng đối nội
lại càng có điều kiện thực hiện, vị thế và vai trò của thể chế nhà
nước ngày càng cao, các vấn đề kinh tế - xã hội được đảm bảo,
quốc phòng - an ninh được giữ vững, văn hóa, giáo dục, khoa học,
y tế cộng đồng,... phát triển. Trong xã hội hiện đại, nhà nước nào
giữ được sự ổn định chính trị - xã hội thì các nhà đầu tư nước ngoài

13
mới dám đầu tư, thực hiện các dự án lớn, kinh tế - xã hội, văn hóa,
giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ,... mới có điều kiện phát triển.

− Sự phân định các chức năng của nhà nước chỉ có ý nghĩa tương
đối. Vì trong chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội
cũng bao hàm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Trong
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại cũng bao hàm chức năng
thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước.

III. Đặc trưng cơ bản của nhà nước:


Các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Theo chủ nghĩa Mác Lê-
nin thì bất kì nhà nước nào cũng có 3 đặc trưng cơ bản:
1. Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định:
Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên cơ
sở những quan hệ huyết thống, Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân
chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú.
Quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không
phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng
người trong cộng đồng với nhà nước.
Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định.
2. Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội
Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà
nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp.
Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh
sát, nhà tù, v.v.) và bộ máy quản lý hành chính.
Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức
của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực
thi
3. Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường
bộ máy cai trị:

14
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khóa, quốc trái và các
hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức
để nuôi sống bộ máy cai trị.
Hệ thống thuế khóa, cống nạp như vậy hoàn toàn không có trong hình thức
tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thái tổ chức
nhà nước.
Bằng các hình thức khác nhau như vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột
không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc
lột các giai cấp bị áp bức.
IV. Các kiểu và hình thức nhà nước
1. Khái niệm kiểu và hình thức của nhà nước:
o Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình
thái kinh tế - xã hội nào.
o Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và
phương thức thực hiện quyền lựcnhà nước. Nói cách khác đó là hình
thức cầm quyền của giai cấp thống trị.
⮚ Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử
là hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã
hội phong kiến và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là ba
kiểu nhà nước:
a) Nhà nước chiếm hữu nô lệ:
Nhà nước chiếm hữu nô lệ hay còn gọi là nhà nước chủ nô là hình thức nhà
nước đầu tiên trong lịch sử loài người và được coi là được coi là tổ chức
quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô trong xã hội.
Các nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên xuất hiện khoảng 4000 - 5000 năm
trước công nguyên ở châu Á và Bắc Phi (Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập...) và
ở châu Âu (Hy Lạp, La Mã)...
Đây là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại màtiêu biểu là các hình
thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể quân
chủ và chính thể cộng hoà, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ.

15
⇒ Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của
tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của chúng đều là nhà nước của
giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ.
b) Nhà nước phong kiến:
Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến.
− Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau:
● Ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức nhà nước
phổ biến. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa
phương phân tán. Mỗi chúa phong kiến là một ông vua trên lãnh thổ
của mình. Mối liên hệ thực sự giữa các chúa phong kiến châu Âu chủ
yếu được thiết lập bằng các hình thức liên minh của các nhà nước cát
cứ, trong đó Thiên Chúa giáo trở thành mối quan hệ tinh thần thiêng
liêng giữa các tiểu vương quốc phong kiến.
● Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và ấn Độ), hình thức quân
chủ tập quyền là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu
nhà nước về ruộng đất. Trong nhà nước này, quyền lực của vua được
tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là
pháp luật.
⇒ Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là
chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc
quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để
áp bức, thống trị nông nô.
c) Nhà nước tư sản:
Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng
nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình
thức quân chủ lập hiến
Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi
bản chất của nó - đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị
giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị
của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lênin đã đã chỉ ra: “Những hình thức của
nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung

16
quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là
nền chuyên chính tư sản"
* Nhà nước vô sản
Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử.
● Tính chất đặc biệt của kiểu Nhà nước vô sản
− Nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người.
− Chức năng cơ bản nhất,chủ yếu nhất của nó không phải làchức năng
bạo lực mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế – xã hội.
− Cơ sở quyền lực của nhà nước - đó là nền tảng liên minh công - nông
làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp những người lao động
khác trong xã hội.
⇒ Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước vô sản
nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước đó tùy thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể của thời điểm xác lập nhà nước ấy, tùy thuộc vào
tương quan lực lượng giữa các giai cấp và khối liên minh giai cấp tạo
thành cơ sở xã hội của nhà nước, tùy thuộc vào nhiệm vụ kinh tế -
chính trị - xã hội mà nhà nước đó phải thực hiện, tùy thuộc vào truyền
thống chính trị của dân tộc. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời
kỳ quá độ có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một:
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.

17
MỤC 2: CON NGƯỜI
I. Khái niệm và bản chất:
a) Con người là thực thể sinh học - xã hội:
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát
triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch
sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. 
● Con người là thực thể sinh học:
− Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật,là một
cơ thể sống,là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội.
Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người. 
− “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã
quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi
những đặc tính vốn có của con vật”1. Điều đó có nghĩa rằng con
người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước
uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để tồn tại và phát triển. 
− Con người còn là một bộ phận của giới tự nhiên- tiền đề vật chất đầu
tiên quy định cho sự tồn tại của con người. Do đó, bản tính tự nhiên
của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học và tính loài

1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.146

18
của nó.Có thể nói “Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con
người,... đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với
giới tự nhiên”2. Con người là bộ phận đặc biệt quan trọng của giới tự
nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài của môi
trường tự nhiên. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó,
hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm
này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính
thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển
bền vững hiện nay.
⇒ Với tư cách là một thực thể sinh học, con người bị những quy luật
sinh học, quy luật tự nhiên chi phối,hình thành nên bản chất tự nhiên
của mình. Bản chất tự nhiên được thể hiện qua những nhu cầu, hành
vi có tính bản năng.

● Con người là thực thể xã hội:


− Con người có nguồn gốc từ xã hội.Hoạt động xã hội quan trọng nhất
của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có
thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”.
− Nhờ có lao động và thông qua lao động con người mới thoát khỏi đời
sống động vật, phát triển bộ não và ý thức, các mối quan hệ xã
hội( tôn giáo, kinh tế, chính trị…) mới được hình thành. 
− Nhờ có lao động mà về mặt sinh học con người có thể trở thành thực
thể xã hội, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của
nó.
− Mọi hoạt động của con người đều chịu tác động của các nhân tố xã
hội và quy luật xã hội, bản chất của con người mang đậm dấu ấn của
xã hội. Dấu ấn này thể hiện con người chịu sự chi phối của những
chuẩn mực, giá trị, các quy định, những yêu cầu về nghĩa vụ trách
nhiệm bản thân trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người
với xã hội và với chính mình. Hơn nữa, trong khi thực hiện những
nhu cầu có tính bản năng, con người luôn chú ý đến những đòi hỏi
của nhu cầu của cộng đồng,xã hội. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm

2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.135.

19
của sự tác
động qua lại
giữa con
người. Tính xã
hội của con người
chỉ có trong xã hội
loài người, con
người không
thể tách khỏi xã
hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác con vật.
⇒ Với tư cách là thực thể xã hội, sự tồn tại của con người chịu sự chi
phối của những quy luật quan hệ xã hội. Vì vậy nhận thức, hoạt động
thực tiễn của con người luôn bị tác động, điều chỉnh bởi các quan hệ
xã hội.
● Ba hệ thống quy luật chi phối hoạt động con người:
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau.

o Hệ thống các quy luật tâm lý : quy luật hình thành tình cảm, khát
vọng, tâm lý...
o Hệ thống các quy luật xã hội: là các quy luật quan hệ giữa người với
người

20
o Hệ thống các quy luật tự nhiên: như quy luật về sự trao đổi chất, di
truyền, biến dị, tiến hóa...
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên một thể thống nhất
trong đời sống con người về cả mặt sinh học và xã hội.
Con người là một thực thể thống nhất về mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt
sinh học là tiền đề, cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, mặt xã hội là yếu
tố quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật.Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi xem xét con người, không thể tách rời
hai phương diện sinh học và xã hội thành những phương diện biệt lập,
riêng lẻ. Hai phương diện đó luôn thống nhất hữu cơ với nhau ( thống nhất
biện chứng).
 b) Con người vừa là chủ thể của lịch sử,vừa là sản phẩm của lịch
sử:
Con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên,
vừa là sản phẩm lịch sử của xã hội loài người và của chính bản thân con
người. Con người khác với các động vật khác, không thụ động để lịch sử
làm mình thay đổi.
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng
đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính
xã hội tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của
mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động
vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra
lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý
muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch
sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”3. 
Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của các cá nhân con người
sống. Vì vậy hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi các
động vật khác, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công

3
Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.476.

21
cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động
mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt
động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch
sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con
người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà
phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong
những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động
trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại; mặt khác, lại phải tiến
hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. 
o Là sản phẩm của lịch sử vì đời sống con người gắn liền với những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể ,khônggian, thời gian cụ thể. Con người
chịu sự chi phối của điều kiện hoàn cảnh sống của gia đình và của xã
hội. Các yếu tố về trình độ phát triển của xã hội, văn hóa truyền
thống ,tập quán chuẩn mực đạo đức pháp luật; những biến động vận
động của đời sống kinh tế,chính trị , văn hóa… trực tiếp tác động đến
nhận thức thái độ suy nghĩ hành động của con ngƣời.
o Là sản phẩm của chính mình vì đứng trên điều kiện và hoàn cảnh
sống đó càng trưởng thành con người càng tự do theo đuổi ước mơ lý
tưởng thể hiện giá trị sống của mình. Số phận mỗi người phần nhiều
do họ quyết định. Điều đó tùy thuộc vào nhận thức ,thái độ, hành
động của họ đối với cuộc đời mình.
“Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như
thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” 4 .Lịch sử sản xuất ra con
người như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như
thế ấy. Như vậy trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và quá
trình phát triển của con người nói riêng thì từ khi con người ra đời cho đến
lúc nào con người còn tồn tại, con người vẫn luôn vừa là sản phẩm của lịch
sử vừa là chủ thể của lịch sử.Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay
con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của
lịch sử. 

4
 C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.169

22
⇒ Do quá trình tiến hóa cả về mặt tự nhiên, đặc biệt là tiến hóa về mặt
xã hội mới xuất hiện con người, đồng thời khi xuất hiện con người,
con người là chủ thể của lịch sử, con người làm ra lịch sử, viết nên
lịch sử - xã hội của chính mình. Từ khi con người tạo ra lịch sử cho
đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là
sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.
c) Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội:
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất
định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 5.
Theo tư tưởng này con người là ‘con người hiện thực’ . Trong bối cảnh
hiện thực ấy tất cả các quan hệ xã hội đều tham gia làm hình thành nên bản
chất con người. 
Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại,
quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp,
quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan
hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v.. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần
hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít
hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo.
Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ
được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó
thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội
khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện
khác của đời sống con người khiến cho con người không còn thuần túy là
một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh
vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể
xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
II. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con
người:
1. Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con
người bị tha hóa
5
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3. tr.11.

23
a) Khái niệm
Theo C. Mác, thực chất lao động bị tha hóa là quá trình lao động từ chỗ
để phục vụ con người, đẻ phát triển con người đã bị biến thành lực lượng
đối lập, nô dịch và thống trị con người 
b) Nguyên nhân gây nên tha hóa con người:
  Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện tượng tha hóa
của con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có
phân chia giai cấp. 
    Nguyên nhân gây nên tha hóa con người là do chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, nhưng tha hóa con người được đẩy lên cao nhất trong xã hội tư
bản chủ nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra những sự phân hóa xã hội về việc hiếm
hữu tư nhân tư liệu sản xuất, đại đa số trở thành vô sản, một số ít trở thành
tư sản, chiếm giữ tư liệu sản xuất.
    Vì vậy, vô sản buộc phải làm thuê và chịu sự bóc lột của tư sản và sự
tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là nội dung chính yếu,
là nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa của con người.
c) Nội dung hiện tượng tha hóa con người
● Lao động bị tha hóa làm người lao động đánh mất mình
    Theo Mác, lao động bị tha hóa là lao động làm người lao động đánh mất
mình trong hoạt động người nhưng lại tìm thấy mình trong lao động vật
    Lao động bị ép buộc, cưỡng bức bởi điều kiện xã hội. Con người lao
động không phải để sáng tạo, phát triển các phẩm chất người mà chỉ là để
duy trì sự tồn tại của thể xác. Điều này dẫn đến việc người lao động chỉ
cảm thấy mình hành động tự do trong khi thực hiện những chức năng con
người thì người lao động lại cảm thấy mình chỉ còn là con vật. Cái vốn có
của súc vật trở thành chức phận của con người, cái có tính người thì bị
biến thành cái vốn có của súc vật. Tính chất trái ngược trong chức năng
như vậy là biểu hiện đầu tiên của sự tha hóa của con người.
● Lao động bị tha hóa làm đảo lộn các mối quan hệ của người lao
động

24
    Trong lao động, con người là chủ thể trong quan hệ với tư liệu sản xuất,
nhưng vì trong tư bản chủ nghĩa thì người lao động phải phụ thuộc vào tư
liệu sản xuất. Như vậy con người lệ thuộc vào chính sản phẩm do mình
làm ra. Mặt khác, vì tư liệu sinh hoạt mà con người phải lao động nên con
người bị sản phẩm của chính mình nô dịch. 
    Lao động bị tha hóa đã đảo lộn quan hệ xã hội của người lao động. Các
đồ vật trở nên xa lạ, trở thành công cụ thống trị, trói buộc con người. Quan
hệ giữa người lao động và chủ sở hữu tư liệu sản xuất đúng ra là quan hệ
người với người, nhưng trong thực tế nó lại được thực hiện thông qua số
vật phẩm làm ra và thù lao được trả. Quan hệ người với người đã thay thế
bằng quan hệ người với vật. Đó là biểu hiện thứ 2 của sự tha hóa.
● Lao động bị tha hóa làm người lao động phát triển què quặt
    Khi lao động bị tha hóa, con người trở nên què quặt, phiến diện và
khiếm khuyết trên nhiều phương diện, không thể phát huy được sức mạnh
bản chất của con người. Người lao động ngày càng bị bần cùng hóa, sự
phân cực xã hội ngày càng lớn.
    Sản xuất, công nghiệp khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, lợi
nhuận của chủ sở hữu tư liệu sản xuất càng lớn, người lao động bị máy
móc thay thế càng nhiều. Con người không điều khiển máy móc mà máy
móc điều khiển con người, lao động càng trở nên “dã man”
    Trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu
hóa hiện nay, khía cạnh này của sự tha hóa lao động thể hiện tập trung và
rõ nét khiến cho sự phân cực giàu nghèo trong xã hội hiện đại ngày càng
giãn rộng theo chiều tỷ lệ thuận với sự phát triển của cách mạng khoa học
công nghệ và toàn cầu hóa.
     Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên
chế độ tư hữu tư liệu sản xuất , nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó, sự tha hóa
của lao động con người còn được tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương
diện khác của đời sống. Chính vì vậy, việc khắc phục sự tha hóa không chỉ
gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà con gắn liền

25
với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã
hội . Đó là một quá trình lâu dài phức tạp để giải phóng con người, giải
phóng lao động
2. “Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”
     Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
và tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm giải phóng con người về phương
diện chính trị. Khắc phục sự tha hóa của con người, biến lao động sáng tạo
trở thành hoạt động mang tính tự nguyện, tự giác là nội dung có ý nghĩa
then chốt. Điều kiện tiền đề để giải phóng triệt để con người là xóa bỏ giai
cấp, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sức phát triển ở
trình độ cao.
    “ Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải
phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt.”6. Theo quan điểm của các nhà kinh
điển, việc giải phóng con người cụ thể là để đi đến sự giải phóng giai cấp,
giải phóng nhân loại và tiến tới giải phóng nhân loại.
     “ Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới cho
con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người” 7, “
là sự xóa bỏ một cách tích cực mọi sự tha hóa” 8 Tư tưởng đó thể hiện
chính xác thực chất của sự giải phóng con người, thể hiện lập trường duy
vật biện chứng, khách quan, khoa học trong việc nhận thức nguồn gốc, bản
chất và đời sống con người và phương thức giải phóng con người.
3. “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người”9
         Khi chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản được xóa bỏ, lao động không
còn được tha hóa, con người được giải phóng, khi đó xã hội sẽ tự do. Bản
chât của con người là sự tổng hòa các quan hệ xã hội. Do vậy, sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện tất yếu cho sự phát triển tự do của mọi
người.
6
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.406
7
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.557
8
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.168
9
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.628

26
         Sự phát triển tự do của mỗi người chỉ có thể đạt được khi con người
thoát khỏi sự tha hóa, thoát khỏi sự nô dịch do chế độ tư hữu tư liệu sản
xuất, khi sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay không còn, khi con người không còn bị trói buộc bởi sự
phân công lao động xã hội.
       Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin
là lý luận duy vật biện chứng triệt để mang tính khoa học cách mạng và
ngày càng được phát triển vẫn tiếp tục là nền tảng lý luận cho việc nghiên
cứu, giải phóng và phát triển con người trong hiện thực.
III. Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội, vai quần
chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
1. Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với xã hội
● Cá nhân:
Định nghĩa: Cá nhân là một hiện tượng mang tính lịch sử với tính cách là
những con người cụ thể và đồng thời là sản phẩm của sự phát triển xã hội,
là chủ thể lao động của các quan hệ xã hội, và của nhận thức. Cá nhân là
một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất những khả năng riêng có
của con người đối với chức năng xã hội do người đó thực hiện.
● Xã hội:
Định nghĩa: Xã hội được khẳng định là hình thái vận động cao nhất của
vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác
động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Như C.Mác đã khẳng
định: “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số
những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau”.
  Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội thì hạt nhân là con người,
mọi vấn đề đều xoay quanh con người. Con người cấu thành nên cá nhân
cũng như cả xã hội. Nhắc lại về con người theo định nghĩa của triết học
Mác-Lênin, một cách ngắn gọn thì con người là “ chính thể thống nhất của
cá thể-loài mang những đặc tính của cá thể, đơn nhất lẫn cái chung nhất,
phổ biến của loài, bản chất của nó là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Trong con người luôn có những cái chung của toàn nhân loại, như các giá
trị chung, lợi ích chung, nhu cầu chung,..vv..”. Như vậy, con người là đại

27
biểu của một xã hội cụ thể, của một thời kỳ lịch sử xác định, có tính đặc
thù, có mối quan hệ xã hội xác định.
Từ đó, ta có thể hiểu các mối quan hệ kết tinh trong một con người là
quan hệ xã hội cụ thể của một thời đại, của một gia đình, một nhóm xã hội,
một cộng đồng, một tập đoàn, một giai cấp, một quốc gia-dân tộc xác định.
Bên cạnh đó, bên trong con người cũng tồn tại những cái riêng, cái đơn
nhất, cái đặc thù của cá thể, cá nhân từ kinh nghiệm, tâm lý, trí tuệ,..v.v..,
do những điều kiện sống, đặc điểm sinh học quy định. Nhờ đó, mà mỗi
con người là mỗi cá thể, cá nhân riêng biệt, khác biệt nhau. Chung quy,
“con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân”.
Giữa cá nhân và xã hội luôn có sự ràng buộc lẫn nhau, không thể tách
rời nhau và có mối quan hệ tương quan mật thiết tác động qua lại lẫn nhau.
Xã hội được cấu thành từ các cá nhân và mỗi cá nhân là một phần tử đang
sinh sống và hoạt động trong xã hội đó. Khi sinh ra con người chưa có ý
thức, có các mối quan hệ xã hội nên chỉ được gọi là cá thể, trong quá trình
trưởng thành con người mới bắt đầu tạo dựng các mối quan hệ giữa các cá
thể khác nhau, có ý thức và giao tiếp xã hội thì khi này cá thể ấy mới được
xem là cá nhân. Quan hệ cá nhân-xã hội là tất yếu, là tiền đề là điều kiện
để tồn tại và phát triển của cá nhân và xã hội. Mối quan hệ ấy còn phụ
thuộc vào điều kiện lịch sử, vào trình độ phát triển xã hội của từng cá
nhân, đặc biệt là vào bản chất của xã hội. Tính thống nhất và mâu thuẫn
giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào từng giai
đoạn lịch sử. Sự thống nhất cá nhân-xã hội còn thể hiện ở góc độ khác
trong mối quan hệ giữa con người giai cấp và con người nhân loại và nó
chỉ tồn tại trong xã hội phân chia giai cấp. Mỗi con người cá nhân trong xã
hội giai cấp đều mang tính giai cấp. Các quan hệ mà nó sống và hoạt động
đều có quan hệ giai cấp và quan hệ này đóng vai trò quyết định và chi phối
các hành vi và hoạt động của nó. Mặt khác, mỗi cá nhân dù thuộc về giai
cấp nào cũng đều mang tính nhân loại. Tính nhân loại được thể hiện trong
các giá trị chung của toàn nhân loại, những quy tắc chung,chuẩn mực
chung trên nền tảng lợi ích chung, từ bản chất người của cá nhân tạo nên
cộng đồng nhân loại.

28
Tính giai cấp và tính nhân loại trong mỗi con người vừa thống nhất
vừa khác biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau. Tính nhân loại là vĩnh hằng, là
nền tảng cuộc sống của mỗi con người. Chỉ khi nào không còn tồn tại
nhân loại thì tính nhân loại mới mất đi. Các giai cấp và quan hệ của chúng
trong mỗi giai đoạn lịch khác nhau là khác nhau và biến đổi thường xuyên
do các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội luôn thay đổi. Do vậy, con
người với tính cách là chủ thể xã hội luôn có những hoạt động để cải thiện
các điều kiện khách quan; điều đó đã làm cho điều kiện sống của con
người luôn biến đổi, các lực lượng sản xuất, xã hội phát triển và tiến bộ.
Nhưng, giai cấp đại diện cho sự phát triển và giai cấp đại diện cho sự cản
trở phát triển, tiến bộ ấy tồn tại trong suốt quá trình đấu tranh giai cấp
trong lịch sử. Tính giai cấp đang cản trở sự phát triển và tính nhân loại
trong con người luôn mâu thuẫn với nhau.
Con người sinh ra và lớn lên tất yếu mang trong mình những giá trị,
phẩm chất, điểm đặc thù của riêng mình được hình thành do các điều kiện
lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị trong mỗi cộng đồng quốc gia
và dân tộc xác định dù họ có muốn hoặc ý thức được hay không. Do vậy,
trong mỗi con người luôn tồn tại trong mình những cái riêng biệt của cá
nhân và những đặc thù của quốc gia dân tộc, tính giai cấp lẫn tính nhân
loại. Với tính cách là chủ thể hoạt động sự gắn kết, tác động biện chứng
qua lại giữa các khía cạnh trong mỗi con người là luôn biến động, biện
chứng, khách quan, tất yếu. Tính giai cấp và tính dân tộc mang tính lịch sử
sẽ mất dần theo sự phát triển, tiến bộ của xã hội nhưng tính nhân loại và
cá nhân vẫn còn tồn tại vĩnh viễn. Sự thống nhất giữa tính cá nhân, tính
giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại là mục tiêu, yêu cầu và tiêu chuẩn
của tiến bộ xã hội. Vấn đề giải quyết đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh
khách quan mối quan hệ giữa con người cá nhân, con người giai cấp, con
người dân tộc, con người nhân loại là đòi hỏi của hoạt động nhân loại.
⇒ Kết luận: các quan điểm trên đây về con người có ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải luôn giải
quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân-xã hội tránh khuynh hướng đề cao
quá mức một trong hai mặt cá nhân hoặc xã hội. Nếu đặt cá nhân lên
trên xã hội, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội và ngược lại nếu đặt

29
xã hội lên trên cá nhân, bỏ quên cá nhân hoặc không nhận thức đúng
được sự phát triển của xã hội là sự kết hợp hoạt động của các cá nhân thì
đều sai lầm và có thể dẫn đến những hệ lụy và hậu quả khôn lường cho
cá nhân và cả xã hội. Hơn nữa trong đời sống khi xem xét một con
người đều phải đặt nó trong tổng thể các mối quan hệ xã hội bởi trong
tính hiện thực thì con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội. Điều
này gắn liền với các nguyên tắc lịch sử-cụ thể và nguyên tắc toàn diện.
Sẽ thật sai lầm nếu chúng ta chỉ nhìn vào một mặt/khía cạnh của một
con người để nhận xét, đánh giá bản chất của người đó. Nếu muốn xem
xét một con người thì phải đặt con người đó trong tổng thể các mối quan
hệ của chính người đó.
2. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
a) Quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân:
Định nghĩa: Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn
bản bao gồm những thành phần những tầng lớp và những giai cấp liên kết
lại tạo thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân tổ chức hay đảng
phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế chính trị xã hội của một thời
đại nhất định.
Có những yếu tố xuất hiện nhằm xác định khái niệm quần chúng nhân
dân: những người lao động sản xuất ra vật chất tinh thần trong xã hội, bộ
phận dân cư có khuynh hướng chống lại giai cấp thống trị áp bức, bốc lột,
đối kháng với những lợi ích căn bản của họ, những giai cấp, tầng lớp thúc
đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác đều
không nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân trong tiến trình
phát triển của lịch sử. Điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm hoặc
siêu hình về xã hội dựa trên nguồn gốc lý luận.
Chủ nghĩa duy vật trong lịch sử đã khẳng định rằng quần chúng nhân
dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Điều này có thể được giải
thích rằng, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được
minh chứng và tiếp thu, hoạt động thông qua quần chúng nhân dân. Hơn
nữa, việc biến đổi xã hội theo ý tưởng phải được thực thực hiện bằng hoạt

30
động cách mạng, hành động thực tiễn của quần chúng nhân dân để biến lý
tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
⮚ Vai trò của quần chúng nhân dân được thể hiện ở
● Thứ nhất: Họ là người sáng tạo ra lịch sử, sản xuất của cải vật
chất, yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Lực lượng
sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao
gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Vai trò của khoa học
chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng
nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức
trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Từ đó, hoạt
động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
● Thứ hai: Lợi ích của họ vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc
của các hoạt động cách mạng. Các giai đoạn trong lịch sử đã
chứng minh rằng không có hoạt động cách mạng nào là không
xuất phát từ hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là
lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng
lợi của mọi cuộc cách mạng. Nhân dân là lực lượng đông đảo góp
phần làm thay đổi xã hội từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình
thái kinh tế-xã hội khác.Tất nhiên suy cho cùng, nguyên nhân của
mọi cuộc cách mạng đều bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng
sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất, nói cách
khác là bắt đầu từ hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân.
Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế,
chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội.
● Thứ ba: Các giá trị văn hóa, tinh thần và đời sống tinh thần đều do
quần chúng nhân dân sáng tạo ra. Con người – quần chúng nhân
dân lao động trong yếu tố của quá trình sản xuất vật chất mang
tính quyết định. Quần chúng nhân dân mang trong mình vai trò to
lớn cho sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, cũng như
áp dụng các thành tụ đó vào những hoạt động thực tiễn. Những
sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế,

31
chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều
kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân
tộc trong mọi thời đại. Mọi giá trị sáng tạo tinh thần trong đời
sống xã hội xuất phát từ những nguồn cảm hứng vô tận lấy chất
liệu từ hoạt động của quần chúng nhân dân trong thực tiễn. Mặt
khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được
đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng,
trở thành giá trị phổ biến.

⇒ Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt
động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định
trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể
của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ
nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy
tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần
chúng nhân dân. như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết".
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng
thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
Giữa vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân có một mối quan hệ
cụ thể là mối quan hệ giữa vai trò của nhân dân lao động và cá nhân là
lãnh tụ/vĩ nhân. Một mặt, mối quan hệ này biểu thị một phần của mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội. Mặt khác, nó lại chứa đựng những nội dung
mới, khác biệt.
b) Lãnh tụ/Vĩ nhân và vai trò của lãnh tụ/vĩ nhân
● Khái niệm về lãnh tụ/vĩ nhân:
Lãnh tụ: là người có tri thức khoa học uyên bác, nhận thức được xu
hướng vận động của dân tộc và thời đại, có khả tập hợp quần chúng nhân
dân, nguyện hiến mình cho lợi ích của dân tộc, quốc tế, thời đại.

32
  Vĩ nhân: là những cá nhân kiệt xuất nắm bắt được những vấn đề căn bản
nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động khoa học và thực tiễn. Họ
có thể là những anh hùng, những nhà khoa học, hay những nhà hoạt động
chính trị lỗi lạc.
● Vai trò của lãnh tụ:
− Thứ nhất: thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội.
− Thứ hai: sáng lập ra các tổ chức chính trị xã hội và là lãnh đạo, linh
hồn tổ chức đó.
− Thứ ba: lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể giải quyết các vấn đề,
hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra trong thời đại đó.
⇒ Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào
quần chúng Lênin viết: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có
đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào". 
Quan hệ giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân là quan hệ thống nhất,
biện chứng. Điều đó thể hiện mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân
và lãnh tụ là thống nhất. Quần chúng và các phong trào của họ tạo nên
những lãnh tụ và những điều kiện, tiền đề khách quan để các lãnh tụ xuất
hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra cho họ. Lãnh tụ là
người dẫn dắt, định hướng cho phong trào và thúc đẩy những phong trào
phát triển, từ đó thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của lịch sử xã hội.
● Tính biện chứng của mối quan hệ trên biểu hiện qua một vài điểm
sau:
− Thứ nhất: Tính thống nhất giữa cá nhân và lãnh tụ. Nếu không có các
phong trào cách mạng, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã
hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì không thể có sự xuất hiện
của lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản
phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của phong trào quần chúng nhân dân.
− Thứ hai: Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích
và lợi ích của mình. Quan hệ về lợi ích quy định sự thống nhất trong

33
mối quan hệ về mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng
giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Những lợi ích đó có thể là: lợi
ích về chính trị, lợi ích kinh tế, lợi ích văn hóa,... Quan hệ về lợi ích
có thể nói là cầu nối liền là nội lực để liên kết quần chúng nhân dân
và lãnh tụ thành một khối thống nhất với nhau về ý chí và hành động.
Lợi ích đó thay đổi tùy thuộc vào thời đại, vào địa vị của giai cấp
cầm quyền mà lãnh tụ là đại biểu, phụ thuộc và khả năng nhận thức
và vận dụng giải quyết các mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai
cấp, tầng lớp xã hội. Qua đó, cho thấy rằng mức độ thống nhất về lợi
ích giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là cơ sở cho sự thống nhất
về nhận thức và hành động của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong
lịch sử.
− Thứ ba: Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện
trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng
vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng
quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh
tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào thúc đẩy sự phát triển của
lịch sử.
⇒ Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân lãnh tụ là
biện chứng, vừa thống nhất vừa khác biệt. Chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời
đánh giá cao vai trò của lãnh tụ.
● Ý nghĩa phương pháp luận trong mối quan hệ giữa quần chúng
nhân dân và lãnh tụ trong mỗi giai đoạn lịch sử: 
Trong mối tương quan giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ, luôn có
sự tác động qua lại hài hòa, cân bằng giữa cả hai. Lãnh tụ có vai trò
quan trọng nhưng đừng tuyệt đối hóa vai trò của lãnh tụ dẫn đến tệ sùng
bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ, coi nhẹ quần chúng nhân dân sẽ dẫn
đến sự hạn chế phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân
dân. Ngược lại, việc tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân,
xem nhẹ vai trò của các cá nhân và lãnh tụ sẽ dẫn đến hạn chế, xem
thường, bỏ qua các sáng kiến cá nhân, không phát huy được sức mạnh
sáng tạo của họ. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn

34
coi sùng bái cá nhân là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất,
mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản. Những lãnh tụ vĩ đại của giai
cấp vô sản như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều hết
sức khiêm tốn, gần gũi với nhân dân, đề cao vai trò và sức mạnh của
quần chúng nhân dân, xứng đáng là những vĩ nhân kiệt xuất mà toàn thể
loài người tôn kính và ngưỡng mộ.
Nếu vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ được kết
hợp hài hòa, hợp lý, khoa học trong từng điều kiện cụ thể xác định sẽ
tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong trào và sự vận động, phát triển
của cộng đồng, xã hội nói chung.

IV. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
là nền tảng lý luận cho việc phát huy vai trò của con người trong cách
mạng và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Do yêu cầu khách
quan của sự phát triển lịch sử - xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp thu văn hóa và các giá trị truyền thống của dân tộc, gia đình, tinh hoa
văn hóa của nhân loại, trong đó có lý luận về con người của chủ nghĩa Mác
- Lênin, từ đó vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người phù
hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam hiện đại. 
Theo Hồ Chí Minh: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người”. Quan niệm về con người của Hồ Chí Minh rõ ràng đã được cụ thể
hóa, bao hàm cả cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại. 
Giải phóng nhân dân lao động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, bởi ở Việt Nam quyền lợi của nhân dân lao động thống
nhất với quyền lợi của giai cấp và dân tộc. Đấu tranh giải phóng nhân dân
lao động, giải phóng giai cấp vô sản và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo
của giai cấp vô sản không phải chỉ để giải phóng bản thân giai cấp vô sản,
mà còn để giải phóng giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc khỏi ách áp
bức, bóc lột. Chỉ bằng cách đó, và duy nhất bằng cách đó, thì việc giải
phóng giai cấp vô sản mới có thể thực hiện được triệt để và đảm bảo thắng
lợi hoàn toàn.

35
Do bối cảnh lịch sử của quốc gia, dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh tư tưởng giành độc lập, tự do cho quốc gia, dân tộc. Việc giành lại
độc lập, tự do dân tộc và bảo vệ nền độc lập và tự do ấy là mục tiêu, sự
nghiệp suốt đời của Hồ Chí Minh và của cả dân tộc Việt Nam. “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do
và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng,
tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Dân tộc Việt
Nam “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.               
Phát triển con người toàn diện là một nội dung quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người. Con người toàn diện là con người có cả
đức và tài, trong đó đức là gốc. Đức là đạo đức, là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, đó không phải là đạo đức vì danh vọng cá nhân mà là vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người. Yêu cầu cơ bản của đạo đức đó là
trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Tài hay chuyên là năng lực của con người đáp ứng
được các nhiệm vụ được giao, được thể hiện qua việc không ngừng học
tập, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật và lý luận.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người là sự vận
dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại. Tư tưởng
đó đã và đang là “kim chỉ nam”, là nền tảng lý luận cho việc hoạch định
các chủ trương, chính sách về con người và phát triển con người, cho việc
điều hành và quản lý đời sống xã hội. Con người vừa là chủ thể lịch sử xã
hội, là nội dung cốt lõi, là tư tưởng căn bản trong chiến lược phát triển con
người của nước ta hiện nay. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung
của tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đã được Liên hợp quốc chính thức vận
dụng ở quy mô toàn cầu.
Việc phát huy vai trò con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay đã
được Đảng ta chú trọng nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, trong các
văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương, trong các chủ trương, chính
sách, quản lý và điều hành sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Một
mặt, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu tranh không khoan nhượng chống thoái

36
hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, chống lại những
thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con người Việt Nam đang cản
trở sự phát triển của chính con người và xã hội. Mặt khác, Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay với những đức tính sau đây: 
− Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
− Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
− Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng;
có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
− Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
− Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực”.
Mục tiêu của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, là sự thể hiện tập trung mục tiêu giải phóng con người. 
Sự thành công của công cuộc đổi mới nói riêng và sự phát triển đất
nước nói chung phụ thuộc rất lớn vào việc phát huy vai trò của con người.

V. Vấn đề phát huy nguồn lực con người Việt Nam

     Quan niệm về nguồn lực con người được hiểu là những tiêu chí phản
ánh về số lượng và chất lượng của dân số với tư cách là lực lượng sản xuất
trong xã hội cũng như vấn đề quản lý, sử dụng, đào tạo nguồn nhân lực.

Nguồn lực con người ở VN biểu hiện ở chỉ số về số lượng như số dân,
cơ cấu dân số và lao động, cơ cấu độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp; chỉ số về
chất lượng: tình trạng sức khoẻ, trình độ học vấn, tâm lý, đạo đức, chất
lượng cuộc sống,…

 Thành tựu trong phát triển nguồn lực con người ở Việt Nam trong
những năm qua được thể hiện trên những bình diện khác nhau. Ví dụ như

37
chỉ số phát triển con người (HDI) vào năm 2020, Việt Nam đã tăng vượt
bậc. Với chỉ số giới (GDI) là 0,997 Việt Nam đứng thứ 65 trong số 162
quốc gia và nằm trong nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới.10 

Bên cạnh đó,  phát triển nguồn lực con người trong những năm qua vẫn
còn những hạn chế. Tiêu biểu là tỷ số giới tính khi sinh (SRB) của Việt
Nam tăng cao, nằm top 3 thế giới trong năm 2020. Các bằng chứng cho
thấy nguyên nhân dẫn tới mất cân bằng nhân khẩu học là do tình trạng
lựa chọn giới tính trước khi sinh, tức là bỏ thai khi thai nhi được xác định
là con gái.11 Từ đó dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính mà vẫn chưa
khắc phục được.

Để khắc phục những hạn chế Việt  Nam cũng đã có một số phương
hướng phát huy nguồn nhân lực ở VN trong hội nhập quốc tế như tiếp tục
đổi mới quản lý Nhà nước, bảo đảm nguồn lực tài chính, đẩy mạnh cải
cách giáo dục, chủ động hội nhập. 12

KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm triết học của Mác – Lênin về nhà nước, con người
và phát huy nguồn lực con người là phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Nắm
bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung
và triết học Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng
kỹ thuật công nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con
người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Những năm gần đây Nhà
nước càng chú trọng hơn nữa phát triển nguồn nhân lực do nhận thức vai
trò hết sưc đặc biệt của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và đã đạt được nhiều kết quả khả quan được ghi
nhận đánh giá cao. Mặc dù vậy, so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam còn hạn chế về chất lượng. Đây là thách thức lớn trong công
10
Báo Nhân Dân, https://nhandan.vn/binh-luan-phe-phan/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cua-viet-nam-tang-vuot-bac-
629395/, truy cập ngày 23/10/2021.
11
TT Y TẾ QUẬN 4, http://trungtamytequan4.medinet.gov.vn/chuyen-muc/bao-dong-ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-cua-viet-
nam-cao-top-3-the-gioi-cmobile14232-35548.aspx, truy cập ngày 23/10/2021.
12
Lao động và xã hội, http://laodongxahoi.net/mot-so-giai-phap-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-
trong-boi-canh-hoi-nhap-1304507.html, truy cập ngày 23/10/2021.

38
cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam ngày nay. Những thực trạng và
nguyên nhân đưa ra sẽ giúp Chính phủ Việt Nam thực hiện những Chính
sách phù hợp, có hiệu quả nhất cho sự phát triển đất nước.
Nhà nước và con người là hai vấn đề rộng với nhiều vấn đề nghiên cứu
xoay quanh nhưng do thời gian và kinh ngiệm có hạn nên bài làm của
nhóm không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Chúng em mong nhận
được sự thông cảm, sửa chữa và đóng góp từ thầy để bài tiểu luận được
hoàn thiện hơn.

39

You might also like