You are on page 1of 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BỘ MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tiểu luận cuối kỳ
***

LÍ LUẬN CUA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN


VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .
LIÊN HỆ THỰC TIỄN

MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_21_1_20CLC


GVHD: TRẦN VĂN CHUNG
THỰC HIỆN: NHÓM SAINT SIMON
HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC: 2021 – 2022

Tp. Thủ Đức, tháng 05, năm 2022


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm: Saint Simon (Lớp: LLCT130105_21_1_20CLC)
Tên đề tài: Lí luận chủ nghĩa Mac-Lenin về nhà nước xã hội chủ nghĩa .
Liên hệ thực tiễn .

STT HỌ VÀ TÊN MSSV % HOÀN THÀNH


1 Mai Văn Thiện 21161364 100 %
2 Lâm Đức Quan 21116351 100 %
3 Nguyễn Vĩnh Hưng 21116056 100 %
4 Nguyễn Lê Ngọc Quyến 21161356 100 %
5 Võ Nguyễn Minh Tiến 21161086 100 %
6 Huỳnh Văn Tài 21161512 100 %
7 Lại Văn Tài 21161357 100 %
8 Ngô Ngọc Sơn 21146510 100 %
9 Lê Thái Quốc Thắng 21161362 100 %
10 Nguyễn Thiên Thức 21116368 100 %

Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Mai Văn Thiện SĐT: 0867927383
Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

TP. Thủ Đức, ngày…, tháng…, năm 2021


Chữ ký xác nhận của giảng viên
A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn, quan trọng, nội dung
rất rộng lớn, phong phú và rất phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau vì thế
đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, công phu và tổng kết thực
tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư
cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết, chủ nghĩa xã hội là một phong trào,
chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau,
tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ
nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác
- Lênin trong thời đại ngày nay. Trước những thay đổi lớn của nền chính trị thế
giới, đó là sự sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên bang Xô Viết, đòi hỏi
chúng ta phải có nhận thức đúng đắn các quan điểm của triết học Mác – Lênin,
trong đó là các vấn đề nhận thức nhà nước và pháp luật. Ngày nay, sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật và những thành tựu đã làm cho sự phát triển các cá nhân
một cách toàn diện và tất yếu theo như dự đoán của Các Mác, từ đó Nhà nước
hướng tới các hoạt động vào các lĩnh vực đời sống xã hội, vì đó là sự phát triển
của con người. Do đó, vấn đề chức năng xã hội của nhà nước đang trở thành đối
tượng nghiên cứu của các lĩnh vực khoa học. Từ thực trạng đó, vấn đề nhà nước
xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt yếu và cần nghiên cứu một cách có hệ thống, góp
phần bổ sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện nhà nước
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Vì thế, chúng em chọn đề tài: “ Lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ thực tiễn”
2.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời liên hệ thực tế của
nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Để đạt được mục tiêu trên của bài tiểu luận cần tập trung giải quyết các vấn đề
sau:
Trình bài nhà nước xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin.

1
Sau đó, liên hệ thực tiễn nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Khi nghiên cứu về đề tài này , chúng em đã tập chung nghiên cứ về
nhà nước xã hội chủ nghĩa . Làm rõ khái niệm và các đặc điểm , nguyên nhân và
bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa . Để từ đó nhóm liên hệ trực tiếp đến
việc hình thành và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và các nước
xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tiêu biểu là Trung Quốc, Ấn Độ, Lào.

2
B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện
cho nhân dân quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để
thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý toàn diện cần lập ra một bộ máy nhà
nước. Xuất phát từ bản chất của nhà nước, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có
những đặc điểm sau:
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung thống nhất quyền lực. Tính thống nhất quyền lực xuất phát từ quan điểm:
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua các cơ quan đại diện, mà trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của đất nước.
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Việc phân công này nhằm mục đích phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn giữa các cơ quan nhà nước, khắc phục sự chồng chéo về quyền hạn của các
bộ phận khác nhau trong cơ cấu bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có chức năng thống nhất quản lý các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện chức năng này, nhà nước thiết lập ra
các cơ quan nhà nước. Có thể phân chia các cơ quan trong bộ máy nhà nước
theo nhiều cách khác nhau:
- Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì
cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.

3
- Xét theo trình tự thành lập thì cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được
chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân) và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra (như nguyên thủ quốc
gia do cơ quan quyền lực nhà nước bầu ra).
- Xét theo tính chất thẩm quyền thì phân cơ quan nhà nước xã hội chủ
nghĩa thành cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền riêng.
- Xét theo cấp độ thẩm quyền của cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa
được chia thành cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan nhà nước ở địa
phương.
-Tuy nhiên, thông thường thì các cơ quan nhà nước được phân chia theo
tính chất công việc được đảm nhiệm. Theo cách phân chia này, bộ máy nhà
nước gồm cơ quan quyền lực nhà nước; chủ tịch nước, cơ quan quản lý nhà
nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát.

1.2 Nguyên nhân của sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Tính tất yếu lịch sử
- Chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định rằng, Cách mạng vô sản và sự ra đời
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu lịch sử. Tính tất yếu này được quy định
bới những mâu thuẫn nội tại phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính
trong lòng xã hội tư bản đã chứa đựng các yếu rố làm tiền đề cho sự ra đời của
nhà nước xã hội chủ nghĩa: tiền đề về kinh tế , chính trị và xã hội.
a. Những tiền đề về kinh tế
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã làm cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tỏ ra bất lực trong việc giải
quyết các vấn đề kinh tế và cứu vãn nền kinh tế. Để bảo vệ sở hữu tư nhân của
các nhà tư sản và để thu được nhiều giá trị thặng dư giai cấp tư sản đã ra sức duy
trì các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa theo kiểu truyền thống, chính vì thế nó
càng thúc đẩy mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Với sự
tập trung tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao,
4
công nhân gia tăng về mặt số lượng với trình độ tay nghề cao. Lực lượng sản
xuất ở trình độ cao này đòi hỏi phải có sự cải biến về quan hệ sản xuất cho phù
hợp, sự cải biến này phải được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội,
cuộc cách mạng này tất yếu dẫn đến sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu
nhà nước mới Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
b. Tiền đề về xã hội
- Đặc điểm của quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định đặc điểm của nhà
nước. Với đặc điểm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư tối đa đã quy định bản chất của nhà
nước tư sản là nhà nước chuyên chính tư sản.
- Sự tích luỹ và tập trung tư bản đã đẩy phần đông giai cấp công nhân
đi vào con đường bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa lao động làm thuê và tư bản
ngày càng trở nên gay gắt, sự bất công trong xã hội cùng với những chính
sách phản động, phản dân chủ đã đưa xã hội tư bản tới sự phân chia sâu sắc.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với nền đại công nghiệp đã làm tăng
đội ngũ công nhân lên đông đảo. Đội ngũ này không chỉ đông về số lượng mà
còn phát triển cả về chất lượng và thêm vào đó là tính tổ chức kỷ luật cao do nền
sản xuất công nghiệp tạo thành. Chính điều này đã làm cho giai cấp công nhân
trở thành giai cấp tiên tiến trong xã hội và có vai trò lịch sử của mình là phải
đứng lên lãnh đạo cách mạng vô sản, thủ tiêu nhà nước tư sản, thiết lập nhà
nước của mình.
c. Tiền đề tư tưởng chính trị
- Giai cấp công nhân có vũ khí tư tưởng và lý luận sắc bén là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn
các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân tổ chức và tiến
hành cách mạng, xây dựng nhà nước và xã hội của mình.
- Trong cuộc đấu tranh này hạt nhân lãnh đạo thuộc về các đảng cộng
sản là đội quân tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo phong trào cách mạng

5
của quần chúng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của
cách mạng vô sản.
- Ngoài những tiền đề về kinh tế xã hội, tư tưởng, chính trị chung của
cả thế giới, ở mỗi nước với đặc thù riêng của mình có những yếu tố ảnh hưởng
đến cách mạng vô sản. Vì thế, ở những quốc gia khác nhau, cách mạng vô sản
diễn ra ở những thời điểm khác nhau là không hoàn toàn giống nhau về hình
thức. Cách mạng vô sản diễn ra nhanh hay chậm là do nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến, đó là những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng và yếu tố thời
đại, yếu tố dân tộc…
1.2.2. Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Những tiền đề về kinh tế, chính trị và tư tưởng mới là những nguyên
nhân dẫn đến cuộc cách mạng vô sản. Nhưng cách mạng vô sản nổ ra như thế
nào hay nói cách khác là giai cấp vô sản sẽ tiến hành cách mạng vô sản như thế
nào để đưa cách mạng đến thành công lại là một vấn đề khác.
- Về vấn đề này Lênin nhận định: “Vấn đề của mọi cuộc cách mạng là
vấn đề chính quyền”. Mục đích của giai cấp vô sản là sau khi làm cách mạng vô
sản lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản thì thiết lập luôn nhà nước của mình,
nhà nước của giai cấp vô sản.
- Trên thực tế giai cấp thống trị không bao giờ tự nguyện dời bỏ địa vị
thống trị của mình cùng với những đặc quyền, đặc lợi mà mình đang chiếm giữ,
vì vậy giai cấp vô sản muốn lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chính quyền vô
sản thì buộc phải thông qua con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng
có thể là khởi nghĩa vũ trang, cũng có thể là khởi nghĩa vũ trang kết hợp với đấu
tranh chính trị.
- Về bản chất, cách mạng vô sản phải khác hẳn với các cuộc cách
mạng trước đó. Nếu các cuộc cách mạng trước làm hoàn thiện bộ máy nhà nước
của giai cấp thống trị là thiểu số trong xã hội thì cách mạng vô sản phải đập tan
bộ máy nhà nước cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới của đông đảo nhân dân lao
động trong xã hội. Nhận thức về vấn đề này, Đảng ta ngay từ Hội nghị trung
ương lần thứ VIII (năm 1941) đã xác định: ”Cách mạng Việt Nam muốn dành
6
được thắng lợi thì nhất thiết phải vũ trang khởi nghĩa dành chính quyền và sau
khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ cách mạng
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính phủ của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà do quốc dân đại hội cử lên”.
Về vấn đề phá bỏ bộ máy nhà nước cũ sau khi giành chính quyền:
- Cần thiết phải thủ tiêu ngay bộ máy quân sự quan liêu bao gồm
những công cụ bạo lực của nhà nước tư sản cũ như quân đội, cảnh sát, nhà tù,
toà án, viện kiểm sát cùng với bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa
phương và đồng thời ngăn cấm hoạt động của các tổ chức phản động khác là chỗ
dựa cho chính quyền tư sản cũ.
- Xoá bỏ những chế định pháp luật không còn phù hợp, bảo vệ lợi ích
cho giai cấp tư sản.
- Cùng với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước tư sản phải chú ý phân biệt bộ
máy hành chính quân sự quan liêu với những tổ chức và cơ sở thực hiện chức
năng xã hội như: ngân hàng, bưu điện, bệnh viện… và các chế định pháp luật
xuất phát từ bản chất xã hội hoặc do nhượng bộ giai cấp vô sản như: quyền bình
đẳng công dân trước pháp luật, chế định quyền bào chữa, chế định xét xử độc
lập chỉ tuân theo pháp luật của toà án.
- Song song với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước và pháp luật tư sản thì
giai cấp vô sản phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và
pháp luật của giai cấp mình để bảo vệ thành quả mà giai cấp mình vừa dành
được. Trấn áp sự phản kháng của giai cấp thống tị vừa bị lật đổ cùng những
phần tử phản cách mạng khác.
1.3 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất các kiểu nhà nước
bóc lột trong lịch sử.Tính ưu về về mặt bản chất của nhà xã hội chủ nghĩa được
thể hiện trên các phương diện:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp
công nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân
7
dân lao động.Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa
vị thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác
biệt về cất so với sự thống trị của giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị giai
cấp bóc lột là sự thống trị của tiểu số đối với tất cả giai cấp, tầng lớp nhân dân
lao động trong xã hội nằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về
chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp
bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân
dân lao động trong xã hội. Do đó, nà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí
chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế,bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định
của cơ sở kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu
sản xuất chủ yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất
cả các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng nghĩa của
nó, nghĩa là bộ máycủa thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao
động bị áp bức, bóc lột, thì nhà nước chủ nghĩa xã hội vừa là một bộ máy chính
trị- hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế-xã
hội của nhân dân lao động, nó không cònlà nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là
“nửa nhà nước”.Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở
hành mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa,tiên
tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự
phân hóa giữa các cấp, các tầng từng bước được thu hẹp, các giai cấp, các tầng
lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.

1.4. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa


Tùy chọn theo góc độ cận,chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
được chia thành các chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
8
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, ...
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và
xây dựng).

Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên thực hiện các
chức năng của nhà nước cũng có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó. Đối
với các nhà nước bóc tách lột, nhà nước của thiểu số thống trị đối với đa số nhân
dân lao động, nên việc thực hiện chức năng trấn áp đóng vai trò quyết định trong
việc duy trì giai cấp nắm quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội.Còn trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn còn chức năng trấn áp,
nhưng đó là bộ máy giai cấp công và nhân dân lao động tổ chức để trấn áp giai
cấp bóc lột đã bị lật đổ và các phần tử chống đối để bảo vệ thành quả cách
mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mặc dù trong thời kỳ quá độ, sự trấn áp vẫn tồn tại như một tất yếu,
nhưng đó là sự thật trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiếu số bóc lột.
V.I.Lênin khẳng định: “Bất cứ nhà nào nước nào cũng có nghĩa là dùng bạo
lực;nhưng toàn bộ sự khác nhau ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc
lột hay đối với những kẻ đi bóc lột ". Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản," cơ quan đặc biệt,bộ máy đặc biệt là “nhà nước”
vẫn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo
đúng nghĩa của nó nữa ”..
V.I. Lenin cho rằng, giai đoạn vô sản sau khi được chính quyền, xác lập địa vị
thống trị cho đại đa số nhân dân lao động, thì vấn đề quan trọng không chỉ là
trấn áp lại phản kháng của giai cấp bóc lột, mà điều quan trọng hơn cả là chính
quyền mới được tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ, nhờ
đó mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các cấp, tầng lớp nhân dân lao
động. Vì vậy, vấn đề quản lý và xây dựng kinh tế là then chốt, quyết định. Nhà
9
nước xã hội chủ nghĩa “không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng
không phải là chủ yếu là bạo lực.Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái
bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là công việc cấp vô sản đưa ra được
và thực hiện được kiểu tổ chức loại lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư
bản.Đấy là thực chất của vấn đề.Đấy là nguồn sức mạnh,là điều kiện đảm bảo
thắng lợi hoàn toàn và tất nhiieen của chủ nghĩa cộng sản".
Cải tạo cũ xã hội, xây dựng thành công hội xã mới là nội dung chủ yếu và mục
đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại,
nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi
nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ
thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một
tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong đó công
việc tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.

10
CHƯƠNG II : LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1 . Liên hệ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới
2.1.1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Lào
Vào ngày 2 tháng 12 năm 1975, sau khi nắm quyền kiểm soát đất nước,
chính phủ Pathet dưới quyền Kaysone Phomvihane đổi tên nước thành Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, đưa nhân dân Lào đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
1. Định hướng XHCN ở Lào

Đại hội IV (1986) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đánh giá lại
tình hình thực tiễn của đất nước và đề ra phương hướng nhiệm vụ nền tảng đối
với việc đổi mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới của thế giới.
Tại Trung ương 7 khóa IV (1989), Chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản đã nhấn
mạnh: “Việc xây dựng CNXH yêu cầu phải suy nghĩ một cách toàn diện, đầy đủ
về tình hình thực tiễn về kinh tế - xã hội và chính trị xuất hiện ở các nước nhất
định và trong từng giai đoạn phát triển nhất định của nó... việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta (nước Lào) là một quá trình lâu dài thông qua việc xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng các yếu tố để tiến lên
chủ nghĩa xã hội”.

Từ đó, các kỳ Đại hội của Đảng, đặc biệt là Đại hội X của Đảng năm
2016 đã đánh giá một cách toàn diện quá trình đổi mới trong 30 năm qua (1986-
2016) và khẳng định sự quyết tâm tiếp tục đưa đất nước tiến lên mục tiêu CNXH
với khẩu hiệu “Nâng cao năng lực lãnh đạo và tính tiên phong của Đảng, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, kiên định đường lối đổi mới toàn diện, có nguyên
tắc, giữ gìn và phát triển đất nước theo hướng bền vững tiến tới mục tiêu xã hội
chủ nghĩa”.

2. Một số thành tựu của quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở
Lào trong thời gian qua

11
Lào có những đặc điểm khác với các nước xã hội chủ nghĩa khác là nền
kinh tế phát triển thấp, dựa vào nền nông nghiệp làm nền tảng cho phát triển
công nghiệp, nhưng công nghiệp lại có cơ cấu non trẻ. Chính vì vậy, việc trực
tiếp xây dựng công nghiệp khoa học còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Lào vẫn
kiên định vững chắc phát triển đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa , đi theo
tư tưởng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hản.

Với mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, Lào đã và
đang tạo điều kiện để đảm bảo ổn định chính trị, đảm bảo an ninh và trật tự an
toàn xã hội; xây dựng xã hội đoàn kết, hòa thuận, dân chủ, công bằng văn minh;
tạo tăng trưởng kinh tế có chất lượng bằng hình thức cấu trúc kinh tế mới trong
từng bộ ngành và địa phương; giải quyết có hiệu quả các khó khăn về tài chính-
tiền tệ, nợ công, loại bỏ rủi ro dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế bằng việc
đảm bảo các yếu tố cần thiết cho việc phát triển kinh tế-xã hội một cách liên tục;
phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế ở mức từ 4%/năm trở lên.

Đồng thời, Lào cũng tập trung phát triển nguồn nhân lực đảm bảo chất
lượng để làm yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, phát triển nông thôn và
giải quyết khó khăn của người dân để có chất lượng cuộc sống tốt hơn; nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế cho người dân, đảm bảo khả năng thực tế trong việc
phòng chống hoặc đối phó dịch bệnh và các tình huống y tế khẩn cấp; phát triển
nền kinh tế sạch và thân thiện với môi trường, gìn giữ và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên hợp lý, vững bền, tiết kiệm và có hiệu quả cao; tăng cường hợp tác
với các nước bạn bè và đối tác phát triển với nhiều hình thức, theo nguyên tắc
mỗi bên cùng có lợi, chủ động tham gia quá trình kết nối hội nhập rộng rãi với
khu vực và quốc tế…

3. Những tồn tại, thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào

Một là, nhận thức và hiểu biết đối với đường lối đổi mới của Đảng chưa
sâu sắc, nhất là khâu đột phá theo tinh thần Đại hội IX của Đảng đã đề ra 4 khâu

12
đột phá, việc cụ thể hóa Nghị quyết thành kế hoạch, dự án phù hợp với năng lực
và tiềm năng nhằm mang lợi ích cho nhân dân còn chậm.

Hai là, nền kinh tế có sự tăng trưởng, nhưng cơ sở chưa vững chắc, nền
kinh tế vĩ mô chưa cân đối, còn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và xuất
khẩu thô là chủ yếu, không thể tạo giá trị tăng thêm từ sản phẩm, trong nhiều
trường hợp còn chưa đi theo hướng bền vững và giữ gìn môi trường. Cơ cấu
kinh tế tuy có sự biến đổi, nhưng việc vận dụng khoa học, kỹ thuật - công nghệ
vào sản xuất còn hạn chế, làm cho năng suất thấp; việc tạo nền tảng cho việc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong lĩnh vực nông nghiệp còn chậm.

Ba là, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật chưa
nghiêm, còn có tình trạng lợi dụng và vi phạm pháp luật cũng như tham nhũng
với nhiều hình thức và nhiều cấp độ khác nhau. Bên cạnh đó việc phối hợp giữa
các ngành cũng như địa phương để giải quyết vấn đề xảy ra, giải quyết những vụ
án, các tranh chấp còn chưa hài hòa và chưa dứt khoát, nghiêm ngặt.

Bốn là, việc tuyên truyền giáo dục và tổ chức thực hiện đường lối quốc
phòng, an ninh toàn diện của Đảng ở cơ sở chưa làm được tốt, làm cho công tác
an ninh ở một số vùng chưa vững chắc; sự phối hợp giữa Trung ương và địa
phương trong việc quản lý người nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế chưa
làm được tốt...

4. Một số xu hướng phát triển trong tương lai của Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào

Chúng ta biết, việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã có nhiều
mô hình khác nhau. Nhưng việc thực hiện mô hình nào đó là phụ thuộc đặc
trưng và hoàn cảnh của mỗi nước; phụ thuộc sự sáng tạo của việc vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin và bài học của các nước. Để tiếp tục xây dựng và phát triển
nhà nước dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, Đảng Lào đưa ra
một số phương hướng sau:

13
Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hản;
xây dựng và chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh và vững
chắc, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và nắm quyền của Đảng trong điều
kiện mới. Kiên định theo lời dạy của Hồ Chí Minh: “Chỉ có sự lãnh đạo của
một Đảng biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của
mình một cách sáng tạo mới có thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi
tới thắng lợi và cách mạng XHCN thành công”.

Hai là, tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình
thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức sản xuất bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh minh bạch trước pháp luật. Đồng thời, Nhà nước phải đóng vai trò định
hướng, chính sách, cơ chế, thể chế để trở thành công cụ điều tiết kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi để làm cho nền kinh tế hoạt động theo quy luật
khách quan một cách đầy đủ, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong
từng giai đoạn, vừa hội nhập với khu vực và quốc tế, đảm bảo cho quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Ba là, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý nhà nước,
quản lý xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ trong xã hội. Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, sinh sống và hoạt động theo pháp luật một cách
nghiêm ngặt; điều tiết lợi ích của thành viên trong xã hội một cách hài hòa, xây
dựng nhà nước vững mạnh đảm bảo sự bình đẳng trong xã hội. Nhà nước và cán
bộ của nhà nước phải phấn đấu thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng đắn và đầy đủ
đối với công dân và công dân cũng phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà
nước một cách đúng đắn và đầy đủ.

Bốn là, tăng cường đoàn kết hài hòa giữa các bộ tộc, giữa các tầng lớp và
kiều bào sinh sống ở nước ngoài có tinh thần yêu nước, đồng thuận với chế độ
dân chủ nhằm xây dựng cộng đồng dân tộc cho vững mạnh, có sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do tin hoặc không tin tôn giáo
cũng như hoạt động xã hội khác theo pháp luật và các quy định, nhằm đảm bảo
14
xây dựng xã hội đoàn kết hài hòa, dân chủ, bình đẳng và văn minh. Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Năm là, kiên định xuyên suốt đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, hữu
nghị và hợp tác; thúc đẩy hợp tác với nước ngoài với hình thức đa phương hóa,
đa dạng hóa, nhiều cấp độ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền lẫn nhau và
đôi bên cùng có lợi. Chính vì vậy, Chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản nhấn mạnh
“làm bạn với tất cả các nước, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nước ta, lập mối quan hệ toàn diện với các nước đó trên cơ sở nguyên tắc
bình đẳng, đôi bên cùng có lợi”.

2.1.2. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc

Đại tác chiến trong Nội chiến Trung Quốc kết thúc vào năm 1949 với kết
quả là Đảng Cộng sản kiểm soát hầu hết Trung Quốc đại lục, Quốc dân đảng rút
chạy ra ngoài khơi với lãnh thổ chỉ còn Đài Loan, Hải Nam và các đảo nhỏ.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc
là Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chính phủ Trung Quốc được mô tả là cộng sản và xã hội chủ nghĩa, song cũng
chuyên chế và xã đoàn, với những hạn chế nghiêm ngặt trong nhiều lĩnh vực,
đáng chú ý nhất là truy cập tự do Internet, tự do báo chí, tự do hội họp, quyền có
con, tự do hình thành các tổ chức xã hội và tự do tôn giáo.
Kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc đã phát
triển thành một nền kinh tế có mức độ đa dạng hóa cao và là một trong những
nước đóng vai trò quan trọng nhất trong thương mại quốc tế. Các lĩnh vực chính
của nền kinh tế Trung Quốc có sức mạnh cạnh tranh bao gồm sản xuất, bán
lẻ, khai khoáng, thép, dệt may, ô tô, năng lượng, năng lượng xanh, ngân
hàng, điện tử, viễn thông, bất động sản, thương mại điện tử và du lịch. Trung
Quốc có ba trong số mười sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất trên thế
giới gồm Thượng Hải, Hồng Kông và Thâm Quyến— ba sàn này có tổng giá

15
trị vốn hóa thị trường hơn 15,9 nghìn tỷ đô la, tính đến tháng 10 năm 2020.
Trung Quốc có bốn trong số mười trung tâm tài chính cạnh tranh nhất thế giới
(Thượng Hải, Hồng Kông, Bắc Kinh và Thâm Quyến), nhiều hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu năm 2020 .
Sau giai đoạn bùng nổ cơ sở hạ tầng kéo dài nhiều thập kỷ , Trung Quốc
đã xây dựng nên rất nhiều dự án cơ sở hạ tầng hàng đầu thế giới: Trung Quốc
hiện sở hữu mạng lưới tàu cao tốc lớn nhất thế giới, có số lượng tòa nhà chọc
trời nhiều nhất trên thế giới, có nhà máy điện lớn nhất thế giới (đập Tam Hiệp),
cùng với một hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu riêng với số lượng vệ tinh lớn
nhất trên thế giới. Trung Quốc đã khởi xướng Sáng kiến Vành đai và Con
đường, một sáng kiến xây dựng cơ sở hạ tầng toàn cầu lớn với số tiền tài trợ từ
50–100 tỷ USD mỗi năm. Sáng kiến Vành đai và Con đường có thể là một trong
những kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng lớn nhất trong lịch sử hiện đại.
Từ năm 2000, Trung Quốc đã chuyển từ phát triển chiều rộng sang
chiều sâu, chú trọng việc nghiên cứu tạo ra các thành tựu khoa học kỹ thuật mới
thay vì sao chép của nước ngoài, nhằm biến Trung Quốc từ một "công xưởng
của thế giới" thành một "nhà máy của tri thức". Trung Quốc đã đầu tư lượng lớn
tiền cho sản phẩm công nghệ cao như ô tô điện, sản phẩm bán dẫn, công nghệ
smartphone… Điều này đã được ghi rõ trong kế hoạch "Made in China
2025" của Trung Quốc. Các chuyên gia cho rằng khi bị Mỹ gây sức ép, Trung
Quốc có thể sẽ tập hợp các hãng nội địa vào một cơ chế hợp tác ở cấp độ cao
hơn và phát triển công nghệ mới để đẩy nhanh tiến bộ công nghệ của họ
Trung Quốc hiện được gọi là "công xưởng của thế giới", lý do là vì nhân
công giá rẻ tại Trung Quốc đã thu hút một lượng lớn đầu tư từ các nước phát
triển. Theo phân tích năm 2018, khi tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại thì
phần còn lại của thế giới cũng sẽ chậm theo.
2.1.3. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Ấn Độ

Ấn Độ có nhiều giá trị xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong suốt chiều dài
lịch sử và vẫn tồn tại trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Lịch sử sơ khai và
16
hiện đại của Ấn Độ cũng tồn tại và nuôi dưỡng những yếu tố này của chủ nghĩa
xã hội, nhưng dường như theo những cách khác. Xã hội hóa kinh tế và dân chủ
hóa chính trị của Ấn Độ ngày nay có thể được coi là những nhân tố xã hội chủ
nghĩa thúc đẩy sự phát triển của đất nước đạt tiêu chuẩn nhanh, nhân văn và bền
vững. Con đường phát triển của Ấn Độ vẫn còn nhiều trở ngại, nhưng với những
di sản để lại, với những nỗ lực cải cách hiện nay, tin rằng những yếu tố tích cực
này sẽ ngày càng gia tăng. Quá trình phát triển được hình thành bởi các quá
trình kinh tế và xã hội, từ lịch sử và hiện tại của một quốc gia. gia đình; Nếu
hiểu chủ nghĩa xã hội là triển vọng về một xã hội đang trong quá trình phát triển
bao gồm nhiều yếu tố và xu hướng phát triển khác nhau và được hình thành từ
các quá trình kinh tế, xã hội, từ lịch sử và hiện tại của một quốc gia;
Nếu hiểu chủ nghĩa xã hội là công bằng, bình đẳng, dân chủ, tự do, độc
lập, hòa bình ... là những giá trị, quan niệm đã được định sẵn trong tâm trí,
nguyện vọng của nhân dân từ lâu trong lịch sử của một dân tộc;
Nếu chúng ta hiểu rằng những xu hướng và giá trị này vẫn tiếp tục đến ngày nay
và được hỗ trợ thêm bởi các yếu tố mới của phát triển hiện đại, chẳng hạn như
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngày càng xã hội hóa, nền chính trị ngày
càng dân chủ hóa và nỗ lực tham gia vào toàn cầu hóa, thì ý thức trách nhiệm
của quốc gia đối với hòa bình Phát triển ổn định và chung với các nước trong
khu vực và trên thế giới;
Ấn Độ là một trường hợp điển hình về các nhân tố xã hội chủ nghĩa
trong lịch sử và hiện tại. Điều này cũng đã được đề xuất và truyền cảm hứng từ
các nhà tư tưởng lớn như Marx thông qua nghiên cứu về ảnh hưởng kép của chế
độ thực dân Anh trước đây đối với Ấn Độ; thông qua nghiên cứu sâu sắc và lòng
nhiệt thành của Hồ Chí Minh đối với chính phủ và nhân dân Ấn Độ ...
2.1.3.1. Những tiền đề lịch sử và đương đại của chủ nghĩa xã hội ở Ấn Độ
Thứ nhất, những tiền đề lịch sử :Phương thức sản xuất châu Á ở Ấn Độ
C.Mác đã cho thấy ngay tất yếu chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm là con người
xã hội, Mác đã chứng minh sự cần thiết của việc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong
nền sản xuất và quản lý xã hội ngày càng xã hội hóa của “phương thức sản xuất
17
châu Á” - Ấn Độ là một trường hợp điển hình của C.Mác. thời gian đó khái
niệm phát triển cộng đồng dựa trên hệ thống đất đai phi tư nhân hoặc công cộng
khá trì trệ. Trong phương thức sản xuất nhỏ lạc hậu, sở hữu công cộng về ruộng
đất có thể là nhân tố hạn chế chủ yếu, hạn chế sự phát triển của năng suất xã hội
nông nghiệp. Nhưng bản thân Mác đã nhìn thấy ở đây tiền đề kinh tế của việc
rút ngắn quá trình phát triển và đi lên xã hội cộng đồng, từ sở hữu truyền thống
sang quá trình phát triển mới dựa trên bản chất của xã hội cộng đồng.
Quyền sở hữu chung về đất đai trong các cộng đồng nông thôn ở Ấn
Độ nên được coi là một nhân tố tạo điều kiện cho việc hình thành và định vị chủ
nghĩa xã hội. Sau những tác động từ công nghiệp hóa của Anh, từ khi giành độc
lập, các cuộc “cách mạng xanh” trong trồng trọt, “cách mạng trắng” trong chăn
nuôi vào những năm 60 - 80 thế kỷ XX ở Ấn Độ có lẽ vừa tiếp nối vừa bổ sung,
và làm nảy nở thêm nhân tố xã hội hóa ấy. Nó đã bù đắp cho sự thiếu hụt của
phương thức cổ truyền là trình độ sản xuất lớn, bằng cách ứng dụng khoa học và
công nghệ trong nông nghiệp.
Công xã nông thôn và dân chủ kiểu phương Tây
Những manh nha của dân chủ ở Ấn Độ đã được hình thành lâu đời, từ các công
xã nông thôn vẫn tồn tại đến ngày nay. Chắc chắn là có không ít những giá trị
của thời cổ đại có thể đồng hành với nền dân chủ hiện đại.
Vào thời cận đại, dân chủ kiểu phương Tây đã sớm đến với xã hội Ấn
Độ, nhưng chính cuộc xâm lược của thực dân Anh đã vượt qua “vòng xoáy lịch
sử”. Người Anh đã mang vào một số yếu tố của nền văn minh, nhưng qua nền
dân chủ phương Tây, nền dân chủ đại diện, họ dần đánh mất cơ chế dân chủ trực
tiếp của công xã nông thôn ở Ấn Độ. Do đó, ý chí cá nhân hoặc "tiếng nói" của
các thành viên được trừu tượng hóa khỏi sự đại diện. Trong một xã hội mà giai
cấp và thứ bậc xã hội vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề, thì liệu giai cấp pariya có
còn tiếng nói và vị trí công bằng trong việc xây dựng nền dân chủ hay không?
Chỉ có thực tiễn của Ấn Độ mới có thể trả lời chính xác câu hỏi này.
Những giá trị nền tảng của Ấn Độ giáo, Phật giáo tương đồng với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa . Các giá trị về công bằng, bình đẳng, vị tha, hữu ái,
18
khoan hồng với đồng loại và hòa bình ở các tôn giáo tối cổ của Ấn Độ, có nhiều
điểm tương đồng với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Cái đặc thù của tư tưởng cổ truyền Ấn Độ là tư tưởng vô ngã, vong ngã.
Một tư tưởng có nguồn gốc từ tôn giáo tối cổ của Ấn Độ - Upanisahd: “Sông đổ
vào biển và mất cả tên, cả hình thể, nhà hiền triết cũng vậy, bỏ được cái tên và
hình thể rồi nhập vào Thượng đế, vượt lên trên tất cả!”. Đây là khác biệt sâu sắc
khi so sánh tư tưởng Ấn Độ với tư tưởng phương Tây, như nhận xét của Will
Durant: “Người phương Tây, từ tôn giáo tới các chế độ chính trị kinh tế đều
thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân”. Tư tưởng quên đi cái tôi, làm mất đi cái tôi, hòa
cùng vạn vật, không hẳn là tư tưởng xã hội chủ nghĩa , nhưng nó là sự khác biệt
với xu thế tôn thờ bản ngã của triết lý phổ biến ở phương Tây, nó đối lập với
chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Khác với một số tôn giáo mang tính quốc tế mà sự xâm thực của nó tới
các miền đất mới thường đồng hành cùng bạo lực xâm lược. Phật giáo là tôn
giáo của hòa bình. Cách mà Phật giáo đến với nhiều quốc gia Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam, là thông qua bước chân truyền đạo của những vị chân sư
một lòng “hoằng dương Phật pháp” hay qua những chuyến tàu buôn hải hồ của
thương lái khi xưa... Đúng như nhận định của Will Durant: “Đạo Phật lan tràn
khắp Ấn Độ và bắt đầu xâm chiếm châu Á một cách hòa bình... từ Kady ở đảo
Tích lan, tới Kamacura ở Nhật Bản, nét mặt an tĩnh của Đức Thích ca còn gợi
cho người ta khoan hồng với đồng loại và yêu mến hòa bình”.
Thứ hai, những tiền đề hiện tại nảy sinh trong quá trình phát triển
Khát vọng độc lập dân tộc
Anh đã xâm lược và biến Ấn Độ thành thuộc địa trong quãng thời gian dài và
coi như một sở hữu của mình với cái tên “British India” (Ấn Độ thuộc Anh).
Người Anh bằng mọi cách để duy trì sự thống trị của mình. Hiển nhiên, nhân
dân Ấn Độ không chịu khuất phục. Rất nhiều cuộc đấu tranh vì độc lập đã nổ ra,
và hầu như không có vĩ nhân thời cận đại hay hiện đại của Ấn Độ mà không
phải là những con người xả thân vì lý tưởng giải phóng, độc lập. Mohandas
Karamchand Gandhi (1869 - 1848) là một ví dụ điển hình. Tận hiến cho sự
19
nghiệp độc lập và phát triển Ấn Độ, ông xứng đáng với sự suy tôn của nhân dân
là Thánh Găng đi (Mahatma Gandhi). R.Tagore từng ngợi ca về ông - con người
mà “Sự tôn xưng của nhân dân đã thành tên thực”.
Hai xung lực khác hướng: một là từ sự áp đặt của chủ nghĩa thực
dân, một là từ khát vọng giải phóng và độc lập của dân tộc Ấn Độ đã tạo ra tất
yếu chính trị mà sau này, nhà tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát hiện: “Sự tàn bạo
của chủ nghĩa đế quốc đã chuẩn bị sẵn mảnh đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn
phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng mà thôi”.
Với cái nhìn duy vật biện chứng về lịch sử, cũng cần thấy tác động
thúc đẩy của kiểu công nghiệp hóa thực dân mà người Anh mang vào Ấn Độ.
Anh đã xây dựng ở Ấn Độ hệ thống đường sắt rộng rãi, gần khắp cả nước và
một vài ngành công nghiệp, chủ yếu là bông vải, để Ấn Độ có thể xuất khẩu và
chiếm vị thế nhất định trên thị trường thế giới. Người Anh cũng xây dựng một
hệ thống hành chính và công chức với những thủ tục hành chính khá hiện đại.
So với Trung Quốc ở cùng thời điểm, Ấn Độ có trình độ công nghiệp hóa và
quản lý xã hội tiên tiến hơn nhiều. Đó là cơ sở kinh tế kỹ thuật cho Ấn Độ có
khả năng phát triển sau khi tuyên bố độc lập vào năm 1947.
Sự phát triển của Ấn Độ đương đại chứa đựng nhiều nhân tố tích cực
Về chính trị,Ấn Độ theo chế độ dân chủ đa đảng kiểu phương Tây, với những
sinh hoạt chính trị sống động gần như thành truyền thống và một thể chế nhà
nước tương đối vững chắc và ổn định. Từ khi Hiến pháp năm 1950 ra đời, Ấn
Độ trở thành một nước cộng hòa dân chủ đa nguyên, có Quốc hội lập hiến, tòa
án tối cao và một nền báo chí độc lập cao độ. Ngày nay, mọi vấn đề của bộ máy
công quyền hoặc những vấn đề chính trị - xã hội đều được báo chí Ấn Độ đưa ra
công luận. Chế độ dân chủ và liên bang phản ánh thực trạng có nhiều lực lượng
và quyền lợi khác nhau ở Ấn Độ, nó cũng là cơ chế thích hợp, đủ uyển chuyển
để hóa giải các mâu thuẫn trong sinh hoạt chính trị xã hội.
Đặc điểm của chính trị Ấn Độ là khá quan tâm đến người nghèo. Người
nghèo thường không có nhiều quyền chọn lựa ở nhiều quốc gia. Thế nhưng, tại
Ấn Độ - “nền dân chủ lớn nhất thế giới” (có lẽ trước tiên là vì số lượng người
20
được hưởng quyền dân chủ) thì người nghèo có thể bày tỏ ý kiến của mình trong
bầu cử thông qua lá phiếu của mình. Ngay từ những năm đầu tiên, khi đi bầu cử,
do đa số dân mù chữ nên các địa điểm bỏ phiếu phải dán ảnh các ứng cử viên để
dân xem ảnh để bầu. Cho dù nghèo đói, người dân ở đây nhận thức rõ ràng về
dân chủ. Họ biết bầu cho ai và bầu vì điều gì.
Khác với nhiều nước, coi cải cách là một đột biến trong đời sống chính
trị, các cải cách ở Ấn Độ đã “diễn ra như một thông lệ trong một định chế ổn
định và minh bạch, được mọi phe phái và nhân dân tôn trọng”. Dân chủ ở Ấn
Độ nhờ những thể chế và cơ chế thường xuyên điều chỉnh đó mà hoàn thiện dần.
Lý Quang Diệu coi đây như một lợi thế của Ấn Độ: “Hệ thống dân chủ và pháp
trị của Ấn Độ là một lợi thế lâu dài so với Trung Quốc, mặc dù ở những giai
đoạn đầu, Trung Quốc có lợi thế triển khai cải cách nhanh hơn”.
Về kinh tế, phần lớn giới lãnh đạo và trí thức Ấn Độ tin tưởng vào chủ
nghĩa xã hội (đặc biệt là ảnh hưởng từ quan niệm của Hội Fabian). Chính quyền
và nhân dân đã có nhiều nỗ lực cho cách tổ chức xã hội này.
Ấn Độ đã từng chịu ảnh hưởng của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ:
phát triển bằng kế hoạch hóa kinh tế với các kế hoạch 5 năm, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng thông qua các doanh nghiệp quốc doanh và sản xuất thay thế
hàng nhập khẩu. Trong cơ cấu kinh tế thì dành công nghiệp nặng cho doanh
nghiệp quốc doanh, và khuyến khích, bảo trợ các cơ sở sản xuất gia đình hay cá
thể trong nông nghiệp và tiểu công nghệ nhằm sản xuất hàng tiêu dùng và cung
cấp dịch vụ. Chính phủ cũng bằng nhiều cách để kiềm chế sự phát triển của các
doanh nghiệp tư sản, cụ thể là giới hạn địa điểm hoạt động, lĩnh vực và mức đầu
tư, áp dụng chính sách bảo hộ lao động khắt khe (chẳng hạn muốn sa thải một
công nhân phải xin phép chính quyền tiểu bang). Chính phủ còn hạn chế nhập
khẩu, cả hàng sản xuất lẫn hàng tiêu dùng, qua hệ thống giấy phép và thuế nhập
khẩu. Xuất khẩu thì nhằm vào thị trường các nước xã hội chủ nghĩa hay các
nước thế giới thứ ba. Chính phủ cũng triệt để giới hạn doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư trực tiếp hay mua doanh nghiệp Ấn Độ. Ngân hàng quốc doanh thì ưu
tiên phân phối tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Khu vực kinh tế gia
21
đình và cá thể tuy sử dụng nhiều lao động nhưng manh mún và năng suất rất
thấp, còn doanh nghiệp tư nhân thì ít và không đủ lực để cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Thêm vào đó, bộ máy hành chính khá nặng nề trong điều hành
nền kinh tế kế hoạch hóa đã từng làm cho môi trường kinh doanh ở Ấn Độ trước
đây ít tính cạnh tranh và sức sáng tạo.
Ba thập kỷ trước, Ấn Độ đã tiến hành cải cách theo hướng nền kinh tế thị
trường. Trong xu thế cải cách, đổi mới của chủ nghĩa xã hội hiện nay, chắc chắn
không ít những bài học kinh nghiệm phù hợp sẽ được Ấn Độ nghiên cứu và
tham chiếu.
Sự phát triển của Ấn Độ vài thập niên gần đây theo xu hướng hội nhập và
phát triển, cũng cho phép chúng ta tin tưởng vào một giai đoạn phát triển mới,
và qua đó, tích lũy những nhân tố cho một xã hội văn minh.
Công nghiệp hóa kiểu mới đang tích lũy những nhân tố xã hội hóa. Ấn Độ được
xem là nước công nghiệp mới, tăng trưởng GDP 5,8% liền trong hai thập kỷ,
xuất khẩu ra thế giới dầu mỏ, hàng dệt may, đồ trang sức kim hoàn, phần mềm,
sản phẩm công nghiệp, hóa chất, gia công đồ da... Ấn Độ hiện nay xếp thứ 11
trên thế giới về GDP, thứ ba về sức mua tương đương PPP. Cơ cấu kinh tế hợp
lý, dịch vụ 55% GDP, công nghiệp 26,3%, nông nghiệp 18,6%... Nhờ phát triển
vượt bậc về công nghệ thông tin, đến nay Ấn Độ được gọi là “văn phòng của thế
giới”; 7/15 công ty gia công phần mềm của thế giới đặt tại Ấn Độ. Nước này trở
thành cường quốc phần mềm thứ hai sau Hoa Kỳ, giải quyết việc làm cho 2,8
triệu người vào năm 2011, với thu nhập 100 tỷ USD, chiếm 7,5% GDP.
Nhiều thành quả của phát triển đã đến được với đa số nhân dân: 431
triệu người Ấn Độ đã thoát nghèo từ thập niên 80 thế kỷ trước. Mức lương ở Ấn
Độ đã tăng gấp đôi trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Dự báo tầng lớp trung lưu sẽ
là 580 triệu người vào năm 2030. Thị trường tiêu thụ của Ấn Độ hiện đứng thứ
11 nhưng dự báo sẽ lên thứ 5 vào năm 2030.
Cùng với vị thế trên trường quốc tế và tinh thần trách nhiệm của Ấn Độ
trong BRICS, người ta tin tưởng rằng thế kỷ XXI, Ấn Độ sẽ có vai trò to lớn và

22
tích cực trong một thế giới hòa bình và phát triển. Thậm chí có người còn cho
rằng: “Nếu Ấn Độ không trỗi dậy, châu Á sẽ bị nhấn chìm”.
2.1.3.2. Những vấn đề tồn tại cần được giải quyết
Ấn Độ đang phải đối diện với khá nhiều vấn đề thuộc về hạ tầng xã
hội. Tỷ lệ người nghèo cao, 30% dân số mù chữ. “Sự phân mảnh quốc gia” bởi
ngôn ngữ, tôn giáo(6) cùng xung đột tôn giáo. Tình trạng thiếu thốn và yếu kém
của cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng...
Chế độ đẳng cấp truyền thống là một vấn đề lớn và là trở ngại cho một
xã hội bình đẳng và bền vững. Zeng nhận xét: Trong cả nước, quan niệm về
đẳng cấp hầu như không suy yếu. Có thể mất nhiều thập kỷ hoặc nhiều thế kỷ
chuyển đổi dần dần để Ấn Độ đòi tự do khỏi chế độ thống trị giai cấp.
Niềm tin vào luân hồi và mong muốn thoát khỏi nó của các tín đồ, bất chấp khả
năng điều chỉnh khả năng duy trì đạo đức của người Ấn Độ trong nền kinh tế thị
trường - được nhiều người coi là xa xỉ. Nhưng mặt khác, những tư tưởng tôn
giáo này cũng làm giảm khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc, và nỗ lực vượt
lên thực tại và hội nhập.
Nhưng có lẽ, sau khi những vấn đề ngày nay được nhìn nhận và giải
quyết, đó sẽ là động lực để nhân dân Ấn Độ và những người có thiện chí vươn
lên vì một Ấn Độ mới, phát triển bền vững và bình.

2.2.Liên hệ thực tiển trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.1.Quá trình hình thành của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ngày 1/07/1920, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc rong rã gần 10 năm
trên đất khách đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc thoát khỏi cảnh thực dân
sau khi đọc tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa” của Lenin. Khi đọc xong bác phải thốt lên rằng “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau

23
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Sau hơn 25 năm kiên cường đấu tranh, 1 lòng tin tưởng vào đảng cộng
sản, quyết tâm đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/9 năm 1945 tại
quảng trường Ba Đình chủ tịch Hồ Chí Minh độc bản tuyên ngôn khai sinh nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ( Đổi thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt
Nam)
Đánh dấu đây là một móc son chói loại trong trông cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước, đánh dấu bước trưởng thành của dân tộc Việt Nam. Từ một dân tộc bị đô
hộ ngàn năm cho đến một nước Việt Nam độc lập tự chủ sách vai với các cường
quốc năm châu. Và để có được thành công rực rỡ trong công cuộc chiến vệ
quốc đưa đất nước đến nền độc lập tự chủ, dân chủ , văn minh. Dân tộc ta đã trãi
qua rất nhiều con đường khác nhau nhưng con đường đi lên chủ nghĩa xã hộ là
con đường hợp lí và đúng đắn để đua dân tộc Việt Nam thoát khỏi siềng xích nô
lệ để có thể phát triển như ngày hôm nay.
Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế
giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải
bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm
vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm
điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống
cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống
phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính
đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên
Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác-
Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng
chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa
với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một
chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy
24
không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ
nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã
chọn con đường đi sai không?
Nhưng không nếu như nước Việt Nam ta vẫn dang trên con đường chủ
nghĩa xã hội bằng cách
Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi
trọng, đề cao việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, được thể hiện rõ nét trong các văn kiện Hội
nghị thành lập Đảng, Đại hội Đảng lần thứ I, đặc biệt, được cụ thể hóa trong bản
Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm
1945). Đó là một Nhà nước với tinh thần xuyên suốt là: “Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi
công việc đều vì lợi ích của dân mà làm”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là
nhân dân làm chủ”. Tư tưởng này cũng được thể chế hóa trong Hiến pháp năm
1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta với việc hiến định quyền lực nhà
nước là của nhân dân, do nhân dân, để phụng sự lợi ích của nhân dân. Theo đó,
bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của
nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là “các ông quan cách
mạng” mà là “công bộc của nhân dân”, chăm lo cho sự ấm no, hạnh phúc của
nhân dân; pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ để bảo
vệ, thực hiện lợi ích vì con người.
Quan điểm về xây dựng và hoàn thiện nhà nước tổ chức và hoạt động
theo pháp luật trong các văn kiện Đại hội II, III, IV, V, nhất là Đại hội VI, VII
của Đảng được đề cập, phát triển và thể chế hóa trong các bản Hiến pháp các
năm: 1959, 1980, 1992, cho dù thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” chưa được sử
dụng. Đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển mới trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, theo đó, tại Hội nghị Trung ương 2
khóa VII (tháng 11-1991), lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội
25
chủ nghĩa” chính thức được Đảng ta đề cập và được khẳng định rõ hơn tại Hội
nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), đồng thời, tiếp tục được bổ
sung, phát triển qua các kỳ đại hội Đảng tiếp theo. Đây là cơ sở chính trị để Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), thể chế hóa tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trên phương diện thực tiễn, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống pháp luật được
hoàn thiện một bước cơ bản, bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định, phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao có
nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, quyền làm chủ
của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm và lan tỏa tinh thần tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc
biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp
xếp theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có
chuyển biến tích cực. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của đại biểu dân cử thể hiện
rõ hơn, hiệu quả hơn. Hoạt động cơ quan hành pháp chủ động, tích cực, tập
trung vào quản lý, điều hành, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải
cách hành chính, tư pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo
vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ
chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Những kết quả này được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Nhà
26
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước
tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện
đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý đất nước trong tình hình mới”.Trong đó, hệ thống pháp luật còn một số
quy định chưa thống nhất, thiếu tính thực tiễn, còn có kẽ hở, chồng chéo. Cơ chế
kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân còn có
những mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số
nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa rõ
ràng; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; kỷ
cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa
kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Đội ngũ cán bộ, viên chức
chưa tinh gọn; phẩm chất, năng lực, uy tín ở một bộ phận còn hạn chế, thiếu tính
chuyên nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vấn đề đổi
mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội; giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn
lúng túng.

2.2.2.Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên phương diện thực tiễn, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống pháp luật
được hoàn thiện một bước cơ bản, bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định, phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao có
nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, quyền làm chủ
của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm và lan tỏa tinh thần tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc
biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
27
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp
xếp theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có
chuyển biến tích cực. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của đại biểu dân cử thể hiện
rõ hơn, hiệu quả hơn. Hoạt động cơ quan hành pháp chủ động, tích cực, tập
trung vào quản lý, điều hành, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải
cách hành chính, tư pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo
vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ
chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Những kết quả này được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước
tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện
đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý
đất nước trong tình hình mới”.Trong đó, hệ thống pháp luật còn một số quy định
chưa thống nhất, thiếu tính thực tiễn, còn có kẽ hở, chồng chéo. Cơ chế kiểm
soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân còn có những mặt
hạn chế. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi chưa đổi
mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng; hiệu
lực, hiệu quả chưa cao. Ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; kỷ cương
phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời,
chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp
ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Đội ngũ cán bộ, viên chức chưa tinh
gọn; phẩm chất, năng lực, uy tín ở một bộ phận còn hạn chế, thiếu tính chuyên
nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vấn đề đổi mới
đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội; giữa đổi mới kinh
tế với đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng
túng.
28
Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử; nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan
xen. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc nói chung, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì
nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh
bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ
cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp
tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm
và tệ nạn xã hội”. Quán triệt, cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện, phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.
Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho
đất nước trong thời gian qua.
Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề,
để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người,và môi trường. Tôi chỉ nêu thí
dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm
ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân
đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Phải mất đến hơn 100
năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh.
Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20
năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi
cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống
nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. Và
hiện tại đang được khôi phục và phát triển.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát
triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng
trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở
29
rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn trong khu
vực đông Nam Á . Thu nhập bình quân đầu người tăng lên mức 3.512 USD;
Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một
nước nghèo đói thiếu lưng thực đến nay Việt Nam trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát
triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm
khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt
trên 540 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020.
Đầu tư nước ngoài tăng nhanh. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan
hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ
kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư
nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh
em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất
nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải
thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm
khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn
nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí
cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các
xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường
tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện
để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập
trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ
cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần
17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết
viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn
phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa,
phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều
dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo,
trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy
30
dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung
bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ
kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn
những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo
cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng
được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện
Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có
tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công
nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các
Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt
Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với
các nước có cùng trình độ phát triển.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận
định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay
đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là
một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng
ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã
chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có
hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn
nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những
kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân
dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng
31
bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi
mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao
giờ có thế và lực mạnh như hiện nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh
sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua
nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính
trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng
tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta
hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26).
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn
không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới
trong quá trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền
vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh
nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm
tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi
đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm
sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức
xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc
biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức,
lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế
lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn
32
định, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ
nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố
phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực.
Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị
trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ
luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xử lý một cách kịp thời, hiệu
quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới,
bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội
chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng.
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với
các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn
nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng
đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337
- 338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững,
nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn
nữa đời sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra
sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết
tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm
cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ
vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
33
C – KẾT LUẬN
Đảng ta vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước
xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tư tưởng, học thuyết về nhà
nước pháp quyền, đã không ngừng hình thành và phát triển lý luận về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta với mục tiêu, phương hướng và những
biện pháp cụ thể. Đặc biệt, sau khi thực hiện đổi mới ở nước ta năm 1986, công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam đã
chính thức được phát động, thu được nhiều thành tựu to lớn, . Đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta, nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng, đưa đất nước phát triển theo hướng
“hội nhập” chứ không phải “hòa tan”.

Ngoài ra, việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa mác – lênin về nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở nước ta còn có những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, đòi hỏi
chúng ta phải tiếp tục không ngừng nghiên cứu, làm sâu sắc hơn những luận
điểm cơ bản đã được khẳng định, hoàn thiện hệ thống pháp luật, không ngừng
phát huy quyền dân chủ, bảo vệ quyền con người và quyền công dân, đẩy mạnh
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng để chính
quyền của dân, do dân và vì dân ngày càng phát huy tính ưu việt, phục vụ đắc
lực mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
nhanh chóng đưa nước ta hội nhập với khu vực và các nước trên thế giới.

34

You might also like