You are on page 1of 201

VIỆN HÀN LÂM

KHOA H C X H I VIỆT NAM


ỌC V ỆN KHOA ỌC I

NGUYỄN VIỆT HÀ

chÝnh s¸ch xuÊt b¶n ë viÖt nam hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ C ÍN SÁC CÔNG

HÀ N I - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA H C X H I VIỆT NAM

ỌC V ỆN KHOA ỌC I

NGUYỄN VIỆT HÀ

chÝnh s¸ch xuÊt b¶n ë viÖt nam hiÖn nay

Ngành: Chính sách công


Mã số : 934.04.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ C ÍN SÁC CÔNG

NG IH NG N KHO H :
PGS. TS ĐỖ PHÚ HẢI

HÀ N I - 2022
LỜ CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận án này là trung thực. Kết quả nghiên cứu của
luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Việt Hà
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌN ÌN NG ÊN CỨU........................... 9
1.1. Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến
đề tài luận án ........................................................................................... 9
1.2. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra
luận án cần tiếp tục giải quyết ............................................................... 29
KẾT LUẬN C ƢƠNG 1 ............................................................................ 33
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
XUẤT BẢN ................................................................................................. 34
2.1. ác khái niệm................................................................................. 34
2.2. Nội dung, đặc điểm và quy trình của chính sách xuất bản ............ 44
2.3. Vai trò và các nhân tố tác động đến chính sách xuất bản .............. 65
2.4. hính sách xuất bản của một số nước và bài học cho Việt Nam .. 71
KẾT LUẬN C ƢƠNG 2 ............................................................................ 77
Chƣơng 3: T ỰC TRẠNG C ÍN SÁC UẤT BẢN Ở V ỆT
NAM ỆN NAY ........................................................................................ 78
3.1. Thực trạng mục tiêu chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay .... 78
3.2. Thực trạng giải pháp chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay ... 82
3.3. Thực trạng công cụ chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay ..... 91
3.4. Thực trạng quy trình chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay ... 98
3.5. Đánh giá chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay .................... 101
3.6. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.................................... 123
KẾT LUẬN C ƢƠNG 3 .......................................................................... 130
Chƣơng 4: ĐỊN ƢỚNG, YÊU CẦU VÀ G Ả P ÁP CƠ BẢN
OÀN T ỆN C ÍN SÁC UẤT BẢN Ở V ỆT NAM ................. 131
4.1. Định hướng và yêu cầu hoàn thiện chính sách xuất bản ở
Việt Nam ............................................................................................. 131
4.2. Giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách xuất bản ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................... 139
KẾT LUẬN C ƢƠNG 4 .......................................................................... 160
KẾT LUẬN ................................................................................................ 161
DANH MỤC CÔNG TRÌN Đ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............. 163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 164
PHỤ LỤC ................................................................................................... 175
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ

TGT Tuyên giáo Trung ương

TTTT Thông tin và truyền thông

XBIPH Xuất bản, in và phát hành

NXB Nhà xuất bản

XBP Xuất bản phẩm

CSXB Chính sách xuất bản

XHCN Xã hội chủ nghĩa

VH-TT Văn hóa - Thông tin

VHTTDL Văn hóa, thể thao và du lịch

CTQG Chính trị quốc gia

CTQGST Chính trị quốc gia Sự thật


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Sơ đồ 3.1: Mô hình quan hệ các cơ quan là công cụ tổ chức của SXB ..... 95
Biểu đồ 3.1. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá về mục tiêu chính sách ...... 108
Bảng 3.1. Kết quả sản xuất kinh doanh giai đoạn 2012-2019 .................... 113
Biểu đồ 3.2. oanh thu hàng năm giai đoạn 2012-2019 ............................ 113
Biểu đồ 3.3. Kết quả nộp ngân sách và lợi nhuận (sau thuế) hàng năm giai
đoạn 2012-2019................................................................................. 114
Bảng 3.2. Tình hình đặt hàng XBP giai đoạn 2012-2016 ........................... 116
Bảng 3.3. Kết quả xuất bản sách giai đoạn 2012 - 2019............................. 118
Biểu đồ 3.4. Mức hưởng thụ sách bình quân giai đoạn 2012-2019 ............ 118
Biểu đồ 3.5. Số bản sách xuất bản hàng năm giai đoạn 2012-2019 ........... 119
Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát ý kiến về chủ trương xã hội hóa xuất bản... 141
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến,
giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân
tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt
Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu
tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với vị trí,
vai trò quan trọng đó, hoạt động xuất bản ở Việt Nam luôn nhận được sự quan
tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân thông qua chính
sách và thực hiện chính sách nhằm đưa hoạt động xuất bản phát triển ngang
tầm thời đại.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm định
hướng, điều chỉnh xuất bản nước ta theo đúng khuôn khổ pháp luật, phát triển
toàn diện, vững chắc. Đặc biệt, sau hơn 15 năm thực hiện hỉ thị 42-CT/TW
của Ban Bí thư, gần 10 năm thực hiện Luật Xuất bản 2012, hoạt động xuất
bản ở nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, duy trì được sự ổn định
chung, trong đó một số lĩnh vực còn có sự bứt phá, khối lượng xuất bản phẩm
tăng mạnh, cơ cấu, thể loại ấn bản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng với chất
lượng tốt. So với các nước trong khu vực thì xuất bản Việt Nam phát triển khá
nhanh về cả quy mô và trình độ. Phương thức xuất bản, phát hành ấn phẩm bước
đầu được cải tiến và thích ứng với cơ chế thị trường. Hoạt động kinh doanh,
quảng bá, giới thiệu ấn phẩm có nhiều chuyển biến tích cực với sự xuất hiện của
những mô hình dịch vụ hiện đại. Hoạt động mua bán bản quyền với các đối tác
nước ngoài đã dần phát triển và ngày càng diễn ra sôi động, v.v…
Tuy nhiên, trước sự phát triển của thực tiễn, chính sách xuất bản ở Việt
Nam thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Giữa mục tiêu chung của
chính sách xuất bản với những mục tiêu cụ thể còn chưa thực sự tương thích với
nhau. Một số mục tiêu cụ thể của chính sách còn khá chung chung, có phần nhấn

1
mạnh vào khía cạnh chức năng vốn có của xuất bản đã trở nên không thực sự phù
hợp trong bối cảnh mới. Một số giải pháp, công cụ của chính sách xuất bản
chưa thực sự phù hợp, còn thiếu đồng bộ với các chính sách khác trong phạm
vi toàn xã hội. Giải pháp về quy hoạch, sắp xếp các đơn vị, doanh nghiệp
trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành chưa phù hợp với quy hoạch ngành,
lĩnh vực khác của vùng, địa phương, dẫn đến một số đề án, dự án chính sách
thực hiện chưa hiệu quả. hưa có nhiều biện pháp thực sự cởi mở nhằm thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của các đơn vị, doanh
nghiệp trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành, do đó hầu hết các đơn vị chỉ
duy trì ở mức ổn định, ít có đột phá. Thông báo số 19-TB/TW ngày
29/12/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42 cũng đã
khẳng định: “Nhiều vấn đề lý luận mới đặt ra trong công tác xuất bản chưa
được nghiên cứu, làm rõ; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để tạo điều kiện
cho hoạt động xuất bản phát triển” [31, PL1]. Nói cách khác, SXB đang có
những khoảng trống về mặt lý luận và bất cập trong thực tiễn, cần phải được
nghiên cứu một cách thấu đáo, toàn diện hơn nữa.
Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư với các mô hình
ứng dụng khoa học công nghệ cao, sự xuất hiện của nhiều phương tiện truyền
thông hiện đại và sự đa dạng, bùng nổ về thông tin tác động sâu rộng đến mọi
mặt đời sống xã hội. Những xu thế mới trong lĩnh vực báo chí - xuất bản, như
tương tác trực tiếp, cá nhân hóa thông tin đang làm thay đổi mạnh mẽ phương
thức tổ chức sản xuất thông tin. Sự cạnh tranh của các loại hình báo chí,
xuất bản truyền thống với các loại hình hiện đại, như mạng xã hội, sách
điện tử (ebook), sách thực tế tăng cường ảo (vrbook), các ứng dụng sách
điện tử trên điện thoại thông minh... đã dẫn đến thực tế là xuất bản đứng
trước nhiều cơ hội lớn, song, cũng gặp không ít khó khan. Thách thức từ
thực tiễn đó đòi hỏi các chủ thể quản lý phải tiếp tục và nhanh chóng đổi
mới, hoàn thiện hệ thống CSXB, bảo đảm cho xuất bản Việt Nam nâng
cao năng lực cạnh tranh, phát huy tốt hơn nữa vị trí, vai trò của mình và
hội nhập với xuất bản quốc tế.

2
Từ những lý do cơ bản trên, việc nghiên cứu vấn đề “Chính sách xuất bản ở
Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa cấp thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Luận án nghiên cứu CSXB từ mục tiêu, giải pháp, công cụ
chính sách, để có cơ sở khoa học phân tích, đánh giá thực trạng CSXB ở Việt
Nam theo các tiêu chí đánh giá và đề xuất các giải pháp, kiến nghị để hoàn
thiện CSXB ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan và xác định những
vấn đề luận án cần tập trung giải quyết.
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về CSXB, bao gồm: khái
niệm, đặc điểm, mục tiêu, nội dung giải pháp của chính sách xuất bản, vai trò,
ý nghĩa của chính sách xuất bản, tiêu chí đánh giá SXB và các yếu tố tác
động đến CSXB.
Mô tả, phân tích, đánh giá thực trạng CSXB ở Việt Nam hiện nay theo
các tiêu chí đã được xác định và chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của CSXB ở
Việt Nam theo từng tiêu chí, những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó.
Định hướng và xác định các yêu cầu cần đạt được trong đổi mới, hoàn
thiện chính sách và đề xuất các giải pháp, kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện
CSXB ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống các văn bản chính sách về xuất bản
và liên quan đến hoạt động xuất bản (chính sách thuế, chính sách lĩnh vực văn
hóa tư tưởng,…) phù hợp với phạm vi nghiên cứu của luận án.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Tác giả không tiếp cận nghiên cứu, đánh giá về chu trình
các bước hoạch định, xây dựng, thực hiện, đánh giá SXB mà tiếp cận nghiên
cứu về nội dung CSXB (bao gồm hệ thống mục tiêu, giải pháp, công cụ của
SXB được xác lập trong các văn bản chính sách) và kết quả thực hiện chính

3
sách để đánh giá theo các tiêu chí đánh giá một chính sách công tốt. Với dung
lượng bị giới hạn của Luận án, tác giả chỉ tập trung đánh giá trên góc độ hệ
thống của CSXB.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu về CSXB của Việt Nam, bên cạnh đó
tìm hiểu khái quát về nền xuất bản và CSXB của một số nước trên thế giới để
làm bài học kinh nghiệm cho nghiên cứu chính sách xuất bản Việt Nam
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về SXB trong giai đoạn
10 năm trở lại đây, từ năm 2008 đến năm 2018.
Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
(1). Đặc điểm, vai trò và nội dung CSXB là gì?
(2). CSXB cần được đánh giá theo các tiêu chí nào?
(3). Thực trạng nội dung của CSXB ở Việt Nam như thế nào?
(4). Nguyên nhân của những hạn chế CSXB ở Việt Nam là gì?
(5). Giải pháp nào để hoàn thiện CSXB ở Việt Nam thời gian tới?
Giả thuyết nghiên cứu
Chính sách xuất bản ở Việt Nam trong thời gian qua chưa thực sự khoa
học, hợp lý, chưa đạt được hiệu quả cao trong thực tiễn. Trong thời gian tiếp
theo, cần phải điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện CSXB nhằm định hướng, dẫn
dắt xuất bản Việt Nam phát triển, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển đất nước
trong tình hình mới.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử làm trong việc nghiên cứu các nội dung của Luận án. Vấn
đề, mục tiêu, các nội dung, giải pháp của SXB được phân tích, đánh giá
trong mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau và SXB được xem xét trong
mối liên hệ chặc chẽ với tình hình thực tiễn, kết quả của xuất bản. Bên cạnh đó,
SXB được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với các yếu tố tác

4
động ảnh hưởng của môi trường chính sách, đánh giá chính sách dựa trên bối
cảnh của giai đoạn được lựa chọn. Các giải pháp, kiến nghị được đưa ra trên
cơ sở các hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân và phù hợp với dự báo về bối
cảnh của giai đoạn tiếp theo.
Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận từ lý thuyết, ứng
dụng vào thực tiễn để tìm ra giải pháp: các lý thuyết về chính sách công, về
xuất bản, đặc biệt là các tiêu chí đánh giá một chính sách tốt được sử dụng để
làm căn cứ đánh giá thực trạng CSXB ở Việt Nam, từ đó tìm ra các hạn chế
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện. Bên cạnh đó, Luận án cũng sử dụng
phương pháp tiếp cận đa ngành, đa lĩnh vực: SXB được tiếp cận nghiên cứu
dưới góc độ của các chuyên ngành khác nhau như chính sách công, luật học,
chính trị học, hành chính học,... để phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp
để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp thu thập số liệu, dữ liệu: Để thu thập thông tin, Luận án
sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp từ các báo cáo, kết quả khảo
sát, điều tra của các cơ quan chức năng quản lý về xuất bản, các công trình
nghiên cứu khoa học, sách báo, tạp chí, thu thập thông tin tại các hội thảo
khoa học, những thông tin/tài liệu sơ cấp như các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, văn bản của Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia.
Phương pháp phân tích, đánh giá chính sách: sử dụng phương pháp kết
hợp định tính và định lượng để xây dựng các giả thuyết nghiên cứu, sử dụng
số liệu thứ cấp, kiểm định giả thuyết bằng các bằng chứng định lượng và lịch
sử, quan sát trực tiếp, phỏng vấn, diễn giải để kiểm định giả thuyết, đưa ra các
đề xuất cụ thể dựa trên việc diễn giải các bằng chứng một cách định tính.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp thực trạng các
nội dung hiện hành của chính sách trong hệ thống các văn bản của nhà nước,
hiện trạng vấn đề chính sách, tính hiệu lực, hiệu quả, các yếu tố tác động đến chính

5
sách thông qua hệ thống các báo cáo chính thức, các nghiên cứu khảo sát liên
quan tới vấn đề này.
Phương pháp điều tra bảng hỏi: Đối tượng khảo sát gồm có 4 loại đối
tượng: (1) Cán bộ, chuyên viên thuộc Cục XBIPH, Bộ TTTT, Ban Tuyên giáo
Trung ương: 80 mẫu; (2) cán bộ, biên tập viên nhà xuất bản: 100 mẫu, (3) đội
ngũ người sáng tạo tác phẩm: 100 mẫu; (4) đội ngũ độc giả: 500 mẫu. Thời
gian khảo sát: Tháng 4 năm 2020.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Luận án tiến hành phỏng vấn sâu nhằm
thu thập các ý kiến đánh giá, nhận xét và các đề xuất của đại diện các nhóm
đối tượng: Cán bộ Cục XBIPH, cán bộ ở NXB, độc giả. Tháng 4 năm 2020.
Phương pháp so sánh: So sánh nội dung chính sách trong các văn bản
của nhà nước với định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, so
sánh CSXB của Việt Nam với một số quốc gia trên cơ sở có sự đánh giá
tương đồng về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội. Đối chiếu CSXB của Việt
Nam với một số Hiệp ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả, về sở hữu trí tuệ.
So sánh thực trạng giữa thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc trong khoảng
thời gian lựa chọn nghiên cứu.
Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính
toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình
phân tích, tổng hợp.
Phương pháp dự báo khoa học: trên cơ sở thực trạng của CSXB, và
nghiên cứu xu hướng phát triển xuất bản trên thế giới, để dự báo những yêu
cầu cần đạt được đáp ứng sự phát triển của xuất bản trong tương lai và đưa ra
những giải pháp trong khoảng thời gian tiếp theo.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có những đóng góp mới về khoa học trên các phương diện sau đây:
Về phương pháp nghiên cứu: Luận án là công trình tiếp cận nghiên cứu
về xuất bản Việt Nam dưới góc độ của khoa học chính sách công nhằm đánh
giá tổng thể nội dung CSXB bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu

6
của khoa học chính sách công trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích
chính sách, đặc biệt là vận dụng các tiêu chí đánh giá chính sách tốt để đánh
giá thực trạng CSXB ở Việt Nam.
Về uận: Luận án phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chưa
được nghiên cứu, làm rõ trong các công trình nghiên cứu hiện nay về xuất bản
Việt Nam như: nội hàm khái niệm SXB, các đặc điểm cơ bản về chủ thể,
cấu thành nội dung của SXB, vai trò, ý nghĩa của SXB, các tiêu chí đánh
giá và yếu tố tác động đến CSXB.
Về thực trạng, giải pháp: Dựa trên cách tiếp cận của khoa học chính
sách công, Luận án xác định mục tiêu, nội dung, giải pháp SXB và căn cứ
vào các tiêu chí để đánh giá những ưu điểm và hạn chế của chính sách. Mục
tiêu của chính sách là vấn đề mang tính vĩ mô mà các công trình nghiên cứu
hiện có chưa đề cập đến, sẽ được đưa ra đánh giá theo các tiêu chí đã nêu.
Phân tích, đánh giá SXB một cách toàn diện về mục tiêu, nội dung giải pháp
chính sách cũng như kết quả thực thi chính sách trong mối quan hệ biện
chứng với nhau. Từ đó, Luận án đề ra các giải pháp điều chỉnh mục tiêu tổng
thể, hoàn thiện nội dung giải pháp chính sách mang tính toàn diện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án bổ sung các vấn đề lý luận về CSXB còn thiếu hiện
nay như: nội hàm khái niệm SXB, xác định các đặc điểm, nội dung của CSXB,
khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của CSXB trong hệ thống chính sách
quốc gia, xác định được các yếu tố cơ bản về khách quan và chủ quan tác động
đến SXB, xác định được các tiêu chí cơ bản để đánh giá SXB.
Về thực tiễn: Luận án phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế,
vướng mắc về mục tiêu, nôi dung, giải pháp, CSXB ở Việt Nam được quy định
và cụ thể hóa trong hệ thống văn bản chính sách. Trên cơ sở các hạn chế, các
nguyên nhân tác động và dự báo xu hướng phát triển xuất bản trong thời gian
tới, Luận án đưa ra các yêu cầu và giải pháp, kiến nghị hoàn thiện CSXB ở

7
Việt Nam. Những yêu cầu, giải pháp, kiến nghị mà Luận án đưa ra sẽ cung cấp
tư liệu cho cơ quan có thẩm quyền tham khảo trực tiếp cho việc xây dựng chiến
lược, quy hoạch xuất bản trong thời gian tiếp theo (trước mắt là giai đoạn đến
năm 2030), điều chỉnh quy định trong các văn bản, tiến hành các giải pháp hỗ
trợ cho việc hoàn thiện chính sách. Bên cạnh đó, Luận án còn là tài liệu để khai
thác trong giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở đào tạo và các cơ quan,
tổ chức khác, là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về CSXB.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của
tác giả và tài liệu tham khảo, Luận án được chia làm bốn chương: hương 1:
Tổng quan tình hình nghiên cứu; hương 2: Những vấn đề lý luận về CSXB;
hương 3: Thực trạng CSXB ở Việt Nam hiện nay; hương 4: Định hướng,
yêu cầu và giải pháp hoàn thiện CSXB ở Việt Nam.

8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌN ÌN NG ÊN CỨU
1.1. Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến
đề tài luận án
1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về chính sách công
Lý luận về chính sách công được coi là “khối kiến thức nền”, là cơ sở
chung nhất không thể thiếu để xây dựng Luận án này, cho nên cần thiết phải
tổng quan các công trình nghiên cứu về chính sách công. Tuy nhiên, do nó chỉ
có liên quan xa, cho nên, nghiên cứu sinh chỉ tổng quan hết sức khái quát.
* Các công trình nước ngoài nghiên cứu về chính sách công
Các công trình nghiên cứu nước ngoài về chính sách công ít nghiên cứu
về lý luận chung, mà hầu hết thường nghiên cứu các khái niệm và mô hình
phân tích chính trị để giải thích lĩnh vực chính sách công lớn như tư pháp hình
sự, quốc phòng, giáo dục, thuế…, cung cấp các công cụ để phân tích, cái nhìn
tổng quan về toàn bộ chu trình chính sách từ lập chương trình kế hoạch, ra
quyết định, thực hiện và đánh giá chính sách, giới thiệu về các chức năng
chính sách chủ chốt, những thách thức và cách giải quyết. Có thể kể đến một
số công trình, như: Understanding Public Policy/ Nhận thức về chính sách
công của Thomas R.Dye [115], The Public Policy Primer: Managing the
Policy Process/Tìm hiểu chính sách công: quản lý quá trình chính sách của
Xun Wu, M Ramesh, Michael Howlett, Scott Fritzen [120], Studying
Public Policy: Policy Cycles and Policy Subsystems/ Nghiên cứu chính
sách công: chu kỳ chính sách và hệ thống con chính sách của Michael
Howlett and M. Ramesh Toronto [109].
Một số công trình đã đề cập về vấn đề và cách tiếp cận vấn đề chính
sách. Theo đó, cần sử dụng cách tiếp cận liên ngành để phân tích các vấn đề
chính sách, trong đó, cần làm nổi bật được những mâu thuẫn hiện tại và dự
đoán được xu hướng phát triển của ngành, lĩnh vực cụ thể trong tương lai

9
ngắn hạn và dài hạn. Có thể kể đến một số công trình như: Public policy:
politics, analysis, and alternatives/Chính sách công: Chính trị, phân tích, và
các giải pháp thay thế của Michael E. Kraft, Scott R. Furlong [108], Public
Inquiries, Public Policy and the Public Interest/ Thắc mắc công khai, Chính
sách công và lợi ích công cộng của Gary Banks [102]; Public policy making/
Xây dựng chính sách công của James Anderson [105].
Nghiên cứu về phân tích chính sách, trong đó, các cơ chế xây dựng
chính sách, xác định một vấn đề để thiết lập chương trình nghị sự, đánh
giá, sửa đổi, hoặc chấm dứt một chính sách, các nguyên tắc, nội dung, quy
trình đánh giá chính sách được làm khá rõ. ác phương pháp tiếp cận phân
tích chính sách, phương pháp phân tích định lượng, định tính, thảo luận về
các công cụ để tinh chỉnh lựa chọn chính sách được bàn đến ở nhiều góc độ
và chuyên ngành khác nhau, nhất là kinh tế, tài chính, ngân hàng, giáo dục:
Policy Analysis: A Political and Organizational Perspective/ Phân tích chính
sách, dưới góc nhìn tổ chức và chính trị của William Ieuan Jenkins [118],
Public Policy: An Introduction to the Theory and Practice of Policy Analysis/
Chính sách công: Giới thiệu về lý thuyết và thực hành phân tích chính sách
của Wayne Parsons [117], Policy Analysis: Concepts and Practice/ Khái niệm
và thực hành phân tích chính sách của David Leo Weimer, Aidan R. Vining
[97], Policy Analysis for Practice: Applying Social Policy/ Thực hành phân
tích chính sách: áp dụng cho chính sách xã hội của Paul Spicker [110], Public
policy analysis (fifth Edition)/ Phân tích chính sách công (tái bản lần thứ năm)
của William N. Dunn [119], Handbook of Public Policy Analysis: Theory,
Methods, and Politics/ Sổ tay phân tích chính sách: lý thuyết, phương pháp và
chính trị của Frank Fischer, Gerald J Miller [100].
* Các công trình trong nước nghiên cứu về chính sách công
Các khái niệm về chính sách công và một số vấn đề cơ bản như cấu
trúc nội dung, chu trình chính sách công, quy trình xây dựng, nguyên tắc, các

10
bước và phương pháp, công cụ hoạch định chính sách công; yêu cầu, các hình
thức, phương pháp tổ chức thực thi chính sách công được phân tích trong một
số công trình như: Những vấn đề cơ bản về chính sách công và chu trình
chính sách [57] của tác giả Lê Chi Mai, Tìm hiểu về khoa học chính sách
công [43] của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Chính sách công - Những vấn
đề cơ bản [23] của PGS, TS. Nguyễn Hữu Hải, Bàn về khái niệm chính sách
công [29] của Hồ Việt Hạnh, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội, năm 2017.
Tuy có những luận giải khác nhau, song, hầu hết các công trình đều cho rằng,
chính sách công có vai trò to lớn đối với phát triển, chính sách công có cấu
trúc bao gồm hai bộ phận lớn là mục tiêu chính sách và giải pháp giải quyết
vấn đề công.
Một số công trình đã đi sâu nghiên cứu về phân tích, giám sát và đánh
giá chính sách công; đo lường kết quả thực hiện chính sách công; các phương
pháp đánh giá tác động, tổ chức, báo cáo và phổ biến đánh giá tác động chính
sách, phương pháp phân tích chính sách công, nhận định một số vấn đề trong
đánh giá chính sách công ở Việt Nam hiện nay như: Giáo trình phân tích và
hoạch định chính sách công [44] của Học viện Hành chính quốc gia, Đại
cương về phân tích chính sách công [22] của PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải và
ThS. Lê Văn Hòa, Giám sát và đánh giá chính sách công [38] của TS. Lê Văn
Hòa. Bài báo khoa học Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải
pháp [75] của PGS,TS. Nguyễn Đăng Thành đăng trong Tạp chí Cộng sản,
Đánh giá chính sách công tại Việt Nam: Những vấn đề uận và thực tiễn
[24] của PGS.TS Đỗ Phú Hải đăng trong Tạp chí Khoa học chính trị, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia HCM, Khu vực II. Bên cạnh đó, có một
số công trình nghiên cứu về chính sách công của nước ngoài, từ đó, nêu lên
một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, như: ông trình Chính sách công
của Hoa Kỳ [7] của tác giả Lê Vinh Danh.

11
Ngoài ra, còn một nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách công
ở rất nhiều các chủ đề thuộc các lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, xã hội, văn
hóa... Nhóm này chủ yếu là các luận án tiến sĩ. Tổng quan các công trình
thuộc nhóm này là cơ sở để nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển các cơ sở lý
luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu đặc thù trong lĩnh vực chính
sách công nói chung. Có thể kể tới một số luận án như: Nguyễn Thị Hoa
(2018), Chính sách phát triển giảng viên chính trị ở Việt Nam hiện nay, Luận
án tiến sĩ hính sách công, Học viện Khoa học xã hội [37]; Bùi Ngọc Hiển
(2018), Chính sách phát triển giáo dục vùng đồng bằng song Cửu Long, Luận
án tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia [33]; Tô Trọng Mạnh
(2020), Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ hính sách công, Học viện Khoa học xã hội [55]; Ngô Hoài
Sơn (2021), Thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học viện Khoa
học xã hội [68]; Lý Thị Ngọc (2020), Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học
viện Khoa học xã hội [61]; Nguyễn Thị Thu Nga (2019), Chính sách phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ hính sách công,
Học viện Khoa học xã hội [59]; Bùi Nghĩa (2019), Chính sách đối với người
cao tuổi ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chính sách công, Học viện Khoa
học xã hội [60]; Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2021), Chính sách bảo hiểm xã
hội tự nguyện ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
quốc gia [62]… o đều là các nghiên cứu ứng dụng, vì vậy, hầu hết các luận
án đều bám vào lý luận chung về chính sách công, đi vào phân tích mục tiêu,
giải pháp, công cụ của các chính sách, đồng thời, đánh giá chính sách theo các
tiêu chí mà họ tự xây dựng (thường là tiêu chí về tính hiệu quả, tính hiệu lực,
tính đồng bộ, thống nhất…). Tuy nhiên, với đặc thù từng vấn đề nghiên cứu
khác nhau, mỗi luận án lại có những cách tiếp cận không giống nhau, có luận

12
án tiếp cận toàn diện cả chu trình chính sách, tuy nhiên, số này không nhiều,
mà phần lớn thường chỉ tập trung ở một bộ phận nào đó, chẳng hạn riêng về
nội dung chính sách, hoặc riêng về quá trình xây dựng, hoặc riêng về quá
trình thực hiện chính sách,… Kế thừa phương pháp tiếp cận từ các luận án
trước đây, đề tài luận án của nghiên cứu sinh sẽ tiếp cận nghiên cứu CSXB
chủ yếu từ khía cạnh nội dung của CSXB, sử dụng những kết quả trong thực
tiễn của ngành xuất bản trong thời gian qua để phân tích, đánh giá tính hiệu
quả, hợp lý, đồng bộ,... của nội dung chính sách đó.
1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về xuất bản và
chính sách xuất bản
* Các công trình nước ngoài nghiên cứu về xuất bản và chính sách xuất bản
Philip G.Altbach và Damtew Teferra (Chủ biên, 1999), Xuất bản và
phát triển [111]. Công trình tập trung bình bày một số hoạt động và chính
sách của ngành xuất bản trên thế giới, những xu hướng phát triển trong ngành
xuất bản sách hiện nay; xuất bản sách ở những nước thuộc thế giới thứ ba;
kinh tế học xuất bản sách; vấn đề bản quyền quốc tế; vấn đề xuất bản sách
phục vụ giáo dục; chuyển đổi từ hệ thống xuất bản nhà nước sang hệ thống
xuất bản thương mại ở các nước châu Phi; xuất bản điện tử; dự báo các vấn đề
và xu hướng xuất bản ở thế kỷ XXI của các nước đang phát triển. Trong công
trình này, các tác giả đã chỉ ra những vấn đề hiện nay mà xuất bản phải đối
mặt, như: Tác động của những công nghệ mới, việc khó kiểm soát ngành xuất
bản, vấn đề bản quyền, những biến đổi trong ngành xuất bản. Tác giả Paul
Brickhill đã có bài phân tích kỹ về việc chuyển đổi từ hệ thống xuất bản nhà
nước sang hệ thống xuất bản thương mại ở các nước châu Phi, trong đó, đặt
câu hỏi: “Vai trò của chính phủ: Thực hiện hay quản lý” [111, tr.230]. Đây là
câu hỏi mở, rất có giá trị trong việc nghiên cứu, đánh giá SXB ở Việt Nam.
ũng trong công trình này, tác giả zeslaw Jan Grycz đã giới thiệu về “Xuất
bản điện tử: Công nghệ và ngành xuất bản mới” [111, tr.245 - 292], giúp

13
người nghiên cứu có cái nhìn chuyên sâu về xuất bản điện tử - một hình thức
xuất bản mới xuất hiện trên thế giới, nhưng có sức phát triển mạnh mẽ. Cuối
cùng của công trình là bài viết “Xuất bản ở Thế giới thứ ba: Các vấn đề và xu
hướng cho thế kỷ XXI” của Philip G.Altbach, nêu ra những thách thức mà xuất
bản ở các nước chậm phát triển và đang phát triển (trong đó có Việt Nam) phải
đối mặt. Đồng thời gợi mở những xu hướng, cách làm mới, như: Đẩy mạnh hợp
tác khu vực, tăng cường marketing và phân phối, đổi mới công nghệ.
Châu Úy Hoa (2017), Truyền thông số và chuyển đổi mô hình xuất bản
[36], công trình nghiên cứu sự tương tác giữa công nghệ và xuất bản, khảo sát
sự ảnh hưởng từ sự thay đổi của công nghệ đối với lĩnh vực xuất bản nhìn từ
góc độ lịch sử phát triển của công nghệ; ảnh hưởng của sự thay đổi trong
phương thức đọc của con người đối với chuyển đổi mô hình xuất bản. Đặc
biệt, tác giả tập trung phân tích, luận giải ảnh hưởng của truyền thông số tới
phương tiện xuất bản và quy trình xuất bản và mô hình kinh doanh. Theo đó,
tác giả đã xem xét kết cấu của chuỗi ngành nghề xuất bản số với 3 phân khúc:
Phân khúc trên là các nhà cung cấp nội dung, bao gồm các đơn vị xuất bản
truyền thống, nhà cung cấp nội dung và dịch vụ trên điện thoại di động; phân
khúc giữa là nhà cung cấp dịch vụ và nhà sở hữu trang mạng; phân khúc dưới
là các nhà tiêu thụ bao gồm nền tảng tiêu thụ online, hệ thống các nhà phân
phối, các nhà bán lẻ. Châu Úy Hoa cũng đã giới thiệu một số NXB tại Trung
Quốc đi tiên phong trong lĩnh vực xuất bản số, với các dịch vụ xuất bản rất
mới [34, tr.405]. Khi phân tích ảnh hưởng của truyền thông số đối với bảo hộ
bản quyền, tác giả nêu lên bốn mâu thuẫn lớn, đó là mâu thuẫn giữa tính sở
hữu riêng của bản quyền số và việc dùng chung tài nguyên thông tin, giữa sử
dụng giấy phép bản quyền với lượng nhu cầu ủy quyền cao, giữa sự thay đổi
nhanh chóng của nguồn tài nguyên thông tin với thời gian có hiệu lực của bảo
hộ bản quyền, giữa tính không biên giới của tài nguyên thông tin với tính khu
vực của bảo hộ bản quyền. Ngoài ra, trong công trình này, Châu Úy Hoa còn

14
rút ra một số kinh nghiệm trong phát triển xuất bản số của các nước tiên tiến
trên thế giới, như: NXB truyền thống có vị trí chủ đạo trong ngành xuất bản
số, sáp nhập, thu mua lại doanh nghiệp và sử dụng vốn đầu tư là hai biện pháp
quan trọng để chuyển đổi sang mô hình số hóa và mô hình xuất bản khác nhau
thì sử dụng mô hình kinh doanh khác nhau.
Trần Hân (2013), “Luận đàm về ngành xuất bản Trung Quốc” [32], nội
dung cuốn sách nghiên cứu một cách có hệ thống các giai đoạn phát triển của
xuất bản Trung Quốc kể từ sau cải cách mở cửa năm 1978, những phân tích về
một số vấn đề mấu chốt cần giải quyết trong sự phát triển dài hạn của ngành
xuất bản Trung Quốc, đưa ra con đường và biện pháp giải quyết những vấn đề
của ngành xuất bản Trung Quốc. Cuốn sách còn đề cập đến các nội dung như:
thị trường bên bán và thị trường bên mua, quản lý giá sách, phương thức chia
sẻ rủi ro trong phát hành sách, chế độ đại lý tiêu thu sách, chi phí thu thập
thông tin, khai thác thị trường sách tiềm năng, hệ thống lưu thông xuất bản hiện
đại, năng lực sáng tạo trong xuất bản, xuất bản số và các ngành nghề liên quan
đến nội dung. Tác giả cuốn sách đã đề cập một số vấn đề lớn mà ngành xuất
bản Trung Quốc cần phải giải quyết trong thời gian tới, trong đó có vấn đề lựa
chọn mô hình NXB và chuyển đổi cơ chế mô hình doanh nghiệp.
De Prato Giuditta và Jean Paul Simon (2014) với bài viết “Public
policies and government interventions in the book publishing industry” [99],
(Chính sách công và sự can thiệp của chính phủ trong ngành xuất bản sách),
đăng trong tạp chí The Journal of Policy, Regulation and Strategy for
Telecommunications, Information and Media. Mục đích nghiên cứu của De
Prato và Simon (2014) là xem xét lại các chính sách công và sự can thiệp của
chính phủ trong ngành công nghiệp xuất bản sách. Nghiên cứu tập trung vào
năm vấn đề chính: quyền sở hữu trí tuệ và các vấn đề vi phạm bản quyền, quy
định về giá sách, quy định về thuế giá trị gia tăng giữa sách in và sách điện tử,
các tổ chức đóng vai trò như các thư viện và cơ quan đăng ký, và các vấn đề

15
cạnh tranh. Bài viết này tập trung nhiều hơn vào việc phân tích những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực của các văn bản chính sách cũng như những hành
động thực tế của các chủ thể quản lý là các cơ quan nhà nước đến năm vấn đề
đó, cũng như đến bộ mặt của toàn bộ xuất bản. Hai tác giả đã có những đánh
giá khái quát về chính sách tác động đến xuất bản, có giá trị tham khảo thực
tiễn đối với đề tài luận án.
Robbie Allen (2006), The dynamics of Internet publishing on the
computer book industry [112] (Động lực của xuất bản Internet đối với ngành
công nghiệp sách máy tính). Đây là Luận án hương trình Quản lý và Thiết
kế Hệ thống phối hợp với Viện Công nghệ Massachusetts, Khoa Kỹ thuật
Xây dựng và Môi trường, Mỹ. Theo tác giả, sự ra đời của Internet đã tác động
rất mạnh mẽ đến nhiều ngành công nghiệp, trong đó, có ngành kinh doanh
xuất bản. Trong khi nhiều phân khúc của ngành xuất bản đã cố gắng sử dụng
Internet để tăng hoặc thay thế các nguồn doanh thu hiện có, thì một số NXB
sách giấy lại đang tỏ ra lúng túng, chậm đổi mới để bắt kịp xu thế đó. ông
trình đã so sánh giữa xuất bản Internet với xuất bản truyền thống, chỉ ra
những giới hạn của xuất bản truyền thống (Limitations of Traditional
Publishing), những thuận lợi của xuất bản trên Internet (Advantages of
Internet Publishing). Luận án cũng xem xét các mô hình xuất bản Internet
khác nhau đã được sử dụng cho đến nay, như: xuất bản không vì mục đích lợi
nhuận, xuất bản dựa vào doanh thu quảng cáo, mô hình tập đoàn xuất bản, sự
kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài… ông trình cũng phác thảo các cơ hội và
thách thức, cùng với đó là các điều kiện cho các phương pháp và quy trình mà
các NXB sách máy tính nên xem xét để tồn tại trong thời đại Internet.
Hean Tat Keh (1998), Evolution of the book publishing industry
Structural changes and strategic implications [104] (Sự phát triển của ngành
xuất bản sách thay đổi cấu trúc và ý nghĩa chiến lược), đăng trong tạp chí
Journal of Management History. Tác giả đã đi từ lịch sử của xuất bản, với

16
những quy trình rất chặt chẽ, phức tạp để xuất bản một cuốn sách. Dần dần,
theo thời gian, cấu trúc của xuất bản truyền thống cũng dần đổi khác, trên cơ
sở sự thay đổi của công nghệ, của nhu cầu đọc sách, có những hoạt động sáp
nhập và mua lại (Mergers and acquisitions). Theo Hean Tat Keh, sự thay đổi
về cấu trúc của ngành xuất bản có những ý nghĩa chiến lược, trong đó, trọng
tâm là ba vấn đề: thứ nhất, làm thay đổi cơ cấu thị trường (Market structure),
thứ hai, tác động làm thay đổi thị hiếu đọc sách (Integrity of the book) và ba
là vấn đề bản quyền (Copyright).
Ngoài ra, cũng còn có một số công trình đáng chú ý khác nghiên cứu
về xuất bản ở nhiều khía cạnh khác. ó thể kể đến như, nghiên cứu về mối
quan hệ giữa xuất bản với văn hóa có công trình Publishing and Culture [98]
(Xuất bản và văn hóa) của Dallas John Baker, Donna Lee Brien, Jen Webb.
Nhóm tác giả cho rằng, xuất bản có quan hệ chặt chẽ với văn hóa, vừa chịu
ảnh hưởng lâu đời của văn hóa truyền thống của quốc gia, dân tộc, nhưng
cũng chính là một trong những động lực tạo ra sự biển đổi, phát triển của văn
hóa. Nghiên cứu về quan hệ giữa xuất bản và văn hóa đọc, có The Business of
Books: How International Conglomerates Took Over Publishing and
Changed the Way We Read [94] (Kinh doanh sách: ác tập đoàn quốc tế đã
xuất bản và thay đổi cách chúng ta đọc như thế nào) của André Schiffrin, tác
giả không chỉ nghiên cứu về quy trình hoạt động của một số tập đoàn xuất bản
quốc tế với những công nghệ hiện đại, mà còn phân tích sự biến đổi của văn
hóa đọc của con người dưới những định hướng về sách của các tập đoàn đó. Tác
giả Kelvin Smith với công trình The Publishing Business: From p-books to e-
books [106] (Kinh doanh xuất bản: Từ sách giấy đến sách điện tử) có một sự
nghiên cứu kĩ lưỡng về quá trình chuyển đổi không chỉ của công nghệ in, mà còn
kéo theo đó là cả những công nghệ quản lý, phương thức hoạt động của xuất
bản, quảng bá, phát hành sách. Robin Birn và Patrick Forsyth lại khái quát về

17
lịch sử marketing và một số công nghệ marketing trong ngành xuất bản với công
trình Marketing in Publishing [114] (Tiếp thị trong xuất bản).
* Các công trình trong nước nghiên cứu về xuất bản và chính sách xuất bản
Nghiên cứu chung, khái quát về xuất bản:
Nguyễn Hồng Vinh (2011), Xuất bản Việt Nam trong những năm đổi
mới đất nước [86]. Công trình khoa học là kết quả của sự nghiên cứu xuyên
suốt toàn bộ nền xuất bản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay, trong đó, tập
trung vào giai đoạn đổi mới đất nước từ năm 1986. Tác giả đã đưa ra những
nhận định hết sức khái quát, đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng, về công tác
quản lý của nhà nước và những ưu điểm, hạn chế của chính hệ thống tổ chức
hoạt động của ngành xuất bản Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực
tiễn, tác giả nêu lên một số vấn đề đối với xuất bản ở nước ta hiện nay, đó là:
Cần phải hiện đại hóa (cả về mô hình NXB, cơ chế quản lý và cơ sở vật chất),
chuyên nghiệp hóa (trong xây dựng mục tiêu, trong năng lực tổ chức bản thảo
- tác giả, trong đội ngũ lao động xuất bản và trong quy trình xuất bản), và xã
hội hóa (tăng cường tự chủ, mở rộng liên kết, mở rộng hợp tác quốc tế). Như
vậy, trong công trình này, tác giả đã đề cập đến chủ thể của SXB là Đảng
và Nhà nước một cách tương đối bao quát. Cả 3 lĩnh vực XBIPH đều đã
được tác giả đề cập đến. Các tác giả cũng đã trình bày một số giải pháp về
mặt chính sách. Tuy nhiên, do mục tiêu nghiên cứu đặt ra là cả một thời gian
dài (25 năm), cho nên, công trình này mang nhiều ý nghĩa về mặt tổng kết,
định hướng chính sách lớn, mà chưa có điều kiện đi sâu vào những vấn đề
chi tiết, cụ thể.
Nguyễn An Tiêm, Nguyễn Nguyên (đồng chủ biên, 2013), “Tổ chức,
quản lý và CSXB của một số quốc gia - kinh nghiệm đối với Việt Nam” [80].
Nội dung cuốn sách giới thiệu về tổ chức, quản lý xuất bản của một số quốc
gia đại diện cho ba nhóm: các quốc gia có ngành công nghiệp xuất bản phát
triển lâu đời, các cường quốc xuất bản ở châu Á và các quốc gia ở Đông Nam

18
Á, như: nh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái
Lan, Malaixia. Các tác giả đã khái quát ba đặc điểm chủ yếu về chính sách đối
với xuất bản ở các nước như sau: Một là, đa số các quốc gia rất ít can thiệp
trực tiếp vào xuất bản. Ở các quốc gia này, vai trò của tổ chức hội thường rất
lớn, không chỉ điều tiết hoạt động của các thành viên, xây dựng quy chế hành
nghề mà còn tác động rất lớn vào hoạch định CSXB của Chính phủ. Hai là,
trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật, xuất bản được quan niệm gồm cả
xuất bản sách báo và tạp chí và một số loại hình văn hóa phẩm khác. Nhìn
chung, xuất bản chủ yếu được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật như đối
với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa nói chung. Luật pháp thường chỉ
bổ sung thêm các quy định riêng lẻ về trình tự xuất bản, phạm vi hạn chế của
XBP, tư cách hoặc trách nhiệm của tác giả, người xuất bản, người in, người
phát hành, quyền hạn, phương pháp, trình tự quản lý chứ không ban hành
riêng một đạo luật quy định về xuất bản. Ba là, về bảo đảm trật tự pháp luật xuất
bản, đa số các quốc gia thực hiện đan xen hai chế độ tiền kiểm và hậu kiểm các
xuất bản phẩm. Công trình này rất có ý nghĩa trong đối chiếu CSXB ở Việt Nam
với thế giới, để dễ thấy các ưu, khuyết điểm của CSXB Việt Nam.
Nguyễn An Tiêm, Nguyễn Nguyên (đồng chủ biên, 2015), Xã hội hóa
xuất bản một số vấn đề lý luận và thực tiễn [81]. Xã hội hóa là một xu hướng
lớn của xuất bản Việt Nam cũng như quốc tế, và do đó, chính sách về xã hội
hóa xuất bản giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống CSXB hiện nay. Bởi
thế, nghiên cứu của nhóm tác giả do Nguyễn An Tiêm và Nguyễn Nguyên
đồng chủ biên đã góp phần làm sáng tỏ thêm cho nghiên cứu của luận án ở
nhiều nội dung. Theo nhóm tác giả, “xã hội hóa xuất bản là làm cho xuất bản
lan tỏa khắp các thành phần xã hội, tạo điều kiện cho các thành viên trong xã
hội tham gia vào xuất bản và được hưởng lợi bằng chính sự tham gia của
mình, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo, phát huy mọi tiềm năng trí tuệ và
vật chất của toàn xã hội đầu tư vào xuất bản” [81, tr.24]. Xã hội hóa xuất bản

19
có nội dung cụ thể là: Đa dạng hóa chủ thể xuất bản và hình thức sở hữu trên
một số lĩnh vực; dân chủ hóa quan hệ quản lý trên cơ sở tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các
tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong toàn xã hội. ông trình cũng đề
xuất bốn nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả xã hội hóa xuất bản
bao gồm các nhóm tác động vào nhận thức, nhóm giải pháp về thể chế hóa chủ
trương, đường lối của Đảng, nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện và nhóm giải
pháp về công tác cán bộ.
Nguyễn Duy Hùng (2010), Xây dựng tập đoàn xuất bản ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay [45] (Đề tài khoa học cấp bộ). Đề tài đã khảo sát và
đánh giá một số tập đoàn xuất bản trên thế giới, phân tích tổng quan về sự
hình thành, phát triển và vai trò của tập đoàn xuất bản; phân tích thực trạng mô
hình tổ chức và hoạt động của các NXB Việt Nam từ năm 2004 đến nay; xây
dựng bộ tiêu chí và điều kiện hình thành tập đoàn xuất bản ở Việt Nam. Đề tài
cũng chỉ rõ các giải pháp quản lý cần thực hiện để xây dựng mô hình tập đoàn
xuất bản ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Chủ trương xây dựng một số tập đoàn xuất bản mạnh ở Việt Nam là một phần
trong CSXB ở Việt Nam, song, hiện nay, quá trình thực hiện thí điểm ở một số
đơn vị, đang còn rất nhiều vướng mắc, không thành công. Công trình khoa học
này cho tác giả Luận án một cái nhìn đầy đủ, chi tiết hơn trong đánh giá thực
trạng thực hiện chủ trương ấy, cũng như nghiên cứu đề xuất những giải pháp
hiệu quả hơn.
Hoàng Xuân Vinh (2020), Phát triển nhân lực ngành xuất bản Việt
Nam trong xu thế hội nhập [89], Luận án tiến sĩ Kinh tế. ưới góc nhìn kinh
tế học, công trình luận giải vai trò của công tác phát triển nhân lực ngành xuất
bản trong bối cảnh mới hiện nay, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp.
Theo đó, tác giả cho rằng, hoạt động này hiện nay vẫn còn một số hạn chế
như: tính kế hoạch trong phát triển nhân lực chưa đi vào thực tiễn, chưa đáp

20
ứng được nhu cầu hội nhập. Số lượng các đơn vị đào tạo chính quy còn ít, số
lượng đầu vào hằng năm trong tuyển sinh còn thấp. ơ chế lương, thưởng còn
bình quân theo ngạch bậc, chưa khuyến khích người lao động trong việc tăng
năng suất lao động và hiệu quả làm việc [89, tr.123]. Đây là những đánh giá
mà đề tài luận án quan tâm bởi lẽ, SXB có tác động đến nhiều đối tượng,
trong đó, chính những cán bộ, biên tập viên, người lao động trực tiếp hoạt
động ở các nhà xuất bản, cơ sở in, phát hành chịu tác động trực tiếp và mạnh
mẽ nhất. Khi nghiên cứu CSXB không thể bỏ qua được những nội dung, giải
pháp liên quan đến lớp đối tượng này. Công trình khoa học này sẽ là một
trong những tư liệu quý để đề tài luận án tham khảo và giúp đem lại cái nhìn
sâu sắc hơn từ khía cạnh người lao động.
Nghiên cứu về quản nhà nước về xuất bản:
Đào Thị Hoàn (2020), Đảng Cộng sản Việt Nam ãnh đạo công tác
xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016 [41], Luận án tiến sĩ ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả đã tiến hành khảo cứu hệ thống các văn
bản lãnh đạo công tác xuất bản ở Việt Nam theo hai giai đoạn nhỏ: từ 1990-
2004 và từ 2004-2016, phân tích những quan điểm, chủ trương và quá trình
chỉ đạo, đồng thời sử dụng những kết quả đạt được trên thực tế của xuất bản
để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, công trình nêu lên bốn nhận xét,
đánh giá khái quát quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất bản
trong giai đoạn này, đó là: (1) Đảng không ngừng tăng cường và đổi mới
phương thức lãnh đạo, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, quản lý công tác xuất bản
phù hợp với tình hình mới; (2) quan điểm, chủ trương của Đảng được cụ thể
hóa kịp thời thành hệ thống chính sách pháp luật ngày càng hoàn thiện; (3)
việc chỉ đạo các cơ quan chức năng trong phối hợp triển khai lãnh đạo, quản
lý, thực thi chính sách và kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản ngày càng
đồng bộ và hiệu quả; và (4) từ sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, phối hợp hiệu quả của cơ quan chức năng, năng lực xuất bản được

21
nâng cao, đạt được kết quả khá toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng còn
có những hạn chế, như: một số cơ quan chủ quản chưa nhận thức đúng vai trò,
vị trí của hoạt động xuất bản, còn có tình trạng buông lỏng quản lý hoạt động
xuất bản ở một số NXB; công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước về xuất bản chưa
theo kịp yêu cầu của thực tiễn hoạt động xuất bản, chưa đẩy mạnh được việc
xuất bản các ấn phẩm ra nước ngoài để phục vụ công tác xuất khẩu và hợp tác
đầu tư giữa trong nước với khu vực, thế giới; chậm đổi mới trong đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cao, gây hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, biên tập viên ở các NXB [41, tr.118-134]. Do những CSXB (vấn đề mà
luận án nghiên cứu) không tách rời khỏi quan điểm, đường lối của Đảng lãnh
đạo công tác xuất bản, do vậy, công trình khoa học này có ý nghĩa giúp cho
nghiên cứu sinh có một cái nhìn hệ thống, tương đối toàn diện về mặt chủ
trương, đường lối phát triển xuất bản giai đoạn 1990-2016. Trên cơ sở đó,
luận án kế thừa, sử dụng một số tư liệu trong phạm vi cho phép để xây dựng
đề tài của mình.
Phạm Thị Vui (2020), Vai trò của công tác tư tưởng trong quản lý hoạt
động xuất bản ở Việt Nam hiện nay [92], Luận án tiến sĩ chuyên ngành ông
tác tư tưởng. ông tác tư tưởng có vai trò hết sức to lớn trong quản lý hoạt
động xuất bản ở Việt Nam, nó nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, góp
phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc đề xuất quan điểm, đường lối, chủ
trương về xuất bản và quản lý hoạt động xuất bản; định hướng chính trị, tư
tưởng để đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, với "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá", âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch trong hoạt động
xuất bản; góp phần xây dựng chính sách, pháp luật về xuất bản và quản lý
hoạt động xuất bản; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật; phát hiện, cổ vũ và nhân rộng điển hình tiên tiến trong quản lý hoạt
động xuất bản [92, tr.53-66]. Chính vì thế, những kết luận rút ra về mặt lý
luận và thực trạng vai trò công tác tư tưởng trong quản lý hoạt động xuất bản

22
hiện nay sẽ thêm một "mảnh ghép", làm cho những vấn đề liên quan đến xuất
bản hiện ra một cách rõ nét, sinh động hơn, qua đó, giúp nghiên cứu sinh tìm
hiểu về CSXB ở Việt Nam được toàn diện, sâu sắc hơn trong đề tài luận án này.
Đường Vinh Sường (1993), “Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động của các NXB trong bước chuyển sang cơ chế thị trường” [69]. Luận án
đã phân tích đặc điểm của xuất bản nói chung và hoạt động của các NXB.
Khẳng định tính chất kinh doanh trong hoạt động của các NXB là một tất yếu
khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận án nghiên cứu
và đề xuất cách thức quản lý nhà nước đối với các NXB trong bối cảnh Quốc
hội vừa thông qua Luật xuất bản. Những phương hướng và biện pháp được
luận án trình bày một cách hệ thống theo quan điểm toàn diện với những đề
xuất có căn cứ khoa học. Những kết luận, đề xuất, giải pháp của tác giả sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo rất có giá trị đối với luận án. Tuy nhiên tình hình
nghiên cứu của tác giả nghiên cứu cách đây khá xa, do vậy đến nay cần có
những nghiên cứu mới mang tính thời sự hơn, rõ hơn, cụ thể hơn.
Khuất Duy Kim Hải (1994), “Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức
quản lý ở các NXB nước ta hiện nay” [19]. Luận án đi vào nghiên cứu vấn đề
hoàn thiện tổ chức quản lý ở các NXB, đề xuất cách thức tổ chức quản lý, tổ
chức hoạt động của các NXB. Tác giả khẳng định ở nước ta NXB là một loại
hình doanh nghiệp nhà nước đặc biệt và rút ra những đặc điểm về quản lý và tổ
chức NXB trong điều kiện cơ chế thị trường; phân tích thực trạng quản lý và tổ
chức NXB trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp trước kia và đặc biệt
trong bước chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới; đề xuất các giải pháp để đổi
mới quản lý nhà nước đối với NXB cũng như đổi mới quản lý trong nội bộ NXB
theo hướng nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các NXB. Luận án
mới chỉ tập trung nói đến một chủ thể tham gia xuất bản đó là các NXB và chỉ đề
cập các giải pháp liên quan đến hoạt động của NXB. Đây mới chỉ là một mảng
nhỏ của CSXB. Một trong những đối tượng chịu tác động của CSXB.

23
Phạm Thị Thanh Tâm (1996), Kinh doanh XBP trong cơ chế thị trường
ở Việt Nam [71]. Luận án đề cập đến vấn đề kinh doanh XBP từ năm 1989
đến năm 1993 trên cơ sở nghiên cứu hai tình huống điển hình là Tổng Công ty
Phát hành sách Việt Nam (Savina) và Công ty phát hành sách thành phố Hồ
Chí Minh (Fahasa). Luận án cũng đã đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh XBP. Đối với luận án này vấn đề SXB được đề
cập đến ở mảng hoạt động kinh doanh với vai trò quản lý của nhà nước. Theo
đó, tác giả cho rằng, trong cơ chế thị trường vận hành theo các quy luật cung -
cầu, quy luật giá trị có sự tham gia định hướng, điều tiết của nhà nước, thì
hoạt động kinh doanh XBP cũng cần có cơ chế vận hành phù hợp. ác cơ
quan quản lý nhà nước về xuất bản cần xây dựng những chính sách bảo đảm
vừa phát triển, làm ăn có lãi, coi kinh doanh XBP như một ngành kinh tế,
nhưng đồng thời, cũng cần bảo đảm chức năng văn hóa - xã hội của nó.
Vũ Mạnh Chu (1996), Pháp luật xuất bản ở Việt Nam, quá trình thực
hiện và đổi mới trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng XHCN [3]. Đề
tài đã đưa ra những phân tích tương đối toàn diện, lôgic về hệ thống pháp luật
nước ta giai đoạn này. Phân tích các đặc trưng cơ bản về quản lý nhà nước
bằng pháp luật trong xuất bản, thực trạng pháp luật trong quản lý nhà nước
trong xuất bản từ năm 1945 đến năm 1993; đề xuất phương án và các giải
pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất
bản. Một trong những công cụ của chính sách đó là pháp luật đã được đề cập
trên trong công trình này, đây là vấn đề đáng được quan tâm. Tác giả cho
rằng, pháp luật cần phải được coi như là công cụ chủ yếu để thúc đẩy hoạt
động xuất bản phát triển trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. ần phải nghiên cứu, ban hành hệ thống quy định, chế tài chặt chẽ,
vừa góp phần cho xuất bản thực hiện tốt chức năng văn hóa - tư tưởng, vừa
từng bước vươn lên trở thành một trong những ngành kinh tế làm ăn có lãi,
đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình đi lên chủ

24
nghĩa xã hội.
Nguyễn Hoàng ũng (2002), Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với xuất
bản nước ta hiện nay [10]. ông trình đã trình bày các khái niệm về xuất bản
từ quan điểm truyền thống đến quan điểm mới, phân tích vai trò của quản lý
nhà nước đối với xuất bản từ khi có Luật xuất bản, đánh giá thực trạng của
quản lý nhà nước đối với xuất bản, chỉ ra các yếu kém, hạn chế của nền xuất
bản, những xu thế thương mại hoá, chệch định hướng, xa rời chức năng,
nhiệm vụ, từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý của nhà
nước đối với hoạt động này. Trong phần giải pháp, tác giả tập trung vào việc
phân tích sửa đổi, bổ sung luật Luật xuất bản về tổ chức mô hình và cải cách
hành chính ở một số lĩnh vực. Mặc dù công trình chủ yếu bàn về nội dung của
Luật Xuất bản, song, đây cũng là một góc nhìn chứa đựng rất nhiều gợi mở
đối với luận án. Bởi lẽ, những ưu điểm, hạn chế và đề xuất những nội dung
pháp lý về mô hình và cải cách hành chính trong một số lĩnh vực quản lý nhà
nước về xuất bản đã cho thấy một phần khá cơ bản trong chính sách xuất bản
ở Việt Nam giai đoạn trước đây. Trên cơ sở này, luận án sẽ có những đánh giá
sâu sắc và toàn diện hơn, cũng như nghiên cứu, xây dựng những giải pháp
phù hợp với hiện tại.
Nguyễn Anh Tú (2015), Quản nhà nước đối với xuất bản ở Việt Nam
[82], luận án tiến sĩ kinh tế. Luận án đã hệ thống hóa và làm rõ khái niệm, đặc
điểm của xuất bản, các loại hình XBP và khái quát được quy trình xuất bản,
làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với xuất bản theo quy trình quản lý, chỉ
rõ các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với xuất bản, phân tích vai
trò của quản lý nhà nước và các chức năng cơ bản trong quản lý xuất bản, liên
hệ thực trạng quản lý nhà nước đối với xuất bản trước và sau khi có Luật xuất
bản, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của quản lý nhà nước đối với xuất bản
hiện nay, chỉ ra các nguyên nhân chủ quan, khách quan của những điểm yếu,
từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý của nhà nước đối

25
với hoạt động này. Với luận án này chúng ta thấy vấn đề SXB đã được đề
cập đến ở quản lý nhà nước nhưng chỉ chủ yếu nói đến lĩnh vực xuất bản, lĩnh
vực in và phát hành không đề cập đến.
Vương Thuỳ Linh (2015), Chính sách phát triển xuất bản điện tử ở Việt
Nam hiện nay [52]. Công trình trình bày về chính sách phát triển xuất bản
điển tử ở Việt Nam, làm rõ khái niệm chính sách phát triển xuất bản điện tử,
đưa ra đánh giá chung về chính sách dựa trên kết quả khảo sát nghiên cứu và
tình hình thực tiễn xuất bản điện tử ở nước ta. Từ đó đưa ra các kiến nghị và
giải pháp để hoàn thiện chính sách đối với lĩnh vực này. Ở công trình này tác
giả đã đề cập đến vấn đề lý thuyết của chính sách, cụ thể là SXB điện tử và
xuất bản điện tử ở đây được xác định là một trong các đối tượng của xuất bản.
Theo đó, tác giả cho rằng, cần phải có những chính sách mới, tác động đồng
bộ, từ nhiều phía, cả về các quy định, ưu đãi về thuế, về hành lang pháp lý, về
hỗ trợ kinh phí, về quy hoạch phát triển… để xuất bản điện tử vươn lên đáp
ứng yêu cầu trong sự phát triển xã hội. CSXB bao hàm nhiều nội dung, trong
đó, SXB điện tử là một bộ phận, vì vậy, đây là một gợi mở đáng chú ý trong
quá trình tác giả luận án xây dựng luận án này.
Nguyễn Thị Thục An (2014), Quản lý xuất bản sách in ở Việt Nam [1].
ông trình đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước về xuất bản từ năm 2004
đến năm 2013; hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong
xuất bản nói chung và xuất bản sách in nói riêng; phân tích, đánh giá kinh
nghiệm quản lý nhà nước về xuất bản trên thế giới và rút ra bài học cho Việt
Nam; khái quát những thành tựu, hạn chế trong hoạt động này và tìm ra
nguyên nhân của các hạn chế đó. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng
cường quản lý nhà nước về xuất bản. Quản lý xuất bản sách in là một khâu
trong toàn bộ chính sách đối với xuất bản sách in. Như vậy, nghiên cứu này
đã tập trung vào một phần, một bộ phận trong chỉnh thể của vấn đề mà luận
án nghiên cứu. Theo đó, công tác quản lý xuất bản, đặc biệt là những nội dung

26
chính sách liên quan đến việc kiểm tra, giám sát cả về nội dung XBP và thị
trường XBP cũng sẽ được quan tâm chú ý như một bộ phận của CSXB trong
luận án này.
Đỗ Thị Quyên (2008), Nghiên cứu vấn đề quản lý thị trường XBP ở
Việt Nam từ năm 1993 đến nay [66]. Luận án nghiên cứu vấn đề quản lý thị
trường sách từ năm 1993 đến năm 2006 và đề xuất một số giải pháp quản lý
thị trường sách in. Do nghiên cứu từ góc độ chuyên ngành văn hóa học, do đó,
luận án của Đỗ Thị Quyên chủ yếu mới chỉ xem xét ở góc độ tính chất văn hóa
của XBP và những giải pháp của tác giả cũng mới chỉ dừng ở khía cạnh pháp
luật quản lý thị trường. Tuy nhiên, luận án đã có những thống kê, đánh giá hết
sức công phu, tỉ mỉ về các loại hình XBP trên thị trường, tạo cơ sở thuận lợi để
nghiên cứu sinh nghiên cứu về CSXB ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Lan Hương (2013), Quản nhà nước về bảo hộ quyền tác giả
trong xuất bản ở Việt Nam hiện nay [47]. ông trình đã phân tích khái niệm
“quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả trong xuất bản”, đặc điểm, nội
dung, hình thức, phương pháp và các điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện
pháp luật về bảo hộ quyền tác giả có hiệu quả; đánh giá tổng quát thực trạng
quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả trong xuất bản ở Việt Nam; luận
chứng các yêu cầu khách quan của việc quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác
giả trong xuất bản và các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu
quả quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả trong xuất bản ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới. Từ thực trạng nghiên cứu tình
trạng vi phạm bản quyền tác giả, pháp luật về bảo hộ quyền tác giả cũng như
vấn đề quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả trong xuất bản ở Việt Nam,
trình bày phương hướng, đề xuất một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị khá
cụ thể đối với các nhà làm luật, cơ quan quản lý.
Nghiên cứu về vi phạm xuất bản và xử lý vi phạm xuất bản:
Phạm Thị Xuân Thủy (2009), Nghiên cứu các biện pháp giảm thiểu các
hành vi vi phạm trong ĩnh vực xuất bản [79]. Đề tài khoa học cấp bộ đã chỉ ra

27
các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất bản thường gặp, như: Phát
hành XBP không có nguồn gốc hợp pháp hoặc chưa nộp lưu chiểu, xuất bản
mà không đăng ký, không có quyết định xuất bản; thay đổi, làm sai lệch nôi
dung bản thảo đã được ký duyệt v.v. Đề tài cũng nêu lên nhóm giải pháp để
phòng ngừa cũng như ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất bản.
Như vậy, đề tài này đã phản ánh được một phần những thực trạng hạn chế, yếu
kém của xuất bản, và theo đó, cũng chính là những vấn đề mà CSXB cần phải giải
quyết; đồng thời, có những giải pháp mang ý nghĩa tham khảo cho Luận án này.
Nguyễn Kiểm (2010), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp kỹ thuật và
pháp lý nâng cao hiệu quả xử lý XBP vi phạm pháp luật [48] (Đề tài khoa học
cấp bộ). Nội dung nghiên cứu của đề tài này là đề xuất các giải pháp nhằm xử
lý một cách có hiệu quả các XBP vi phạm pháp luật, nhằm tăng cường quản
lý trong lĩnh vực xuất bản. Một lần nữa vấn đề giải pháp đối với hành vi vi
phạm trong lĩnh vực xuất bản được đề cập đến. Đây là một nghiên cứu chuyên
sâu, có ý nghĩa tham khảo đối với tác giả Luận án trong xây dựng giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của CSXB Việt Nam hiện nay.
Hoàng Mạnh Thắng (2012), Thương mại hóa trong xuất bản sách -
thực trạng và giải pháp [76] (Đề tài nghiên cứu cấp bộ). Trong đề tài này, sau
khi phân tích những điểm tích cực, hạn chế và các nguyên nhân của các hạn
chế trong xuất bản ở nước ta từ năm 2004 đến nay, tác giả đã đề xuất nhiều
giải pháp cả về nhận thức, cơ chế chính sách, và tổ chức - quản lý nhằm phát
huy ưu điểm của thương mại hóa trong xuất bản sách. Nhóm tác giả cũng đưa
ra nhiều kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chủ quản và các
NXB, cộng đồng và các tổ chức xã hội, trong đó tập trung vào các vấn đề
như: một là, phải xây dựng và triển khai chiến lược phát triển ngành xuất bản
Việt Nam đến năm 2020 và những năm tiếp sau; hai là, cần cụ thể hóa Luật
Xuất bản sửa đổi bằng những văn bản dưới luật; ba là, tăng cường các biện
pháp giám sát, kiểm tra, thanh tra định kỳ các đơn vị XBIPH sách. Ở đề tài
này vấn đề chính sách đã được đề cập đến ở lĩnh vực công cụ, chủ thể, thể chế

28
và giải pháp, nhưng chưa sâu và chưa đầy đủ.
Lê Văn Yên (2012), Thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng in
ậu sách ở nước ta [93] (Đề tài khoa học cấp bộ). Đề tài khảo sát, điều tra và
phân tích rõ thực trạng in lậu sách ở nước ta từ năm 2001 đến năm 2011, phân
tích và làm rõ các hành vi in lậu, các loại hình, tính chất, quy mô, phạm vi,
nguyên nhân và tác hại của tình trạng in lậu sách. Tác giả phân tích và chứng
minh thực trạng công tác phòng, chống in lậu sách ở nước ta về tổ chức lực
lượng, về những kết quả, hạn chế cùng những nguyên nhân của những kết quả
và hạn chế trong công tác phòng, chống in lậu sách ở nước ta thời gian qua.
Từ thực trạng của tình trạng in lậu sách và thực trạng cộng tác phòng, chống
in lậu sách, đề tài đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu và nêu một số
kiến nghị nhằm góp phần khắc phục tình trạng in lậu sách ở nước ta hiện nay.
Ở đề tài này tác giả mới chỉ nói đến một khâu trong xuất bản đó chính là hoạt
động in mà cụ thể đối tượng ở đây là in lậu sách.
Nhìn chung, dù mỗi công trình chỉ tập trung nghiên cứu ở một lĩnh vực,
một khía cạnh hay một nhóm hành vi vi phạm khác nhau, song, tổng quan
nhóm công trình nghiên cứu về vi phạm và xử lý vi phạm xuất bản đã cung
cấp cho tác giả Luận án những dữ liệu khá trung thực và nhiều chi tiết của bộ
mặt xuất bản hiện nay, làm cơ sở để tác giả đưa ra những nhận định chính xác
hơn về SXB ở nước ta hiện nay.
1.2. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra
luận án cần tiếp tục giải quyết
1.2.1. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học liên quan đến đề tài
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Luận án,
nghiên cứu sinh nhận thấy, một số vấn đề lý luận, thực tiễn về xuất bản và
một số chính sách cụ thể ở từng lĩnh vực của xuất bản đã được làm rõ, tạo
điều kiện quan trọng để nghiên cứu sinh xây dựng Luận án này. Cụ thể:

29
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về chính sách công đã xây dựng
nên được một khung lý luận khá vững chắc và rõ ràng về những chính sách
của một ngành, lĩnh vực nào đó cụ thể (trong đó, có SXB). Lý luận về chính
sách công đã làm rõ quan niệm về chính sách công, nội dung, cấu trúc, quy
trình xây dựng, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng, chi phối đến quá trình xây
dựng và thực thi chính sách. Lý luận cũng nêu lên những nguyên tắc, những
tiêu chí đánh giá chính sách công. Đây là những nội dung hết sức cơ bản để
nghiên cứu sinh kế thừa trong xem xét nghiên cứu chính sách trong một
ngành cụ thể, đó là ngành xuất bản ở Việt Nam.
Thứ hai, đã có nhiều công trình nghiên cứu về xuất bản trên thế giới và
ở Việt Nam với nhiều giác độ khác nhau. Hầu hết các công trình đều thống
nhất đánh giá vai trò của xuất bản là rất quan trọng đối với đời sống xã hội.
Tuy nhiên, đối chiếu giữa các nghiên cứu về xuất bản ở một số nước trên thế
giới với xuất bản ở Việt Nam, cho thấy, có sự khác biệt căn bản về vị trí của
xuất bản. Nếu như ở Việt Nam, xuất bản được coi là một hoạt động thuộc
ngành văn hóa - tư tưởng, thì hầu hết các nước chỉ coi đó là một ngành sản
xuất kinh doanh (cố nhiên, có thêm những quy định cụ thể). Theo nghiên cứu
sinh, đây chính là điểm khác biệt quan trọng để nghiên cứu sinh tập trung
nghiên cứu, tìm ra những đặc thù về CSXB ở Việt Nam, đồng thời, đánh giá
những ưu điểm, hạn chế của nó. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu về xuất
bản đã cho tác giả Luận án một cái nhìn tổng quan về lịch sử hình thành, đặc
điểm, những thay đổi về cơ cấu ngành, xu thế tương lai,... Một số công trình
cũng đã bắt đầu chạm tới một số nội dung cụ thể của SXB, như: hính sách
quản lý nhà nước, chính sách thuế, chính sách xử lý sai phạm trong xuất
bản,... Đó là những tri thức quan trọng, mang ý nghĩa xuất phát điểm để
nghiên cứu sinh đi tới những vấn đề chung, toàn diện của CSXB.
Thứ ba, các nghiên cứu về thực tiễn xuất bản trên thế giới và Việt Nam,
với những số liệu thống kê, đánh giá, so sánh đã dựng nên một bức tranh cụ

30
thể về tình hình xuất bản hiện nay, trong đó có cả những ưu điểm, những hạn
chế. Theo đó, ưu điểm cơ bản của CSXB Việt Nam trong thời gian qua, là đã
thực hiện khá tốt chức năng văn hóa - tư tưởng, bám sát nhiệm vụ chính trị
của Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Song, còn nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề chậm đổi mới
trong cơ chế quản lý, công nghệ lạc hậu, lúng túng trước những mô hình phát
triển mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp... Những đánh giá từ các
công trình trước đây góp phần định hướng để nghiên cứu sinh có hướng đi
tìm hiểu thực tế một cách đúng đắn, hiệu quả.
Thứ tư, trên cơ sở đánh giá thực trạng, một số công trình đã đề xuất
nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của xuất bản cũng như
hiệu lực, hiệu quả của một số CSXB cụ thể. Hầu hết các giải pháp đều nằm
trong các nhóm chính như, giải pháp về nâng cao nhận thức, tư tưởng, trách
nhiệm của chủ thể, giải pháp về đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật, giải
pháp về công tác tổ chức, nhân lực, giải pháp về đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất hiện đại. Xét trong tính cụ thể của từng công trình nghiên cứu, nhiều giải
pháp có tính thiết thực, khả thi cao, song, xét ở bình diện lớn, đôi khi, nó lại
trở thành mâu thuẫn với nhau. o đó, khi xây dựng Luận án, nghiên cứu sinh
sẽ nghiên cứu, tham khảo cụ thể các giải pháp mà các công trình trước đã đề
xuất, đặt nó trong tính chỉnh thể, để nhằm tìm ra được các giải pháp tối ưu
nâng cao chất lượng CSXB ở Việt Nam.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Tuy đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về chính sách công, về
xuất bản và các lĩnh vực có liên quan, song, có thể nhận thấy, vẫn còn những
khoảng trống, những vấn đề chưa được làm rõ. Đây chính là những vấn đề đặt
ra mà Luận án cần tiếp tục giải quyết.
Thứ nhất, hầu hết các công trình nghiên cứu, mới chỉ xem xét về xuất
bản, với những cấu trúc riêng của nó. Một số công trình nghiên cứu về CSXB,

31
song, chủ yếu đều mang tính riêng lẻ, phân mảnh, đi vào một số chính sách cụ
thể. o đó, chưa đưa lại được một khung lý luận bao quát về CSXB. Luận án
này, trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý trong các nghiên cứu lý luận về
những chính sách cụ thể đó, đồng thời, mở rộng, làm rõ thêm, sẽ đi tới quan
niệm về CSXB, vị trí, vai trò của nó trong hệ thống chính sách phát triển đất
nước, những đặc điểm và nhân tố ảnh hưởng, tác động tới quá trình xây dựng,
thực thi. Luận án cũng sẽ phân tích kỹ cấu trúc nội dung của CSXB và những
tiêu chí đánh giá, lấy đó làm cơ sở lý luận để nghiên cứu thực trạng CSXB ở
Việt Nam.
Thứ hai, bám sát vào khung lý luận đã xây dựng, đồng thời, tận dụng
các kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đây về thực trạng tình hình xuất
bản, Luận án sẽ tìm hiểu mục tiêu, nội dung, giải pháp và các chủ thể của
chính sách. ăn cứ vào hệ thống các tiêu chí đánh giá, Luận án sẽ đánh giá,
chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, bất cập của CSXB ở Việt Nam, tìm ra nguyên
nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan.
Thứ ba, ở góc độ chuyên ngành chính sách công, mọi công trình nghiên
cứu khoa học nói chung, Luận án này nói riêng đều cần phải đề xuất được
những những giải pháp chính sách mới hoặc điều chỉnh những chính sách đã
không còn phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở kết quả đánh giá chính sách và
nguyên nhân đã tìm ra, nghiên cứu sinh sẽ cố gắng xây dựng một hệ các giải
pháp nhằm phát huy những ưu điểm, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của
CSXB ở Việt Nam hiện nay.

32
KẾT LUẬN C ƢƠNG 1
Liên quan đến SXB, đã có nhiều công trình khoa học cả trong nước
và nước ngoài tiếp cận từ nhiều góc độ (triết học, chính trị học, chính sách
công, xây dựng đảng và chính quyền nhà nước...), song, hầu hết, mới chỉ tiếp
cận ở những nội dung, khía cạnh nhỏ. Mặc dù vậy, kết quả của những công
trình đó đã mang lại những giá trị nhất định đối với đề tài Luận án này.
Nghiên cứu về chính sách công, đã làm rõ được những vấn đề hết sức cơ bản,
chung nhất về khái niệm, nội dung, quy trình, các nhân tố tác động, phương
thức đánh giá chính sách. Đó là những tri thức nền tảng để đưa vào làm rõ
chính sách của một lĩnh vực xã hội cụ thể như xuất bản. Nghiên cứu về xuất
bản, nhất là các công trình trong nước đã đưa lại một bức tranh tương đối chi
tiết, ở nhiều góc cạnh khác nhau về xuất bản Việt Nam trước đây và hiện nay.
Đồng thời, nhiều công trình nước ngoài đã có những nghiên cứu cụ thể, đánh
giá xu hướng phát triển và rút ra nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý,
kiểm soát, định hướng, công nghệ xuất bản hiện đại trên thế giới. Đó là những
bài học quý báu để từ nghiên cứu này, có thể đề xuất những giải pháp hoàn
thiện CSXB Việt Nam trong thời gian tiếp theo.
Mặc dù có nhiều giá trị kế thừa, song các công trình khoa học được
tổng quan vẫn còn rất nhiều khoảng trống về lý luận CSXB Việt Nam, đó
chính là cơ sở để tác giả thực hiện đề tài luận án này. Luận án đặt ra nhiệm vụ
nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về SXB, đưa ra thực trạng tình
hình CSXB ở Việt Nam hiện nay và đánh giá những chính sách ấy trên cơ sở
khung lý luận đã xây dựng, từ đó, đề xuất những giải pháp có tính thiết thực,
khả thi nhằm hoàn thiện CSXB ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo.

33
Chƣơng 2
N ỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ C ÍN SÁC UẤT BẢN

2.1. Các khái niệm


2.1.1. Khái niệm xuất bản và đặc trưng của xuất bản
Hiểu theo cách thông thường thì xuất bản là việc biên tập một bản thảo
thô để hoàn chỉnh nội dung trước khi đưa đi in ra thành sách, báo, tranh ảnh
để phát hành. Đối với các ngôn ngữ khác như tiếng Anh (publish), tiếng Pháp
(publier) thì xuất bản có nghĩa là công bố cho mọi người biết. Theo từ điển
xuất bản: “Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng thông qua
việc sản xuất, phổ biến XBP đến nhiều người” [74, tr.358]. Theo Luật xuất
bản 2012: Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản
mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện
tử. Như vậy xuất bản theo cách diễn đạt như trên được hiểu theo nghĩa hẹp, có
nghĩa, chỉ là một khâu trong cả quy trình từ khi một ý tưởng được hiện thực
hóa và đưa đến tay người đọc. ũng trong Luật, xuất bản còn được hiểu theo
nghĩa rộng, là hoạt động bao gồm các lĩnh vực XBIPH XBP. Như vậy, theo
cách hiểu này, xuất bản là một quá trình trọn vẹn, bao gồm ba khâu lớn là
XBIPH. Luận án này đề cập đến xuất bản và CSXB với nghĩa rộng, khái quát,
tuy nhiên, trong đó, luôn xác định lĩnh vực xuất bản là trung tâm của toàn bộ
hoạt động, do đó, trong nhiều nội dung, sẽ tập trung phân tích kỹ hơn về lĩnh
vực này, còn hai lĩnh vực còn lại, chỉ khái quát hóa và sử dụng dẫn chứng
chứng minh.
Hoạt động xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tinh thần,
thông qua việc sản xuất, phổ biến các xuất bản phẩm đến với đông đảo bạn
đọc. Tuy nhiên, hoạt động xuất bản không thể thực hiện được nếu không có
những điều kiện vật chất nhất định, xuất bản phẩm còn là một loại hàng hóa
(hàng hóa đặc thù), được sản xuất ra là để bán cho người sử dụng nhằm thu

34
được lợi nhuận và không ngừng tái sản xuất mở rộng. Vì vậy hoạt động xuất
bản còn thuộc lĩnh vực kinh tế.
Như vậy, có thể quan niệm: xuất bản vừa là hoạt động sáng tạo ra tri
thức, vừa là hoạt động sản xuất vật chất, là quá trình vật chất hóa các giá trị
tinh thần thành sản phẩm hàng hóa cụ thể, được thực hiện với sự hỗ trợ của
các phương tiện, kỹ thuật và theo những công nghệ nhất định.
Cách hiểu khái quát về xuất bản như vậy có ý nghĩa quan trọng, làm cơ
sở để xác định quan niệm về chính sách xuất bản. Theo đó, có thể hiểu quan
niệm về xuất bản trên hai khía cạnh cơ bản:
Khía cạnh thứ nhất, quan niệm này đã xác định được thực chất của xuất
bản, đó là hoạt động "kép", là sự song trùng của "sự sáng tạo tri thức" và "sản
xuất vật chất" (dưới khía cạnh xã hội, đặc điểm này được hiểu là hoạt động
kinh doanh đặc thù, là sự thống nhất giữa chức năng văn hóa, chính trị - tư
tưởng với chức năng kinh tế). Nói cách khác, đó là quá trình vật chất hóa các
giá trị tinh thần thành sản phẩm hàng hóa cụ thể và đưa chúng vào trong đời
sống xã hội. Và đây cũng là đặc trưng quan trọng nhất quy định tính đặc thù
của chính sách xuất bản. Theo đó, chính sách xuất bản sẽ vừa phải đảm bảo
cho xuất bản thực hiện được vai trò tuyên truyền văn hóa, nâng cao đời sống
tư tưởng, tinh thần xã hội, nhưng đồng thời, cũng không được phép coi nhẹ
vai trò tham gia đóng góp kinh tế vào sự phát triển xã hội.
Khía cạnh thứ hai, xuất bản được thực hiện với sự hỗ trợ của các
phương tiện, kỹ thuật và theo những công nghệ nhất định. Theo đó, thì trên
khía cạnh này, xuất bản gồm: Một là, hoạt động tổ chức bản thảo, biên tập
bản thảo cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của độc giả và tiêu chí của NXB.
Đây chính là hoạt động lựa chọn văn hóa, góp phần tạo ra văn hóa thông qua
tổ chức bản thảo, hoàn thiện bản thảo thông qua biên tập để đưa đến độc giả
các thông tin hoàn thiện nhất, phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của độc giả. Hai
là, nhân bản hàng loạt các bản thảo đã được gia công sửa chữa, biên tập nội

35
dung, thiết kế hình thức phù hợp dưới một dạng vật chất nhất định. Ba là,
truyền bá, phổ biến rộng rãi các sản phẩm chứa thông tin sau khi đã được biên
tập và nhân bản. Ba khâu này là mặt kỹ thuật của xuất bản. Kéo theo đó, là
nhiều vấn đề liên quan đến việc hoạch định kế hoạch, kiểm tra, giám sát, đến
một số hình thức xuất bản mới xuất hiện, hợp xu hướng, có xu thế phát triển
nhanh (hiện nay là xuất bản điện tử), đến các đối tượng liên quan (như đội
ngũ tác giả, độc giả, thị trường, và cả nền văn hóa đọc của xã hội).
Nếu như ở khía cạnh thứ nhất khẳng định bản chất cốt lõi nhất của xuất
bản, thì khía cạnh thứ hai này đề cập đến những vấn đề hiện thực về mặt quy
trình của nó. Nếu như ở khía cạnh thứ nhất quan tâm nhiều đến mục tiêu của
chính sách xuất bản, thì ở khía cạnh thứ hai này cần hết sức quan tâm đến
những giải pháp và công cụ chính sách cụ thể để có thể tác động vào các mặt,
các khâu, các thành phần của hoạt động xuất bản, như: chính sách quy hoạch
phát triển, chính sách quản lý và kiểm soát, chính sách phát triển xuất bản
điện tử, phát triển văn hóa đọc,…
Mục đích của xuất bản được quy định tại Điều 3 Luật Xuất bản năm
2012 như sau: “xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới
thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức lối sống tốt đẹp của người Việt Nam,
mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh
chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XH N”.
Theo Luật xuất bản năm 2012: XBP là tác phẩm, tài liệu về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học,
nghệ thuật được xuất bản thông qua NXB hoặc cơ quan, tổ chức được cấp
giấy phép xuất bản bằng các ngôn ngữ khác nhau, bằng hình ảnh, âm thành và
được thể hiện dưới các hình thức sau như: Sách in; Sách chữ nổi; Tranh, ảnh,

36
bản đồ, áp phích, tờ rơi, tờ gấp; Các loại lịch; Bản ghi âm, ghi hình có nội
dung thay sách hoặc minh họa cho sách.
Đặc trưng của xuất bản
Xuất bản là hoạt động kinh doanh hàng hóa đặc thù. XBP là một loại
hàng hóa nhưng là hàng hóa đặc biệt. XBP là hàng hóa bởi nó có đầy đủ hai
thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Quá trình sản xuất một XBP có nhiều
công đoạn sản xuất và có nhiều chi phí khác nhau: chi phí biên soạn, viết,
sáng tác, chi phí in ấn xuất bản và chi phí lưu thông. Tất cả những chi phí đó
hình thành nên giá trị của XBP trên thị trường. Giá trị này được thể hiện
thông qua giá cả. Ở nước ta, giá cả của XBP cao hay thấp phụ thuộc không
chỉ bởi giá trị của chúng hay quy luật của thị trường mà còn phụ thuộc vào
chính sách, định hướng của Đảng, Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
Mỗi một loại XBP cụ thể chứa đựng một nội dung tri thức nhất định nhằm
đáp ứng nhu cầu của một hoặc vài nhóm đối tượng khách hàng nhất định.
Đó là giá trị sử dụng của XBP. XBP là hàng hóa đặc biệt nhằm thỏa mãn
nhu cầu văn hóa tinh thần và trí tuệ, góp phần tích cực vào việc hình thành
nhân cách con người. o đó, XBP có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với xã hội.
Xuất bản thực hiện chức năng chính trị tư tưởng. Mục tiêu lâu dài của
xuất bản hướng tới là nhằm đạt tới hiệu quả xã hội. Bên cạnh mảng sách
thuần túy kinh doanh đáp ứng nhu cầu khách hàng, của thị trường, theo định
hướng của Đảng, Nhà nước, hoạt động này có nhiệm vụ trong việc sản xuất
và phổ biến một khối lượng lớn XBP theo chương trình XBP tài trợ của Nhà
nước đến mọi miền của đất nước. Trong những năm qua, Nhà nước rất quan
tâm đến lĩnh vực này và đã có sự đầu tư tài trợ thích đáng. Những chương
trình sách tài trợ cho các đối tượng chính sách, vùng sâu, vùng xa, miền núi,
hải đảo hàng năm vẫn thường xuyên được tổ chức. Hàng triệu bản sách các
loại thuộc nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau của đời sống xã hội đã nhanh
chóng được phổ biến sâu rộng trong xã hội. Bằng nhiều hình thức, các XBP

37
được đưa đến khách hàng, các thư viện, trường học, các điểm văn hóa cơ sở
(thông qua câu lạc bộ, nhà văn hóa…) đáp ứng nhu cầu đọc của công chúng,
nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Xuất bản thực hiện chức năng kinh doanh. Xuất bản đồng thời cũng là
một hoạt động kinh tế. Hoạt động đó gồm ba khâu xuất bản - in - phát hành.
Mục tiêu của xuất bản nhằm hướng tới đáp ứng nhu cầu của người sử dụng
XBP trong xã hội (người mua và đọc XBP). Quá trình vận động giữa các khâu
sáng tác - biên tập - in - phát hành đến khách hàng là một chu trình kinh tế
khép kín sản xuất - ưu thông - tiêu dùng. Đó là một quá trình kinh tế để thực
hiện việc sản xuất ra các XBP và sử dụng các hình thức, biện pháp nhằm đẩy
mạnh việc tiêu thụ hàng hóa XBP trên thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường, xuất bản chịu sự chi phối mạnh mẽ của các quy luật kinh tế. Việc sản
xuất kinh doanh các XBP trên thị trường phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
luật cung - cầu, giá trị và cạnh tranh. Xuất bản cũng phải hướng tới lợi nhuận,
mà lợi nhuận chính là động lực, mục tiêu của sản suất kinh doanh. Hiệu quả
kinh tế chính là điều kiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của xuất bản.
Đồng thời, hiệu quả kinh tế cũng là cơ sở để xuất bản đạt được hiệu quả xã
hội to lớn.
Như vậy, ở nước ta, xuất bản là một hoạt động đặc thù - hoạt động kinh
tế trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Hoạt động sản xuất kinh doanh loại hàng
hóa đặc biệt, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần cho xã hội theo định
hướng của Đảng và Nhà nước. Xuất bản phải vận hành trong nền kinh tế thị
trường và tuân thủ các quy luật kinh tế, lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu
trước mắt, nhằm thực hiện tốt hiệu quả xã hội.
Chủ thể tham gia xuất bản bao gồm:
- ác cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản.
- ác NXB và các cơ quan chủ quản.
- ác đơn vị in.

38
- ác cơ sở phát hành.
- Các tác giả.
- Người sử dụng các XBP.
2.1.2. Khái niệm chính sách công
Trong quá trình vận hành, để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước
ban hành chính sách công. Tuy chính sách công có một thực tiễn phong phú
và sinh động trong hoạt động quản lý nhà nước nhưng từ góc độ khoa học,
các nhà nghiên cứu lại có nhiều cách hiểu khác nhau.
Một số nhà nghiên cứu hiểu chính sách công theo một khái niệm với
nội hàm rất rộng. Thomas ye: “ hính sách công là bất kỳ những gì mà nhà
nước lựa chọn làm hoặc không làm” [115, tr.26]. Michael Howlett thì lại đưa
ra định nghĩa: “ hính sách công là một đường lối hành động có mục đích
được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các chủ thể để giải quyết một vấn đề
phát sinh hoặc vấn đề quan tâm” [109, tr.68]. Quan niệm của hai ông về chính
sách công như vậy có ưu điểm là dễ hiểu do đơn giản nhưng nội hàm quá
rộng đến mức “khuyếch đại” chính sách công trở thành “mọi thứ” trong quá
trình vận hành và điều hành xã hội, dẫn đến rất khó trong nghiên cứu cụ thể
các vấn đề liên quan, đặc biệt là khi phân tích, đánh giá chính sách.
Có nhiều nhà nghiên cứu quan niệm chính sách công dưới góc nhìn như
là những hành động trong thực tiễn, hay quá trình hành động thực tiễn, như:
“ hính sách công là toàn bộ các hoạt động của chính phủ (trực tiếp hoặc gián
tiếp) có ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân” [109, tr.65]; “ hính sách
công là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm
theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề” [105, tr.16].
“Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ/chính
quyền và những ý định quyết định hành động này; chính sách công là kết quả
của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì”. “ hính sách
công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để

39
đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu
chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định
và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình” [108,
tr.62]. Peter Aucoin cho rằng: “chính sách công bao gồm các hoạt động thực
tế do Chính phủ tiến hành” [101, tr.12]. Theo ông, những hành động của
chính phủ (quyết định của chính quyền thành phố về sự phát triển ở một vùng
cụ thể) là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng về hành động hay không
hành động, hành động theo cách này hay hành động theo cách khác trước một
số vấn đề cụ thể. Còn PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải cho rằng: “ hính sách công
là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời
sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc
đẩy xã hội phát triển” [21, tr.15]. Nhìn chung, các định nghĩa này khẳng định
chủ thể ban hành và thực thi chính sách công là Nhà nước, đồng thời nhấn
mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là
một cộng đồng. ũng theo hướng nghiên cứu này, nghiên cứu chính sách sẽ
thiên nhiều hơn về phía quy trình tổ chức thực hiện chính sách.
Một số nhà nghiên cứu nghiêng về quan niệm chính sách công là quyết
định hoặc tập hợp quyết định. Theo đó, hầu hết các quan niệm ở nhóm này
đều coi chính sách công như là những đường lối, chủ trương của các tổ chức
chính trị và tổ chức hành pháp, nhằm điều chỉnh những hoạt động hiện thực.
Các nghiên cứu này có xu hướng thiên về đánh giá tính hợp lý của chính sách
với hiện thực. Có thể kể đến một số quan niệm như: William Jenkin quan
niệm “chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau
của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa
chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó” [118, tr.41]. Định
nghĩa này nhấn mạnh: chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ
mà là một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, do các nhà chính trị
trong bộ máy nhà nước ban hành hay các cơ quan nhà nước là chủ thể ban

40
hành chính sách công, nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn
của Nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.
“ hính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn
nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước
hay các quan chức nhà nước đề ra” [119, tr.30]. Tác giả dùng thuật ngữ "sự
lựa chọn" - đây là điểm đáng lưu ý để tránh sự nhầm lẫn giữa chính sách với
các khái niệm khác như quyết định hành chính. Theo PGS.TS. Đỗ Phú Hải:
“ hính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan để “lựa chọn”
mục tiêu và những giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề
chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”
[25, tr.36].
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau như trình bày ở trên, các quan
niệm khác nhau đó về chính sách công vẫn có những điểm tương đồng. Đó là:
Chính sách công à các hành động của chính quyền: o Nhà nước ban
hành và thực thi trên cơ sở quyền lực pháp lý, chính trị và nguồn lực của Nhà
nước. Một chính sách công có thể do một đại diện hay một cơ quan của Chính
phủ thực thi nhưng cũng có thể do nhiều chủ thể thực thi. Khi một chính sách
công được ban hành thì nó trở thành các quyết định có tính hiệu lực thực thi.
Chính sách công được xây dựng và thực thi nhằm giải quyết một vấn đề
công theo những mục tiêu đã xác định: Là một quá trình hành động nhằm giải
quyết một vấn đề công hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu nào đó của công
chúng. Vấn đề công thường được thể hiện như là mâu thuẫn xã hội hay nhu
cầu thay đổi hiện trạng nảy sinh trong đời sống xã hội. Điểm đáng lưu ý là
việc giải quyết vấn đề công được thực hiện thông qua quá trình theo đuổi các
mục tiêu xác định mà chính quyền mong muốn đạt được.
Chính sách công là tập hợp các quyết định: Bao gồm nhiều quyết định
có liên quan đến nhau, cả quyết định mang tính dự định và quyết định mang
tính hành động (hành động thực tiễn). Các quyết định ở đây có ý nghĩa rộng

41
có thể bao gồm cả luật, các quyết định dưới luật, các chương trình dự án là
giải pháp cho vấn đề chính sách.
Từ những định nghĩa trên, có thể đưa ra một khái niệm về chính sách
công như sau: Chính sách công là tập hợp các quyết định và hành động tương
ứng của cơ quan có thẩm quyền hướng đến các nhóm đối tượng thụ hưởng
nhằm giải quyết những vấn đề công theo mục tiêu nhất định.
2.1.3. Khái niệm chính sách xuất bản
Trên cơ sở quan niệm về chính sách công và những đặc trưng, quan
niệm về xuất bản ở trên, luận án cho rằng: CSXB là tập hợp các quyết định và
hành động tương ứng của cơ quan có thẩm quyền hướng đến các chủ thể
tham gia xuất bản, nhằm đưa xuất bản thực hiện tốt chức năng văn hóa - tư
tưởng và chức năng kinh doanh của mình.
Như vậy, cần hiểu khái niệm CSXB trên một số điểm chính như sau:
Thứ nhất, CSXB là tổng hợp các chính sách bộ phận, tác động ở phạm
vi rộng mang tính dài hạn đến sự phát triển xuất bản. Các chính sách này sử
dụng nhiều công cụ và giải pháp khác nhau. Mỗi một chính sách bộ phận
trong CSXB có thể hướng đến tác động một chủ thể nhất định của xuất bản,
hoặc hướng tới một mặt, một lĩnh vực nào đó trong xuất bản. Ví dụ, chính
sách ưu đãi thuế, hướng đến đối tượng là các NXB, chính sách thực hiện ngày
sách, lại chủ yếu hướng đến đối tượng là người đọc và các tác giả, những
người sáng tác. Trong mỗi một chính sách bộ phận, lại có thể bao gồm nhiều
các giải pháp, công cụ cụ thể.
Thứ hai, CSXB là các quyết định và các hành động tương ứng của cơ
quan nhà nước tác động vào xuất bản. Ở đây, cần hiểu từ “quyết định” theo
nghĩa rộng, tức không chỉ là các quyết định hành chính mà thôi. Quyết định của
cơ quan nhà nước có thể là các luật, pháp lệnh, nghị định, hướng dẫn thi hành
luật, hay các quyết định cụ thể liên quan đến xuất bản. ơ quan nhà nước ban
hành các quyết định về xuất bản có thể là tổ chức đảng, bộ chủ quản, ủy ban

42
nhân dân hay các cơ quan có liên quan. Đồng thời với các văn bản quyết định,
SXB còn là các hành động tương ứng của chủ thể chính sách, nhằm trực tiếp
hay gián tiếp tác động đến các đối tượng nhằm những mục tiêu nhất định.
Thứ ba, mục tiêu tổng quát nhất của toàn bộ CSXB à đưa xuất bản
thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng văn hóa - tư tưởng và chức năng kinh
doanh. Chức năng văn hóa - tư tưởng và chức năng kinh doanh vừa mâu thuẫn
với nhau, nhưng đồng thời, chúng cũng thống nhất hỗ trợ cho nhau. Thực hiện
tốt chức năng văn hóa - tư tưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất bản thực hiện
tốt chức năng kinh doanh và ngược lại. Mục tiêu lớn nhất của toàn bộ chính
sách suy đến cùng là giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ đó. Trong mục
tiêu tổng quát, CSXB lại có các mục tiêu cụ thể. Hơn nữa, ở từng giai đoạn cụ
thể, từng địa phương, ngành cụ thể, lại có những mục tiêu riêng.
Thứ tư, về chủ thể CSXB. Có thể thấy rằng chủ thể của SXB đó là chủ
thể hoạch định chính sách và chủ thể thực thi chính sách theo phân cấp và cấp độ
ban hành chính sách.
CSXB do Chính phủ, bộ, ngành trung ương quyết định như các Nghị
định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Quyết định của bộ,
ngành. ác địa phương căn cứ vào chính sách của cấp trên và thực trạng tình
hình ở địa phương mình, đơn vị để tổ chức thực hiện, vận dụng chính sách
cho phù hợp.
Chủ thể thực thi chính sách ở đây bao gồm: các cơ quan quản lý nhà
nước về xuất bản, các cơ quan có liên quan. òn chủ thể chịu tác động của
chính sách đó là các cơ quan quản lý, các chủ thể tham gia xuất bản như
NXB, nhà in, phát hành, tác giả, người tiêu dùng.
Ở nước ta, cơ quan quản lý cao nhất, có thẩm quyền và chịu trách
nhiệm trước Quốc hội việc quản lý xuất bản trong phạm vi cả nước là Chính
phủ. Bộ TTTT là cơ quan của Chính phủ có thẩm quyền quản lý xuất bản ở
nước ta. Các bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ TTTT thực hiện quản lý

43
nhà nước về xuất bản theo thẩm quyền. Cục Xuất bản là cơ quan chức năng
của Bộ TTTT được giao nhiệm vụ quản lý xuất bản trong phạm vi cả nước.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan
quản lý, có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, trước Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố việc quản lý xuất bản. Sở TTTT là cơ quan chuyên
môn giúp việc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
được giao nhiệm vụ quản lý xuất bản tại địa phương.
Như vậy, bộ máy quản lý nhà nước về xuất bản được tổ chức thành hai
cấp: cấp Trung ương và cấp địa phương. Ở Trung ương là Bộ TTTT, với cơ
quan chức năng giúp việc Bộ là Cục Xuất bản. Ở địa phương là Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, với cơ quan chức năng giúp
việc Ủy ban là Sở TTTT. Ở nước ta, chính quyền nhà nước tổ chức thành
bốn cấp: Trung ương, tỉnh, huyện (quận), xã (phường), còn XBIPH chỉ tổ
chức đến cấp tỉnh.
2.2. Nội dung, đặc điểm và quy trình của chính sách xuất bản
2.2.1. Nội dung chính sách xuất bản
Nội dung SXB được tiếp cận theo nội dung của mục tiêu chính sách,
giải pháp chính sách, công cụ chính sách. Đây chính là ba bộ phận cấu thành
cơ bản của nội dung một chính sách công và mỗi bộ phận cấu thành đó của
những chính sách khác nhau lại có những nội dung cụ thể khác nhau. Nội
dung cụ thể của các bộ phận cấu thành SXB như sau:
2.2.1.1. Mục tiêu chính sách
Là hệ thống các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể được quy định cụ
thể trong các văn bản chính sách. Hệ thống mục tiêu này cho thấy mức độ
hiệu quả mong muốn của xuất bản trong tương lai, điều mà chủ thể CSXB
muốn xác lập. Vấn đề của chính sách, tức những hạn chế, bất cập hiện nay
trong việc phát triển xuất bản chính là một trong những cơ sở quan trọng nhất
để xác định mục tiêu. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác, như

44
đường lối, chủ trương của Đảng, bối cảnh kinh tế - xã hội, kinh nghiệm của các
nước, v.v.. Mục tiêu của CSXB bao hàm các mục tiêu chung (mục tiêu tổng
quát) và các mục tiêu cụ thể. Mục tiêu chung của SXB không ngoài đâu
khác là hướng xuất bản vào thực hiện tốt chức năng, vai trò của nó và tham
gia vào phát triển đất nước. Mục tiêu cụ thể thì căn cứ vào từng giai đoạn
cụ thể mà chủ thể chính sách xác định.
Mục tiêu của chính sách nói chung, chính sách xuất bản nói riêng luôn
có quan hệ biện chứng với hệ thống giải pháp, công cụ của nó. Mục tiêu là
căn cứ để xác định giải pháp, nói cách khác, mục tiêu như thế nào sẽ quyết
định việc sử dụng các giải pháp như thế nào, công cụ ra sao. Việc điều chỉnh
mục tiêu chính sách trong từng giai đoạn cần được xem xét, tính toán và điều
này sẽ dẫn tới việc điều chỉnh các giải pháp, công cụ tương ứng. Những giải
pháp, công cụ không phù hợp với mục tiêu điều chỉnh sẽ được sửa đổi hoặc
bãi bỏ, những giải pháp, công cụ mới có thể được xác lập. Điều này đảm bảo
cho chính sách xuất bản luôn được hoàn thiện để đảm bảo sự phù hợp, đồng
bộ, khả thi, hiệu lực và hiệu quả. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý đến nguy cơ
việc thay đổi quá nhanh các giải pháp, công cụ sẽ dẫn tới việc không kịp thích
ứng của nền công vụ, chính vì vậy mà tính khả thi của nó cũng cần phải được
đề cao.
2.2.1.2. Giải pháp của chính sách xuất bản
- Quy hoạch phát triển: Quy hoạch phát triển là một giải pháp mang
tính “xương sống” của toàn bộ CSXB. Mọi giải pháp khác đều phải căn cứ
vào quy hoạch phát triển để triển khai. Chính sách quy hoạch phát triển là các
quan điểm của cơ quan chủ quản nhà nước nhằm điều chỉnh, sắp xếp lại hệ
thống các NXB và các cơ sở in, phát hành theo những nguyên tắc, trật tự nhất
định. Quy hoạch phát triển xuất bản trước hết có một mục tiêu cụ thể với một
lộ trình xác định, thường là trong vòng 5 năm, 10 năm và tầm nhìn xa hơn nữa.
Theo đó, trong khoảng thời gian nhất định, quy hoạch cần đạt được cụ thể

45
những nội dung gì, ở từng lĩnh vực ra sao. Đơn cử như trong lĩnh vực xuất bản,
cần đạt mức tăng trưởng bao nhiêu phần trăm, số lượng bản sách xuất bản, bình
quân số bản sách hưởng thụ trên đầu người, quy hoạch mạng lưới đặt ra các
quy định cụ thể nhằm bắt buộc di chuyển hay điều chỉnh vị trí, số lượng (kèm
theo đó là các điều kiện cụ thể để thành lập hay bắt buộc giải thể, sát nhập) các
NXB, cơ sở in, phát hành.
- Quản lý, kiểm soát xuất bản: Đây là giải pháp có tác động thường
xuyên và toàn diện đến mọi hoạt động xuất bản. Trước hết, giải pháp quản lý,
kiểm soát xuất bản xác định cơ chế phối hợp giữa các chủ thể quản lý, trong
đó, trọng tâm nhất là phối hợp giữa các cơ quan Đảng và các bộ, ngành có chức
năng quản lý nhà nước về xuất bản. Xác định nguyên tắc phối hợp, cơ chế làm
việc thường xuyên và trong giải quyết một số công việc quan trọng cụ thể.
Trong mỗi công việc, nhiệm vụ, có giải pháp xác định rõ một cơ quan chịu
trách nhiệm chính và cơ quan phối hợp, không để tình trạng “trách nhiệm tập
thể”, “cha chung không ai khóc”.
Giải pháp về tăng cường giám sát, thanh tra xuất bản cũng được xác
định ở đây. Ở nội dung này, văn bản luật về xuất bản và các hướng dẫn chi
tiết thi hành quy định cụ thể, rõ ràng về chủ thể thanh, kiểm tra, những nhóm
hành vi sai phạm trong XBIPH và các chế tài cụ thể đối với từng hành vi.
Nhìn chung, cũng như các giải pháp trên các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, giải pháp về tăng cường giám sát, thanh tra, xử lý sai phạm xuất bản phải
phù hợp với thực tiễn, song, phải có những yêu cầu cao, tính răn đe mạnh mẽ,
mới góp phần thực hiện hiệu quả toàn bộ CSXB.
Kiểm soát liên kết xuất bản là một giải pháp mới được xác định từ luật
xuất bản sửa đổi năm 2008, được đánh giá là có nhiều điểm tiến bộ. Giải pháp
này quy định về trách nhiệm, hình thức, quy trình phối hợp giữa NXB và đối
tác. Luật cũng quy định rõ những trường hợp, danh mục loại sách được phép
liên kết biên tập bản thảo và loại sách không được phép.

46
- Tăng cường hợp tác quốc tế về xuất bản: Hợp tác quốc tế về xuất bản
là xu thế ngày càng mạnh mẽ trên thế giới. Giải pháp hợp tác quốc tế về xuất
bản vừa có tác dụng giúp xuất bản nội địa học hỏi những kinh nghiệm hoặc có
cơ hội tiếp cận với các công nghệ, cơ chế, quy trình tiên tiến của các nước có
thế mạnh về xuất bản; đồng thời, giúp quảng bá XBP nói riêng, văn hóa Việt
Nam nói chung ra bạn bè thế giới. Theo đó, giải pháp hợp tác quốc tế rất đa
dạng về các hình thức tổ chức hoạt động, song, đều có thể quy vào hai nhóm
mục đích trên. Trước hết, là thúc đẩy xuất bản Việt Nam mở cửa, liên kết,
nhập khẩu các dây chuyền công nghệ, các quy trình quản lý tiên tiến, hiện đại,
hoạt động mua bản quyền các tác phẩm nước ngoài… Đồng thời với các giải
pháp này, là việc xuất bản nội địa phải tham gia vào những vấn đề pháp lý về
xuất bản quốc tế, như công ước, luật. Điều này tiếp tục dẫn đến một hệ quả là
phải có các điều chỉnh về các quy định luật về xuất bản trong nước để phù hợp
với các yêu cầu pháp lý về xuất bản quốc tế. Thứ hai, là giải pháp thúc đẩy
quảng bá, đem các XBP Việt Nam ra với thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi
phải có những chính sách đồng bộ, để cho ra đời được những ấn phẩm có tầm
vóc, quy mô, chất lượng tương xứng, mang đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Bảo hộ quyền tác giả: Quyền tác giả là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn
đến xuất bản. Nếu như quyền tác giả được bảo hộ tốt, thì sẽ góp phần xây
dựng một nền xuất bản lành mạnh và thúc đẩy nó phát triển. Điều ngược lại
khiến cho xuất bản không thể phát triển một cách lành mạnh, hiện đại được.
Giải pháp bảo hộ quyền tác giả bao hàm nhiều khâu bước, nhiều vấn đề liên
quan, cụ thể đó là bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ với những quy
định cụ thể về quy trình đăng ký, bảo hộ và các chế tài ngăn chặn, xử phạt đối
với hành vi vi phạm.
- Phát triển văn hóa đọc trong xã hội: Văn hóa đọc trong xã hội vừa là
"sản phẩm" chịu tác động của xuất bản, song, nó cũng là một nhân tố tác động
mạnh mẽ tới xuất bản theo cả hai chiều hướng. Văn hóa đọc trong xã hội

47
được phát triển dĩ nhiên sẽ góp phần tạo động lực để xuất bản phát triển. Bởi
thế, phát triển văn hóa đọc là một giải pháp quan trọng của chính sách xuất
bản. Thực hiện giải pháp này đi kèm với nó là một loạt các phong trào cần
được gây dựng trong xã hội, đồng thời, cần có nhiều điều kiện cơ sở vật chất
bảo đảm, phục vụ, như: Hệ thống thư viện, một số thiết chế văn hóa, v.v..
2.2.1.3. Công cụ chính sách xuất bản
Có hai công cụ chính mà chính sách xuất bản sử dụng, đó là công cụ tổ
chức và công cụ tài chính - kinh tế
- Công cụ tổ chức: Đó là việc tổ chức các lực lượng, các cơ quan nhất
định để thực thi chính sách xuất bản, hiện thực hóa đường lối, chủ trương,
quan điểm và các mục tiêu, giải pháp xuất bản vào thực tiễn. Tùy vào thể chế
chính trị, chính đảng lãnh đạo, quan điểm phát triển khác nhau mà mỗi nước
lại có công cụ tổ chức khác nhau. ó nước tăng cường tổ chức để thực hiện
chức năng văn hóa, tư tưởng của xuất bản, có nước lại tăng cường tổ chức để
quản lý khía cạnh kinh tế của xuất bản, v.v.. Tuy nhiên, dù có nhấn mạnh mặt
nào, thì công cụ tổ chức cũng là những lực lượng vật chất mạnh mẽ để biến
các mục tiêu, giải pháp xuất bản đi vào đời sống, vào thực tiễn hoạt động xuất
bản.
- Công cụ tài chính - kinh tế: Là việc các chủ thể của chính sách xuất
bản sử dụng các nguồn kinh phí, tài chính, kinh tế (như ngân sách nhà nước,
thuế, v.v.) với những ưu đãi hay không ưu đãi nhất định, nhằm thúc đẩy hay
kìm hãm một hay một số mặt hoạt động hoặc lĩnh vực nhất định của xuất bản,
thông qua đó để thực hiện các mục tiêu nhất định. Công cụ tài chính - kinh tế
thường được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn: Tài trợ, đặt hàng
XBP. Nhà nước thường sử dụng một nguồn kinh phí nhất định để tài trợ cho
một mảng nào đó thuộc xuất bản, hay đứng ra với cương vị là một khách hàng
để đặt hàng XBP nhất định. Trợ cước vận chuyển: Thông thường, đối với một
số loại sách, nhất là các sách về lý luận chính trị, sách về tri thức khoa học

48
phổ thông, khi phân phối đến các khu vực vùng sâu, vùng xa, góp phần nâng
cao dân trí, thì nhà nước sẽ hỗ trợ một phần hay toàn bộ kinh phí vận chuyển.
u đãi về thuế: Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp hay NXB, tùy từng giai
đoạn phát triển của xuất bản cũng như căn cứ vào tình hình chung của ngân
sách, của kinh tế - xã hội đất nước, mà Nhà nước có thể cân nhắc miễn giảm
một số loại thuế nhất định, nhằm thúc đẩy xuất bản phát triển.
Nhìn chung, công cụ tài chính - kinh tế có tác dụng điều chỉnh và thực
hiện mục tiêu chính sách rất mạnh mẽ và nhanh chóng, bởi nó đánh vào lợi
ích của các đối tượng nhất định. Tuy nhiên, điều quan trọng là công cụ này
phải được sử dụng đúng mức và bảo đảm tính hiệu quả, phải được công khai,
minh bạch, để tránh "lợi ích nhóm" hoặc chính nó lại trở thành "lực kéo", làm
nơi dựa dẫm, ỷ lại của chính những đối tượng được hưởng lợi.
2.2.2. Đặc điểm của chính sách xuất bản
2.2.2.1. Chính sách xuất bản được xây dựng, ban hành, triển khai thực
hiện bởi chủ thể à cơ quan nhà nước trên cơ sở định hướng của Đảng cầm
quyền, nhằm tới những mục tiêu nhất định
Chủ thể của SXB là các cơ quan có thẩm quyền, từ Quốc hội, Chính
phủ, mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ TTTT, Cục xuất bản, và các địa
phương. Đây đều là các cơ quan, tổ chức được ủy thác quyền lực từ Nhân
dân, nắm trong tay quyền lực công, được trao thẩm quyền ban hành các văn
bản, thực hiện các giải pháp nhất định của CSXB theo nội dung văn bản chính
sách được phê duyệt. Thẩm quyền, năng lực của chủ thể chính sách có ảnh
hưởng quyết định đến hiệu quả của chính sách. Các chủ thể xây dựng, ban
hành chính sách sẽ phải căn cứ trên định hướng chính sách được Đảng cầm
quyền đề ra, cụ thể hóa định hướng đó vào nội dung các văn bản chính sách, ở
Việt Nam là định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các
nghị quyết, chỉ thị. Đây cũng là điểm đặc biệt ở Việt Nam so với nhiều nước
có chế độ nhiều đảng chính trị đối lập. Điểm thuận lợi ở đây là: o chỉ có duy

49
nhất một đảng lãnh đạo, do đó, các SXB đều có sự thống nhất cao, theo sự
lãnh đạo đó. Đồng thời, các cấp ủy đảng được tổ chức đến cơ sở, do vậy, hệ
thống cơ quan triển khai thực hiện SXB cũng được thống nhất, xuyên suốt
từ trung ương tới xã hội, từ quán triệt chủ trương, nhiệm vụ xuất bản, kiểm
duyệt, đến in ấn, phát hành. Đặc điểm thuận lợi này cần được phát huy một
cách tối đa trong thực tiễn để đảm bảo phát triển mạnh mẽ xuất bản cũng như
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các CSXB. Bên cạnh đó, đặc điểm này cũng có
thể là một điểm bất lợi, bởi lẽ, do có tình trạng bao cấp, do đó, dễ dẫn đến tình
trạng một số NXB ỷ nại, dựa dẫm vào nước, không tự chủ, sáng tạo trong triển
khai hoạt động của mình. Chính vì thế, bên cạnh việc phát huy những thuận lợi
như đã nói ở trên, cần có những cơ chế, chính sách, quy định cụ thể để giám sát
và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, trông chờ vào nhà nước của một số cơ sở
xuất bản.
Xét một cách khái quát nhất, tất cả mọi chính sách công đều nhằm đạt
được mục tiêu chung nhất là giải quyết triệt để những hạn chế, yếu kém hiện tại
và hướng tới đáp ứng tốt những yêu cầu, nhiệm vụ trong tương lai. Nội dung
SXB cũng vậy, trước hết nhằm giải quyết triệt để những vấn đề thực trạng yếu
kém. Mặt khác, cùng với sự phát triển rất mạnh mẽ, từng ngày, từng giờ của đời
sống xã hội, đồng thời, với tác động, ảnh hưởng ngày càng lớn của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 thì trong tương lai, nhu cầu thông tin, cũng như nhu cầu
nâng cao trình độ, định hướng tư tưởng liên tục tăng. Theo đó, cùng với yêu cầu
ngày càng cao của công tác tư tưởng - văn hóa, thì yêu cầu của xuất bản cũng
tiếp tục đòi hỏi phải được đáp ứng tương xứng. Điều đó đồng nghĩa với việc nội
dung của CSXB phải giải quyết được vấn đề của CSXB.
Mục tiêu của CSXB ở đây cần được đặt trong tính tổng thể của toàn
diện đời sống xã hội. Theo đó, sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; yêu cầu mở rộng dân chủ, mà trong đó, cốt lõi trước
hết phải là nâng cao trình độ dân trí; yêu cầu mới của sự nghiệp giáo dục -

50
đào tạo cần ở xuất bản những yêu cầu gì. Thực trạng, tình hình của xuất bản
hiện nay đã và đang đáp ứng như thế nào. So với yêu cầu của tương lai, xuất
bản đã đáp ứng được những mặt nào, còn những nội dung nào chưa đáp ứng
được, cần hoàn thiện, phát triển… SXB trước hết phải đánh giá một cách
chính xác những vấn đề đó, trên cơ sở ấy, xây dựng những nội dung một cách
khoa học. Chỉ có đứng vững trên cơ sở những vấn đề của chính sách, thì
CSXB mới bảo đảm đạt được tính hiệu lực, hiệu quả của nó trong thực tiễn.
2.2.2.2. Mục tiêu và nội dung, giải pháp chính sách xuất bản được xác
lập trong hệ thống văn bản do cơ quan nhà nước ban hành
ơ quan nhà nước có thể ban hành văn bản chính sách quy định trực
tiếp mục tiêu và hệ thống các giải pháp, công cụ của SXB như chính
sách/chiến lược/chương trình hành động quốc gia về xuất bản trong từng giai
đoạn và thể chế hóa các giải pháp, công cụ của chính sách một cách cụ thể,
chi tiết bằng hệ thống các văn bản pháp lý hoặc không ban hành văn bản quy
định trực tiếp mục tiêu, hệ thống giải pháp, công cụ của chính sách mà đi
thẳng vào cụ thể hóa các giải pháp, công cụ của CSXB trong hệ thống văn
bản pháp luật về hình sự, hành chính, công vụ… Như vậy, văn bản quy định
trực tiếp nội dung chính sách và hệ thống văn bản cụ thể hóa các giải pháp,
công cụ của chính sách là đảm bảo pháp lý cho SXB được thực thi, là cơ sở
để đánh giá, xem xét và xử lý trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc triển khai thực hiện CSXB.
Đặc điểm này, thực ra cũng giống như đặc điểm của nhiều chính sách
trong các lĩnh vực khác, song, vấn đề muốn đặt ra ở đây là: Xuất phát từ đặc
điểm này, rất cần có một cái nhìn tổng quát, ở bình diện quốc gia, để bảo đảm
có sự phối hợp một cách chặt chẽ, nhịp nhàng, tạo ra hiệu quả cao nhất giữa
các cơ quan, bộ ngành, cũng như toàn xã hội trong việc hoạch định và thực thi
những chính sách liên quan đến xuất bản. Tránh tình trạng, cùng một hoạt
động, có quá nhiều cơ quan, bộ ngành cùng quản lý, song, đến khi có khuyết

51
điểm xảy ra, lại có hiện tượng đổ lỗi, né tránh trách nhiệm. Trong đó, vấn đề
ở đây đặt ra là cần phải có cơ chế để phát huy cao độ vai trò của Cục Xuất bản
- cơ quan chính trong việc xây dựng, tham mưu các chính sách liên quan đến
xuất bản cũng như chịu trách nhiệm chính trong quản lý xã hội về xuất bản.
Khi và chỉ khi tạo ra một hành lang pháp lý đủ rộng, có “sân chơi”, “đất
diễn”, mới có thể phát huy một cách cao nhất vai trò của cơ quan này.
2.2.2.3. Chính sách xuất bản mang tính tích hợp, phức tạp, có đối
tượng và phạm vi tác động rộng lớn, việc ượng hóa được hiệu quả, tồn tại,
vận động trong môi trường chính trị, kinh tế - xã hội tương ứng cần phải có
thời gian nhất định
Đối tượng chịu tác động của CSXB khá rộng lớn, trước hết là các
NXB, cơ sở in ấn, hệ thống phát hành XBP, đội ngũ các nhà sáng tác, và cuối
cùng là đông đảo đội ngũ độc giả trong toàn xã hội.
Hệ thống giải pháp, công cụ của một chính sách nhất định được xây
dựng dựa trên hệ thống nguyên nhân tạo thành vấn đề chính sách đã được xác
định nhằm đi đến mục tiêu cụ thể giải quyết các nguyên nhân và mục tiêu
chung chính là vấn đề chính sách được giải quyết. Chính vì vậy, hệ thống giải
pháp, công cụ của CSXB sẽ tập trung giải quyết các nguyên nhân của tình
hình hạn chế, yếu kém cho mục tiêu cơ bản là loại bỏ các nguyên nhân, điều
kiện của hạn chế, yếu kém đó và hướng tới phát triển nền xuất bản đáp ứng yêu
cầu lâu dài. Do tính chất phức tạp của vấn đề, nên hệ thống các giải pháp, công
cụ của SXB cũng sẽ đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, ngành, đòi
hỏi cao về mức độ đồng bộ, thống nhất. Các giải pháp của CSXB vừa có sự
độc lập tương đối, vừa liên quan, hỗ trợ chặt chẽ cho nhau. Mỗi giải pháp, công
cụ cụ thể của CSXB có thể hướng tới các đối tượng thực hiện khác nhau như
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, công chức, người dân,
doanh nghiệp.

52
Xuất bản vừa là một hoạt động văn hóa, tư tưởng, nhưng có tính đặc
thù riêng của nó. Không tính đến hiệu quả kinh doanh, thì tác động của nó về
chính trị - xã hội, tư tưởng đối với xã hội là khó có thể tính toán, đo lường,
cũng như, cần phải có thời gian nhất định mới có thể nhận thấy được những
tác động sâu xa của chính sách tới đời sống chính trị - xã hội - tư tưởng. Đặc
điểm này khác với nhiều loại hình chính sách khác, tạo ra tác động tức thời,
nhanh chóng, dễ định lượng, như chính sách kinh tế. Ví dụ, sau khi có một
chính sách về tự do hóa, thương mại xuất bản, thì có khi phải vài ba năm sau,
chúng ta mới nhận thấy rằng, chính những XBP kiểu thị trường mới đủ thời
gian để tác động đến các tầng lớp nhân dân, làm thay đổi nhận thức, tư tưởng
của họ, và từ đây có thể tạo ra nhiều hệ lụy khác trên rất nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Chính vì thế, từ đặc điểm này, càng cần phải có cách nhìn
đúng đắn, toàn diện, tránh sai sót, chủ quan trong xây dựng và triển khai thực
hiện các CSXB.
2.2.3. Quy trình chính sách xuất bản
Quy trình chính sách công được hiểu là quá trình luân chuyển các bước từ
khởi sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời
sống xã hội. Quy trình này bao gồm nhiều giai đoạn liên kết chặt chẽ với nhau.
Harold D. Lasswell cho rằng quy trình chính sách gồm 7 bước: (1)
thu thập thông tin; (2) đề xuất vấn đề chính sách; (3) ra quyết định lựa chọn
phương án chính sách; (4) hướng dẫn thực hiện chính sách; (5) áp dụng các
biện pháp chính sách vào thực tiễn; (6) kết thúc áp dụng chính sách; và (7)
đánh giá chính sách [trích theo 23, tr42]. Nguyễn Hữu Hải thì cho rằng, quy
trình chính sách công bao gồm các giai đoạn sau: (1) Tìm kiếm vấn đề chính
sách, (2) hoạch định chính sách, (3) tổ chức thực thi chính sách, (4) đánh giá
chính sách và (5) phân tích chính sách [23, tr84-87]. Còn Lê Chi Mai gom
thành 3 giai đoạn là hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá

53
chính sách. Hoạt động phân tích chính sách diễn ra theo cách xen kẽ, được
hàm chứa trong suốt cả ba giai đoạn của chu trình chính sách [56].
Như vậy, dù không hoàn toàn đồng nhất về việc phân chia, song, về
tổng thể, quy trình chính sách gồm 3 giai đoạn lớn: hoạch định chính sách,
thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Quy trình chính sách xuất bản
cũng chia theo 3 giai đoạn đó.
2.2.3.1. Hoạch định chính sách xuất bản
Hoạch định chính sách là giai đoạn hình thành chính sách và bao gồm
hai nhiệm vụ chủ yếu: Một là xác định vấn đề chính sách - tức là các vấn đề
xã hội cần được giải quyết bằng chính sách, đồng thời, tìm cách đưa vấn đề
đó vào chương trình nghị sự chính sách của cơ quan có thẩm quyền. Hai là
xây dựng, thông qua phương án chính sách của các cơ quan có thẩm quyền.
Hoạch định chính sách xuất bản là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và
ban hành chính sách xuất bản bởi các chủ thể trong lĩnh vực xuất bản.
Hoạch định chính sách xuất bản bao gồm các bước:
Bước 1: Phát hiện và phân tích vấn đề chính sách xuất bản. Hoạt động
này thu thập các thông tin liên quan đến chính sách xuất bản. Đó là việc phát
hiện những vướng mắc, mâu thuẫn, cản trở, yếu kém, những "điểm nghẽn"
trong hoạt động xuất bản hoặc trong thực thi các chính sách về xuất bản đã
ban hành trước đó. Xác định sự cần thiết phải ra đời một chính sách cụ thể
nào đó nhằm giải quyết vấn đề, thúc đẩy sự phát triển của xuất bản; vai trò,
tác động của chính sách; những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chính
sách và các nguồn lực cần thiết khi thực hiện chính sách xuất bản.
Bước 2: Hình thành ý tưởng chính sách xuất bản. Bước này xác định
các nội dung cơ bản của chính sách, cách thức thực hiện chính sách; thời gian
thực hiện chính sách và trách nhiệm của các bên liên quan đến chính sách.
Đây có thể là những ý tưởng còn sơ khai, còn tương đối khái quát, mang tính
chất cốt lõi nhất nhằm giải quyết vấn đề đã được xác định.

54
Bước 3: Lựa chọn và hoàn thiện phương án chính sách xuất bản. Bước
này chủ thể hoạch định chính sách phải lựa chọn và đưa ra dự thảo nhiều
phương án và kịch bản chính sách khác nhau để so sánh. ác phương án này
sẽ được cân nhắc, tính toán trên một số tiêu chí như hiệu quả, khả thi, thực
tế… để đưa ra lựa chọn phương án chính sách cuối cùng và tốt nhất. Sau khi
lựa chọn được phương án chính sách phù hợp nhất thì bổ sung, hoàn thiện
phương án chính sách đó để các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt
động xuất bản thẩm định.
Bước 4: Thẩm định chính sách xuất bản. Phương án chính sách được
lựa chọn dù tốt nhất cũng chỉ về phương diện lý thuyết, do đó, nhất thiết cần
thử nghiệm chính sách trong thực tế để xác định tính khả thi của chính sách.
Thẩm định chính sách xuất bản được thực hiện dưới nhiều hình thức, quy mô
khác nhau. Có thể thẩm định chính sách bằng hình thức chuyên gia, điều tra
khảo sát theo mẫu, hay thử nghiệm trong thực tế (ở một, hoặc một vài NXB,
địa phương hoặc cơ quan) để kiểm chứng chính sách.
Bước 5: Ban hành chính sách xuất bản. Sau khi thẩm định quyết nghị
chính sách xuất bản sẽ được Chính phủ, Bộ TTTT, hoặc cơ quan có thẩm
quyền trong hệ thống chính trị ban hành theo những trình tự và thủ tục
nhất định.
2.2.3.2. Thực thi chính sách xuất bản
Thực thi chính sách công là một giai đoạn của chu trình chính sách, có
nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách công trong đời sống xã hội, biến ý chí của
chủ thể chính sách thành hiện thực, tác động lên xã hội, dẫn dắt các đối tượng
chính sách theo đúng định hướng của nhà nước. Quá trình thực thi chính sách
công được tiến hành dựa trên cơ sở của chính sách đã được ban hành.
Thực thi chính sách xuất bản là giai đoạn biến các ý tưởng chính sách
xuất bản thành các hoạt động và các kết quả cụ thể trong thực tế. Thực thi
chính sách xuất bản có sự tham gia của nhiều chủ thể và đòi hỏi có bộ máy

55
quản lý và nguồn lực phù hợp. Tổ chức thực thi chính sách xuất bản có thể
bao gồm các hoạt động:
Bước 1: Chuẩn bị thực thi chính sách xuất bản
Các chính sách công với tư cách là sản phẩm của quá trình hoạch định
chính sách, chỉ mang tính định hướng về mục tiêu và giải pháp giải quyết vấn
đề công. o đó, để đưa chính sách vào thực tiễn, thì các chủ thể thực thi chính
sách căn cứ vào thẩm quyền của mình ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, các chương trình, dự án để cụ thể hóa mục tiêu và giải pháp chính sách
cho từng giai đoạn hoặc địa bàn cụ thể. Để thực hiện nhiệm vụ này, các chủ
thể thực thi chính sách xuất bản cần tiến hành các hoạt động như:
- Nghiên cứu nội dung chính sách xuất bản để xác định những văn bản,
chương trình hoặc dự án cụ thể (chẳng hạn như Luật xuất bản, nghị định, quy
định, dự án liên quan đến sách, thư viện, văn hóa đọc…) cần phải được ban
hành hoặc phê duyệt.
- Ban hành các văn bản thực thi chính sách xuất bản; kế hoạch lập và
phê duyệt các chương trình, dự án thực thi chính sách xuất bản. Kế hoạch này
phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ quan
triển khai từ trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch bao gồm các
bước sau:
+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành hệ thống các cơ quan tham gia, đội
ngũ nhân sự, cơ chế thực thi từ Bộ TTTT, Ban Tuyên giáo Trung ương tới
tận các NXB và các tổ chức cơ sở có liên quan;
+ Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị phục vụ
thực thi chính sách xuất bản;
+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện;
+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách;
+ Dự kiến về quy chế, nội dung, về tổ chức và điều hành thực thi chính
sách xuất bản.

56
Trong bước xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách xuất bản
thì các công việc như xác định các nguồn nhân lực, vật lực, thời gian thực thi
chính sách luôn được cân nhắc kĩ lưỡng.
Bước 2: Tổ chức thực thi chính sách xuất bản
Sau khi các văn bản, chương trình, dự án được ban hành và phê duyệt,
các chủ thể thực thi được giao trách nhiệm tổ chức thi hành văn bản, và triển
khai thực hiện chương trình, dự án này. Nội dung tổ chức thi hành văn bản và
chương trình, dự án cụ thể có khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát thành
các nội dung hoạt động dưới đây:
- Tuyên truyền, phổ biến chính sách xuất bản.
Đây cũng là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách đã được thông qua,
giúp cho các cấp chính quyền, các NXB, đội ngũ có liên quan và nhân dân
nâng cao nhận thức, hiểu được mục tiêu, nội dung của chính sách xuất bản, từ
đó giúp cho chính sách triển khai được thuận lợi và có hiệu quả. Để làm được
điều này thì cần đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang
thiết bị kỹ thuật, các phương tiện để truyền tải các thông tin về chính sách
xuất bản cho cơ quan và nhân lực thực hiện. Việc tuyên truyền cần phải thực
hiện thường xuyên, liên tục, sử dụng nhiều hình thức khác nhau cả trước và
trong khi chính sách đang được thực thi.
- Thực hành chính sách xuất bản trong thực tiễn
Một chính sách về xuất bản thường được thực thi trên một địa bàn rộng
lớn (nhiều khi là cả nước) và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối
hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động
thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn
nhau, kìm hãm nhau, bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp, các ngành để
triển khai thực thi.
Khi triển khai thực thi cần phân công rành mạch, phối hợp đồng bộ giữa
các cấp, các ngành; cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước
về xuất bản, ngành xuất bản và các cơ quan có liên quan.

57
- Điều chỉnh chính sách xuất bản.
Việc làm này cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình tổ chức
thực thi chính sách xuất bản, được thực thi bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền (có thể là Chính phủ, hoặc thường xuyên, trực tiếp là Bộ TTTT).
Điều chỉnh chính sách xuất bản nhằm chỉnh sửa, đổi mới, bổ sung về
đối tượng, mục tiêu và nội dung của chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
Việc điều chỉnh phải giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều
chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức
cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách xuất bản.
Bất cứ triển khai nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các
chính sách này được thực thi đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
ác cơ quan Nhà nước (từ Bộ TTTT, các sở) thường thành lập cơ quan
chuyên trách thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách xuất bản. Hoạt động
kiểm tra cũng giúp cho các đối tượng thực thi, nhất là các NXB nhận ra
những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện. Đồng thời, hoạt
động này cũng có tác dụng răn đe, ngăn chặn các lực lượng có ý định hoặc
hành vi xuất bản các tác phẩm phản văn hóa, phản giá trị (khi họ không xin
được giấy phép), ngăn chặn các sai phạm trong in, phát hành, làm ảnh hưởng
đến lợi ích của các NXB và toàn xã hội.
Bước 3: Sơ kết, tổng kết việc thực thi chính sách xuất bản
Định kỳ các chủ thể thực thi chính sách xuất bản tiến hành sơ kết, tổng
kết kết quả thực hiện. Việc sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách được tiến
hành theo trình tự từ dưới lên trên, từ các NXB, các hiệp hội cho tới cao nhất
là Trung ương Đảng, Chính phủ.
Khâu này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách
xuất bản. Trong quá trình này có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ chính
sách. Hoạt động đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan Nhà nước

58
và đối tượng thực thi chính sách. Trong báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo đánh
giá giữa kỳ, báo cáo đánh giá kết thúc cần thể hiện rõ quá trình triển khai thực
hiện, những kết quả đạt được, những hạn chế và đề xuất những kiến nghị đối
với cấp trên để xử lý những vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách
xuất bản.
2.2.3.3. Đánh giá chính sách xuất bản
Đánh giá SXB là việc xem xét, nhận định về sự phù hợp, hiệu lực,
hiệu quả (về kinh tế, xã hội…) mang lại của CSXB nhằm cải thiện nội dung
và việc thực hiện chính sách này. Để việc đánh giá chính sách trở nên khoa
học, toàn diện và đảm bảo chất lượng, cần đến hệ thống các tiêu chí đánh giá
cụ thể. Theo khoa học chính sách công, có nhiều tiêu chí có thể sử dụng để
đánh giá chính sách bao gồm: tính đồng bộ, thống nhất, tính phù hợp, tính khả
thi, hiệu lực, hiệu quả, tính công bằng, bình đẳng về giới... Tùy vào từng
chính sách mà lựa chọn các tiêu chí đánh giá cho phù hợp với mục đích đánh
giá. Để phù hợp với SXB, các tiêu chí sau đây được lựa chọn để đánh giá
chính sách.
- Tính phù hợp
Trước hết, tính phù hợp đòi hỏi các mục tiêu chính sách phải phù hợp
với vấn đề chính sách (tình hình xuất bản và các nguyên nhân đang đặt ra),
phải hướng tới việc giải quyết một phần hoặc cơ bản vấn đề mấu chốt đang
đặt ra, tránh việc né tránh vấn đề chính, sau đó mới tính đến yếu tố chính trị,
kinh tế, xã hội để cân nhắc mức độ giải quyết.
Tính phù hợp của CSXB còn thể hiện ở việc nội dung của chính sách
phải phản ánh đúng và phù hợp với đường lối chính trị, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia. Điều này đòi hỏi mục tiêu chính sách
không chỉ tính toán đến các vấn đề và nguyên nhân vấn đề đang đặt ra để giải
quyết, đưa vấn đề về trạng thái mong muốn mà còn phải dựa trên bối cảnh,
dựa trên các yếu tố tác động để cân nhắc mục tiêu hợp lý nhất, vừa giải quyết

59
vấn đề, vừa phù hợp với bối cảnh chung, tránh việc đưa ra mục tiêu quá lý
tưởng, khó hiện thực hóa. Đặc biệt, mục tiêu phải có trọng tâm, hướng tới
khắc phục những hạn chế, vướng mắc và vươn tới góp phần thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ của công tác văn hóa tư tưởng trong tình hình mới. Bên
cạnh đó, pháp luật là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, phản
ánh và tác động tới cơ sở hạ tầng (điều kiện kinh tế, xã hội...), do vậy, pháp
luật không thể quy định cao hơn hoặc thấp hơn trình độ của đối tượng mà nó
phản ánh. Khi điều kiện kinh tế của đất nước chưa cao, nhận thức về các vấn đề
liên quan đến nội dung chính sách của một bộ phận nhân dân còn hạn chế thì các
biện pháp của CSXB phải được quy định sao cho phù hợp với trình độ dân trí,
nhận thức của người dân, bằng các phương thức thuận lợi nhất cho người dân,
phù hợp với mặt bằng chung nhận thức và điều kiện kinh tế của các tỉnh, thành
phố và đất nước, không thể áp dụng các phương thức quá hiện đại, hoặc duy trì
tất cả các phương thức mang tính lạc hậu mà cần có sự cân đối, hài hòa. Hơn thế
nữa, việc quy định về trình tự, thủ tục các khâu bước của quá trình xuất bản cần
được quy định vừa chặt chẽ, vừa phải bảo đảm linh hoạt, phù hợp với điều kiện
tổ chức, năng lực thực hiện của các cơ quan quản lý xuất bản, các NXB.
Để CSXB có tính phù hợp thì nội dung văn bản chính sách cũng phải
bảo đảm rằng các biện pháp và công cụ chính sách không gây khó khăn, phức
tạp, xáo trộn hoạt động, không trở thành rào cản đối với các chủ thể. CSXB
còn phải đảm bảo phù hợp với các cam kết khu vực, quốc tế mà Việt Nam ký
kết tham gia, đặc biệt là ông ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học
nghệ thuật, Hiệp ước WIPO về quyền tác giả. Đây là một điểm khá quan
trọng, bởi trong thời đại thông tin đa chiều, mức độ minh bạch hóa trên mọi
lĩnh vực ngày càng cao, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với xuất bản
quốc tế. ác quy định của SXB trong nước không chỉ giúp bảo vệ nền xuất
bản và các cá nhân, tổ chức Việt Nam, mà nó còn là một điểm quan trọng để
chúng ta có cơ sở hợp tác quốc tế trên lĩnh vực xuất bản.

60
- Tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất
Tính đồng bộ, thống nhất của chính sách được xem xét trên các khía
cạnh khác nhau như sự đầy đủ, rõ ràng của mục tiêu chính sách, sự tương
thích giữa mục tiêu với giải pháp, công cụ, sự toàn diện, liên kết giữa các giải
pháp, công cụ chính sách, sự đầy đủ, không mâu thuẫn, chồng chéo của các
văn bản thể chế chính sách.
Tiêu chí đầu tiên trong tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất của chính
sách là tính đầy đủ, rõ ràng của mục tiêu CSXB. Các mục tiêu phải bao gồm
mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể. Hệ thống mục tiêu là sự cụ thể hóa trạng thái
mong muốn của nhà nước ở thời điểm tương lai nhất định đối với vấn đề xuất
bản. Chính vì vậy, nó càng rõ ràng, cụ thể, có trọng tâm thì việc vạch ra các
giải pháp, công cụ mới thiết thực. Hệ thống các giải pháp, công cụ của chính
sách phải hướng đến việc thực hiện thành công mục tiêu đề ra, giải quyết tất
cả nguyên nhân của vấn đề chính sách và được cụ thể hóa trong một hệ thống
văn bản từ cấp trung ương đến cơ sở một cách thống nhất. Hệ thống các giải
pháp, công cụ vừa phải phục vụ cho việc loại trừ các nguyên nhân của tình
trạng hạn chế của xuất bản, vừa phải hướng tới phát huy, phát triển những lợi
thế có sẵn; vừa phải tạo hành lang thuận lợi, nhưng đồng thời, cũng phải tạo
ra những cơ chế giám sát, ngăn chặn, phòng ngừa những sai phạm trong chính
hoạt động này. Hệ thống văn bản của chính sách không mâu thuẫn, chồng
chéo, triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự đầy đủ, liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác
động điều chỉnh của các văn bản theo mục tiêu đề ra. Tùy vào việc xác định
mục tiêu hàng đầu trong từng giai đoạn của chính sách mà các biện pháp,
công cụ sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với trọng tâm mục tiêu trong giai
đoạn đó. Việc điều chỉnh, sửa đổi liên quan đến biện pháp, công cụ bất kỳ
của chính sách đòi hỏi việc liên đới sửa đổi tới các giải pháp, công cụ liên
quan, đòi hỏi bổ sung, sửa đổi kịp thời các văn bản thực thi ở cấp thấp hơn
để đảm bảo sự thống nhất của chính sách.

61
Tính đồng bộ, thống nhất không chỉ xét trong nội tại hệ thống chính
sách về xuất bản mà còn đặt trong mối quan hệ giữa hệ thống chính sách này
với toàn bộ hệ thống pháp luật, từ Hiến pháp là đạo luật gốc đến các văn bản
pháp luật khác có liên quan. CSXB với thể chế của nó chỉ là một bộ phận của
hệ thống thể chế ở Việt Nam, nên phải bảo đảm thống nhất với các quy định,
nguyên tắc của Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các văn
bản pháp luật khác có liên quan...
- Tính khả thi
Tính khả thi được phản ánh ở khả năng có thể thực hiện được của nội
dung chính sách. Để đánh giá tính khả thi của chính sách, cần phải dựa vào
các chỉ tiêu cụ thể như: mức độ khả thi chính trị, hành chính, khả thi kinh tế
và khả thi về xã hội.
Tính khả thi về chính trị đối với CSXB ở Việt Nam lại càng trở nên
quan trọng khi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng chính trị duy nhất lãnh đạo,
đề ra các chủ trương, định hướng toàn diện cho tổ chức, hoạt động của nhà
nước trong đó có chủ trương, định hướng về xuất bản. o đó, SXB phải
đảm bảo trên cơ sở và cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng về
công tác này.
Tính khả thi về hành chính được đánh giá thông qua việc hệ thống hành
chính có đủ năng lực để triển khai thực hiện các giải pháp chính sách đạt được
mục tiêu đề ra hay không? Điều này có thể được xem xét cụ thể thông qua các
nội dung: các cơ quan hành chính được tổ chức hoặc trao quyền liên quan đến
công tác xuất bản có đủ quyền hạn để thực hiện các nhiệm vụ được giao, trách
nhiệm pháp lý của các chủ thể là tổ chức và cá nhân được trao quyền có thể
được xác định một cách rõ ràng hay không, năng lực của đội ngũ thực thi
chính sách có đủ để đảm bảo triển khai các giải pháp của chính sách, có đủ kỹ
năng cần thiết để thực hiện các tác nghiệp cần thiết, cơ quan, tổ chức thực thi
có đủ năng lực về tài chính, nhân sự để thực hiện nhiệm vụ được giao.

62
Đánh giá tính khả thi về xã hội được đo lường bởi mức độ công chúng
chấp nhận, ủng hộ chính sách, sự phù hợp của nội dung chính sách với văn
hóa, nhận thức của người dân.
Tính khả thi về kinh tế được xem xét thông qua việc đo lường về mức
độ tiết kiệm được các nguồn lực cho triển khai một chính sách. Các giải pháp
đưa ra phải dựa trên cơ sở đánh giá tính kinh tế của chính sách nghĩa là xác
định được liệu có phương án nào để mục tiêu chính sách đạt được với chi phí
thấp nhất. Hoặc là chi phí thấp nhất với lợi ích cố định hoặc là lợi ích lớn nhất
với chi phí cố định. Để đánh giá tính kinh tế của chính sách, chỉ yếu tố đạt
được mục tiêu là chưa đủ. Các giải pháp đưa ra phải đảm bảo tiết kiệm các
nguồn lực đầu vào của chính sách. Biểu hiện của tính kinh tế trong chính sách
công còn là việc tối đa hóa lợi ích của Nhà nước, xã hội trong điều kiện không
điều chỉnh tăng nguồn lực đầu vào. Tuy nhiên, việc tính toán những lợi ích và
phí tổn trong CSXB là rất khó khăn và phức tạp, có phần bất khả thi vì nó là
chính sách mang tính tích hợp. Vì vậy, tính khả thi về kinh tế được xem xét
thông qua việc các giải pháp, công cụ của chính sách đưa ra có đảm bảo được
các nguồn lực kinh tế để triển khai hay không? có vượt quá điều kiện của
ngân sách nhà nước hay không? có lộ trình cụ thể để tránh việc triển khai sau
một thời gian lại thay đổi phương án gây lãng phí các nguồn lực đã bỏ ra hay
không? có phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế không? Hệ thống các giải
pháp, công cụ của CSXB khá phức tạp nên các nhận định này có thể chỉ dựa
trên các thông tin định tính.
- Tính hiệu lực và hiệu quả
Hiệu lực thường được hiểu là mức độ tuân thủ thực hiện các quy định
và kết quả đạt được. Hiệu lực của CSXB là mức độ tuân thủ và đạt được kết
quả của các giải pháp, công cụ chính sách trên thực tế, tức là nội dung các giải
pháp, công cụ này được thực thi trên thực tế và mang lại những kết quả cụ
thể. Mức độ thấp nhất là không có hiệu lực nếu các văn bản thể chế chính

63
sách được ban hành nhưng chỉ nằm trên giấy, không triển khai thực hiện được
trên thực tế hoặc triển khai nhưng không thu được kết quả gì. Hiệu lực thấp
nếu như các quy định được triển khai nhưng kết quả thu được không đáng kể
và hiệu lực cao nếu như thu được kết quả tốt. Một giải pháp, công cụ chính
sách sau một thời gian ban hành mà không thu được kết quả gì là thất bại đối
với nhà hoạch định, xây dựng và nó cần phải được xem xét hủy bỏ hoặc sửa
đổi, bổ sung một cách kịp thời để không làm ảnh hưởng tới hiệu lực chung
của toàn bộ chính sách. Nhất là CSXB lại là chính sách tổng hợp, với hệ
thống các giải pháp, công cụ phức tạp, có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau nên hiệu
lực của giải pháp này có thể là điều kiện để đảm bảo hiệu lực của giải pháp
kia. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung phải kịp thời nhưng cần phải chú ý
ngay từ khâu đánh giá tác động, xây dựng nội dung các giải pháp, công cụ để
tránh việc sửa đổi, bổ sung trong thời gian ngắn, thường xuyên, ảnh hưởng
đến tính ổn định và công tác triển khai thực hiện, nguồn lực thực hiện. Tuy
nhiên, hiệu lực chỉ đơn thuần là các mức độ khác nhau về kết quả thực thi mà
chưa cho thấy tác dụng mà các kết quả này mang lại, điều này chỉ được phản
ánh ở hiệu quả.
Nói đến hiệu quả của chính sách là nói đến tác dụng của chính sách sau
khi ban hành và được thực thi hay là những lợi ích mà một chính sách mang
lại cho toàn hệ thống. Lợi ích đó được thể hiện qua việc đạt được mục tiêu
của chính sách và các biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội tương ứng mà chính
sách tạo ra trên các mặt. Thông thường hiệu quả của chính sách sẽ được đánh
giá trên các phương diện: hiệu quả về kinh tế, hiệu quả về chính trị - xã hội,
hiệu quả về văn hóa.
Hiệu quả về kinh tế thường được dựa trên chỉ tiêu cost/benefits (chi
phí/lợi ích) để tính toán, tuy nhiên việc tính toán hiệu quả này thường áp
dụng với chính sách kinh tế, đối với một chính sách tích hợp phức tạp như
CSXB thì việc xác định là rất khó. Chúng ta chỉ có thể xem xét hiệu quả

64
kinh tế dựa trên một số lợi ích thu được của chính sách như số doanh thu
của một số XBP hay một số đơn vị xuất bản, mức độ giảm thiểu chi phí
không chính thức cho người dân, các tác giả trong quá trình xuất bản cũng
như sử dụng những XBP.
Hiệu quả về chính trị - xã hội được đo đếm dựa trên một số mặt như
dưới tác động của sự phát triển văn hóa đọc, có giúp nâng cao được dân trí,
góp phần định hướng chính trị, tư tưởng hay không, lòng tin và sự đồng thuận
trong xã hội có được nâng lên dưới sự ảnh hưởng của những XBP không…
Đồng thời với đó, cũng là hiệu quả về văn hóa. Bởi lẽ, xuất bản là một hoạt
động của lĩnh vực văn hóa tư tưởng, do đó, hiệu quả về chính trị - xã hội cũng
có thể được đo đếm qua sự thay đổi về văn hóa ứng xử, văn hóa lối sống của
các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
2.3. Vai trò và các nhân tố tác động đến chính sách xuất bản
2.3.1. Vai trò của chính sách xuất bản
Xuất bản là một ngành, một hoạt động liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực, nhiều tổ chức, cá nhân, nó đòi hỏi cách tiếp cận đa diện để
giải quyết. SXB quy định sự tham gia của các thành phần, tổ chức và cá
nhân nhằm tạo cho xuất bản đạt được mục đích, hiệu quả. Chính sách này là
một bộ phận cấu thành, nằm trong chỉnh thể hệ thống chính sách quốc gia,
góp phần vào nâng cao chất lượng công tác văn hóa - tư tưởng và giáo dục,
đảm bảo sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế. CSXB do chủ thể nhà nước
ban hành, phản ánh đường lối chính trị đối với xuất bản. Tùy thuộc điều kiện
lịch sử cụ thể của từng quốc gia, quan điểm chính trị của mỗi thể chế cầm
quyền mà nhà nước đó xác định các nội dung cụ thể của chính sách cung cấp
một khuôn khổ để phát triển các cách thức và biện pháp xuất bản một cách
toàn diện, phối hợp và bền vững. CSXB có các mục tiêu và các biện pháp,
công cụ được xác định rõ ràng để giải quyết những thách thức khác nhau
được xác định. Vai trò cụ thể được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

65
2.3.1.1. Chính sách xuất bản xác lập vị trí, vai trò của xuất bản và định
hướng phát triển của xuất bản
Xuất bản là hoạt động giữ vị trí vai trò, chức năng như thế nào trong
đời sống xã hội, nó có quan hệ như thế nào với các lĩnh vực khác là câu hỏi
đầu tiên mà SXB đã trả lời cho nó. Nói cách khác, CSXB xác lập vị trí, vai
trò của xuất bản. Ở Việt Nam, trong điều kiện chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản
lãnh đạo xã hội và toàn bộ hệ thống chính trị, thông thường, Đảng sẽ xác lập
vị trí, vai trò của hoạt động này bằng các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của
mình. Trên cơ sở này, hệ thống các văn bản khác sẽ cụ thể hóa bằng những
quy định chặt chẽ ở trên mọi góc cạnh khác nhau của xuất bản, bảo đảm cho
nó phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ.
Một trong những vai trò quan trọng của chính sách công nói chung là
định hướng cho các hoạt động của các thực thể kinh tế - xã hội. ũng như
vậy, CSXB có vai trò quan trọng là định hướng cho hoạt động của các cơ
quan quản lý xuất bản, NXB, đồng thời, tác động đến cả các tác giả và người
đọc. Nó cung cấp một khuôn khổ để phát triển các cách thức và biện pháp
xuất bản một cách toàn diện, đảm bảo phối hợp hài hòa mọi cách thức, biện
pháp cho công tác xuất bản. Mục tiêu của CSXB thể hiện thái độ của Đảng,
Nhà nước đối với tổng thể các vấn đề của xuất bản, nên nó thể hiện rõ xu
hướng tác động của Đảng, Nhà nước lên các chủ thể để chúng vận động phù
hợp với những giá trị tương lai mà nhà nước theo đuổi. Các giá trị đó phản
ánh ý chí của nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu cơ bản của đời sống xã hội đối
với xuất bản. Nếu các cơ quan quản lý xuất bản, chính quyền các cấp, các
NXB… tiến hành các hoạt động phù hợp với mục tiêu chính sách, thì cũng có
nghĩa là đạt được mục tiêu phát triển chung của toàn ngành xuất bản và sẽ
nhận được những trợ giúp từ phía Đảng, Nhà nước.

66
2.3.1.2. Chính sách xuất bản góp phần điều phối hoạt động của các cơ
quan nhà nước, phân giao quyền hạn, trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền tham gia vào công tác xuất bản
Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, thì mục tiêu,
yêu cầu đặt ra cho công tác xuất bản cũng có sự khác nhau. Các cách thức,
giải pháp, công cụ của SXB cũng sẽ có sự điều chỉnh theo các mục tiêu
hàng đầu của chính sách trong từng giai đoạn, và ở Việt Nam nó còn được
điều chỉnh theo định hướng của Đảng chính trị cầm quyền trong từng thời kỳ.
Thông qua hệ thống các mục tiêu, biện pháp, công cụ mà chính sách đề ra,
các chủ thể sẽ tập trung thực hiện nhiệm vụ của mình để đảm bảo mục tiêu
chung được thực hiện. Tùy vào tình hình thực tế, CSXB sẽ dựa trên nền tảng
tổ chức bộ máy nhà nước sẵn có để huy động các thiết chế vào thực hiện
nhiệm vụ. Điều này tùy thuộc vào sự lựa chọn của từng quốc gia dựa trên
thực tế tình hình xuất bản, nhu cầu phát triển và bối cảnh chính trị, kinh tế, xã
hội của mình nên không có công thức chung cho việc tổ chức và phân công
nhiệm vụ, quyền hạn cho các tổ chức. Tuy nhiên, sẽ có những kinh nghiệm
thành công theo từng tình hình cụ thể và cách tổ chức thực hiện sẽ được học
hỏi áp dụng giữa các quốc gia. Thông qua các quy định vừa mang tính bắt
buộc, vừa linh hoạt, mềm dẻo, tùy nghi, SXB đảm bảo tạo điều kiện thuận
lợi và trao quyền tự chịu trách nhiệm cho các chủ thể trong tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ xuất bản.
2.3.1.3. Chính sách xuất bản giúp huy động sự tham gia của xã hội vào
công tác xuất bản, đồng thời, có vai trò định hướng phát triển văn hóa đọc
trong nhân dân
Bất kỳ một chính sách nào muốn thành công, cũng phải bảo đảm huy
động được sự tham gia của những lực lượng xã hội có vai trò phát triển lĩnh
vực mà chính sách đó điều chỉnh, tác động. SXB cũng vậy, nó không chỉ tác
động, điều chỉnh và kiểm soát những cơ quan xuất bản, tổ chức nhà nước liên

67
quan đến xuất bản, mà nó còn giúp huy động sự tham gia của xã hội vào công
tác xuất bản. Thông qua những chính sách cụ thể, nhất là những chính sách ưu
đãi thụ hưởng, chính sách khuyến khích, chính sách về xã hội hóa, nhà nước
sẽ huy động các nguồn tài chính, nhân lực, nhân tài tham gia vào lĩnh vực
này. Tùy thuộc vào mức độ hấp dẫn của chính sách đến đâu, xuất bản sẽ thu
hút được sự tham gia đông đảo hay ít ỏi của các lực lượng xã hội và các
nguồn lực cụ thể.
Vai trò định hướng phát triển văn hóa đọc, và hệ quả của nó, chính là
hướng phát triển của tư duy, tư tưởng chính trị của xã hội là một điểm tương
đối đặc thù của CSXB. Nó xuất phát từ đặc điểm khách quan là xuất bản là
một bộ phận của công tác văn hóa, tư tưởng, góp phần nâng cao dân trí, định
hướng tư tưởng của Nhân dân. Thông qua các chính sách của mình, nhà nước
không chỉ trực tiếp tác động đến các chủ thể quản lý của xuất bản, mà đã gián
tiếp định hướng văn hóa đọc cũng như đời sống tư tưởng, tinh thần của Nhân
dân. Nếu như SXB đúng hướng, khuyến khích xuất bản nhiều các tác phẩm
có giá trị, đồng thời, tạo ra nhiều cơ chế thuận lợi để người dân có thể tiếp cận
và sử dụng nhiều nguồn tri thức, nguồn sách phong phú, chính là đã định
hướng đúng đắn cho phát triển văn hóa đọc, nâng cao trình độ dân trí, trình độ
tư tưởng và ngược lại.
2.3.1.4. Chính sách xuất bản giúp chủ động kiểm soát, ngăn chặn sự
xâm nhập, phát triển của văn hóa xấu độc, góp phần xây dựng môi trường
văn hóa ành mạnh trong toàn xã hội
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của mạng
Internet, những hệ lụy mà nó đem lại trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng rất lớn,
đặc biệt, đó là sự trôi nổi, khó kiểm chứng, kiểm soát của các thông tin, các
dạng ấn phẩm khác nhau. Sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng
tinh vi, bằng cách tuyên truyền, tuồn vào các đầu sách, báo… chứa đựng nội
dung sai lệch, phản giá trị. Tình hình đó khiến cho vai trò này của CSXB càng

68
trở nên rõ hơn bao giờ hết. Với những cơ chế, quy định chặt chẽ, từ khâu
kiểm duyệt, phát hành, lưu hành thị trường cũng như những chính sách vĩ mô,
nhà nước hoàn toàn có thể ngăn chặn, tiến tới chấm dứt hiện tượng các ấn
phẩm xấu độc tán phát trong xã hội. Đồng thời, cùng với đó là sự phát triển
mạnh mẽ của một nền xuất bản đầy tính nhân văn, văn hóa, sẽ góp phần kiểm
soát, đẩy lùi những phản giá trị văn hóa, luồng tư tưởng xấu độc trong xã hội.
2.3.2. Các nhân tố tác động đến chính sách xuất bản
Tác động đến CSXB có rất nhiều nhân tố như: chính trị, môi trường
chính sách, pháp luật, kinh tế, văn hóa - xã hội, kỹ thuật công nghệ,... trong
đó, nhân tố môi trường chính sách đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa
quyết định nhất. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như
hiện nay, sách nói riêng và XBP nói chung, là cầu nối quan trọng giữa các
quốc gia. Đặc biệt khi nước ta thực hiện các chính sách mở cửa, hội nhập thì
các chính sách về phát triển kinh tế, văn hóa, các văn bản pháp luật tạo môi
trường cho xuất bản càng ngày càng được quan tâm.
Về môi trường chính sách, xuất bản luôn được Đảng và Nhà nước ta
chú trọng, quan tâm vì đây chính là một trong những công cụ đắc lực để
truyền bá thông tin đến người dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là luôn coi trọng xuất bản. Sự
nghiệp xuất bản là một trong những “binh chủng” của công tác chính trị, tư
tưởng của Đảng, Nhà nước. Trong Luật xuất bản 2012 có một điều nói về
chính sách của Nhà nước ta đối với xuất bản. hính sách đổi mới cùng với sự
ổn định về chính trị, môi trường sống an toàn, an ninh là một trong những yếu
tố giúp cho xuất bản ở nước ta có cơ hội phát triển.
Về môi trường kinh tế, có thể nói kinh tế nước ta đã tăng trưởng mạnh.
Kể từ năm 1990, nước ta là một trong những nước trên thế giới có mức tăng
trưởng G P bình quân đầu người nhanh nhất, trung bình 6,4%/năm trong
những năm 2000. Tuy nhiên, G P và thu nhập bình quân đầu người ở nước ta

69
còn thấp so với thế giới và các nước trong khu vực. Đây chính là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của người dân nói chung và sức tiêu
thụ đối với các XBP nói riêng. Chỉ số thu nhập G P đầu người hằng năm có
ảnh hưởng và tác động đến dự báo phát triển của xuất bản. Vấn đề đặt ra là
xuất bản phải phục vụ tốt nhu cầu bạn đọc, đồng thời phải phát triển bền vững
phù hợp với tiềm lực kinh tế của đất nước. Yếu tố về giá cả và lạm phát cũng là
một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của xuất bản. Khi
thu nhập của người dân giảm thì đồng nghĩa việc chi tiêu cho các mặt hàng
không phải thiết yếu trong đó có việc chi tiêu cho các XBP sẽ giảm. Và lạm
phát sẽ dẫn đến giá cả của các yếu tố đầu vào của xuất bản sẽ tăng. Điều này
ảnh hưởng đến người tiêu dùng các XBP. Hội nhập kinh tế đỏi hỏi chúng ta
phải thực hiện luật chung của các nước liên quan đến vấn đề bản quyền. CSXB
phải đảm bảo cho xuất bản phát triển mạnh, giảm thiểu các hành vi xâm phạm
bản quyền tác giả, đặc biệt là đối với các tác giả và tác phẩm nước ngoài.
Về môi trường văn hoá - xã hội, tính tiên tiến, hiện đại của một xã hội
được thể hiện thông qua trình độ dân trí, văn minh, bản sắc, phong tục tập
quán, còn đặc điểm, tâm lý của một dân tộc là những nhân tố xã hội tác động
gián tiếp đến phương hướng và sự phát triển của một nền xuất bản. Trình độ
dân trí càng cao thì nhu cầu đọc sách sẽ càng lớn và ngược lại. Văn hóa đọc là
một trong những biểu hiện văn hóa của một xã hội. Chính vì vậy một đất
nước có nền văn hóa đọc tốt, mọi người đều quan tâm đến sách sẽ góp phần
giúp xuất bản phát triển.
Xuất bản gắn kết chặt chẽ với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Sự phát
triển của công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất bản cũng như chính sách đối
với xuất bản. Trình độ khoa học công nghệ mà một nền xuất bản tiếp nhận được
sẽ thể hiện ở sự phong phú của các XBP, sức lan tỏa của sản phẩm đến với
người tiêu dùng. Xu hướng xuất bản điện tử là một phương thức xuất bản mới
đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách để quản lý và phát triển lĩnh vực này.

70
2.4. Chính sách xuất bản của một số nước và bài học cho Việt Nam
2.4.1. Singapore
Là một nước có nền xuất bản quy mô vừa, hiện tại Singapore có 84
NXB và 17 đơn vị phân phối sách. Mặc dù số lượng các NXB ít nhưng cùng
với các nước châu Âu, Mỹ, Nhật bản, Singapore được đánh giá là một trong
những cộng đồng đọc sách nhiều nhất trên thế giới. Điều này có được là nhờ
vào một hệ thống thư viện công cộng quốc gia hoạt động tích cực và hiệu quả.
Doanh số và thị trường xuất bản của Singapore từ năm 2005 đến nay có
bước phát triển, thị trường xuất bản có chiều hướng tăng từ 27 triệu US năm
2009 lên khoảng 34 triệu USD năm 2013 (Theo báo cáo tổng kết về truyền
thông giải trí toàn cầu của PW giai đoạn 2009-2013). Tuy nhiên, con số này
đã bao gồm sách được xuất bản ở nơi khác bởi các NXB nước ngoài lớn có
chi nhánh tại Singapore, họ đưa ấn phẩm của mình vào thị trường này nhằm
tái phân phối trong khu vực châu Á.
Chính sách xuất bản của Singapore ưu tiên xây dựng mô hình tổ chức
các NXB theo hướng hoạt động độc lập, cùng tham gia một diễn đàn chung là
Hiệp hội Xuất bản Singapore (SBPA), có khoảng 73 hội viên đại diện cho các
NXB ở Singapore. Hiệp hội này có chức năng điều phối hoạt động của các
hội viên, tổ chức các phiên họp nhằm giúp các NXB hoạt động hiệu quả hơn.
Mặc dù là nước có nền xuất bản quy mô vừa với số dân không đông,
bên cạnh những mặt còn hạn chế đã chỉ ra ở trên, nền xuất bản Singapore với
tỷ lệ số lượng người đọc sách được đánh giá là “chăm chỉ” trên thế giới đáng
để nước ta phải học hỏi. ó được điều này là bởi CSXB của Singapore có
nhiều quan tâm phát triển văn hóa đọc trong xã hội. Có thể kể đến là: bên
cạnh những ưu đãi cho tự do xuất bản, Singapore cũng rất quan tâm tới ưu đãi
cho xây dựng và tổ chức hoạt động lạnh mẽ của hệ thống các thư viện công
cộng tích cực và hiệu quả. Đây chính là điểm sáng để CSXB của Việt Nam
hiện nay nghiên cứu, học tập.

71
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, CSXB của Singapore cũng bộc lộ
những hạn chế, trong đó, đang chú ý nhất là điểm yếu ở việc ít chú trọng đến
phát triển số lượng và nâng tầm quy mô của các đơn vị xuất bản. Họ ít có
chính sách quan tâm đến thúc đẩy lĩnh vực này, mà chủ yếu là để tự do cho
nhu cầu của thị trường quyết định. Chính vì thế, số lượng, quy mô các đơn vị
xuất bản trong nước hầu hết còn ít và nhỏ, đòi hỏi ngành xuất bản Singapore
phải có chiến lược hợp tác, mở rộng thị trường khu vực và thế giới, đa dạng
hóa các loai hình xuất bản, tăng cường thêm các đầu sách, đa dạng hóa thể
loại, đề tài nhằm tận dụng mọi cơ hội của thị trường nội địa. Bên cạnh đó, họ
cũng chưa có chính sách để quản lý nguồn dữ liệu, thông tin, bởi thế, các
nguồn dữ liệu về ngành xuất bản, các thông tin lưu trữ về ấn phẩm, tạp chí,
báo cáo, sách,… được Ban Thư viện quốc gia, các cơ quan nhà nước gộp
chung lại, do đó dẫn tới tình trạng thiếu số liệu thống kê đặc biệt là số liệu
về số lượng sách xuất bản tại Singapore để làm cơ sở cho việc xây dựng
chiến lược phát triển ngành xuất bản.
2.4.2. Trung Quốc
Hiện nay Trung Quốc có khoảng hơn 2000 NXB với các loại hình khác
nhau như: NXB là cơ quan xuất bản của Đảng; NXB là doanh nghiệp, trong
đó có những tập đoàn xuất bản lớn gồm có cả xuất bản, báo chí và truyền
thông.
Trong xây dựng CSXB, ngày 25/12/2001, Quốc vụ viện nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa đã thông qua Sắc lệnh số 343 về Điều lệ quản lý xuất
bản của Trung Quốc. Nội dung điều lệ này tập trung vào 3 nội dung chính:
việc thành lập và quản lý đơn vị xuất bản; quy định về xuất bản XBP; quy
định về in ấn hoặc nhân bản, phát hành XBP. Điều 4 Điều lệ quản lý xuất bản
của Trung Quốc quy định: “xuất bản phải đặt lợi ích xã hội lên hàng đầu, thực
hiện kết hợp giữa lợi ích xã hội với lợi ích kinh tế”. Trong Điều lệ này quy
định rõ các ấn phẩm dưới dạng báo giấy, ấn phẩm đăng tải định kỳ, sách, ấn

72
phẩm hình ảnh, báo kỹ thuật số đều do đơn vị xuất bản chịu trách nhiệm xuất
bản. Theo quy định tại điều 10 của điều lệ này thì đơn vị xuất bản bao gồm:
tòa soạn báo, tòa soạn báo đăng tải định kỳ, NXB, NXB ấn phẩm hành chính,
NXB sản phẩm xuất bản số.
Chính sách xuất bản Trung Quốc cũng quy định rõ: để thành lập đơn vị
xuất bản thì cơ quan chủ quản của đơn vị xuất bản phải xin phép ơ quan
hành chính xuất bản của chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
khu tự trị; sau khi cơ quan hành chính xuất bản của chính quyền tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, khu tự trị kiểm tra và đồng ý sẽ báo cáo lên cơ
quan hành chính xuất bản của Quốc vụ viện trình duyệt. Như vậy cho thấy,
CSXB của Trung Quốc cũng có nét tương đồng với Việt Nam trong quản lý
khá chặt chẽ và yêu cầu cao về điều kiện đối với việc thành lập các NXB.
Về chính sách hợp tác quốc tế trong xuất bản, CSXB Trung Quốc nêu
rõ Nhà nước cho phép thành lập doanh nghiệp liên doanh hợp tác đầu tư với
nước ngoài, doanh nghiệp kinh doanh hợp tác với nước ngoài, doanh nghiệp
do nước ngoài đầu tư trong việc tiêu thụ các ấn phẩm như sách, báo, ấn phẩm
đăng tải định kỳ. Biện pháp và các bước tiến hành cụ thể do ơ quan hành
chính xuất bản Quốc vụ viện và Ban quản lý thương mại kinh tế đối ngoại
Quốc vụ viện quy định theo các quy định có liên quan.
Về chính sách quy hoạch, quản lý và định hướng phát triển: Ở Trung
Quốc việc định hướng nội dung XBP do Bộ Tuyên truyền Trung ương chỉ
đạo. ác đơn vị xuất bản sách ở Trung Quốc trước khi phát hành sách cũng
phải nộp lưu chiểu vào Thư viện quốc gia và cơ quan hành chính xuất bản của
Quốc vụ viện. Tổng cục Xuất bản - Thông tin là cơ quan quản lý xuất bản của
Trung Quốc. Các cục xuất bản - báo chí địa phương phụ trách việc giám sát,
quản lý đối với xuất bản trong khu vực hành chính của mình.
ũng như ở Việt Nam, việc định hướng nội dung các XBP của Trung
Quốc do Bộ Tuyên truyền Trung ương chỉ đạo, ở Việt Nam thì đó là Ban

73
TGT . ác đơn vị xuất bản sách ở Trung Quốc trước khi phát hành cũng tiến
hành lưu triểu cho Thư viện quốc gia và cơ quan hành chính xuất bản của Quốc
vụ viện. Một đặc điểm nổi bật của ngành xuất bản Trung Quốc là việc hình
thành các tập đoàn xuất bản, nhiều công ty phát hành được niêm yết trên sàn
chứng khoán. Việc phát triển tổng hợp các loại hình xuất bản và tổ chức lại
hoạt động phát hành đã tạo nên sức mạnh của các tập đoàn xuất bản. Đây cũng
chính là điểm đáng chú ý mà SXB nước ta có thể xem xét học hỏi.
2.4.3. Anh
Được đánh giá là một nước có ngành công nghiệp xuất bản phát triển,
đứng thứ 3 thế giới, nhưng hính phủ Anh không thành lập cơ quan chuyên
trách theo dõi về xuất bản, đồng thời cũng rất ít can thiệp vào xuất bản. Như
vậy cho thấy, CSXB của Anh thiên khá nhiều về hướng tự do xuất bản, thực
hiện coi xuất bản đúng như một ngành sản xuất, kinh doanh bình đẳng trong
xã hội. Đa phần các xuất bản do các hiệp hội điều chỉnh. Có rất nhiều các hiệp
hội xuất bản được thành lập ở nh, đáng chú ý là Hiệp hội Nhà kinh doanh
sách Anh và Ailen, Hiệp hội Nhà kinh doanh xuất bản. Hội đồng văn hoá nh
có nhiệm vụ thúc đẩy phát triển sự nghiệp xuất bản.
Về chính sách quản lý, quy hoạch: CSXB Anh cho phép tự do thành lập
NXB, không phân biệt cá nhân, tổ chức, người trong nước hay nước ngoài,
miễn là đủ tư cách pháp nhân. Hầu hết các NXB ở Anh chủ yếu thuộc sở hữu
của người nh, cũng có một số ít do người nước ngoài làm chủ. Trong đó
NXB lớn nhất ở nh do người Đức làm chủ.
Về chính sách ưu đãi tài chính: Ở Anh, sách và tạp chí được miễn thuế
giá trị gia tăng. Nước Anh không ban hành một bộ luật riêng về xuất bản,
song Anh lại là một trong những quốc gia có Luật bản quyền sớm nhất. Luật
“ nne” của nước Anh có hiệu lực thi hành từ ngày 10/4/1070 được xem là
Luật bản quyền đầu tiên trên thế giới. Qua nhiều lần sửa đổi, hiện nay Luật

74
bản quyền mới nhất được ban hành ngày 31/10/2003. Anh là quốc gia đầu
tiên trên thế giới thực hiện chế độ hậu kiểm.
Là một ngành công nghiệp xuất bản được đánh giá là lớn nhất châu Âu,
nhưng nhà nước Anh không có luật xuất bản, nhưng lại là nước có Luật bản
quyền sớm nhất trên thế giới. Điều đó cho thấy rằng luật bản quyền có một
vai trò rất quan trong. Việc thực hiện chế độ hậu kiểm cũng là một điểm nổi
bật của nền xuất bản Anh. Một trong những kinh nghiệm để vượt qua khỏi
giai đoạn khó khăn của ngành xuất bản Anh mà chúng ta có thể học hỏi đó là
xuất bản sách có chọn lọc hơn, giảm chi phí, xuất bản nhanh với việc giảm lãi
và tăng vòng quy vốn.
2.4.4. Bài học cho Việt Nam
Thứ nhất, xuất bản là lĩnh vực đặc thù. Mỗi quốc gia có điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau nên có sự khác biệt trong quản lý nhà
nước, hệ thống chính sách về lĩnh vực xuất bản sách. Hoạt động này ở các
nước tư bản là do các tập đoàn kinh tế tư nhân đảm nhiệm. Tại các nước phát
triển, các doanh nghiệp xuất bản hoạt động theo cơ chế thị trường. Xuất bản ở
các nước này tập trung giải quyết mối quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng mang tính chất kinh doanh là chủ yếu. Do vậy, ở những nước này Nhà
nước không có cơ chế chính sách riêng cho xuất bản. Qua việc tìm hiểu về
xuất bản của một số quốc gia nêu trên chúng ta có thể thấy rằng, hầu hết các
nước phát triển đều không ban hành luật riêng để điều chỉnh xuất bản mà xuất
bản ở các nước này được điều chỉnh chủ yếu bằng Hiến pháp và Luật bản
quyền. Việc kiểm duyệt nội dung XBP gần như không được các nước đặt ra.
Tuy nhiên về vấn đề này ở các nước vẫn có những quy định chung liên quan
đến việc cấm các hành vi vi phạm về sự thật, thuần phong mỹ tục, tổ chức,….
Ở một số quốc gia thì nhà nước ban hành chính sách quản lý giá sách
thống nhất trên cả nước. Việc này giúp các NXB không lo việc cạnh tranh về
giá mà sẽ tập trung cạnh tranh về chất lượng sách. Luật bản quyền ở tất cả các

75
quốc gia đều được ban hành và thực thi một cách nghiêm chỉnh. Các vi phạm
về vấn đề bản quyền được xử lý nghiêm. Những kinh nghiệm nêu trên của các
quốc gia cần được nghiên cứu, áp dụng đối với thị trường sách ở nước ta.
Thứ hai, số lượng các NXB ở các quốc gia tương đối lớn nhưng đa số
đều thuộc sở hữu của tư nhân. Điều này có được là do chính sách xã hội hóa
đối với xuất bản. Đây cũng là một vấn đề đáng chú ý đối với xuất bản của
nước ta. Nhưng để giải quyết vấn đề này trong thời gian tới chúng ta phải tập
trung giải quyết mối quan hệ giữa thực thi nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ
kinh tế. Đối với lĩnh vực xuất bản, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cần quan tâm những vấn đề về vốn, cơ chế cho các NXB, chính sách đào
tạo, …
Thứ ba, ở các quốc gia, vai trò tự quản, vai trò của tổ chức hội được coi
trọng. Các tổ chức hội tham gia trực tiếp cùng Chính phủ hoạch định chính sách,
xây dựng pháp luật, điều tiết sự bình ổn của xuất bản của các thành viên trong
hội. Các nghị quyết của tổ chức hội có tính hiệu lực rất cao. Hầu hết các quốc gia
không đánh thuế xuất khẩu. Các chính sách hỗ trợ thể hiện rõ qua các quỹ sáng
tạo, xây dựng thư viện,… Nước ta là một trong số không nhiều quốc gia có đạo
luật riêng về xuất bản và là quốc gia duy nhất quy định trong văn bản luật coi
xuất bản là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Vì vậy đối với công tác lãnh đạo và quản lý trong thời gian tới cần tập
trung vào các nhiệm vụ được xác định trong Chỉ thị 42- T/TW, trong đó nhấn
mạnh đổi mới công tác quản lý theo hướng tăng cường vai trò là quy hoạch, định
hướng, xây dựng hệ thống pháp luật thể hiện rõ nét ưu đãi của Nhà nước đối với
lĩnh vực sản xuất kinh doanh đặc thù qua thuế và chính sách hỗ trợ khác; hỗ trợ
phát triển văn hóa đọc và thực hiện có hiệu quả, đầy đủ cơ chế hậu kiểm.

76
KẾT LUẬN C ƢƠNG 2
CSXB là tập hợp các quyết định và hành động tương ứng của cơ quan
có thẩm quyền hướng đến các chủ thể tham gia xuất bản, nhằm đưa xuất bản
thực hiện tốt chức năng văn hóa - tư tưởng và chức năng kinh doanh của
mình. CSXB bao gồm những nội dung cơ bản, đó là, chính sách về quy
hoạch, quản lý, kiểm soát, hỗ trợ, hợp tác quốc tế, chính sách phát triển xuất
bản điện tử và những chính sách khác có liên quan.
CSXB có vai trò rất to lớn, nó xác lập vị trí, vai trò của ngành xuất bản
và định hướng phát triển đúng hướng, điều phối hoạt động của các cơ quan
nhà nước, huy động lực lượng xã hội và ngăn chặn những phản giá trị xâm
nhập vào đời sống xã hội. Có nhiều yếu tố cả về chủ quan và khách quan tác
động đến quá trình xây dựng và thực thi SXB, như môi trường chính trị,
điều kiện kinh tế - xã hội, xu thế quốc tế..., song, vai trò chủ quan, trình độ
năng lực của chính các chủ thể vẫn là nhân tố quyết định.
Nền xuất bản ở nhiều nước trên thế giới đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Họ để lại những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện các SXB, đòi hỏi Việt Nam cần chủ động, tích cực học tập và vận
dụng phù hợp vào điều kiện đất nước. Những nghiên cứu về lý luận CSXB ở
hương 2, đặc biệt là về mục tiêu, nội dung, giải pháp, các tiêu chí đánh giá
CSXB có vai trò rất quan trọng, tạo ra cơ sở vững chắc để tiếp tục đi sâu tìm
hiểu thực trạng CSXB của đất nước trong hiện thực, đánh giá những ưu điểm
và hạn chế, tìm ra nguyên nhân, để từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện.

77
Chƣơng 3
T ỰC TRẠNG C ÍN SÁC UẤT BẢN Ở V ỆT NAM ỆN NAY

3.1. Thực trạng mục tiêu chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Mục tiêu chung của CSXB ở Việt Nam có thể nhận thấy thông qua hệ
thống các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tư tưởng văn hóa nói
chung, về hoạt động báo chí, xuất bản nói riêng và thông qua hệ thống các
văn bản pháp luật của nhà nước về xuất bản. Theo đó, mục tiêu tổng quát của
toàn bộ chính sách là nhằm tạo lập, xác định vị trí, vai trò của xuất bản cũng
như hướng tới phát triển ngành xuất bản trong tương lai.
Mục tiêu cụ thể bao gồm: (1) giữ vững định hướng phát triển của ngành
xuất bản theo đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước; (2) thúc đẩy xuất bản
thực hiện tốt vai trò nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân;
(3) bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học; (4) nâng cao hiệu quả kinh tế của xuất bản.
3.1.1. Giữ vững định hướng phát triển của ngành xuất bản theo
đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng đã khẳng
định rõ: CSXB phải "hướng báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện những
nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt, việc
tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; Nâng cao
tính chân thực, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin; khắc phục
khuynh hướng “thương mại hóa” trong hoạt động báo chí, xuất bản" [12,
tr.144]. Ban Chấp hành Trung ương khi ban hành Nghị quyết Trung ương 5
(khóa X) Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới (2007),
cũng tiếp tục nhấn mạnh: CSXB phải xác định đường lối cho xuất bản phát

78
triển, và phải được “đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; bảo đảm tính tư tưởng, tính
chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng” [37, PL1].
Chúng ta cần xem xét CSXB trong tính chỉnh thể của nó, để thấy được
vấn đề chính sách, và trên cơ sở đó, xác định được mục tiêu này. Sau năm
1986 (khi đất nước đổi mới), và đặc biệt, từ những năm 2000, khi chúng ta
đẩy mạnh thực hiện vận hành kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
thì bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác xuất bản, thì lại nảy
sinh những vấn đề mới. Đặc biệt là vấn đề: thị trường sách ở vùng sâu, vùng
xa bị bỏ ngỏ, tình trạng chênh lệch về hưởng thụ văn hóa thông qua xuất bản
phẩm giữa vùng sâu, vùng xa, cản trở sự phát triển đồng đều giữa các vùng,
địa bàn. Xu hướng “thương mại hóa” trong sản xuất, lưu thông xuất bản phẩm
tăng, phát hành một số xuất bản phẩm có nội dung không lành mạnh, trái với
quan điểm của Đảng, Nhà nước. Đó chính là vấn đề chính sách lớn để CSXB
phải đạt được mục tiêu này.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện đất nước. Xuất bản là một
ngành thuộc lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, do đó, Đảng và Nhà nước đã nêu ra
các quan điểm, đường lối đối với phát triển văn hóa nói chung, ngành xuất
bản nói riêng. CSXB phải bám sát những quan điểm đó, tránh để chệch
hướng. Tương ứng với từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của đất nước, Đảng ta đã có những chủ trương, đường lối khác nhau đối
với xuất bản. Sau khi những chủ trương, đường lối ra đời, các văn bản pháp
luật của Nhà nước sẽ thể chế hóa và ghi nhận các chủ trương, đường lối đó
vào trong các chế định, các quy định pháp luật về xuất bản. Đường lối, quan
điểm của Đảng về xuất bản được thể hiện trong rất nhiều chỉ thị, nghị quyết
về phát triển văn hóa, tư tưởng, như: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết TW 9 (khóa

79
XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước.
3.1.2. Thúc đẩy xuất bản thực hiện tốt vai trò nâng cao dân trí và đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, xuất bản đã khởi sắc và có
một diện mạo mới, phục vụ tốt đời sống tinh thần của nhân dân với những
xuất bản phẩm phong phú về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, mặt trái của
cơ chế thị trường đã thúc ép các chủ thể xuất bản chỉ chú ý tới các xuất bản
phẩm có khả năng thanh toán, đẩy xuất bản tìm kiếm các khả năng thanh toán
có lợi nhuận cao, không lường đến hậu quả chính trị, xã hội có thể xảy ra.
Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về “Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản” đã xác định rõ: Cần
phải nhận rõ "sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén
của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [36, PL1], từ đó, xây dựng
CSXB một cách đúng đắn, đảm bảo cho xuất bản thực hiện đúng vai trò, chức
năng của mình trong đời sống xã hội và đối với nhân dân.
Chính vì thế, SXB đặt ra mục tiêu là phải hạn chế đến mức tối đa các
xuất bản phẩm chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, đặc biệt là phải ngăn
chặn xu hướng thương mại hóa xuất bản. Khi ngăn chặn được những xu
hướng sai lệch đó, đồng thời, phát triển lành mạnh xuất bản, thì sẽ cung cấp
cho xã hội những sản phẩm có giá trị cao, góp phần nâng cao dân trí, nâng
cao mức hưởng thụ tinh thần của Nhân dân. Như vậy, đòi hỏi các chính sách
phải có các cơ chế ràng buộc đội ngũ tác giả và NXB về tiêu chuẩn nội dung,
kỹ thuật, mỹ thuật của xuất bản phẩm. Đặc biệt, phải ngăn chặn việc xuất bản
những xuất bản phẩm độc hại, phản giá trị. Ngoài ra, CSXB còn có mục tiêu
phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng dân cư bằng nhiều giải pháp cụ thể, có

80
giải pháp thiết thực quan tâm nâng cao dân trí, đời sống văn hóa, tinh thần của
bộ phận Nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
3.1.3. Bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác
phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học
Một trong những vấn đề chính sách nổi lên trong thời gian gần đây, đặc
biệt, từ sau khi Việt Nam tham gia vào các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ
và bảo hộ bản quyền, đó là tình trạng vi phạm bản quyền, in lậu, phát hành
sách trái phép… Vấn đề này đặt ra cho CSXB phải xác định đây là một trong
những mục tiêu cần đạt được.
Xuất bản có phát triển mạnh mẽ được hay không, có vai trò rất lớn của
đội ngũ những người sáng tạo (các tác giả). Chính vì thế, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa
học chính là một mục tiêu quan trọng đặt ra của CSXB ở Việt Nam. Hơn nữa,
trong bối cảnh xuất bản Việt Nam hội nhập với xuất bản thế giới, mục tiêu
này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Ở Việt Nam, chính sách pháp luật là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp
pháp của những người bằng lao động của mình đã sáng tạo ra tác phẩm. ăn
cứ vào các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, về quyền tác giả… mà Việt
Nam đã tham gia, hệ thống pháp luật có các chế tài, các quy định về quyền
của người sáng tạo, người quản lý và các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ các
quyền đó, cùng với các quy định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp
lý cho việc bảo hộ quyền sở hữu tác phẩm. Các tác giả được Nhà nước tạo
phương tiện để đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tranh chấp
về quyền tác giả, các hành vi xâm hại lợi ích vật chất và tinh thần của tác giả
được xét xử tại Tòa án dân sự. Như vậy, thông qua việc bảo hộ quyền tác giả,
Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để
có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có giá trị phục vụ xã hội. Và trong thực
tế, mục tiêu này đã được triển khai, cụ thể hóa thông qua các giải pháp, công

81
cụ cụ thể, rõ nhất là ngày 16-20-2013, Chính phủ ra Nghị định số
131/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả,
quyền liên quan, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Công an ban
hành Thông tư liên tịch số 16/2009/TT-BTTTT ngày 12-5-2009 Về phối hợp
phòng, chống in lậu…
3.1.4. Nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất bản
Xuất bản Việt Nam có điểm đặc thù so với nhiều nước trên thế giới, đó
là vừa có chức năng văn hóa - tư tưởng, nhưng đồng thời, đây cũng được coi
là một ngành kinh tế. Nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động này là một
mục tiêu mà SXB đặt ra. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang đẩy
mạnh đổi mới, cải cách thủ tục hành chính, tinh gọn bộ máy, giảm sự lệ thuộc
của các bộ, ngành, địa phương vào ngân sách nhà nước, thì mục tiêu này càng
trở nên quan trọng, cấp bách. Theo đó, các chính sách đối với xuất bản hiện
nay đã trao quyền tự chủ cho các NXB trên các lĩnh vực hoạt động, như: Tự
chủ về kế hoạch sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự chủ về tổ chức bộ
máy của NXB và lựa chọn nhân sự, tự chủ trên một số mặt hoạt động hợp tác
quốc tế, tham gia các hoạt động xã hội, tổ chức các hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ. Những chính sách về tự chủ xuất bản như vậy đã góp phần giải
phóng sức sáng tạo, phát huy năng lực, tính chủ động của các đơn vị, hướng
đến mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế của xuất bản.
3.2. Thực trạng giải pháp chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Quy hoạch phát triển xuất bản
Quyết định 115/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ xác định giải pháp
tổ chức mạng lưới XBIPH XBP như sau:
- Chỉ xem xét thành lập mới NXB đối với ngành, lĩnh vực và tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chưa có NXB; hoàn thành việc rà soát, sắp
xếp lại các NXB vào năm 2015;

82
- Không thành lập mới cơ sở in trong khu dân cư và thực hiện di dời
các cơ sở in ra ngoài khu dân cư; có kế hoạch từng bước đưa các cơ sở in vào
khu công nghiệp;
- Mở rộng phạm vi hoạt động của các NXB, cơ sở in, cơ sở phát hành
XBP ở trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức.
Trong quy hoạch mạng lưới này, vấn đề quan trọng hơn cả là quy hoạch
các NXB. Điều 12 Luật Xuất bản 2012 quy định về các chủ thể được thành lập
NXB bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương và cấp tỉnh; đơn vị sự nghiệp công lập ở trung ương; tổ chức chính trị -
xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa
học, học thuật. Việc thành lập NXB phải có đủ 3 điều kiện sau đây:
- Có tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ, xuất
bản phẩm chủ yếu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản;
- ó người đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 17 của Luật này để bổ
nhiệm tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập và có ít nhất năm biên tập viên
cơ hữu;
- Có trụ sở, nguồn tài chính và các điều kiện cần thiết khác bảo đảm
hoạt động của NXB do Chính phủ quy định.
Đến Nghị định 195/2013/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành ngày
21/11/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản
quy định rõ về điều kiện hoạt động cho NXB như sau: Trụ sở của NXB có
diện tích từ 200 mét vuông (m2) sử dụng trở lên; có ít nhất 05 (năm) tỷ đồng
để bảo đảm xuất bản; có đủ trang thiết bị để tổ chức xuất bản. Ngoài ra, cơ
quan chủ quản và NXB bảo đảm kinh phí hằng năm ít nhất 05 (năm) tỷ đồng,
để NXB thực hiện nhiệm vụ xuất bản theo tôn chỉ, mục đích của NXB.
Từ quy định của Luật chúng ta có thể thấy rằng chính sách phát triển
xuất bản hiện nay chưa cho phép sự tham gia của khối kinh tế tư nhân vào
việc thành lập các NXB và tham gia trực tiếp vào giai đoạn đầu của xuất bản.

83
Đồng thời, pháp luật cũng quy định về loại hình NXB chỉ hoạt động theo một
trong hai hình thức là đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp kinh
doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu.
3.2.2. Quản lý, kiểm soát xuất bản
Nghị định 195/2013/NĐ- P của hính phủ, ban hành ngày 21/11/2013
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản. Nghị định
quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của Bộ TTTT trong việc thực hiện quản
lý nhà nước về xuất bản; trách nhiệm của các Bộ có liên quan.
Về công tác phối hợp trong quản lý, ngày 26 tháng 01 năm 2010, Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã có Quyết định số 283-QĐ/TW ban hành quy định
về sự phối hợp giữa Ban TGT , Ban án sự đảng Bộ TTTT với các cơ quan
Đảng, cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan Nhà nước, tổ chức đoàn thể trong
công tác chỉ đạo, quản lý xuất bản. Theo đó, quy định phối hợp trong việc
phát hiện và xử lý XBP vi phạm quy định của Đảng và Nhà nước về nội dung
chính trị, tư tưởng (được quy định tại Điều 6) như sau: Trong quá trình tổ
chức đọc kiểm tra nội dung XBP theo quy định của Luật Xuất bản và phát
hiện của bạn đọc, nếu có dấu hiệu vi phạm về nội dung chính trị, tư tưởng,
Ban cán sự đảng Bộ TTTT chủ trì, phối hợp với Ban TGT xem xét, đánh giá
mức độ vi phạm và đề xuất hình thức xử lý. Trên cơ sở thống nhất ý kiến với
Ban TGT , Bộ TTTT ra quyết định xử lý.
Quy định về cấp, thu hồi giấy phép thành lập NXB, tạm đình chỉ hoạt
động của NXB được thể hiện tại Điều 8 như sau:
Về cấp giấy phép thành ập NXB: ơ quan đề nghị thành lập NXB làm
công văn, tờ trình, hồ sơ gửi Bộ TTTT và Ban TGT ; Ban cán sự đảng Bộ
TTTT xem xét các tiêu chuẩn cấp phép thành lập NXB theo quy định của
pháp luật và quy hoạch phát triển xuất bản của cả nước, gửi công văn hiệp y
với Ban TGT , chỉ đạo Bộ TTTT căn cứ kết quả hiệp y của Ban TGT ra
quyết định. Trường hợp còn có ý kiến khác nhau, lãnh đạo Ban và Bộ trực

84
tiếp có buổi làm việc để tiến tới thống nhất trước khi quyết định. Bộ TTTT
chỉ ra quyết định cấp giấy phép thành lập NXB sau khi đã có sự thống nhất ý
kiến của Ban TGT .
Về thu hồi giấy phép thành ập NXB, tạm đình chỉ hoạt động của NXB:
ăn cứ mức độ sai phạm của NXB, Bộ TTTT thống nhất ý kiến với Ban
TGT và tham khảo ý kiến của cơ quan chủ quản NXB để quyết định thu hồi
giấy phép thành lập NXB hoặc tạm đình chỉ hoạt động của NXB.
Quy định này đã làm rõ được trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, tạo
hành lang quan trọng để phát huy trách nhiệm của các lực lượng, giúp cho
chính sách quản lý được thông suốt.
Về giám sát, thanh tra, kiểm tra xuất bản: Về các hành vi bị cấm trong
xuất bản, Điều 10 Luật Xuất bản 2012 quy định thành 2 nhóm: Nhóm 1 là
cấm XBIPH các loại XBP có một số nội dung được liệt kê như tuyên truyền
chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do
pháp luật quy định; xuyên tạc sự thật lịch sử; vu khống, xúc phạm uy tín của
cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
Nhóm 2 là các hành vi bị cấm trong xuất bản, như: xuất bản mà không
đăng ký, không có quyết định xuất bản hoặc không có giấy phép xuất bản; in
lậu, in giả, in nối bản trái phép XBP;…
Theo quy định của Luật Xuất bản 2012, phân cấp thẩm quyền thanh tra
kiểm soát xuất bản như sau:
Bộ TTTT giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về xuất bản trên
phạm vi cả nước có nhiệm vụ, quyền hạn: Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về xuất bản; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
trong xuất bản theo thẩm quyền.
Cục XBIPH là cơ quan chức năng của Bộ TTTT có nhiệm vụ, quyền
hạn: Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp

85
luật trong xuất bản theo thẩm quyền; tạm đình chỉ hoạt động của NXB, cơ sở in,
cơ sở phát hành; cấm lưu hành, thu hồi, tịch thu hoặc tiêu huỷ XBP vi phạm
pháp luật về xuất bản của NXB, cơ quan, tổ chức được phép xuất bản, cơ sở kinh
doanh nhập khẩu XBP thuộc địa phương và báo cáo Bộ trưởng Bộ TTTT.
Sở TTTT là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm
vụ, quyền hạn: thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về xuất
bản; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong xuất bản theo
thẩm quyền; tạm đình chỉ hoạt động in xuất bản; tạm đình chỉ việc tổ chức triển
lãm, hội chợ XBP của cơ quan, tổ chức, cá nhân do địa phương cấp phép; tạm
đình chỉ việc phát hành XBP có nội dung vi phạm Luật Xuất bản của cơ sở phát
hành XBP tại địa phương; thực hiện việc tiêu hủy XBP vi phạm pháp luật về
xuất bản khi có quyết định của Bộ trưởng Bộ TTTT hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh.
Về kiểm soát liên kết xuất bản: Việc liên kết trong xuất bản, Luật Xuất
bản cho phép các NXB được liên kết theo 4 hình thức là khai thác bản thảo,
biên tập sơ bộ bản thảo, in XBP và phát hành XBP. Đối tác liên kết có thể là
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, NXB, cơ sở in XBP, cơ sở phát hành XBP
và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân để xuất bản đối với từng XBP.
Trong lĩnh vực biên tập xuất bản, các đối tác liên kết được tham gia vào khâu
khai thác bản thảo, biên tập sơ bộ bản thảo, song giám đốc NXB phải tổ chức
biên tập hoàn chỉnh và ký duyệt bản thảo đưa in, ký duyệt XBP liên kết trước
khi phát hành. Luật Xuất bản 2004 lần đầu cho phép tư nhân cũng có quyền
nhất định tham gia vào việc hình thành nội dung XBP thông qua việc tổ chức
bản thảo. Luật Xuất bản 2012 tiếp tục cho phép tư nhân tham gia liên kết xuất
bản với các NXB, tuy nhiên có quy định chặt chẽ hơn về quyền và trách
nhiệm của giám đốc, tổng biên tập NXB. Quyền quyết định xuất bản vẫn giao
cho NXB. Luật quy định cả giám đốc NXB và đối tác liên kết cùng chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hoạt động liên kết xuất bản và XBP liên kết. Đặc
biệt, Luật Xuất bản 2012 quy định đối với tác phẩm, tài liệu có nội dung về lý

86
luận chính trị, lịch sử, tôn giáo, chủ quyền quốc gia, hồi ký thì NXB không
được liên kết biên tập sơ bộ bản thảo.
Những quy định cụ thể về liên kết xuất bản giúp cho các đơn vị xuất
bản xác định được phương hướng để ký kết, liên kết, hợp tác trong việc biên
tập, xuất bản các đầu sách, tạo cơ hội cho cả hai phía.
3.2.3. Hợp tác quốc tế về xuất bản
ác chính sách về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trong xuất bản hiện
nay chưa được thể hiện nhiều. hưa có một văn bản nào của Đảng, Nhà nước
đề cập một cách chuyên sâu hay quy định cụ thể về chiến lược, nội dung, giải
pháp hợp tác quốc tế trong hoạt động này. hủ yếu, mới chỉ được nêu lên
mang tính quan điểm chỉ đạo, định hướng mà thôi.
Trong hỉ thị 42- T/TW ngày 25 tháng 8 năm 2014 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản, xác định một nội
dung giải pháp: Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực XBIPH với các nước trong khu
vực và quốc tế, khuyến khích đưa sách của nước ta ra thế giới. Nhà nước có
chính sách tài trợ để xuất bản bằng tiếng nước ngoài một số đầu sách có giá trị
của các tác giả được giải thưởng Hồ hí Minh và giải thưởng Nhà nước.
Trong Quyết định 115/QĐ-TTg ngày 16 tháng 01 năm 2014 của Thủ
tướng hính phủ về việc phê duyệt quy hoạch phát triển XBIPH xuất bản đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 có xác định rõ hơn về giải pháp hợp tác
với các nước và quảng bá XBP Việt Nam ra nước ngoài bao gồm:
(a) Tăng cường hợp tác, trao đổi về bản quyền, chuyên môn, nghiệp vụ
và chuyển giao công nghệ với các nước có nền XBIPH phát triển trong khu
vực và thế giới, chú trọng đến các quốc gia, khu vực trọng điểm;
(b) Đẩy mạnh quảng bá XBP ra nước ngoài thông qua các hoạt động
phát hành, triển lãm, hội chợ và các hoạt động hợp tác, giao lưu khác;
(c) Nâng cao chất lượng hoạt động, vị thế thành viên trong hiệp hội
xuất bản khu vực và thế giới.
Luật Xuất bản 2012 không có nhiều điểm mới về chính sách hợp tác
quốc tế trong xuất bản. Đối với xuất khẩu XBP, Luật chỉ quy định: “XBP đã

87
được xuất bản và lưu hành hợp pháp tại Việt Nam được phép xuất khẩu ra
nước ngoài”. Luật tập trung quy định xung quanh nhập khẩu XBP như: ấp
giấy phép, đăng ký, trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở nhập khẩu XBP.
Về chính sách thuế xuất, nhập khẩu đối với XBP: Hiện nay, việc xuất,
nhập khẩu XBP với mục đích kinh doanh thì chịu sự quy định của Luật Thuế
xuất, nhập khẩu do Quốc hội ban hành ngày 06 tháng 4 năm 2016. òn đối với
việc xuất, nhập khẩu XBP không nhằm mục đích kinh doanh thì thực hiện theo
Nghị định số 32/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 4 năm 2012 về
quản lý xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh.
Việc Việt Nam tham gia ký kết ông ước Berne ngày 7 tháng 6 năm
2004, theo Quyết định số 332/2004/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam cũng đã là một chính sách nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực xuất bản. Khiến cho các NXB có cơ sở pháp lý trong việc mua
bán, trao đổi bản quyền các XBP. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, chưa có nhiều
chính sách nhằm đa dạng hóa, đa phương hóa, mở rộng các hình thức, các hoạt
động hợp tác xuất bản. Nhìn chung, chính sách về hợp tác quốc tế trong xuất
bản mới chỉ dừng lại ở những chính sách liên quan đến xuất, nhập khẩu văn
hóa phẩm.
3.2.4. Bảo hộ quyền tác giả
Hiện nay, các chính sách về bảo hộ quyền tác giả, luật về sở hữu trí tuệ
trong đó có quy định về quyền tác giả của Việt Nam khá tương thích so với
các quy định trên thế giới. Cụ thể: Trong phần thứ sáu của Bộ Luật Dân sự,
quy định về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, trong đó, chương
1 của phần này quy định về quyền tác giả. Luật Sở hữu trí tuệ quy định về sở
hữu trí tuệ, trong đó phần thứ hai quy định về quyền tác giả và liên quan trực
tiếp chế định trong lĩnh vực xuất bản. Điều 13 luật này quy định tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Ngoài ra, Luật
cũng quy định rõ: Quyền tác giả bao gồm quyền thân nhân và quyền tài sản,
xác định 16 nhóm hành vi vi phạm quyền tác giả.

88
Cụ thể hóa những chính sách về bảo hộ quyền tác giả, Chính phủ có
Nghị định số 22/2012/NĐ- P ngày 23 tháng 02 năm 2016 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả,
quyền liên quan. Thủ tướng Chính phủ cũng có Quyết định số 88/QĐ-TTg
ngày 20 tháng 01 năm 2017 về việc phê duyệt đề án tăng cường năng lực quản
lý và thực thi có hiệu quả pháp luật bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đến
năm 2020, định hướng đến năm 2025. Theo đó, tại Nghị định 22/2012/NĐ-CP,
xác định rõ 5 nhóm chính sách của Nhà nước về quyền tác giả, quyền liên
quan, bao gồm:
(1). Hỗ trợ tài chính để mua bản quyền cho các cơ quan, tổ chức Nhà
nước có nhiệm vụ phổ biến tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng có giá trị tư tưởng, khoa học, giáo dục và nghệ thuật
phục vụ lợi ích công cộng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
(2). u tiên đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức làm
công tác quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan từ trung
ương đến địa phương.
(3). u tiên đầu tư, ứng dụng khoa học và công nghệ trong việc bảo hộ
quyền tác giả, quyền liên quan.
(4). Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật về quyền tác giả, quyền liên quan. Tăng cường giáo dục kiến thức về
quyền tác giả, quyền liên quan trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác
phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo.
(5). Huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư nâng cao năng lực hệ
thống bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Nhằm bảo đảm chính sách bảo hộ quyền tác giả được thực hiện trên
thực tế, với những chế tài cụ thể, Chính phủ còn xây dựng Nghị định số
131/2013/NĐ- P ngày 16 tháng 10 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính về quyền tác giả, quyền liên quan. Nghị định đã quy định rõ về các

89
trường hợp bị coi là vi phạm, quy định khung tiền phạt, thẩm quyền phạt và
biện pháp khắc phục hậu quả đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm. Theo đó,
mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan đối với cá
nhân là 250.000.000 đồng, đối với tổ chức là 500.000.000 đồng.
Đối với các hành vi vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự, ngoài việc phải áp dụng các chế tài tại Bộ Luật Hình sự, còn phải được
thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29 tháng 02 năm 2008 giữa Tòa án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
3.2.5. Phát triển văn hóa đọc trong xã hội
Nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, trong hiến lược phát triển văn
hóa đến năm 2020 (ban hành theo Quyết định số 581/QĐ-TTg, ngày
06/5/2009 của Thủ tướng hính phủ) đã đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ của ngành
văn hóa là phải: Xây dựng phong trào đọc sách trong xã hội, góp phần xây
dựng có hiệu quả thế hệ đọc tương lai. Tiếp đó là Quyết định số 692/QĐ-TTg
ngày 04/5/2013 của Thủ tướng hính phủ phê duyệt đề án Xóa mù chữ đến
năm 2020, và gần đây hính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển văn hóa đọc
trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (theo Quyết định
số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 của Thủ tướng hính phủ), trong đó nhấn
mạnh đến mục tiêu quan trọng của văn hóa đọc là: Xây dựng và phát triển
thói quen, nhu cầu, kỹ năng và phong trào đọc (xuất bấn phẩm in và điện tử)
trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên, học sinh,
sinh viên và chú trọng tới người dân ở vùng nông thôn, vùng có điều kiện
kinh tê - xã hội khó khăn; cải thiện môi trường đọc; góp phần nâng cao dân
trí, phát triển tư duy, khả năng sáng tạo, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn, tăng
cường ý thức chấp hành pháp luật, hình thành lối sống lành mạnh trong con
người, xã hội Việt Nam, đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập.
Ngày 24 tháng 02 năm 2014, Thủ tướng hính phủ đã ký Quyết định
số 284/QĐ-TTg về Ngày Sách Việt Nam. Ngày sách được thực hiện với mục

90
đích khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng, nâng
cao nhận thức của nhân dân về ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của việc đọc
sách đối với việc nâng cao kiến thức và kỹ năng, phát triển tư duy, giáo dục
và rèn luyện nhân cách con người. Tôn vinh giá trị của sách, khẳng định vai
trò, vị trí, tầm quan trọng của sách trong đời sống xã hội; tôn vinh người đọc
và những người tham gia sưu tầm, sáng tác, XBIPH, lưu giữ, quảng bá
sách. Nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng và
các tổ chức xã hội đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa đọc Việt Nam.
Theo Quyết định này, Thủ tướng quyết định lấy ngày 21 tháng 4 hàng năm là
Ngày Sách Việt Nam. Bộ TTTT đã cụ thể hóa bằng Kế hoạch số 892/KH-
BTTTT, ngày 26 tháng 3 năm 2014, theo đó, tổ chức các hoạt động Ngày
Sách tại tất cả các cấp từ Trung ương tới địa phương, hệ thống các trường
học, thư viện; với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. ó thể nói, đây là một
chính sách khá sáng tạo, nhằm góp phần thực hiện đầy đủ chức năng, vai trò
của xuất bản đối với toàn xã hội.
3.3. Thực trạng công cụ chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Công cụ tổ chức
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản trong
phạm vi cả nước.
- Ở Trung ương: Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm giúp
Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, có
nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Nghị định 17/2017/NĐ-CP có hiệu
lực từ ngày 17/02/2017, như sau:
(1) Hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới xuất
bản, in, phát hành xuất bản phẩm đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
(2) Cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi các loại
giấy phép trong lĩnh vực xuất bản, in, phát hành theo quy định của pháp luật.
(3) Xác nhận và quản lý đăng ký xuất bản của nhà xuất bản, đăng ký
hoạt động cơ sở in, đăng ký hoạt động in đối với sản phẩm không phải cấp

91
phép, đăng ký hoạt động phát hành xuất bản phẩm, đăng ký hoạt động xuất
bản điện tử, phát hành xuất bản phẩm điện tử theo quy định của pháp luật.
(4) Tổ chức thẩm định xuất bản phẩm theo quy định của pháp luật; tổ
chức kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu và quản lý việc lưu chiểu xuất bản
phẩm; tổ chức việc đặt hàng và đưa xuất bản phẩm tới vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo;
tổ chức hội chợ xuất bản phẩm cấp quốc gia và quản lý việc phát hành xuất
bản phẩm ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
(5) Quyết định đình chỉ, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành và tiêu hủy
xuất bản phẩm vi phạm pháp luật.
(6) Cấp, gia hạn, thu hồi chứng chỉ hành nghề biên tập theo quy định
của pháp luật.
(7) Quản lý các hoạt động hỗ trợ xuất bản theo quy định của pháp luật.
(8) Có ý kiến về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức tổng giám đốc
(giám đốc), tổng biên tập nhà xuất bản.
Cục Xuất bản, In và Phát hành là tổ chức trực thuộc Bộ Thông tin và
Truyền thông, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà
nước và tổ chức thực thi pháp luật về xuất bản, in và phát hành xuất bản
phẩm; Chức năng, nhiệm vụ của Cục Xuất bản, In và Phát hành được quy
định tại Quyết định số 1278/QĐ-BTTTT ngày 9/9/2014 của Bộ trưởng Bộ
Thông tin và Truyền thông quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Cục Xuất bản, In và Phát hành. Cục Xuất bản, In và Phát
hành có trách nhiệm thanh tra, kiểm soát xuất bản:
+ Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về xuất bản; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản theo
thẩm quyền. Cục Xuất bản, In và Phát hành là cơ quan chức năng của Bộ
Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật trong hoạt động xuất bản theo thẩm quyền;

92
+ Tạm đình chỉ hoạt động của NXB, cơ sở in, cơ sở phát hành xuất bản
phẩm của Trung ương tại địa phương; đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật về
xuất bản của chi nhánh, văn phòng đại diện NXB, cơ sở in, cơ sở phát hành
xuất bản phẩm của Trung ương và tổ chức, cá nhân khác tại địa phương; tạm
đình chỉ việc kinh doanh nhập khẩu xuất bản phẩm của cơ sở kinh doanh nhập
khẩu xuất bản phẩm và báo cáo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
đình chỉ việc phát hành xuất bản phẩm có nội dung vi phạm Luật Xuất bản
của cơ sở phát hành xuất bản phẩm tại địa phương;
+ Cấm lưu hành, thu hồi, tịch thu hoặc tiêu huỷ xuất bản phẩm vi phạm
pháp luật về xuất bản của NXB, cơ quan, tổ chức được phép xuất bản, cơ sở
kinh doanh nhập khẩu xuất bản phẩm thuộc địa phương và báo cáo Bộ trưởng
Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Ở địa phương: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước
về hoạt động xuất bản tại địa phương có nhiệm vụ quyền hạn:
+ Xây dựng quy hoạch, quyết định kế hoạch phát triển các lĩnh vực
xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm thuộc địa phương; xây dựng và ban
hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động xuất bản;
+ Tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt động xuất
bản tại địa phương;
- Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Giúp Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ Quản
lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản tại địa phương.
+ Chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thu hồi
giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh, giấy phép triển lãm, hội chợ
xuất bản phẩm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc địa phương, chi nhánh,
văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc cơ quan, tổ chức của Trung ương tại địa
phương; giấy phép hoạt động in xuất bản phẩm và giấy phép in gia công xuất
bản phẩm cho nước ngoài đối với cơ sở in xuất bản phẩm thuộc địa phương
quy định tại các Điều 22, 31, 34 và 42 Luật Xuất bản;

93
+ Quản lý việc lưu chiểu xuất bản phẩm và tổ chức đọc xuất bản phẩm
lưu chiểu do địa phương cấp phép;
+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về xuất bản;
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất
bản theo thẩm quyền;
+ Tạm đình chỉ hoạt động in xuất bản phẩm hoặc đình chỉ việc in xuất
bản phẩm đang in nếu phát hiện nội dung xuất bản phẩm vi phạm Điều 10
Luật Xuất bản và báo cáo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Chủ tịch
ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tạm đình chỉ việc tổ chức triển lãm, hội chợ xuất
bản phẩm của cơ quan, tổ chức, cá nhân do địa phương cấp phép; tạm đình
chỉ việc phát hành xuất bản phẩm có nội dung vi phạm Luật Xuất bản của cơ
sở phát hành xuất bản phẩm tại địa phương.
+ Thực hiện việc tiêu hủy xuất bản phẩm vi phạm pháp luật về xuất bản
khi có quyết định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông
thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản theo thẩm quyền.
Như vậy, bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản được
chia
thành hai cấp: Trung ương và địa phương:
- Ở Trung ương: là Bộ Thông tin và Truyền thông, với cơ quan chức
năng giúp việc Bộ là Cục Xuất bản, In và Phát hành. Ở địa phương là Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh với cơ quan giúp việc là Sở Thông tin và truyền thông.
Điều đáng lưu ý ở đây là chính quyền nước ta tổ chức theo mô hình bốn
cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc TW), quận (huyện), xã (phường)
thì Luật Xuất bản chỉ phân cấp đến cấp tỉnh, khác với nhiều luật như: Luật
Đất đai phân cấp đến quận, huyện; Luật Xử phạt vi phạm hành chính phân
cấp đến công an phường. Bộ Thông tin và Truyền thông giúp Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản trên phạm vi cả nước.

94
CHÍNH PHỦ

UBND tỉnh Bộ TTTT Bộ, ban, ngành


chủ quản

Sở TTTT Các nhà xuất Các hoạt động


bản xuất bản khác

Sơ đồ 3.1: Mô hình quan hệ các cơ quan là công cụ tổ chức của CSXB


3.3.2. Công cụ tài chính - kinh tế
Trong các Luật Xuất bản từ trước đến nay, đều xác định các nội dung
mà Nhà nước hỗ trợ tài chính, kinh tế cho xuất bản. Trong Luật Xuất bản
2012, quy định rõ: “Nhà nước có chiến lược, quy hoạch phát triển mạng lưới
NXB, cơ sở in, cơ sở phát hành XBP; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; ưu đãi
về thuế theo quy định của pháp luật cho xuất bản; có chính sách thu hút các
nguồn lực xã hội tham gia vào xuất bản”. Đồng thời, Luật cũng quy định cụ
thể các chính sách hỗ trợ đối với từng lĩnh vực
Quyết định số: 115/QĐ-TTg ngày 16 tháng 01 năm 2014 của Thủ
tướng hính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển XBIPH XBP đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng xác định giải pháp về đầu tư, hỗ trợ của
Nhà nước:
(a) Tăng cường nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở vật chất đối với: ác
NXB; các cơ sở in XBP phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng,

95
thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên
giới, hải đảo, thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thị;
(b) Khôi phục, duy trì và phát triển cơ sở phát hành XBP tại các địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi,
biên giới, hải đảo;
(c) Hỗ trợ, bảo đảm kinh phí để thực hiện chính sách của Nhà nước
theo quy định của Luật xuất bản và các quy định của pháp luật có liên quan;
bảo đảm kinh phí hoạt động đối với các NXB và kinh phí thực hiện một số dự
án nâng cao chất lượng, năng lực hoạt động XBIPH XBP.
Theo đó, có một số công cụ cụ thể như:
Sử dụng kinh phí để tài trợ, đặt hàng XBP: Ngay từ những năm sau khi
đổi mới, Nhà nước đã có chính sách về tài trợ, đặt hàng XBP với Thông tư
liên tịch số 11/TTLB ngày 20/2/1993 của Bộ Tài chính và Bộ Văn hóa thông
tin về “Hướng dẫn thực hiện chính sách tài trợ đối với xuất bản, báo chí”.
Theo đó, Thông tư đã quy định rõ: Sách là sản phẩm văn hóa - tư tưởng, Đảng
và Nhà nước thực hiện chính sách tài trợ đối với một số NXB nhằm mở rộng
việc tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao dân trí và đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân. Nhà nước dành một phần ngân sách để tài trợ
cho sự nghiệp xuất bản nhằm đảm bảo cho cơ quan xuất bản hoạt động đúng
định hướng, phục vụ đúng đối tượng.
Sử dụng kinh phí để trợ cước vận chuyển: Trong Thông tư số 753/UB-
TT ngày 3/12/1996 của Ủy ban dân tộc và miền núi về chính sách trợ cước
vận chuyển XBP lên miền núi đã quy định rõ: danh mục sách, số lượng bản,
trọng lượng, cự ly được tính trợ cước vận chuyển và phân công trách nhiệm,
sự phối hợp tổ chức, thực hiện giữa các bộ ngành, địa phương.

96
Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp: Theo Luật Xuất bản số
19/2012/QH13 quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với xuất
bản trong phạm vi cả nước và Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều
kiện xây dựng ngành xuất bản trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển
toàn diện. Chính sách khuyến khích và ưu đãi thuế đối với xuất bản tương tự
các lĩnh vực nhà nước khuyến khích xã hội hóa như giáo dục - đào tạo, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường. Điều này thể hiện bằng việc
Chính phủ ban hành Nghị định số 122/2011/NĐ-CP ngày 27-12-2011 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 124/2008/NĐ- P quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số
14/2008/QH12. Cụ thể, khoản 11, điều 1, Nghị định 122 quy định thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời gian hoạt động đối với phần
thu nhập của doanh nghiệp xuất bản. Khoản 3b, điều 19, Thông tư số
123/2012/TT-BTC ngày 27-7-2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và hướng dẫn thi hành Nghị
định 124, Nghị định 122 cũng hướng dẫn cụ thể: phần thu nhập của doanh
nghiệp có được từ xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản áp dụng thuế
suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động. xuất bản bao gồm các lĩnh
vực XBIPH XBP theo quy định tại Luật Xuất bản.
Tuy nhiên, theo Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26-12-2013 của
Chính phủ (thay thế Nghị định 122 và 124) thì, kể từ kỳ tính thuế 2014 trở đi,
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với xuất bản chỉ còn được áp dụng cho
các NXB. Đại đa số các doanh nghiệp còn lại cùng tham gia vào xuất bản
không được hưởng chính sách khuyến khích và ưu đãi này nữa.
Sử dụng kinh phí cho chế độ nhuận bút, thù lao: Thực tế nhiều năm qua
cho thấy các NXB chủ yếu trả nhuận bút cho tác giả theo hình thức thỏa
thuận. Từ ngày 11-6- 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2002/NĐ-

97
CP về chế độ nhuận bút, theo Nghị định này thì nhuận bút cho tác phẩm sử
dụng dưới hình thức XBP được quy định thành 6 nhóm với 19 loại hình cụ
thể, với tỷ lệ từ 2% đến 15% giá trị XBP. Đến ngày 14 tháng 3 năm 2014,
Chính phủ có Nghị định số 18/2014/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 61, nhằm
điều chỉnh một số nội dung cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Theo đó, quy định rõ về phương thức tính nhuận bút đối với XBP: Nhuận
bút = Tỷ lệ % x Giá bán lẻ XBP x Số lượng in. Đồng thời quy định về khung chi
trả nhuận bút cho XBP cụ thể với 5 nhóm, 21 loại XBP cụ thể
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định về chế độ thù lao đối với người hiệu
đính, biên tập viên như sau: (a) Người hiệu đính tác phẩm dịch được hưởng từ
5 - 30% nhuận bút tác phẩm dịch tuỳ theo mức độ và chất lượng hiệu đính.
Trường hợp hiệu đính trên 30% tác phẩm dịch thì người hiệu đính là đồng tác
giả. (b) Biên tập viên, người sưu tầm, người cung cấp tác phẩm, tài liệu được
hưởng thù lao theo thỏa thuận với cơ quan, tổ chức sử dụng XBP.
3.4. Thực trạng quy trình chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở sự tham mưu, đề xuất của Bộ TTTT, các địa phương và Ban
TGTU về vấn đề xuất bản, Đảng Cộng sản Việt Nam (mà trực tiếp là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư) đã có các chủ trương lãnh đạo, được thể hiện trong các
nội dung cụ thể của Văn kiện các kỳ đại hội. ác đại hội Đảng gần đây (từ
Đại hội VII đến XIII) đều đề cập đến lãnh đạo công tác báo chí, xuất bản. Đặc
biệt, Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư được coi như một văn kiện lãnh
đạo chuyên đề về xuất bản, định hướng cho công tác xuất bản phát triển trong
tình hình mới hiện nay.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn lãnh đạo và quản lý xuất bản, Quốc hội đã
ban hành hệ thống các luật nhằm điều chỉnh hoạt động xuất bản, trung tâm
nhất là Luật Xuất bản (từ trước đến nay, đã có Luật Xuất bản 1993, 2004, sửa
đổi, bổ sung 2008, Luật Xuất bản 2012). Đồng thời, các nội dung liên quan

98
đến hoạt động xuất bản cũng được Quốc hội tính đến và xây dựng một số luật
khác, như: Năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ, năm 2009 Luật Sở hữu trí tuệ được
sửa đổi, bổ sung. Cùng với Luật Sở hữu trí tuệ, các luật chuyên ngành như
Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Di sản văn hoá, Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Luật Hải quan, Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng có các quy
định, các chế tài cụ thể liên quan đến các khía cạnh khác nhau của xuất bản.
Với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất, sau khi có Luật Xuất bản,
Chính phủ đã ban hành Nghị định thực hiện Luật này, tương ứng là các Nghị
định số 79-CP ngày 06/11/1993, Nghị định số 111/2005/NĐ-CP, Nghị định
số 11/2009/NĐ-CP ngày 10-2-2009, Nghị định số 195/2013/NĐ-CP ngày 21-
11-2013 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản.
Đồng thời, Chính phủ cũng có các động thái, chính sách cụ thể nhằm triển
khai định hướng lớn cho xuất bản, tiêu biểu như ngày 16-1-2014, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 115-QĐ-TTg, về việc phê duyệt quy
hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành XBP đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030, ngày 16-20-2013 ban hành Nghị định số 131/2013/NĐ-CP Quy
định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị
định số 159/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông
ban hành các thông tư để quy định chi tiết thi Luật Xuất bản, như: Thông tư
số 02/2010 Quy định chi tiết thi hành một số quy định của Luật Xuất bản 03-
12-2004; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản ngày 03-6-
2008; Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26-8-2005 và Nghị định số
11/2009/NĐ-CP ngày 10-2-2009; Thông tư số 23/2014/TT-BTTTT, ngày 29-
12-2014, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất
bản và Nghị định số 195/2013/NĐ- P, ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản…

99
Trên cơ sở các luật, nghị định, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có các
văn bản nhằm cụ thể hóa các quy định trên từng mặt công tác, như: ban hành
Thông tư số 05/2016/TT-BTTTT Quy định về quản lý và sử dụng mã số sách
tiêu chuẩn quốc tế (ISBN); Thông tư số 41/2016/TT-BTTTT ngày 26-12-
2016 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 16/2015/TT-BTTTT ngày
17-6-2015 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết thi hành Nghị
định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20-11-2013 của Chính phủ về xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa trong lĩnh vực in, phát hành xuất bản phẩm; Quyết định số
102/2006/QĐ-BVHTT, ban hành Quy chế lưu chiểu XBP; Thông tư số
13/2011/TT-BTTTT ngày 6-6-2011 Quy định về Văn phòng đại diện tại Việt
Nam của NXB ở nước ngoài, tổ chức phát hành XBP ở nước ngoài…
Bộ TTTT cũng chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan đến xây
dựng và thực hiện các chính sách cụ thể liên quan đến xuất bản, như: ngày 10-
1-2011 của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính đã ban hành Thông
tư liên tịch số 04/TTLT-BTTTT-BT , hướng dẫn cụ thể việc thực hiện đặt
hàng các XBP có sử dụng ngân sách nhà nước; phối hợp với Bộ Công an, ban
hành Thông tư liên tịch số 16/2009/TT-BTTTT ngày 12-5-2009 Về phối hợp
phòng, chống in lậu…
Các chính sách về xuất bản được thể hiện trong hệ thống các văn bản từ
Đảng, Chính phủ, Bộ TTTT đã được triển khai đến các địa phương, các đơn
vị xuất bản, in, phát hành và tiếp tục được cụ thể hóa và đi vào đời sống.
Hằng năm, các đơn vị này đều tiến hành tổng kết, báo cáo kết quả theo
hệ thống, và phản ảnh theo phân cấp, qua Bộ TTTT, Ban TGTU, Ban Bí thư,
Bộ Chính trị. Ở đây, các vấn đề chính sách đã được xác định trong quá trình
tổng kết, đánh giá. hẳng hạn: Sau 3 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW,
trước các yêu cầu, nhiệm vụ mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) tiến
hành sơ kết quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị và ra Thông báo Kết luận số
22-TB/TW ngày 20-12-2007 Về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động

100
xuất bản. Trong đó, đã triển khai nhiều điều chỉnh về mặt định hướng đối với
SXB. Đồng thời, ở quá trình này, nhiều biện pháp chính sách cũng đã được
bổ sung, tiếp tục cụ thể hóa để không ngừng hoàn thiện SXB. Đơn cử, như
triển khai thực hiện Thông báo Kết luận số 22-TB/TW, năm 2010, Ban Bí thư
ban hành các quyết định liên quan trực tiếp đến công tác xuất bản như: Quyết
định số 281-QĐ/TW, Quyết định số 282-QĐ/TW Quy định trách nhiệm,
quyền hạn và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ là lãnh
đạo NXB; Quyết định số 283-QĐ/TW quy định Về sự phối hợp giữa Ban
Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự Đảng Bộ Thông tin và truyền thông và
các cơ quan Đảng, cấp ủy tổ chức Đảng các cơ quan Nhà nước, tổ chức đoàn
thể trong công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản.
Như vậy, quy trình CSXB ở Việt Nam hiện nay khá rõ: Đảng có chủ
trương, Quốc hội ban hành luật, Chính phủ định hướng thực hiện, Bộ TTTT
hướng dẫn, triển khai cụ thể đến các địa phương, các đơn vị xuất bản, in, phát
hành để thực hiện; sau đó, những thông tin về kết quả thực hiện và những vấn
đề chính sách mới nảy sinh được phản hồi ngược từ dưới lên để có điều chỉnh,
hoặc xây dựng những mục tiêu, giải pháp mới.
3.5. Đánh giá chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay
ăn cứ vào thực trạng mục tiêu, nội dung, giải pháp chính sách, trên cơ
sở những tiêu chí đã phân tích ở phần lý luận, tác giả tiến hành đánh giá SXB ở
Việt Nam hiện nay, làm rõ những ưu điểm và hạn chế, bất cập của nó. Những
đánh giá ưu điểm và hạn chế về SXB được minh chứng, làm rõ bằng những số
liệu về kết quả thực tiễn của xuất bản trong những năm vừa qua.
3.5.1. Đánh giá về tính phù hợp
3.5.1.1. Ưu điểm
Thứ nhất, mục tiêu tổng quát của CSXB hiện nay, về cơ bản đã bảo
đảm tương đối phù hợp với chức năng cơ bản của ĩnh vực xuất bản, góp
phần đưa xuất bản đi đúng hướng

101
Mục tiêu tổng quát của SXB là khẳng định, xác lập vị trí, vai trò của
xuất bản trong đời sống xã hội và đưa xuất bản phát triển đáp ứng nhu cầu xã
hội. Việt Nam là một trong số không nhiều quốc gia có luật về xuất bản riêng.
Vị trí, vai trò của xuất bản được đánh giá, ghi nhận trong Luật xuất bản như là
vũ khí sắc bén trên mặt trận văn hóa - tư tưởng của Đảng và Nhà nước, có vai
trò quan trọng trong phổ biến, nâng cao tri thức xã hội, giáo dục, đào tạo,
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng nhân cách con người.
Thực tế, những năm qua, xuất bản cùng với báo chí đã thực sự đóng vai
trò to lớn trong việc định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền, cổ vũ, động
viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; bảo vệ, củng cố và phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng; đấu tranh chống các tư tưởng, luận điệu sai trái, thù địch,
phản động; loại bỏ những phong tục, tập quán, lối sống lỗi thời, lạc hậu,
không lành mạnh; xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc;… góp phần tích cực vào những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử
của công cuộc đổi mới. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện hỉ thị 42 của Ban
TGT cũng khẳng định rõ: “sau 10 năm thực hiện hỉ thị 42-CT/TW, ngành
xuất bản đã… đáp ứng tốt hơn nhu cầu đọc của các tầng lớp nhân dân, tiếp tục
khẳng định vị thế là một lĩnh vực tư tưởng – văn hóa quan trọng của Đảng,
Nhà nước và nhân dân, là một bộ phận của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” [34, Phụ lục 1]. Nội dung XBP luôn bám sát nhiệm
vụ chính trị của năm và phục vụ kịp thời các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước.
Đơn cử như năm 2017, bám sát iễn đàn hợp tác kinh tế hâu Á - Thái Bình
ương ( PE ); kỷ niệm 40 năm Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp
quốc; 50 năm thành lập SE N; 100 năm ách mạng tháng Mười Nga..., cho
ra đời những XBP tuyên truyền việc đưa Nghị quyết của Đại hội XII và các
Nghị quyết quan trọng khác của Đảng vào cuộc sống. Nhiều XBP có giá trị,
khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc được xuất bản; tiếp tục ra mắt bạn

102
đọc mảng sách về đề tài học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; tuyên truyền, giới thiệu các tấm gương điển hình trong công cuộc
xây dựng và đổi mới đất nước.
Thứ hai, hệ thống giải pháp, công cụ nhìn chung đã có sự phù hợp với
tình hình thực tiễn ở Việt Nam trong tính tổng thể của nó
ác giải pháp từ quy hoạch phát triển, kiểm soát, quản lý, hợp tác quốc
tế, bảo hộ quyền tác giả, phát triển văn hóa đọc,… nhìn chung đều đã bám sát
thực tiễn đời sống văn hóa, chính trị, đặc điểm kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Đơn cử có thể thấy, về giải pháp quy hoạch hệ thống các NXB, SXB đã có
các giải pháp tương đối phù hợp, thực hiện việc quy hoạch gọn lại, tinh gọn
lại cho phù hợp với chủ trương tinh giản biên chế, gọn nhẹ bộ máy (chủ
trương chung của Đảng). hính vì vậy, sau hơn 5 năm (1/7/2013 – 4/2019)
thực hiện Luật Xuất bản năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2018, tốc độ
phát triển của ngành xuất bản không ngừng được tăng lên. Từ 47 NXB năm
2004 đến nay, cả nước đã có 59/59 NXB đủ điều kiện hoạt động, nằm rải rác
ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước [73]. Hằng năm, số lượng sách bình quân
đầu người đều tăng. Theo tổng kết cuối năm của ục XBIPH, năm 2018, ục
đã cấp 4.266 giấy xác nhận đăng ký xuất bản, tăng 1,8% so với năm 2017; 35
giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh, tăng 16,7% so với năm 2017.
Số lượng XBP được xuất bản, nộp lưu chiểu cũng tăng vượt trội: 31.766 cuốn
với 390.161.446 bản, tăng 20,6% về số cuốn, tăng 24,7% về số bản so với
cùng kỳ năm 2017 [35, Phụ lục 1]. Nhiều NXB chấm dứt tình trạng hoạt động
cầm chừng, thua lỗ, chuyển sang giai đoạn phát triển, kinh doanh ổn định và
có lãi, như: NXB TQG-ST, NXB Trẻ, NXB Kim Đồng, NXB Giáo dục Việt
Nam.
Nhiều công cụ, đặc biệt là công cụ tài chính - kinh tế đã được phát huy
tốt. Sử dụng kinh phí ngân sách để hỗ trợ đặt hàng xuất bản phẩm nhìn chung
đã có sự phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam cũng như ngân sách nhà

103
nước. Để thực hiện cung cấp xuất bản phẩm phục vụ người dân, từ năm 2000
đến nay, hàng năm ngân sách nhà nước bố trí khoảng 15 tỷ đồng để đặt hàng
các Nhà xuất bản thực hiện xuất bản một số đầu sách để cung cấp đến các thư
viện công cộng, các điểm bưu điện văn hóa xã, các tổ chức chính trị - xã hội,
đoàn thể tại Trung ương và địa phương, các cơ quan ngoại giao Việt Nam tại
nước ngoài. Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng, báo cáo cấp có thẩm
quyền phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện hương trình mục tiêu quốc
gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo giai
đoạn 2011 - 2015. Thông qua hương trình, ngân sách Trung ương đã bố trí
21,1 tỷ đồng để đặt hàng các Nhà xuất bản thực hiện xuất bản 417 đầu sách để
cung cấp đến các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo thuộc
phạm vi thực hiện của hương trình. ngân sách trung ương bố trí hỗ trợ hoạt
động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu,
điện ảnh, kiến trúc, nhiếp ảnh, múa, văn nghệ dân gian, văn nghệ các dân tộc
thiểu số, báo chí chất lượng cao ở địa phương với mức kinh phí bố trí cho giai
đoạn 2006-2010 là 210 tỷ đồng và giai đoạn 2011 - 2015 là 425 tỷ đồng.
Nhìn chung, số lượng tiền mà ngân sách nhà nước chi cho xuất bản
không phải là nhiều, song, cần nhận thấy, trong bối cảnh đất nước điều kiện
kinh tế chưa có tiềm lực mạnh, thì việc công cụ tài chính – kinh tế của SXB
được phát huy như vậy cũng đã là tương đối phù hợp.
3.5.1.2. Hạn chế
Thứ nhất, mục tiêu chính sách có những nội dung chưa thực sự hướng
vào giải quyết những hạn chế, yếu kém trong xuất bản những năm vừa qua.
Mục tiêu chưa bám sát vào giải quyết những hạn chế, yếu kém đó.
hẳng hạn, hiện nay, những khẳng định về tính đặc thù của xuất bản (vừa có
chức năng văn hóa – tư tưởng, vừa có chức năng sản xuất kinh doanh) mới
chỉ được thể hiện chủ yếu trên các văn kiện của Đảng và chính sách định
hướng vĩ mô của Nhà nước. òn nhiều nội dung trong các chủ trương của

104
Đảng và trong quy định của Luật Xuất bản đối với hoạt động XBIPH chưa được
cụ thể hóa bằng cơ chế, giải pháp cụ thể. Trong cơ chế quản lý, Nhà nước chưa có
sự phân định rạch ròi giữa mảng XBP phục vụ nhiệm vụ chính trị xã hội với phục
vụ nhiệm vụ kinh doanh. Hơn nữa, việc chưa làm rõ tính đặc thù của xuất bản
cũng dẫn đến việc Nhà nước còn rất lúng túng trong việc xây dựng các chiến lược
tổng thể phát triển sự nghiệp xuất bản bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các chiến
lược phát triển văn hóa – xã hội, chiến lược kinh tế của quốc gia.
Thứ hai, công cụ chính sách thuế chưa được sử dụng hiệu quả, biểu hiện
ở cách tính thuế đối với xuất bản hiện nay chưa phù hợp, chưa thể hiện sự ưu
đãi và khuyến khích xuất bản sách
ác nước áp mức thuế V T 0% hoặc 3% cho sách, còn ta áp mức V T
5% cộng thêm thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã có văn bản từ rất sớm nhưng hơn 10 năm sau mới có văn bản của
Nhà nước giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp xuất bản. ó thể thấy, hiện
nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong ngành Xuất bản, kể cả sự nghiệp có
thu và doanh nghiệp, đều phải thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
ần nhận thấy, xuất bản là ngành đặc thù, có lợi nhuận rất ít, do đó, cần phải có
những ưu đãi nhiều hơn về thuế. Quy định đóng đầy đủ các khoản nghĩa vụ như
các doanh nghiệp khác, chẳng hạn thuế thu nhập doanh nghiệp theo Nghị định số
122/2011 còn 10% (từ ngày 01/02/2012), thuế nhập khẩu đối với văn hóa phẩm
và giấy, trong đó, thuế nhập khẩu sách hiện nay quá cao, có mặt hàng thuế suất
lên tới 60%..., khiến cho các đơn vị rất ít có tích lũy. hưa kể việc thực hiện thuế
giá trị gia tăng hiện nay nảy sinh sự mâu thuẫn giữa hai phương pháp tính thuế
của các tổ chức, doanh nghiệp với hộ kinh doanh cá thể.
3.5.2. Đánh giá về tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất
3.5.2.1. Ưu điểm
Thứ nhất, sự tương thích giữa mục tiêu chung với mục tiêu cụ thể, mục
tiêu với giải pháp, công cụ chính sách

105
Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của SXB đã được quy định tương
đối đầy đủ trong các văn bản pháp lý chính thức, mang tính bắt buộc áp dụng
trong phạm vi cả nước. Đây đều là các mục tiêu định tính trải rộng trên nhiều
nội dung khác nhau liên quan đến quy hoạch, quản lý, thúc đẩy phát triển xuất
bản và các tác động tích cực mà chính sách mang lại. Hệ thống các giải pháp,
công cụ được đưa ra tương đối tương thích, hướng trực tiếp đến việc thực
hiện các mục tiêu, giải quyết cơ bản các nguyên nhân của vấn đề chính sách
và được cụ thể hoá trong một hệ thống văn bản thống nhất từ cấp trung ương
đến địa phương.
Thứ hai, về sự toàn diện, liên kết giữa các giải pháp, công cụ chính
sách, sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống văn bản chính sách
Hệ thống giải pháp, công cụ chính sách xuất bản được thể chế hóa
trong các văn bản hiện hành đã tương đối đầy đủ, liên kết chặt chẽ với nhau,
cung cấp một khuôn khổ các giải pháp phát triển xuất bản một cách toàn diện
trên tất cả các mặt về pháp lý, thể chế, thiết chế, văn hoá, xã hội, vừa hướng
tới việc tạo môi trường, điều kiện, hành lang thuận lợi nhất cho xuất bản thực
hiện tốt các chức năng, vai trò và làm ăn có lãi, đồng thời, kiểm soát, quản lý
xuất bản. Về mặt tổng quát, có thể đánh giá, các giải pháp, công cụ trên nhiều
mặt đã có sự thống nhất nhất định. Điều này có thể nhận thấy ở Phụ lục 1:
Các luật, văn bản có liên quan tới chính sách xuất bản. Hiện tác giả luận án
thống kê thấy có 10 luật, 9 nghị định, 8 quyết định, thông tư, 6 nghị quyết, kết
luận và nhiều báo cáo liên quan đến xuất bản. Như vậy, vấn đề xuất bản đã
được xem xét, giải quyết ở nhiều ngành, nhiều khía cạnh khác nhau, chứ
không chỉ một lĩnh vực văn hóa tư tưởng hay Bộ TTTT. Hiện nay, xét trong
mối quan hệ giữa hệ thống chính sách xuất bản với các hệ thống pháp luật từ
Hiến pháp là đạo luật gốc đến các văn bản khác có liên quan về cơ bản cũng
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất. Hệ thống văn bản thể chế chính sách xuất
bản bảo đảm việc tuân thủ các quy định, nguyên tắc của Hiến pháp, không

106
mâu thuẫn với các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các văn bản pháp luật
khác có liên quan.
Phỏng vấn sâu của nghiên cứu sinh đối với một số cán bộ làm công tác
quản lý ở một số nhà xuất bản cũng cho thấy điều đó. Với câu hỏi: Xin ông/bà
cho biết, đánh giá chung của ông/bà về chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện
nay như thế nào? Có vấn đề gì vướng mắc hay mâu thuẫn, cần phải điều
chỉnh? Một số phản hồi như sau:
“Khách quan mà nói, hiện nay, SXB đã và đang đi đúng hướng, đạt
được hiệu quả nhất định, phản ánh bằng việc xuất bản Việt Nam đã khởi sắc,
sôi động hơn nhiều so với thời kỳ trước đây. Đó là điều mà ai cũng có thể
nhận thấy. Song, đi vào chiều sâu và xét cụ thể của nó, thì cũng còn không ít
những hạn chế. Theo tôi, điểm mâu thuẫn lớn nhất, mang tính tổng quát nhất
hiện nay vẫn là giải quyết sự bất cập trong mục tiêu thực hiện chức văn hóa,
tư tưởng và chức năng kinh doanh của xuất bản. SXB làm thế nào phải tháo
gỡ được mâu thuẫn này, làm sao phải hài hòa giữa hai chức năng, trong đó,
đáng chú ý là cần phải mạnh dạn “mở ra” hơn chức năng sản xuất, kinh
doanh" ( án bộ ục XBIPH)
“ SXB hiện nay, theo nhìn nhận của cá nhân tôi, vẫn còn nhiều bất cập
trong thực hiện các giải pháp. ường như hệ thống các giải pháp khá nhiều,
nhưng còn nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, do vậy, thậm chí triệt
tiêu lẫn nhau và không đem lại hiệu quả như mong muốn. Nếu đánh giá một
câu chung nhất về SXB thì cũng khó có thể nói ngắn gọn được, song, ở mức
độ chung nhất, nhìn chung nó đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản. Về lâu về dài,
cần có có những chủ trương, chính sách mang tính căn cơ, lâu dài và đồng bộ
hơn” ( án bộ NXB).
“Tôi nghĩ rằng, hiện nay CSXB của ta đã khá tốt, tạo ra được nền xuất
bản có nhiều điểm sáng, đã và đang từng bước đáp ứng được nhu cầu của
nhân dân” (Độc giả).

107
Những ý kiến đó đã cho thấy, tuy có những hạn chế, bất cập, song, xét về
tổng thể, SXB đã có sự đồng bộ, thống nhất nhất định, góp phần quan trọng giữ
vững sự ổn định, thực hiện tốt chức năng văn hóa – tư tưởng của xuất bản.
3.5.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, giữa mục tiêu chung với mục tiêu cụ thể còn chưa thực sự
tương thích với nhau. Nếu như mục tiêu chung là có muốn (thậm chí là rất
mong muốn) một sự phát triển mạnh mẽ của xuất bản, thì mục tiêu cụ thể lại
đang thiên nhiều hơn về công tác quản lý đối với xuất bản cũng như đang tập
trung quá nhiều vào thực hiện chức năng văn hóa – tư tưởng, chức năng sản
xuất kinh doanh của xuất bản chưa được quan tâm giải phóng đúng mức. Điều
tra xã hội học của nghiên cứu sinh với câu hỏi: Theo ông/ bà, CSXB ở Việt
Nam hiện nay đã quan tâm, tạo ra thuận lợi để các đơn vị xuất bản làm ăn có
lãi ở mức độ nào? Có tới 60% số người được hỏi cho rằng: Chính sách còn ít
chú trọng đúng mức tới chức năng này, 13% cho rằng, còn ít quan tâm và họ
còn gặp nhiều vướng mắc khi kinh doanh [Phụ lục 5].

12% 15%
Tạ o đi ều ki ện rấ t thuậ n l ợi
13%
Đã qua n tâm, nhưng chưa đúng
mức
Ít qua n tâm, còn nhi ều vướng
mắ c
Khó trả l ời
60%

Biểu đồ 3.1. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá về mục tiêu chính sách
(Nguồn: Nghiên cứu sinh tiến hành điều tra xã hội học)

108
Hơn nữa, mục tiêu của SXB ở nước ta hiện nay cũng còn đang khá
chung chung, có phần mơ hồ và dường như, có phần nhấn mạnh vào khía
cạnh chức năng vốn có của xuất bản. Mục tiêu đặt ra phải rõ ràng, đánh đúng,
chưa giải quyết được trực diện những hạn chế thực tế của xuất bản, như: Sự
lạc hậu về công nghệ, lạc hậu cả về tư duy; tình trạng thiếu chuyên nghiệp
trong hoạt động, trong quản lý, trong tầm nhìn; việc huy động các nguồn lực
xã hội còn hạn chế. o đó, cần phải có những mục tiêu rất bao trùm toàn bộ
nền xuất bản, có tầm nhìn xa, nhưng lại phải rất rõ ràng, không mơ hồ. ó thể
bổ sung thểm mục tiêu chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa xuất
bản, đáp ứng với yêu cầu hiện nay. ũng chính từ đây, mà hiện nay, số
lượng các NXB làm ăn có lãi lớn chưa nhiều, chủ yếu, chỉ vừa đủ duy trì
hoạt động, thậm chí, nhiều NXB liên tục thua lỗ. Tại Hội nghị Tổng kết 10
năm thực hiện hỉ thị 42, ông Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng bộ VHTT L cho
biết, doanh thu của 6 NXB thuộc Bộ chỉ đạt 2,5 - 5 tỷ đồng/năm. Riêng NXB
VH - TT và NXB Âm nhạc có số lỗ lên tới 18 tỷ đồng [30].
Thứ hai, sự xung đột pháp giữa Luật Xuất bản và một số uật về
doanh nghiệp còn diễn ra trên một số vấn đề. húng ta đều thấy rằng hiện
nay, xuất bản không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng văn hóa - tư tưởng,
mà rõ ràng, nó còn xuất hiện với tư cách một doanh nghiệp kinh tế. Vậy, rất
cần sự đồng bộ, thống nhất giữa hai hệ thống pháp lý này. Như trên thực tế,
hiện nay, còn nhiều mâu thuẫn giữa hai hệ thống này. hẳng hạn, về chính
sách chuyển đổi mô hình các NXB: Luật Xuất bản không điều chỉnh về việc
chuyển đổi mô hình NXB, điều này khiến cho rất nhiều lực lượng liên quan
lúng túng trong việc NXB chuyển đổi mô hình, đổi mới nhằm phát triển trước
yêu cầu mới. Những xung đột pháp lý giữa Luật Xuất bản và pháp luật về
doanh nghiệp nảy sinh trước việc chuyển đổi mô hình NXB. Về trách nhiệm
quản : Theo quy định của Luật oanh nghiệp, sau khi chuyển đổi, các
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc các tỉnh, bộ, ngành trước

109
đây sẽ không còn cơ quan chủ quản mà chuyển sự quản lý sang Tổng công
ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (S I ). Đối với các NXB là doanh
nghiệp, đây là điểm trái với Luật Xuất bản, bởi Luật Xuất bản còn quy định
những trách nhiệm quản lý ràng buộc của cơ quan chủ quản (cơ quan đề nghị
và ra quyết định thành lập NXB). Về chức danh của NXB: Theo quy định của
Luật oanh nghiệp, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên sẽ có
sự xuất hiện của hàng loạt chức danh mới chịu trách nhiệm quản lý vốn và
hoạt động của đơn vị, như Hội đồng thành viên và chủ tịch hội đồng thành
viên hoặc hủ tịch công ty (người đại diện cho chủ sở hữu vốn nhà nước),
Ban kiểm soát, kiểm soát viên... Tuy nhiên, theo Luật Xuất bản, giám đốc là
người chịu trách nhiệm cao nhất về toàn bộ hoạt động của NXB. Về điều kiện
vốn: Nghị định số 95/2006/NĐ- P ngày 08/9/2006 của hính phủ về chuyển
đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quy
định điều kiện chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
đối với công ty nhà nước độc lập là phải có vốn điều lệ không thấp hơn 30 tỷ
đồng và đối với công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con là 500 tỷ.
Đối chiếu với quy định này, thì tất cả các NXB là doanh nghiệp nhà nước
hiện nay đều không đủ điều kiện chuyển đổi.
Thứ ba, một số giải pháp còn rất ạc hậu, chậm cập nhật, chưa phản
ánh và theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Đặc biệt, đối với xuất bản điện tử,
là một ngành mới (và rất còn lạ lẫm với Việt Nam trong khoảng mươi năm trở
lại đây). Về các giải pháp phát triển xuất bản điện tử, tuy các quy định, quy
phạm pháp luật có liên quan đến quản lý xuất bản điện tử của nước ta đã cố
gắng nêu một cách chi tiết nhất nhưng vẫn mang dấu ấn của việc kế thừa quy
phạm pháp luật về xuất bản truyền thống trước đây. ác văn bản pháp luật
này còn một số điểm hạn chế trong đó hạn chế lớn nhất là thiếu tính cụ thể,
cập nhật, chưa phản ánh đầy đủ sự thay đổi nhanh chóng của ngành xuất bản
điện tử hiện nay. Điều này dẫn tới tình trạng, nhiều NXB lúng túng không thể

110
cấp phép trước những loại hình xuất bản điện tử mới. Ví dụ, quy định nộp lưu
chiểu bản cứng không thể thể hiện được các tình huống (tùy theo từng lựa
chọn) của một câu chuyện trong XBP điện tử, khiến cho cả tác giả và NXB
cũng như nhà quản lý đều không biết xử lý thế nào. hính sách thanh toán
cho XBP điện tử cũng đang là một rào cản đối với việc phát triển xuất bản
điện tử. Hiện nay, số lượng người dân Việt Nam sử dụng các phương thức
thanh toán trực tuyến (ví điện tử, các dịch vụ thanh toán điện tử) chưa nhiều;
hơn nữa, nhiều đối tượng người đọc còn quá nhỏ tuổi, chưa đủ điều kiện làm
thẻ ngân hàng hay ví điện tử. Vì thế, thiếu một chính sách thanh toán cụ thể
cũng đang là một rào cản cho xuất bản điện tử.
Thứ tư, giữa giải pháp, công cụ của chính sách xuất bản chưa thực sự
đồng bộ, gắn kết với các ĩnh vực khác của công tác văn hóa - tư tưởng. Điều
này, vô hình trung, lại trở thành cản lực đối với sự phát triển của xuất bản.
Chúng ta có thể nhận thấy một điểm này ở hầu hết các nước có nền xuất bản
phát triển, đó là: Đi đôi với nền xuất bản phát triển, là nền văn hóa đọc trong
xã hội cũng rất phát triển, có nhiều hệ thống thư viện. Học tập kinh nghiệm
này, Việt Nam nhất định cần có hướng phát triển văn hóa đọc, đi đôi với phát
triển hệ thống thư viện song song với thúc đẩy xuất bản. Tuy nhiên, hiện nay,
chưa có sự gắn kết rõ ràng giữa chúng. Mặc dù đã thực hiện Ngày Sách Việt
Nam (ngày 21 tháng 4 hằng năm), và trên thực tế, đã có một số hoạt động
nhằm quảng bá sách, phát triển văn hóa đọc trong các tầng lớp khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa những giải pháp của SXB với
chính sách phát triển hệ thống thông tin, thư viện với tư cách là hệ thống thiết
chế văn hóa phục vụ nhu cầu đọc. Theo Báo cáo kết quả khảo sát việc thực
hiện chính sách, pháp luật về thư viện của Uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh
thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho thấy, sau 10 năm triển khai quy
hoạch phát triển ngành thư viện Việt Nam, thì năm 2017, mới có 20% số tỉnh
phê duyệt đề án phát triển mạng lưới thư viện, 30% đang triển khai xây dựng,

111
còn 50% chưa triển khai thực hiện. Trung bình một năm thư viện Quốc gia
chỉ được cấp 18 tỷ đồng, thư viện cấp tỉnh được khoảng 2,6 tỷ đồng, cấp
huyện được khoảng 53 triệu đồng, còn cấp xã thì không có bất kỳ nguồn nào
[63, tr.21]. Sự thiếu sự gắn kết với những giải pháp của hệ thống chính sách
thông tin – thư viện, khiến cho chức năng văn hóa – tư tưởng, phát triển văn
hóa đọc trong Nhân dân đang bị kém hiệu quả. Tại Hội nghị toàn quốc tổng
kết 5 năm thực hiện quyết định của Thủ tướng hính phủ về Ngày Sách Việt
Nam (18/4/2019) cho biết: Theo một khảo sát quốc tế năm 2016, Việt Nam
chỉ có 30% số người đọc sách thường xuyên, 26% số người không đọc sách
và 44% số người thỉnh thoảng đọc sách. Người Việt Nam thụ hưởng 4,2 cuốn
sách mới/người/năm nhưng trong đó, có 2,3 cuốn là sách giáo khoa. Như vậy,
mỗi người dân mới chỉ thụ hưởng gần 2 cuốn sách mới/năm - thuộc nhóm
thấp trên thế giới [54].
3.5.3. Đánh giá về tính khả thi
3.5.3.1. Ưu điểm
Thứ nhất, ưu điểm tính khả thi về mục tiêu chính sách
ó thể khẳng định rằng, việc xác định mục tiêu phát triển xuất bản như
một ngành kinh tế là hoàn toàn đúng đắn, mang tính khả thi cao, hòa chung
với xu thế của xuất bản thế giới. Tính khả thi đó được biểu hiện bằng kết quả
sản xuất, kinh doanh của các nhà xuất bản. Mục tiêu kinh doanh của xuất bản
tuy chưa thực sự tốt, song, cũng đã có sự khởi sắc, kết quả sản xuất kinh
doanh đã có nhiều bước chuyển biến, lợi nhuận sau thuế và mức nộp ngân
sách đều có sự tăng trưởng hàng năm. Một số NXB duy trì được hoạt động
sản xuất kinh doanh ổn định và có lãi, như: NXB Quân đội Nhân dân, NXB
Tư pháp, NXB Tổng hợp thành phố Hồ hí Minh, NXB TTTT...

112
Bảng 3.1. Kết quả sản xuất kinh doanh giai đoạn 2012-2019
Tổng Nộp ngân Lợi nhuận
doanh thu Tăng/giảm sách Tăng/giảm (Sau thuế) Tăng/giảm
Năm
(%) (%) (%)
(tỷ đồng) (tỷ đồng) (tỷ đồng)

2012 2.158,780 -20 44,524 2,4 68,646 28


2013 1.997,304 -7 43,974 1 79,3 9,3
2014 2.038,2 2,1 50,308 14,4 79,222 -0,5
2015 2.143,878 5 67,744 35 100,357 27
2016 2.201,375 2,7 68,550 1,2 148,986 48,5
2017 2.892,585 31,4 109,311 59 190,489 28
2018 2.506,393 -13,5 187,15 71 212,346 11,5
2019 2.775,127 10,7 165,412 -11,6 230,631 8,6
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của Cục XBIPH)

3000
2500
2000
1500
1000
500
0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Biểu đồ 3.2. Doanh thu hàng năm giai đoạn 2012-2019


(Nguồn: Các báo cáo tổng kết hàng năm Cục XBIPH)

113
250

200

150

100

50
Nộp ngân sách

0 Lợi nhuận (sau


2012 2014 2016 2018 thuế)

Biểu đồ 3.3. Kết quả nộp ngân sách và lợi nhuận (sau thuế) hàng năm
giai đoạn 2012-2019
(Nguồn: Các báo cáo tổng kết hàng năm Cục XBIPH)
Như vậy, có thể thấy, việc đổi mới tư duy, không còn bó hẹp xuất bản
trong nhiệm vụ chính trị - tư tưởng nữa, với mục tiêu là biến xuất bản trở
thành một ngành kinh tế là hoàn toàn có thể thực hiện được, mặc dù, hiện nay,
mục tiêu đó vẫn còn chưa đạt được ở mức độ cao.

Thứ hai, ưu điểm tính khả thi về giải pháp, công cụ chính sách

Nhiều giải pháp thể hiện rõ tính khả thi, nhất là giải pháp tập trung vào
một vấn đề cụ thể. Tiêu biểu nhất, có thể thấy, giải pháp phát triển xuất bản
điện tử đã được phát huy tốt. Với những giải pháp nhằm phát triển xuất bản
điện tử, có thể nói, sự phát triển của sách điện tử ở Việt Nam sau một quá
trình tự phát và kinh doanh nhỏ lẻ, nay đang hướng đến việc nâng tầm và
chuyên môn hóa. Xuất hiện ngày càng nhiều đơn vị giới thiệu hệ thống phân
phối sách điện tử, như Vinabook.com, ông ty Lạc Việt, Công ty Vinapo...
Nhiều NXB đã bắt đầu xây dựng chiến lược phát triển xuất bản điện tử cho
riêng mình. Như NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến
nay đã xuất bản được hơn 1000 đầu sách điện tử, NXB Bách Khoa đưa lên

114
mạng được 60 đầu sách kể từ tháng 10-2012. NXB CTQG-ST cũng đang từng
bước số hóa sách của mình và đưa khoảng gần 100 đầu sách trên website
alezzaa.com, trong đó có những bộ sách lớn như: Hồ Chí Minh toàn tập (xuất
bản lần thứ ba) gồm 15 tập, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (9
tập)… hướng tới sẽ số hóa toàn bộ nguồn tài nguyên sách đã xuất bản từ năm
1945 đến nay với khoảng vài chục nghìn đầu sách [20].
Giải pháp về liên kết xuất bản đã “cởi trói” cho xuất bản phát triển:
Giải pháp liên kết xuất bản là một chủ trương đúng đắn, tạo ra sự liên kết giữa
các NXB, công ty sách tư nhân. Nhờ hình thức xã hội hóa, các NXB kêu gọi
được nhiều thành phần trong xã hội tham gia vào công tác xuất bản cùng đóng
góp chất xám, tri thức, kinh tế. Hiện nay có nhiều đơn vị làm sách tư nhân có
thương hiệu và có nhiều đầu sách hay, có giá trị của thế giới và Việt Nam đã
được xuất bản thông qua hình thức liên kết phát hành, in ấn, tổ chức dự án
sách, sự kiện. Qua đó, bạn đọc có nhiều sự lựa chọn, phương thức tiếp cận với
sách. Có thể khẳng định, nhiều ấn phẩm nếu chỉ có NXB đã không thể phát
hành được, nhưng khi kết hợp với tư nhân với sự năng động, nhanh nhạy và
tiềm năng kinh tế hai bên đã ra được những bộ sách có giá trị.
Giải pháp đặt hàng XBP cũng thể hiện rõ tính khả thi của mình, góp
phần gỡ khó cho xuất bản: Đây là một chủ trương đúng đắn, một mặt, thực
hiện chức năng văn hóa - tư tưởng của xuất bản, mặt khác, góp phần thúc đẩy
xuất bản phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. o đó, giải pháp
này cần được tiếp tục củng cố và phát huy. Chính vì vậy, ấn phẩm Nhà nước
đặt hàng ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước, số lượng đầu sách và số
lượng bán sách cũng tăng, nội dung có sự đầu tư cải tiến mạnh mẽ, chất lượng
được nâng lên. Sách Nhà nước đặt hàng đã phát huy tác dụng hiệu quả trong
công tác tuyên truyền theo định hướng của Đảng, Nhà nước về các nội dung
cần tính bao quát, tổng thể hay chuyên sâu. Liên tục trong nhiều năm, Nhà
nước đều tiến hành đặt hàng XBP khoảng 16 tỷ đồng.

115
Bảng 3.2. Tình hình đặt hàng BP giai đoạn 2012-2016
Tổng số tiền
Năm Đề tài Bản
(triệu đồng)
2012 212 231.447 14000
2013 224 244.608 16000
2014 210 246.880 16000
2015 210 246.880 16000
2016 216 261.236 16000
(Nguồn: Các báo cáo tổng kết hàng năm Cục XBIPH)
3.5.3.2. Hạn chế
Thứ nhất, giải pháp tạo hành ang để phát triển hệ thống nhà xuất bản
còn nhiều vướng mắc, rất khó khả thi. ường như, hiện nay, việc thành lập
một nhà xuất bản là vô cùng khó khăn, nếu như không muốn nói là không thể.
Trong khi đó, để thực hiện tốt SXB, thì các giải pháp nhắm tới việc tạo điều
kiện cho việc thành lập các NXB là một giải pháp quan trọng, tất yếu. Hiện
nay, những quy định về điều kiện thành lập và điều kiện duy trì hoạt động của
NXB được quy định khá chung chung, mang tính định tính, không cụ thể, vừa
bất cập, vừa khó thực thi. Luật Xuất bản 2012 tại Điều 13 quy định về điều
kiện thành lập NXB và Nghị định số 195 ngày 21/11/2013 của hính phủ
(Điều 8, Điều kiện thành lập và bảo đảm hoạt động của NXB) không quy định
rõ về nguồn kinh phí để xuất bản: “ ơ quan chủ quản và NXB bảo đảm kinh
phí hằng năm ít nhất 5 (năm) tỷ đồng để NXB thực hiện nhiệm vụ xuất bản
theo tôn chỉ, mục đích của NXB”. Như vậy thì ngoài cơ quan chủ quản ra,
NXB tự bảo đảm? trong 5 tỷ đó, thì cơ quan chủ quản phải bảo đảm bao
nhiêu, NXB bao nhiêu? ũng hoàn toàn không có một văn bản nào thống nhất
giữa Bộ Tài chính và cơ quan chủ quản NXB nhằm thống nhất nguyên tắc
thực hiện điểm này. o đó, có thể nói, quy định về bảo đảm kinh phí 5 tỷ
đồng hằng năm này là một giải pháp không thực tế.

116
Thứ hai, giải pháp về quy trách nhiệm của đối tượng iên kết xuất bản
còn bất cập, tính khả thi không cao: Quy định về liên kết xuất bản là một giải
pháp nhằm thực hiện khẳng định: Nhà nước “có chính sách thu hút các nguồn
lực xã hội tham gia vào xuất bản” đã ghi trong Điều 7 Luật Xuất bản 2012.
Tuy nhiên, giải pháp này hiện nay còn chưa chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở, chưa
giải quyết tận gốc vấn đề. ụ thể, tại Điều 23 Luật Xuất bản (quy định về liên
kết xuất bản) có quy định đối tác liên kết phải “chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hoạt động liên kết xuất bản và XBP liên kết”. Song, quy định như vậy
rất chung chung, hơn nữa, quy định này mới nhằm ngăn chặn, quy trách
nhiệm chứ chưa tạo điều kiện để NXB giảm bớt sự phụ thuộc vào đối tác liên
kết về vốn. Bởi thế, dù chặt chẽ đến đâu, NXB cũng không thể giữ vai trò chủ
đạo trong quá trình xuất bản - phát hành. Mà khi đối tác giữ vai trò chủ chi,
họ sẽ mặc nhiên làm chủ quá trình xuất bản - phát hành, chứ không phải nơi
cấp giấy phép và thu phí quản lý. Từ thực tế này, đã dẫn tới một hệ quả là:
“hiện nay có khoảng 80 - 90% số đầu sách mỗi năm là sách liên kết. Và 90%
số sai phạm thuộc về sách liên kết xuất bản” [51]. ù được thực hiện trên
danh nghĩa liên kết xuất bản nhưng các khâu từ chọn bản thảo, biên tập đến in
ấn, phát hành đều do các đơn vị tư nhân thực hiện; NXB chỉ cấp giấy phép.
ác NXB chạy theo lợi nhuận, buông lỏng quản lý, phó thác cho đơn vị liên
kết là thực trạng khá phổ biến. Như vậy, giải pháp này, mặc dù đã là một
bước tiến mới, góp phần xiết chặt hoạt động liên kết xuất bản, song chưa giải
quyết được triệt để vấn đề.
3.5.4. Đánh giá về tính hiệu lực, hiệu quả
3.5.4.1. Ưu điểm
Thứ nhất, nhìn chung, chính sách xuất bản đã tạo ra được hiệu quả
thực tiễn có thể nhìn thấy rõ ràng thông qua các con số về sự tăng trưởng
Tính hiệu quả của chính sách xuất bản thể hiện rất rõ thông qua nhiệm
vụ trung tâm của ngành là số lượng sách xuất bản được và nâng cao mức độ

117
hưởng thụ sách của nhân dân (bình quân số sách được hưởng thụ trên một
đầu người hàng năm). Rõ ràng, đây là sự phản ánh cao nhất, là sự phản ánh
cuối cùng trong việc đánh giá hiệu quả của chính sách xuất bản. Những con
số cho thấy sự tăng trưởng hàng năm của xuất bản trong thời gian gần đây là
minh chứng rõ nhất cho hiệu quả của chính sách xuất bản đem lại
Bảng 3.3. Kết quả xuất bản sách giai đoạn 2012 - 2019
T Đơn vị
Diễn giải Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
T tính
Số đầu
1 Cuốn 28.052 26.933 28.326 29.120 29.475 30.851 31.438 37.100
sách
Tốc độ
2 % +2% -3,8% +5,2% +2,8% +1,2% +4,7% +1,9% +18,0
phát triển
3 Số bản Bản 301.828.000 279.720.000 368.925.000 363.012.000 329.627.000 312.510.500 404.600.895 441.000.000
Tốc độ
4 % +3% -7% +32% -2% -9% -9,5% +29,5% +8,9%
phát triển
Mức
bản sách/
5 hưởng thụ 3,4 3,2 4,1 4,1 3,6 3,3 4,2 4,6
người/năm
bình quân
(Nguồn: Các báo cáo tổng kết hàng năm Cục XBIPH)

0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Số bản sách/người/năm

Biểu đồ 3.4. Mức hƣởng thụ sách bình quân giai đoạn 2012-2019
(Số bản sách/ngƣời/năm)
(Nguồn: Các báo cáo tổng kết hàng năm Cục XBIPH)

118
450000000
400000000
350000000
300000000
250000000
200000000
150000000
100000000
50000000
0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Biểu đồ 3.5. Số bản sách xuất bản hàng năm giai đoạn 2012-2019
(Nguồn: Các báo cáo tổng kết hàng năm Cục XBIPH)
Thứ hai, hiệu ực của chính sách xuất bản đã tỏa rộng trên mọi phạm vi
của ngành xuất bản và các đối tượng iên quan
ác văn bản liên quan đến lĩnh vực xuất bản đều đã có hiệu lực và đi
vào cuộc sống xuất bản ở tất cả mọi lĩnh vực và mọi đối tượng từ độc giả,
người làm công tác quản lý tới đội ngũ sáng tác, cố nhiên, hiệu lực đó không
phải là hoàn toàn giống nhau, và không phải là lúc nào cũng tốt. Tuy nhiên,
xét về tổng thể, chúng ta nhận thấy, việc các chính sách (thông qua các văn
bản) khi ra đời, đều đã ít nhiều, nhanh hay chậm làm biến đổi thực tiễn xuất
bản. hẳng hạn, từ sau khi tham gia ông ước Berne và với nhiều chính sách
cụ thể về bảo hộ bản quyền tác giả, đã có nhiều hoạt động giao lưu, trao đổi
với các Hiệp hội xuất bản trên thế giới, tham gia một số hội sách quốc tế. Một
số NXB, đối tác liên kết tư nhân chủ động tiếp cận tác giả, tác phẩm, NXB
nước ngoài bằng cách tham gia hội chợ sách, khai thác các sách hay từ mạng,
thực hiện các giao dịch mua bán qua mạng... Số lượng các tựa sách khai thác
từ hoạt động giao dịch bản quyền nước ngoài ngày càng tăng, những loại sách
này phản ánh và bắt nhịp nhanh với nhịp sống đương đại, xu thế hội nhập,

119
làm phong phú thêm đề tài trong nước. Đặc biệt đối với những đầu sách
“hot”, những tựa sách “best seller” của thế giới được các NXB và đối tác liên
kết của Việt Nam khai thác có thể giúp kích cầu thị hiếu, thu hút được sự
quan tâm của công chúng, đôi khi tạo ra các cơn sốt trong phát hành với
lượng bản in cao, điển hình như các bộ sách: Hary Potter, Đắc nhân tâm,
quẳng gánh o đi mà vui sống…
Hay như kể từ sau khi có chủ trương tập trung giải quyết các vi phạm,
làm trong sạch xuất bản, Ban TGT và Bộ TTTT đã chỉ đạo tăng cường tiến
hành thanh tra, kiểm tra. Đối với những NXB mắc sai lầm kéo dài hoặc xuất
bản sách có nội dung sai trái, lệch lạc, Ban TGT và Bộ TTTT đã tập trung
kiên quyết xử lý kỷ luật. Riêng năm 2016, Thanh tra Bộ TTTT đã tiến hành 5
cuộc thanh tra, Cục XBIPH đã tiến hành 6 cuộc thanh tra và 16 cuộc, các Sở
TTTT trong cả nước đã tiến hành 97 cuộc thanh tra; 855 cuộc kiểm tra chuyên
ngành và liên ngành. Cục XBIPH đã phát hiện và xử lý nhiều sai sót: ban
hành 09 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 07 tổ chức và 02 cá
nhân (năm 2016), xử lý 155 XBP vi phạm (năm 2017), 78 XBP vi phạm (năm
2018).
Những dẫn chứng đó cho thấy, chính sách xuất bản đã có hiệu lực nhất
định, tác động trực tiếp để điều chỉnh nhận thức, hành vi của các đối tượng có
liên quan trong lĩnh vực xuất bản.
3.5.4.2. Hạn chế
Hiệu lực, hiệu quả một số giải pháp, công cụ chính sách chưa cao, chưa
triệt để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Một số giải pháp chưa đạt được hiệu
lực, hiệu quả thực tiễn cao:
Thứ nhất, hiệu ực ngăn chặn các vi phạm trong xuất bản còn thấp, tính
răn đe, phòng ngừa chưa cao. Mặc dù Luật Xuất bản 2012, Nghị định
159/2013/NĐ- P quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo
chí xuất bản, Nghị định số 131/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về

120
quyền tác giả, quyền liên quan... đã quy định nhiều nội dung nhằm ngăn chặn
các vi phạm như: In lậu, xâm phạm quyền tác giả... Tuy nhiên, có một số bất
cập tại những quy định này. Tại Điều 344, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi
bởi Khoản 127 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định cả
khung hình phạt tù lẫn phạt hành chính, điều này khiến cho việc áp dụng,
xử lý các hành vi vi phạm bản quyền thường được chuyển sang phạt hành
chính (từ 20 triệu đến 200 triệu đồng). Hơn nữa, điều này mới chỉ chế tài
đối với hành vi in lậu, còn đối với hành vi phát hành sách in lậu, sách giả
thì chưa bị chế tài. Nghị định 159/2013/NĐ- P ngày 12/11/2013, tại Điểm
7 Điều 24 quy định: "Phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 40 triệu đồng đối với
hành vi in XBP không có quyết định xuất bản". Điểm 5 Điều 27 quy định:
“Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, phát
hành XBP in, nhân bản lậu, in giả, in nối bản trái phép từ 300 bản trở lên”.
Mức phạt này là quá thấp, chưa đủ sức răn đe. Nếu như coi sách giả là hàng
giả, hoàn toàn có thể xử theo Điều 192 Luật Hình sự. Và nếu như hình sự hóa
hành vi này, thì chắc chắn, mức độ răn đe sẽ cao hơn rất nhiều, góp phần hạn
chế các hiện tượng vi phạm, qua đó, tạo điều kiện để lành mạnh hóa và phát
triển xuất bản Việt Nam.
Đặc biệt, chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu ngăn chặn, chấm
dứt tình trạng vi phạm bản quyền đối với XBP điện tử đang là vấn đề lớn và
kéo dài, khiến cho nhiều chính sách khuyến khích phát triển xuất bản điện tử
trở nên ít có hiệu quả. hính vì thế, số lượng XBP điện tử đang có chiều
hướng giảm: 679 XBP (2016), 217 XBP (2017), 86 XBP (2018) [34, Phụ lục
1]. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có 4 NXB đủ điều kiện được cấp phép xuất
bản điện tử, đó là: NXB TTTT, NXB Giáo dục Việt Nam, NXB TQG-ST,
NXB Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
Thứ hai, hiệu ực của công cụ tổ chức chưa mạnh mẽ. Sự phối hợp giữa
các cơ quan Đảng với Nhà nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp, giữa các

121
cơ quan cùng hệ thống vẫn còn thiếu cơ chế ràng buộc nên hiệu quả không
cao, lại thiếu sự chỉ huy cao nhất. Sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan lãnh
đạo, chỉ đạo với quản lý nhà nước; trách nhiệm của cơ quan chủ quản còn
yếu; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành xuất bản và quản lý
tổng hợp (tài chính, kế hoạch đầu tư...) thiếu chặt chẽ, vai trò định hướng
chính trị, tư tưởng của tổ chức đảng ở các NXB chưa được phát huy. Số lượng
biên tập viên hiện nay còn ít so với yêu cầu cũng là điều làm cho hiệu lực
chính sách bị giảm đi. Đến năm 2019, có 1.159 biên tập viên trên tổng số
5.601 lao động, chiếm 20,7%. Bình quân 20 biên tập viên (của một NXB)
phải chịu trách nhiệm gần 400 đầu sách [63, tr.337].
Vai trò hoạt động của các tổ chức Hội trong đó có Hội Xuất bản, Hiệp
hội In là chưa rõ nét trong đời sống xuất bản, chưa thực sự gắn với nhiệm vụ
chính trị và chuyên môn của ngành và chưa giải đáp thỏa đáng trước những
đòi hỏi chính đáng của hội viên, chức năng tư vấn và phản biện xã hội chưa
được coi trọng. Trong khi đó, mối quan hệ giữa tổ chức hội với cơ quan chỉ
đạo, quản lý thiếu chặt chẽ. Vai trò để tập hợp, đoàn kết những người làm
công tác xuất bản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên và tổ
chức thành viên, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, chính sách
phát triển sự nghiệp xuất bản chưa được thể hiện rõ, chưa hiệu quả.
Thứ ba, công cụ tài chính - kinh tế chưa đạt được hiệu quả xã hội cao.
ụ thể ở đây luận án muốn nói tới là việc sử dụng kinh phí để đặt hàng xuất
bản phẩm. Mặc dù số tiền bỏ ra hàng năm không nhỏ, song, hiệu quả xã hội
(ở đây tác giả luận án nhấn mạnh hiệu quả xã hội-tức những tác động thực
tiễn về mặt xã hội, những lợi ích từ chính sách mà bà con nhân dân có thể
được hưởng) là chưa cao. hính sách đặt hàng XBP là một chủ trương đúng
đắn, song, trong thực hiện, còn những hạn chế, nhất là về chất lượng, hiệu quả
thực tiễn của XBP đặt hàng đối với người dân chưa lớn. Thậm chí, ông Lê
Thanh Hà, NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ hí Minh, đã phải phát biểu

122
tại Hội thảo "Đặt hàng XBP sử dụng ngân sách nhà nước" đã được Sở TTTT
TP H M tổ chức vào sáng 6-12-2019 rằng: “Đã đến lúc phải tránh trường
hợp sách in và nghiệm thu xong không có người xem hoặc chỉ đơn thuần cấp
cho thư viện, phát cho cán bộ và nhân dân là hoàn thành nhiệm vụ. Việc ưu
ái, tạo việc làm, tạo nguồn thu cho NXB dẫn tới cơ chế xin - cho, hoặc xuất
hiện nhiều đầu sách kém chất lượng vẫn được xuất bản dựa trên việc sử dụng
nguồn ngân sách nhà nước dẫn tới lãng phí” [34]. Nhiều NXB làm việc chưa
thực sự nghiêm túc, hiệu quả. Điều này khiến cho chất lượng và hình thức của
các ấn phẩm chưa cao, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của người đọc, dẫn đến
lãng phí. Như vậy, có thể đánh giá rằng, hiệu quả thực tiễn của chính sách này
chưa tốt, cần phải có những cơ chế ràng buộc chặt chẽ hơn, thẩm định kỹ hơn
về chất lượng.
3.6. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
3.6.1. Nguyên nhân khách quan
3.6.1.1. Tác động từ mặt trái cơ chế thị trường
ơ chế thị trường thực chất là việc để cho hoạt động của thị trường vận
động dưới những tác động của các quy luật kinh tế khách quan. Khác với
trước kia, xuất bản được Nhà nước bao cấp 100%, thì nay, Nhà nước đã
không còn bao cấp hoàn toàn nữa. Nhiều NXB đã và đang tự hạch toán kinh
doanh để tồn tại và hướng tới làm ăn có lãi. ơ chế thị trường có tác dụng
kích thích tính tự chủ, sáng tạo của các tổ chức, cá nhân, song, mặt trái của
nó cũng bao hàm nhiều vấn đề, nhiều hệ lụy. Kinh tế thị trường với đặc điểm
cố hữu của nó, là luôn có khuynh hướng buộc các tổ chức kinh tế tham gia
thị trường chạy theo lợi nhuận dẫn đến công tác chỉ đạo và quản lý, đặc biệt
là việc xây dựng chính sách và quy hoạch xuất bản gặp nhiều khó khăn. Nếu
không có những cơ chế kiểm soát chặt chẽ, thì ngay từ khâu lập quy hoạch
và xây dựng chính sách đã rất có thể phát sinh ra những biểu hiện lái chính
sách nhằm phục vụ “lợi ích nhóm”. Và cũng chính vì khuynh hướng kéo các

123
chủ thể sản xuất, kinh doanh XBP chạy theo lợi nhuận, do đó, xuất bản dễ bị
xa rời thực hiện các nhiệm vụ chính trị, buông lỏng chức năng văn hóa - tư
tưởng, chỉ chạy theo lợi ích đơn thuần. Những hiện tượng vi phạm các quy
định trong xuất bản, để lọt ra xã hội các XBP chất lượng thấp, thậm chí nội
dung sai sự thật, đi ngược lại đường lối, quan điểm của Đảng các năm qua,
một phần là do năng lực thẩm định chưa tốt của đội ngũ biên tập viên, nhưng
cũng có nguyên nhân là do sự “bất chấp” quy định vì mục đích kinh tế.
3.6.1.2. Những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực của Việt
Nam đang làm chuyển biến đời sống xã hội đất nước. Những tác động tiêu
cực từ quá trình này đến CSXB có thể nhận thấy ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, về mặt chính trị - tư tưởng: Luôn phải nhấn mạnh rằng, xuất
bản là một hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, với nhiệm vụ nâng
cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân. Trong khi đó, quá
trình mở rộng giao lưu quốc tế khó tránh khỏi sự phân hóa về tư tưởng. Các
khuynh hướng tư tưởng khác nhau, đối ngược nhau sẽ xuất hiện cả theo cách
tự phát và cách có chủ đích. Các thế lực thù địch hàng ngày, hàng giờ thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, luôn đặc biệt coi trọng các phương
tiện thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản. Bởi thế, trong nhiều ấn phẩm,
các tư tưởng đối lập chính trị được thể hiện rất tinh vi. Song, quá trình giao
lưu, hội nhập quốc tế, Việt Nam phải chịu nhiều tác động từ nhiều phía trong
việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để tuân thủ các hiệp định chung. Bởi thế,
nảy sinh mâu thuẫn giữa việc vừa phải điều chính hệ thống pháp luật xuất
bản cho phù hợp với các công ước quốc tế, vừa phải giữ vững định hướng
chính trị tư tưởng của xuất bản. Nói cách khác, trong quá trình toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế, các nhiệm vụ của chức năng văn hóa - tư tưởng của
xuất bản càng trở nên nặng nề hơn. Xuất bản Việt Nam vừa phải giữ gìn, phát

124
huy bản sắc văn hóa dân tộc, bám sát nhiệm vụ chính trị, vừa phải tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại trong quá trình hội nhập, góp phần giữ vững trận địa tư
tưởng của Đảng, giữ vững định hướng XHCN.
Thứ hai, về cạnh tranh trong kinh doanh: Từ khi đất nước mở cửa, hội
nhập, một số tập đoàn xuất bản nước ngoài, trong đó có những tập đoàn rất
lớn của Mỹ, Nhật Bản như: Tập đoàn L. Ron Hubbard, Harper ollins, đang
từng bước thăm dò, thâm nhập vào thị trường nước ta, bắt đầu từ hoạt động
quảng bá sản phẩm, giao dịch về bản quyền, trong đó có nhiều giao dịch với
các đơn vị phát hành sách tư nhân. Trong tương lai, khi Hiệp định Thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình ương ( PTPP) trở nên có hiệu lực,
chắc chắn, sẽ còn nhiều tập đoàn, công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất bản
tiến vào thị trường Việt Nam.
Thứ ba, về vấn đề bản quyền: Từ khi Việt Nam chính thức tham gia
thực hiện các công ước quốc tế về bản quyền, vấn đề bản quyền ngày càng trở
thành có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành xuất bản. Việc xây dựng và
thực hiện chính sách phải giải quyết hàng loạt vấn đề nhằm vượt qua những
khó khăn lớn để vừa bảo đảm bảo vệ bản quyền, vừa thực hiện tốt đòi hỏi tiếp
nhận và chuyển tải những thành tựu văn minh nhân loại phục vụ cho yêu cầu
xây dựng, phát triển đất nước
3.6.1.3. Tác động của mạng xã hội và phương tiện nghe nhìn hiện đại
Sự phát triển mạnh mẽ trong vòng hơn mười năm trở lại đây của mạng
xã hội Facebook, Twitter, Youtube,… cùng với đó là sự gia tăng rất mạnh mẽ
cả về số lượng và sự hiện đại của các phương tiện nghe nhìn đã làm thay đổi
nhanh chóng văn hóa đọc của người Việt Nam. Người Việt Nam, đặc biệt là
giới trẻ nhiều người mắc chứng “nghiện” mạng xã hội, thói quen chỉ đọc các
tin ngắn, tin nhanh trên newfeed, status thay cho sách giấy và các tác phẩm
chuyên sâu. Sự thay đổi theo hướng tiêu cực đó của văn hóa đọc tác động

125
không nhỏ đến SXB. Hơn nữa, chính sự tác động của mạng xã hội và
phương tiện nghe nhìn hiện đại với nhiều website, blog… thiếu sự quản lý
luôn đăng tải các loại ấn phẩm dạng scan, ebook không phép cũng khiến cho
CSXB phải đối mặt với bài toán khó.
3.6.2. Nguyên nhân chủ quan
3.6.2.1. Công tác lý luận về xuất bản chưa theo kịp thực tiễn của xuất bản
Ngày 29/12/2016, khi tiến hành sơ kết thực hiện Chỉ thị Chỉ thị số 42
của Ban Bí thư khóa IX về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất
bản, Trung ương đã chỉ rõ, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến
cho CSXB ở Việt Nam chưa thực sự khoa học, hợp lý, chưa dẫn đường cho
xuất bản phát triển mạnh mẽ, đó là do: "Nhiều vấn đề lý luận mới đặt ra trong
công tác xuất bản chưa được nghiên cứu, làm rõ" [31, PL1]. Có tới 86% số
cán bộ thuộc Cục XBIPH và 82% số cán bộ, biên tập viên các NXB khi được
hỏi cũng đồng tình rằng: lý luận chưa theo kịp thực tiễn xuất bản là một
nguyên nhân của những hạn chế của CSXB ở Việt Nam [PL2, PL3].
Nếu như trước đây, trong thời kỳ bao cấp, mọi lĩnh vực đều được
Nhà nước bao cấp, xuất bản thể hiện rất rõ chức năng văn hóa - tư tưởng
của nó. Hiện nay, trong cơ chế thị trường, xuất bản đã có nhiều đổi mới,
hơn nữa, với quy định về “liên kết xuất bản”, có sự tham gia của các đối
tác xuất bản đã làm cho bộ mặt xuất bản thay đổi rất nhiều so với trước
đây. Đó là chưa tính đến những thay đổi do quá trình chúng ta hội nhập,
giao lưu xuất bản với các nước, tham gia công ước quốc tế về bản quyền…
Thực tiễn đó rất mới mẻ so với trước đây, thậm chí có mặt, có yếu tố
dường như đi ngược lại so với lý luận về xuất bản trước đây. Như vậy, yêu
cầu đổi mới lý luận về xuất bản mà thực tiễn đặt ra những năm qua là rất rõ
ràng, song dường như, công tác lý luận lại chưa đáp ứng tốt điều đó. Một
loạt vấn đề chưa được làm rõ như mối quan hệ giữa thực hiện chức năng tư
tưởng với chức năng kinh doanh; tính đặc thù của xuất bản; cơ chế quản lý

126
xuất bản; quá trình chuyên nghiệp hoá xuất bản đưa xuất bản vươn dần lên
hiện đại; hoạt động quảng bá sách và phát triển văn hoá đọc trong điều kiện
hội nhập; các mô hình hoạt động của NXB; vai trò, mức độ tham gia và cơ
chế kiểm soát các thành phần kinh tế khác trong liên doanh, liên kết xuất
bản; vấn đề cổ phần hóa và việc thực hiện chức năng tư tưởng văn hóa của
hệ thống phát hành sách nhà nước... Chính vì những vấn đề lý luận ở trên
bình diện vĩ mô chưa được làm rõ đó, cho nên SXB còn nhiều vướng
mắc, mâu thuẫn cả trong quá trình xây dựng và thực hiện.
3.6.2.2. Nhận thức về vị trí, tính chất, mục đích của xuất bản chưa
đúng, và chưa thống nhất
Thách thức lớn nhất đối với xuất bản nước ta chính là làm thế nào để
vừa thực hiện chức năng là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân
dân trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng lại vừa đảm bảo phát triển như một
ngành kinh tế trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Mâu thuẫn này đòi
hỏi các chủ thể trong thực tiễn, phải có một nhận thức rất biện chứng, hài
hòa giữa hai chức năng trên. hỉ thị số 42/CT-TW ngày 25/8/2004 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng và Luật Xuất bản đã xác định rất rõ tính chất, mục
đích của xuất bản, tuy nhiên, một số cơ quan chỉ đạo, quản lý, đặc biệt cơ
quan chủ quản nhận thức chưa đúng tầm về vị trí, vai trò của xuất bản, còn
coi đơn vị xuất bản như những cơ sở làm kinh tế đơn thuần, thiếu quan tâm
đến chức năng giáo dục và hiệu quả chính trị, xã hội của hoạt động này, cho
rằng xuất bản thực chất là hoạt động sản xuất kinh doanh nên phải tự trang
trải mọi chi phí và phải có lãi. Tuy nhiên, lại có một số cơ quan khác thì đề
cao tính chất tư tưởng văn hoá của xuất bản nhưng lại không đề xuất được
hoặc không thuyết phục được các cơ quan chức năng khác ban hành hệ
thống chính sách hỗ trợ đồng bộ để đảm bảo tính chất tư tưởng văn hoá thể
hiện trong nội dung XBP.

127
Thông báo số 19-TB/TW ngày 29/12/2016 thông báo kết luận của Ban
Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42 của Ban Bí thư khóa IX về
nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản đã thẳng thắn nhìn
nhận về một nguyên nhân, đó là: "Một số cơ quan chỉ đạo, quản lý chưa
nhận thức đúng về vị trí, vai trò, tính đặc thù của hoạt động xuất bản, chưa
có giải pháp phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát
triển. Nhiều vấn đề lý luận mới đặt ra trong công tác xuất bản chưa được
nghiên cứu, làm rõ" [31, PL1]. Từ nhận thức khác nhau như trên nên các
chính sách đối với xuất bản cũng không nhất quán từ Trung ương đến địa
phương. ó nhiều chính sách được kiến nghị nhiều năm vẫn không được
xem xét, giải quyết.
3.6.2.3. Vấn đề sở hữu và tính chuyên nghiệp của các NXB chưa cao
Xem xét từ góc nhìn sở hữu thì 100% NXB hiện nay đều thuộc sở hữu
nhà nước hoặc các tổ chức hiệp hội. Do là sở hữu nhà nước hoặc các tổ chức
hiệp hội, cho nên, phần nào đây trở thành nguyên nhân hình thành tâm lý thụ
động, ỷ nại, chờ vào cơ quan chủ quản, chờ vào ngân sách nhà nước và chỉ đạo
của trên, chưa tạo được động lực sáng tạo, tự chủ một cách mạnh mẽ. Về hoạt
động của các NXB còn thiếu tính chuyên nghiệp, làm ăn manh mún, chụp
giật vẫn còn xảy ra. ó NXB chưa chú ý đúng mức đến việc xây dựng
thương hiệu uy tín. Khi khảo sát ý kiến của đội ngũ cán bộ thuộc Cục
XBIPH và cán bộ, biên tập viên nhà xuất bản cũng cho thấy, có 75% số cán
bộ thuộc Cục và 80% số cán bộ, biên tập viên nhà xuất bản được hỏi cho
rằng, vấn đề sở hữu và tính chuyên nghiệp của NXB chưa cao là một trong
những nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trong CSXB, khiến cho xuất bản
chưa thực sự phát triển trong thời gian qua [PL2, PL3].
3.6.2.4. Thiếu đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản , tham mưu có năng ực
thực tiễn và tầm nhìn chiến ược
Đội ngũ cán bộ có vai trò rất quan trong trong tham mưu xây dựng và
chỉ đạo thực hiện chính sách. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất bản là
chủ thể tham gia xây dựng và ban hành các chính sách về xuất bản. Định

128
hướng phát triển của ngành xuất bản phụ thuộc khá nhiều vào vị trí, vai trò,
khả năng của đội ngũ này. Tuy vậy, hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý ngành xuất bản đang bộc lộ những “lỗ hổng” lớn về năng lực, trình độ.
Trong vai trò là cơ quan chỉ đạo, quản lý xuất bản trong phạm vi cả nước, Ban
TGT và Bộ TTTT với các đơn vị chức năng là Vụ Báo chí - Xuất bản và
Cục XBIPH hiện nay lực lượng còn mỏng, rất thiếu cán bộ tham mưu có chất
lượng cao, chuyên môn sâu, dẫn đến việc các cơ quan chỉ đạo, quản lý còn
nhiều hạn chế trong việc nắm bắt, dự báo và xử lý kịp thời các vấn đề của
xuất bản. Đối với các cơ quan chủ quản xuất bản, công tác phân công, phân
cấp cho đơn vị tham mưu có nơi còn hạn chế, thiếu tính khoa học; hơn nữa,
đội ngũ cán bộ tham mưu này cũng còn thiếu nghiệp vụ và kinh nghiệm xuất
bản, trong khi các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho đối tượng quản lý này lại
chưa được tổ chức thường xuyên để cập nhật tri thức quản lý phù hợp.

129
KẾT LUẬN C ƢƠNG 3
Trên cơ sở khung lý luận đã xây dựng ở hương 2, trong hương 3,
Nghiên cứu sinh đã cố gắng vạch ra được mục tiêu và những nội dung, giải
pháp cơ bản của CSXB ở Việt Nam hiện nay. Bám vào các tiêu chí đánh giá
chính sách, tác giả tìm ra những ưu điểm và hạn chế của chính sách đó. Theo
đó, nhìn chung, SXB ở Việt Nam đã xác định mục tiêu tương đối phù hợp,
đặc biệt, mục tiêu hướng xuất bản thực hiện tốt chức năng văn hóa - tư tưởng
được quan tâm và có nhiều kết quả nổi bật. Đã có nhiều nội dung giải pháp
nhằm tháo gỡ khó khăn, đưa xuất bản vươn lên, phát triển. Tuy nhiên, chức
năng sản xuất, kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức, mục tiêu đặt ra còn
tương đối chung chung, chưa cụ thể, sát với xu hướng và trình độ công nghệ
xuất bản hiện đại của thế giới. Nội dung, giải pháp còn những hạn chế, bất cập,
dẫn tới, nhiều sai phạm còn kéo dài, một số đơn vị xuất bản thua lỗ, hoạt động
cầm chừng, văn hóa đọc chưa được quan tâm phát triển trong xã hội...
Những hạn chế, bất cập của CSXB ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân khách quan là xuất phát điểm của xuất bản Việt Nam thấp so
với nhiều nước trên thế giới, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước còn nhiều khó
khăn, sự tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch... Song, nguyên
nhân chủ quan là cơ bản, đó là do công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển
của thực tiễn, năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách của đội ngũ
cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đúng mức với yêu cầu nhiệm
vụ và xu thế phát triển của xuất bản thế giới. Trên cơ sở thực tiễn những hạn
chế, bất cập và nguyên nhân đó, cần xây dựng những giải pháp thích hợp để
hoàn thiện CSXB ở Việt Nam trong thời gian tới.

130
Chƣơng 4
ĐỊN ƢỚNG, YÊU CẦU VÀ G Ả P ÁP CƠ BẢN OÀN T ỆN
C ÍN SÁC UẤT BẢN Ở V ỆT NAM

4.1. Định hướng và yêu cầu hoàn thiện chính sách xuất bản ở
Việt Nam
4.1.1. Định hướng hoàn thiện chính sách xuất bản ở Việt Nam
Xu thế phát triển khách quan của xuất bản trên thế giới đang đặt xuất bản
Việt Nam trước một lực cuốn, lôi cuốn Việt Nam tham gia ngày càng sâu hơn
vào nhịp độ đó. Và cũng chính xu thế đó, đang đặt ra yêu cầu khách quan, cần
phải có những định hướng rõ ràng trong việc hoàn thiện hệ thống chính sách
của hoạt động ấy - CSXB.
Theo đó, có thể xác định một số định hướng lớn như sau
Thứ nhất, CSXB phải hướng tới xây dựng cơ sở hạ tầng xuất bản hiện đại
Xuất bản hiện đại thì tất yếu phải có một cơ sở hạ tầng hiện đại tương
ứng - một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin mở. Các NXB cần phải chuẩn bị
đầy đủ điều kiện và năng lực để chuyển dần sang xuất bản số; nâng cao chất
lượng bản thảo qua sự chủ động, tích cực tìm kiếm những đề tài đúng với
“hơi thở” của thời đại, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người đọc. Tăng cường
năng lực ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ; đào tạo đội ngũ cán bộ
làm công tác phát hành, marketing giỏi, năng động, tăng cường xây dựng các
website, đẩy mạnh xây dựng hình ảnh. Tìm ra những “lối đi riêng”, những
mảng xuất bản đặc thù để xây dựng thương hiệu riêng, độc đáo cho mình; xây
dựng thương hiệu, chiến lược phát triển cho đơn vị mình.
Như vậy, CSXB cần phải tạo được những hành lang thuận lợi, cả về mặt
cơ chế pháp lý, cả về mặt nguồn lực tài chính, để các lực lượng xuất bản có
thể tiếp cận và xây dựng những cơ sở hạ tầng hiện đại.

131
Thứ hai, CSXB tạo thuận lợi trước hết cho việc đào tạo nhân lực hiện đại
Xuất bản hiện đại, cần có cơ sở vật chất hiện đại, nhưng tất nhiên, cơ sở
vật chất hiện đại cần có những con người có năng lực, trình độ tương xứng.
Điều đó đòi hỏi trước hết, cần phải đào tạo được nguồn nhân lực được trang
bị kiến thức, kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình
mới.
Như vậy, CSXB cần phải tính đến việc nghiên cứu, xây dựng và đổi mới
chương trình đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá; tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường với doanh
nghiệp nhằm đảm bảo về chất lượng, đầy đủ về số lượng để đáp ứng yêu cầu
của ngành xuất bản nói chung, xuất bản điện tử nói riêng trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay là việc làm cấp bách của mỗi cơ sở đào tạo.
Đồng thời với đó, bản thân mỗi cá nhân hoạt động trong ngành xuất bản cũng
cần có sự chủ động, tích cực nâng cao trình độ, tăng cường tri thức, nâng cao
khả năng thích nghi, dám đối mặt với thách thức.
Thứ ba, CSXB cần xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển
Luật Xuất bản đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, và kể cả ra luật mới, tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay, môi trường pháp lý vẫn bộc lộ những hạn chế,
lỗ hổng, đòi hỏi phải tiếp tục được hoàn thiện. Đặc biệt, trong điều kiện hội
nhập sâu rộng với xuất bản thế giới, hoàn thiện môi trường pháp lý lại càng trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết. Điều này dường như ngày càng trở thành điều
kiện bắt buộc để xuất bản Việt Nam cất cánh và có thể vươn lên tầm quốc tế.
Theo đó, môi trường pháp lý cần được nghiên cứu kỹ càng, trên cơ sở đánh giá
thực tiễn những rào cản, vướng mắc mà xuất bản đang mắc phải, những hạn
chế, yếu kém có nguyên nhân từ các quy định luật. Đặc biệt, phải có sự tham
khảo hệ thống quy định quản lý xuất bản ở các nước trên thế giới. Môi trường
pháp lý cần được điều chỉnh một cách mạnh mẽ hơn, với quan điểm chỉ đạo
nhất quán. Nhìn chung, yêu cầu lớn nhất của xuất bản đối với môi trường pháp

132
lý hiện nay là cần phải có những quy định cởi mở hơn, trao quyền tự chủ nhiều
hơn cho các đơn vị xuất bản, song vẫn phải bảo đảm công tác quản lý, giám sát
chặt chẽ.
Thứ tư, CSXB cần ưu tiên phát triển thị trường sách điện tử và dịch vụ
xuất bản mới trên cơ sở kết hợp hài hòa với thị trường sách in truyền thống
Tạo điều kiện để các NXB, nhà sản xuất và phân phối khéo léo kết hợp
giữa 2 loại hình sách in truyền thống và sách điện tử, để dần thu hút người
đọc, đặc biệt là những người có thời gian sử dụng máy tính cao, đến với các
ấn phẩm truyền thống thông qua quảng cáo, trích đăng trên mạng internet.
Xây dựng hệ thống thư viện điện tử thuận lợi phục vụ cho tra cứu, tìm kiếm
sản phẩm xuất bản truyền thống; thay đổi phương thức giáo dục dựa trên ứng
dụng các công nghệ thông tin hiện đại... Đồng thời với đó, cần nghiên cứu và
tìm kiếm giải pháp an ninh truyền thông hiệu quả, đặc biệt là vấn đề phòng,
chống tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng.
4.1.2. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện chính sách xuất bản
4.1.2.1. Nội dung chính sách phải được điều chỉnh mạnh mẽ, tạo ra
những đột phá thúc đẩy xuất bản phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt trước các
yêu cầu mới
Những hạn chế, yếu kém như đã được chỉ ra, đặt trong bối cảnh xu thế
phát triển xuất bản ngày càng hiện đại trên thế giới và yêu cầu ngày càng
nặng nề của và sự nghiệp phát triển đất nước thời gian tới sẽ tạo nên sức ép
rất lớn, đòi hỏi “bài toán xuất bản” của Việt Nam phải được giải quyết một
cách nhanh chóng, mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Việt Nam đã không còn thời gian
để bước chậm trong xu thế này nữa, mỗi một bước chậm hơn là chúng ta càng
tụt hậu nhiều hơn so với thế giới. Bởi thế, để giải “bài toán” đó một cách
nhanh chóng, mạnh mẽ, quyết liệt, thì cần có những đột phá về CSXB, tạo ra
luồng sinh khí mới cho xuất bản. Điều đó đồng nghĩa rằng, đòi hỏi cần phải
có những điều chỉnh quan trọng về nội dung chính sách, phải thiết lập mục

133
tiêu trọng tâm hơn, quyết liệt hơn, các giải pháp, công cụ hữu hiệu, mạnh mẽ,
khả thi hơn để tạo ra những chuyển biến mang tính cơ bản, đột phá cho công
tác này. Các giải pháp, công cụ được đề ra là để phục vụ cho mục tiêu chính
sách, chính vì vậy việc điều chỉnh mục tiêu chính sách mang tính đột phá, phù
hợp với bối cảnh phải được tiến hành trước tiên. Trên cơ sở mục tiêu trọng
tâm phù hợp với tình hình, hệ thống các giải pháp, công cụ sẽ được thay đổi
để đảm bảo tính khả thi của mục tiêu. Những giải pháp, công cụ mang tính
dàn trải, hình thức, không có hiệu lực thực thi trên thực tế đã được chỉ ra cần
mạnh dạn bãi bỏ. Những giải pháp, công cụ kém hiệu lực, hiệu quả đã được
chứng minh cần điều chỉnh, những giải pháp, công cụ còn thiếu cần được thiết
lập bổ sung.
4.1.2.2. Nâng cao trách nhiệm, quyết tâm hoàn thiện chính sách xuất
bản của các chủ thể
Ở yêu cầu này, nhấn mạnh đến vấn đề “quyết tâm” của các chủ thể xây
dựng và thực thi CSXB, bởi lẽ, cũng giống như quá trình cải cách, tinh giản
thủ tục hành chính, xác định là quá trình khó khăn, nhạy cảm, nó có thể tác
động đến nhiều đối tượng khác nhau. Khi đổi mới và hoàn thiện CSXB, dù là
tổng thể chính sách ở tầm vĩ mô hay chỉ là những chính sách bộ phận ở tầm vi
mô, thì đều liên quan trực tiếp đến lợi ích của những con người, những tổ
chức cụ thể. Vì lợi ích chung của toàn bộ bộ mặt xuất bản, phục vụ cho lợi ích
xã hội, việc đổi mới, hoàn thiện CSXB có thể phải chấp nhận đến việc cắt
giảm biên chế, điều chuyển công tác, sát nhập, thay đổi nhiệm vụ… Bởi thế,
trước hết, cần có một quyết tâm cao, sự thống nhất cao về nhận thức từ xây
dựng đến hệ thống những người thực hiện CSXB. Thống nhất về quyết tâm,
đồng thời nêu cao trách nhiệm trong hoàn thiện chính sách. Trách nhiệm đó
phải được biểu hiện ở sự công tâm, khách quan trong hoàn thiện CSXB, tránh
biểu hiện “lợi ích nhóm”, điều chỉnh chính sách chỉ nhằm có lợi cho phe,
nhóm, lực lượng của mình mà không quan tâm tới đại cục, hoặc biểu hiện

134
“bệnh hình thức”, điều chỉnh chính sách không đi vào thực chất, mà chỉ mang
tính hình thức bên ngoài.
Quyết tâm đổi mới, hoàn thiện SXB được đề cập bao gồm cả quyết
tâm chính trị của Đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, nơi đề ra các
định hướng chính sách quan trọng để Chính phủ xây dựng CSXB, quyết tâm
của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan nhà nước liên quan đến xuất bản, của người
đứng đầu các cơ quan chủ quản xuất bản. Nội dung chính sách và thực tế triển
khai thực hiện CSXB thời gian vừa qua đã phần nào cho thấy quyết tâm của
các chủ thể. húng ta đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung luật Xuất bản và các luật,
nghị định có liên quan. Tuy nhiên, nhiều hạn chế, yếu kém đã kéo dài nhiều
năm mà chưa được khắc phục là biểu hiện của những hạn chế trong quyết
tâm, trách nhiệm hoàn thiện CSXB. Các chủ thể phải quyết liệt hơn, nhìn
thẳng vào những hạn chế, yếu kém và táo bạo hơn trong giải quyết.
Quyết tâm trong bộ máy hành pháp, nhất là vai trò của Bộ chủ quản
phải được kiểm soát chặt chẽ để tránh tình trạng nhiều định hướng đã được
Đảng đưa ra nhưng chưa được Chính phủ nghiên cứu một cách kịp thời và cụ
thể hoá trong các văn bản chính sách, làm ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách.
Đảng cần đề ra thêm các chế tài xử lý kỷ luật Đảng đối với những hành vi
chậm cụ thể hoá các chủ trương, định hướng chính sách mà Đảng đã đề ra để
nâng cao trách nhiệm xây dựng và thực thi chính sách, đặc biệt, đối với Bộ
chủ quản. Điều này sẽ tạo ra tính răn đe và phá vỡ những nhóm lợi ích câu kết
để thao túng nội dung chính sách, cố tình trì hoãn việc thực hiện các nội dung
chính sách tiến bộ, hiệu quả nhằm duy trì điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện các tiêu cực. Các cấp uỷ Đảng cần có chỉ đạo mạnh mẽ hơn trong việc
nhanh chóng lấp đấy các khoảng trống và sửa đổi, bổ sung những biện pháp,
công cụ chính sách còn thiếu mạnh mẽ, chưa hiệu quả của CSXB hiện nay.

135
4.1.2.3. Nội dung chính sách xuất bản phải thực sự cụ thể, đảm bảo
tính khả thi cao
Có thể nhận thấy, những hạn chế trong thực tiễn xuất bản có một phần
nguyên nhân là dung từ chính nội dung chính sách chưa thực sự cụ thể, còn
chung chung, dẫn tới tình trạng, mỗi nơi hiểu một kiểu, hoặc cố tình hiểu sai
nhằm trục lợi. Hơn nữa, có những chính sách chưa được cụ thể hóa thành
những biện pháp cụ thể, chưa được luật hóa. Đây chính là những khoảng
trống, cần phải khắc phục.
Sự cụ thể hóa SXB đòi hỏi phải bám sát vào mục tiêu, chủ trương mà
Đảng đã xác định, đồng thời, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn, vào nhiệm
vụ ở từng giai đoạn cụ thể và năng lực, khả năng cũng như những ưu điểm,
hạn chế của từng lĩnh vực. Theo đó, sự cụ thể hóa cần được tiến hành toàn
diện ở tất cả các nội dung của chính sách. Ở nội dung chính sách quy hoạch
xuất bản, phải có các tiêu chí rõ ràng hơn về điều kiện thành lập và tồn tại, hệ
thống các NXB cần phải tập trung phát triển những NXB nào… hính sách
quản lý, kiểm soát xuất bản phải thực sự chặt chẽ hơn với những quy định rõ
ràng, khiến cho cách hiểu phải thực sự thống nhất. Điều này đặc biệt quan
trọng, bởi lẽ, chính sách này có ảnh hưởng mạnh mẽ, đến rất nhiều các chủ
thể khác nhau. Đối với xuất bản điện tử, cần có thêm nhiều các quy định, nhất
là quy định chống các hình thức sao chép, vi phạm bản quyền, góp phần kích
thích hình thức này phát triển. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, cụ thể hóa các
quy trình, phương thức hợp tác ở từng hoạt động cụ thể như mua bán bản
quyền, phối hợp dịch thuật, trao đổi XBP, quảng bá XBP…
4.1.2.4. Chính sách xuất bản phải được hoàn thiện phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội đất nước, trình độ, nhận thức của đối tượng thực thi
Xuất bản là một hoạt động thuộc ngành văn hóa - tư tưởng, tức là, về
thực chất, nó cũng chỉ là một bộ phận của xã hội, do đó, nó chịu sự quy định,
tác động của điều kiện kinh tế - xã hội đất nước. Chính vì vậy, SXB cũng

136
không thể tùy tiện vượt khỏi khuôn khổ của những điều kiện đó. Nói cách
khác, mọi điều chỉnh, thay đổi của CSXB phải căn cứ vào điều kiện kinh tế -
xã hội, phù hợp với khả năng bảo đảm, đáp ứng của thực tiễn. Đồng thời, nó
cũng cần được phù hợp với đối tượng mà chính sách ấy tác động đến.
Việt Nam đang ở những chặng đường đầu trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, hệ thống pháp luật nhìn chung còn chưa đầy đủ và có
những bất cập nhất định. Điều kiện luật pháp như vậy, CSXB phải từng
bước dung hòa, điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống các luật liên quan, như:
luật thuế, luật bản quyền và sở hữu trí tuệ, luật dân sự,… Về điều kiện kinh
tế, tiềm lực đất nước còn nhiều hạn chế, do đó, nguồn ngân sách bảo đảm
cho phát triển xuất bản chưa thể đáp ứng như kỳ vọng. Chính vì thế, chính
sách quy hoạch xuất bản cũng cần xây dựng bước đi phù hợp, đi từng bước
quy hoạch cụ thể trong tổng thể quy hoạch lớn của cả ngành trong thời gian
dài. Điều kiện xã hội ở Việt Nam cũng có điểm đặc thù đó là trình độ dân trí
đang từng bước được nâng cao. Tâm lý, tư tưởng người dân vẫn còn chịu
ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa của chế độ cũ để lại, chưa thực sự có văn hóa
đọc phát triển ở bình diện xã hội. Đây là điểm mà CSXB cần quan tâm.
Quan tâm thứ nhất là phải có định hướng cho ra đời nhiều hơn những đề tài,
chủ đề phù hợp với trình độ người dân, vừa phải có những tác phẩm hàn
lâm, nhưng đồng thời, không được bỏ trống tác phẩm bình dân, theo kiểu
văn hóa dân gian, phản ánh hơi thở, cuộc sống mọi tầng lớp. Quan tâm thứ
hai và căn cứ vào thực trạng văn hóa đọc hiện nay, để từng bước có những
chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy, phát triển văn hóa đọc ở mọi tầng lớp
Nhân dân, xây dựng xã hội học tập, xã hội tri thức.
4.1.2.5. Chính sách xuất bản phải chú ý tới kinh nghiệm và các yếu tố
quốc tế
Trên thế giới, rất nhiều nước có nền xuất bản phát triển, đi trước Việt
Nam nhiều chục năm, với bề dày kinh nghiệm hàng trăm năm. Những kinh

137
nghiệm của các nước đó là hết sức quý báu đối với Việt Nam. Cố nhiên,
không phải tất cả mọi kinh nghiệm của họ đều đã là hay, là tốt. Hơn nữa, có
những điều ở đất nước của họ là rất hay, song, nếu bê nguyên về Việt Nam,
nó lại không phù hợp. o đó, một mặt, chúng ta phải tăng cường học hỏi kinh
nghiệm xuất bản của các nước, song, mặt khác, chúng ta cũng không được
tuyệt đối hóa, bê nguyên vào thực tế, mà phải sáng tạo và cải biến nó. Trong
việc học hỏi kinh nghiệm CSXB của các nước, cần chú ý đến một số yếu tố
như: Việc xây dựng và phát triển các loại hình NXB, chủ trương quản lý xuất
bản đến đâu, nội dung gì cần quản lý, nội dung gì để cho xã hội và thị trường
tự điều tiết, phương pháp quản lý, điều tiết bằng những công cụ gì, chủ
trương, cách thức cho tư nhân và các lực lượng xã hội tham gia vào xuất bản.
Đó là những câu hỏi lớn mà hiện nay, dường như SXB Việt Nam vẫn còn
khá bí, cần phải tiếp tục nghiên cứu, học hỏi từ kinh nghiệm các nước.
CSXB hiện nay và trong giai đoạn tiếp theo cũng cần chú ý nhiều hơn
đến các yếu tố quốc tế. Trong sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng
vào thế giới, bất kỳ một quốc gia nào cũng phải chú ý đến điều này, đây là
một đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn khách quan. Yếu tố quốc tế đầu tiên cần chú ý
đó chính là những hiệp ước, quy định của các tổ chức quốc tế liên quan đến
xuất bản mà Việt Nam đã tham gia, nhất công ước về sở hữu trí tuệ. Hệ thống
pháp luật Việt Nam phải tuân thủ, thống nhất với các quy định này. Hệ thống
pháp luật Việt Nam vừa phải hướng đến bảo vệ các tác giả Việt Nam, nhưng
đồng thời, cũng phải ngăn chặn các hiện tượng trong nước vi phạm luật quốc
tế, dẫn đến khiếu kiện, làm ảnh hưởng đến uy tín xuất bản đất nước. Yếu tố
quốc tế nữa mà CSXB cần lưu ý đó chính là thị trường sách của các nước.
Hiện nay, một số tập đoàn sách lớn trên thế giới đã đặt chân vào Việt Nam,
song ở chiều ngược lại, dường như chưa có tổ chức, công ty sách nào của Việt
Nam có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Điều này đòi hỏi chúng ta cần có
những nghiên cứu về thị trường sách quốc tế, đầu tư thích đáng cho hoạt động

138
sáng tác, để có những tác phẩm tầm cỡ. Đồng thời, có chính sách ưu đãi phù
hợp, đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xuất bản sách ra thị trường thế giới.
4.2. Giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách xuất bản ở Việt Nam
hiện nay
4.2.1. Điều chỉnh, bổ sung về mục tiêu chính sách xuất bản
Có thể nhận thấy, hai chức năng: hức năng văn hóa - tư tưởng và chức
năng sản xuất kinh doanh, thì cho đến thời điểm này, xuất bản đang thực hiện
khá tốt chức năng văn hóa – tư tưởng như đã phân tích ở phần ưu điểm trong
đánh giá chính sách ở hương 3; tuy nhiên, chức năng còn lại hiện đang rất
kém. o đó, cần thiết phải có những điều chỉnh trong xác định mục tiêu
CSXB, cần phải nhấn mạnh hơn nữa đến vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của xuất bản. Muốn sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong thời đại
ngày nay, khi mà công nghiệp đã rất phát triển, thị trường luôn sôi động theo
các quy luật khách quan, không thể nào khác hơn là cần đặt mục tiêu: Hiện
đại hóa, chuyên nghiệp hóa, đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa xuất bản.
Mục tiêu hiện đại hóa xuất bản Việt Nam thực chất là bắt kịp xu thế
thời đại cả về cơ sở vật chất và cả về mô hình, cơ chế quản lý. Hiện đại hóa
cơ chế quản lý hết sức quan trọng. Cần phải xác định chỗ nào, khâu nào cần
quản lý, chỗ nào, khâu nào để cho thị trường và các quy luật khách quan tự
điều tiết. ơ chế quản lý hiện đại là thực hiện quản lý ít nhất, nhưng đạt hiệu
quả cao nhất, hạn chế tối đa việc chồng chéo trong quản lý. Hiện nay, ở nước
ta, Ban TGT chỉ đạo về tư tưởng, Bộ TTTT (trực tiếp là Cục XBIPH) quản
lý về chuyên môn, cơ quan chủ quản NXB quản lý về hành chính đối với
NXB. Trong khi đó, ở hầu hết các quốc gia khác, quản lý nhà nước về xuất
bản chỉ tập trung điều chỉnh hai lĩnh vực chủ yếu là quyền tác giả và vấn đề
quy hoạch, hỗ trợ phát triển văn hóa đọc. Hơn nữa, các quốc gia này tuy
không xác định xuất bản là lĩnh vực văn hóa tư tưởng sắc bén như chúng tác,
song, trong thực tế quản lý, họ lại có nhiều ưu đãi thể hiện rõ sự đánh giá về

139
vai trò của xuất bản đối với khoa học và giáo dục. Chúng ta cần hiện đại hóa
quản lý xuất bản theo hướng giảm bớt quản lý hành chính, phát huy tốt hơn
vai trò tự điều tiết của các quy luật khách quan. Đồng thời với hiện đại hóa về
cơ chế quản lý, thì hiện đại hóa về cơ sở vật chất cũng có ý nghĩa trực tiếp
nâng cao hiệu quả xuất bản. Thực hiện mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng
bộ của nhiều cơ quan ban, ngành, nhưng trước hết và mang tính quyết định
hơn cả là phát huy vai trò của cơ quan chủ quản NXB, thông qua đầu tư vốn,
thông qua tạo điều kiện để NXB tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh có
lãi,…
Mục tiêu chuyên nghiệp hóa hết sức quan trọng, đặc biệt trong xem xét
phát triển xuất bản từ góc độ là một ngành sản xuất, kinh doanh cũng như
trong xem xét xuất bản từ góc độ là một lĩnh vực xã hội cần phải quản lý và
định hướng phát triển với những chiến lược dài hơi. Theo đó, mục tiêu
chuyên nghiệp hóa xuất bản cần được thực hiện đồng bộ từ xây dựng mục tiêu
phát triển đến quy trình làm việc của các khâu, các bước. Mỗi một đơn vị xuất
bản cần có một mục tiêu phát triển dài hạn, gắn với nó là một triết lý riêng,
một “thương hiệu” riêng. Nói cách khác, không thể cứ xuất bản theo kiểu “ăn
xổi” hay cho xuất bản đủ các loại, sách nào cũng được. Phải hướng đến xây
dựng tên tuổi có uy tín của từng đơn vị xuất bản gắn với một hay một vài
mảng hay loại XBP nhất định nào đó. Quy trình chuyên nghiệp là sự thống
nhất giữa cơ sở vật chất hiện đại với những con người có trình độ tư duy và
năng lực làm việc chuyên nghiệp. o đó, từ đây, cần phải dẫn đến một loạt
các giải pháp về xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới.
Mục tiêu xã hội hóa xuất bản thực chất ở chiều sâu nhất chính là giải
quyết quan hệ giữa nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ kinh tế. Cụ thể hóa của
mối quan hệ lớn đó, chính là ba quan hệ nhỏ: quan hệ giữa tăng cường quyền
tự chủ cho NXB với nâng cao phẩm chất, năng lực chuyên môn của lãnh đạo,
biên tập viên; giữa mở rộng liên kết với ngăn chặn khuynh hướng thương mại

140
hóa; giữa mở rộng hợp tác quốc tế với giữ vững định hướng chính trị. Càng
xã hội hóa, thì Nhà nước càng cần phải phát huy vai trò quản lý vĩ mô của
mình. Đối với lĩnh vực xuất bản, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động các nguồn lực xã hội, còn cần tiếp tục
thực hiện những vấn đề về đầu tư vốn ban đầu, tài trợ, đặt hàng, xây dựng cơ
chế để tăng cường quyền tự chủ cho NXB, chính sách đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực… Đối với vấn đề xã hội hóa, trước đây, trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 (khóa IX) của Đảng, đã xác định chủ trương “thí điểm có
phần hóa từng bước thận trọng một số NXB chuyên ngành”. Qua khảo sát của
luận án, có đến 71% số người được hỏi (là các cán bộ công tác ở các NXB)
ủng hộ cao và đồng ý cho rằng Nhà nước nên tiếp tục thực hiện chủ trương xã
hội hóa xuất bản bằng việc cho phép cổ phần hóa một số NXB hoặc thí điểm
thành lập một số NXB tư nhân [Phụ lục 5].

Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát ý kiến về chủ trƣơng xã hội hóa xuất bản
(Nguồn: Nghiên cứu sinh tiến hành điều tra xã hội học)

141
4.2.2. Điều chỉnh, sửa đổi những nội dung giải pháp chính sách
chưa phù hợp, hiệu quả
4.2.2.1. Đối với hoàn thiện mô hình NXB
Trước mắt, cần thực hiện ngay việc chuyển đổi loại hình hoạt động
NXB đúng theo tinh thần trong Thông báo Kết luận số 19-TB/TW của Ban Bí
thư, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII và
Nghị quyết số 08/NQ-CP về hương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản
lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập. Theo Nghị quyết này, phải chuyển hầu hết các NXB sang đơn vị sự
nghiệp công lập có thu, trường hợp cần thiết thì chuyển sang công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước. Thời hạn cuối cùng theo quy
định là Quý IV năm 2019. Thực hiện việc chuyển đổi này giúp cho các NXB
gắn kết hơn với kinh tế thị trường, giải quyết những bất cập về cơ chế. Từ đó,
Nhà nước có bước đi chính xác hơn trong quy hoạch, đầu tư cho NXB, còn
bản thân NXB cũng có điều kiện nhận thức đúng hơn về vị thế của mình, xây
dựng chiến lược phát triển phù hợp và thích ứng với cơ chế thị trường.
Trong xu thế công nghiệp xuất bản thế giới hiện nay, tương lai không
quá xa, nhất định phải tiếp tục hướng tới các mô hình xuất bản hiện đại, thành
lập các tập đoàn xuất bản. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định xác
lập mô hình hoạt động của NXB cho phù hợp với Luật Xuất bản, Luật Doanh
nghiệp và các quy định về tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp. Như đã
phân tích ở phần những hạn chế của chính sách, do hiện nay, do Luật Xuất
bản chưa điều chỉnh việc chuyển đổi mô hình NXB, dẫn đến, một số mô hình
NXB thí điểm bị mâu thuẫn với Luật Doanh nghiệp. Do vậy, cần thiết phải bổ
sung quy định này, nhằm mở đường cho việc hình thành các tập đoàn xuất
bản ở Việt Nam. Có thể tham khảo mô hình tách rời ngang của các tập đoàn
kinh tế Trung Quốc hiện nay với những đặc trưng, như: Thành lập hội đồng

142
quản trị, ban giám đốc và ban giám sát; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các bộ
phận này với ban chấp hành đảng bộ, ban chấp hành công đoàn và đại hội
công nhân viên chức; chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc phải riêng
biệt. Trên cơ sở các quy định về tập đoàn xuất bản và kinh nghiệm từ thí điểm
xây dựng các tập đoàn xuất bản, tổ hợp xuất bản, tạo điều kiện để các đơn vị
liên kết hình thành tập đoàn hay tổ hợp trên cơ sở tự giác, cùng có lợi. Hạn
chế tối đa việc sử dụng mệnh lệnh hành chính hay ý chí chủ quan của một vài
cá nhân lãnh đạo sáp nhập các đơn vị xuất bản nhỏ lại.
Đồng thời với quá trình trên, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về
chế độ chủ quản của các NXB theo hướng tăng cường quyền tự chủ của các
NXB, tăng cường trách nhiệm các chủ thể sáng tạo, công bố và phổ biến
XBP. Hiện nay, có nhiều NXB thuộc doanh nghiệp và NXB thuộc các trường
đại học có sự không rõ ràng giữa cơ quan chủ quản và cơ quan được phân cấp
quản lý. Cần phải có một quy định rõ hơn về vấn đề này. Hơn nữa, mặc dù quy
định về chế độ chủ quản, song, vẫn phải bảo đảm tăng cường hơn nữa về quyền
tự chủ cho các NXB, phát huy tính sáng tạo, năng động của chính chủ thể.
Trong hoạt động liên kết xuất bản, cần àm rõ hơn trách nhiệm pháp lý
về nội dung giữa tác giả và NXB, giữa cơ quan quản lý xuất bản, cơ quan chủ
quản với NXB, giữa nhà sách liên kết với NXB và giữa lãnh đạo NXB với
biên tập viên. Nhất là, tăng cường trách nhiệm của đội ngũ sáng tạo tác phẩm.
Theo đó, mặc dù, trong Luật Xuất bản, có quy định về trách nhiệm của NXB
và đối tác liên kết, song, trên thực tế, hầu hết, chỉ mới xử lý được NXB nếu
phát hiện sai phạm, chưa có cơ chế pháp lý hay kinh tế để ràng buộc một cách
chặt chẽ đối với đối tác. Có thể nghiên cứu, xây dựng quy định buộc đối tác
(những người sáng tạo tác phẩm) phải “đặt cọc” khi gửi tác phẩm chờ xuất
bản, sau một thời gian xuất bản nhất định, nếu như không có sai phạm gì về
mặt nội dung, thì cơ quan chủ quản hoàn trả lại tiền đặt cọc cho đối tác.

143
4.2.2.2. Về quản lý, kiểm soát xuất bản
Bổ sung các quy định về thanh tra nhà nước, tạo điều kiện cho cơ quan
thanh tra tổ chức bộ máy theo hướng chuyên môn, có sự xác định rõ giới hạn
của hoạt động thanh tra chuyên ngành về xuất bản trong thanh tra nhà nước về
TTTT. Đổi mới và hoàn thiện việc phân chia quyền hạn trong hoạt động thanh
tra, kiểm tra giữa các cơ quan nhà nước theo hướng tập trung, tránh chồng
chéo.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chế tài xử đối với các vi phạm trong
xuất bản. Cần có những chế tài cụ thể đối với từng hành vi cụ thể, điều chỉnh
hoặc xây dựng mới một số chế tài mạnh hơn, xử phạt theo hướng tăng nặng,
bảo đảm tính răn đe, ngăn chặn việc tái diễn hành vi vi phạm. Có mức phạt
cao hơn đối với các cá nhân, tổ chức tại phạm, tái phạm nhiều lần. Hiện nay,
hành in ấn, buôn bán sách lậu, sách giả nếu hiểu theo nghĩa là hành vi xâm
phạm bản quyền, thì có thể áp dụng chế tài xử phạt theo Điều 225 của Bộ
Luật Hình sự 2015. Song, nếu theo Nghị định 159/2013/NĐ- P quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản, tại Điều 27, thì
hành vi này chỉ có thể bị xử phạt mức cao nhất là phạt tiền từ 20 triệu đến 30
triệu đồng (khi in từ 300 bản trở lên). o đó, trong thực tế, khi có vi phạm
này, thường chỉ bị xử phạt hành chính. Để bảo đảm tính nghiêm minh của
pháp luật và góp phần xây dựng nền xuất bản hiện đại, theo tác giả Luận án,
cần hình sự hóa hành vi in ấn, buôn bán sách lậu, sách giả. Cần có chế tài trực
tiếp đối với hành vi này, chứ không thể hiểu “đường vòng” theo cách: In lậu
là xâm phạm quyền tác giả. Thực tiễn, khi tham khảo ý kiến, cũng cho thấy,
có đến 73% người được hỏi (là các cán bộ, biên tập viên) đồng ý hình sự hóa
đối với tội danh này [Phụ lục 5], 97% người được hỏi (là những người sáng
tạo tác phẩm) đồng ý [Phụ lục 6]. Ngoài ra, cần bổ sung thêm các quy định về
xử phạt đối với NXB, nhà in trong trường hợp in không có quyết định xuất
bản, in vượt quá số lượng ghi trong quyết định xuất bản và cơ sở sử dụng thiết

144
bị ngành in chưa đăng ký. Thậm chí, đối với cơ sở cố tình vi phạm, có thể tịch
thu phương tiện tham gia in lậu, thu hồi giấy phép kinh doanh của cơ sở in và
phát hành sách lậu. Chỉ có các chế tài mạnh mới có thể hi vọng hạn chế và
chấm dứt được “quốc nạn” in lậu, buôn bán sách lậu tràn lan như hiện nay,
góp phần làm lành mạnh hóa nền xuất bản Việt Nam.
4.2.2.3. Đối với xuất bản điện tử
Phát triển xuất bản điện tử ở Việt Nam hiện đang còn rất nhiều vướng
mắc, cần phải có những giải pháp cụ thể. Trở ngại lớn nhất đó chính là tình
trạng xâm phạm bản quyền, các cơ quan quản lý gần như không thể quản lý
được việc sao chép điện tử. Theo nghiên cứu sinh, để ngăn chặn vấn nạn này,
góp phần phát triển xuất bản điện tử, cần phải tiến hành ba giải pháp chính
sách: Thứ nhất, Nhà nước cần sớm ban hành Nghị định và tiến tới ban hành
Luật về quản lý XBP, công bố tác phẩm trên Internet ở Việt Nam. Văn bản
này quy định rõ về điều kiện được công bố, phổ biến, những chủ thể được
công bố, phổ biến, cách thức quản lý và xử phạt nếu sai phạm. Thứ hai, hỗ trợ
các NXB, đơn vị phát hành XBP để họ có thể liên kết với các các công ty về
công nghệ thông tin chuyên nghiệp nghiên cứu, xây dựng các phần mềm để
ngăn chặn và quản lý có hiệu quả việc xâm phạm bản quyền và các hiện
tượng tiêu cực khác nảy sinh. Hỗ trợ các đơn vị xuất bản tiếp cận, xây dựng
và làm chủ các phần mềm phục vụ cho công việc số hóa tác phẩm, in ấn theo
yêu cầu (print-on-demand), thiết kế - in ấn sách điện tử. Thứ ba, khuyến khích
các NXB có thêm bộ phận theo dõi và phát triển loại sách điện tử. Nghiên cứu
tiến tới thành lập một NXB chuyên về sách điện tử để phục vụ thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước - nhất là đối với cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài.
Xuất bản điện tử nhìn chung, vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam, do đó,
nhiều quy định liên quan đến quy trình xuất bản đang chưa phù hợp với thực
tiễn (như phần hạn chế đã đánh giá). Nhiều quy định bất hợp lý, tuy nhỏ,

145
nhưng đã và đang là rào cản đối với sự phát triển xuất bản điện tử. Cần phải
nghiên cứu, điều chỉnh các quy định này, đặc biệt, phải tìm hiểu kỹ và tăng
cường học tập kinh nghiệm quản lý xuất bản điện tử ở các nước phát triển.
Đơn cử như quy định về nộp lưu chiểu. Đối với XBP điện tử, nếu quy định
Thư viện Quốc gia Việt Nam có quyền sử dụng XBP điện tử vào việc phục vụ
bạn đọc thì ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và
NXB có thể rất lớn. Văn bản hướng dẫn thi hành Luật cần quy định Thư viện
Quốc gia Việt Nam phải có biện pháp ngăn chặn sao chép, can thiệp bất hợp
pháp vào nội dung XBP. o đó, cần phải xem xét lại toàn bộ các nghị định,
hướng dẫn thi hành luật và các quy định cụ thể liên quan đến xuất bản điện tử,
điều chỉnh những điểm bất hợp lý theo hướng tạo ra sự thuận lợi nhất đối với
quy trình xuất bản điện tử, nhưng vẫn phải bảo đảm tính chặt chẽ của công tác
quản lý và bảo vệ lợi ích của các lực lượng liên quan.
4.2.2.4. Đối với việc bảo hộ quyền tác giả
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền tác giả trong các hệ thống
các luật, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, nhằm mục tiêu bảo vệ cao nhất quyền
và lợi ích hợp pháp của đội ngũ sáng tạo tác phẩm, góp phần gián tiếp giúp
phát triển xuất bản Việt Nam. Theo đó, trong Bộ Luật Dân sự, cần hoàn thiện
các quy định về việc xác định các hành vi xâm phạm quyền tác giả; nâng cao
vai trò của tòa án dân sự trong giải quyết các tranh chấp về quyền tác giả. Xây
dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền tác giả một cách kịp thời và có
hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền vụ việc của tòa án trong xét xử các tranh
chấp về tác giả, bổ sung những quy định chi tiết về các chế tài đủ mạnh để
chống lại các hành vi xâm phạm quyền tác giả, tham khảo một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp ở một số
nước trên thế giới. Trong Luật Hành chính, cần quy định theo hướng mở rộng
thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ cho tòa án (TRIPs cũng có yêu cầu đòi hỏi các nước phải xây dựng cơ chế

146
thực hiền quyền khiếu kiện hành chính). Cần ban hành những quy định,
hướng dẫn riêng biệt về thủ tục tố tụng đối với từng vấn đề khiếu kiện hành
chính đối với quyền tác giả cụ thể. Đối với Luật Hình sự, cần ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ Luật Hình sự có liên quan
tới việc xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền tác giả. Tăng cường
hướng việc xử lý các tranh chấp về quyền tác giả từ thủ tục hành chính qua
thủ tục tại tòa án, khắc phục tâm lý ngại giải quyết tranh chấp bằng tòa án “vô
phúc đáo tụng đình” của nhiều người. Thực tế, giải quyết thông qua tòa án có
tính chuyên nghiệp, rõ ràng, dứt điểm, còn xét ở tầm vĩ mô, thì chỉ có tòa án
mới xử phạt nặng và đúng bản chất, từ đó, góp phần ngăn chặn những hiện
tượng vi phạm bản quyền tái diễn. Thậm chí, có thể nghiên cứu, xem xét khả
năng lập tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ tại tòa án khu vực.
Ngoài việc hoàn thiện các quy định trong các luật xem như biện pháp
cơ bản để bảo vệ quyền tác giả, thì cần xây dựng một cơ chế kiểm soát cạnh
tranh trên thị trường sách, cụ thể, có thể xem xét xây dựng Luật về giá sách
thống nhất. Hiện nay, sách không phải là mặt hàng nhà nước quản lý giá, do
đó, giá sách hoàn toàn do thị trường quy định. Vì thế, tỷ lệ chiết khấu rất tùy
tiện. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho tình trạng in lậu rất
nhiều, và cũng chính là tổn hại đến quyền tác giả và lợi ích trực tiếp của họ.
Luật về giá sẽ không thể quy định giá bán trần hoặc giá sàn đối với mỗi trang
sách, song, có thể quy định về tỷ lệ chiết khấu trần tối đa cho các loại sách
khác nhau (sách xuất bản lần đầu, sách tái bản, sách thanh lý sau một số ngày
nhất định tính từ khi xuất bản). Đồng thời, cũng quy định tỷ lệ chiết khấu
khác nhau giữa các hình thức buôn bán sách (bán buôn, bán lẻ,…). Quy định
như vậy sẽ làm cho các cửa hàng sách không thể tùy tiện hạ giá, từ đó, các lực
lượng in lậu cũng không thể có nơi tiêu thụ. Thông qua đó, giảm thiểu các
hiện tượng vi phạm bản quyền, bảo vệ quyền và lợi ích của tác giả.

147
4.2.2.5. Đối với hợp tác quốc tế
Chính sách hợp tác quốc tế về xuất bản giữa Việt Nam với các nước
giai đoạn hiện nay cần tập trung vào một số lĩnh vực chính.
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động hợp tác dịch thuật. Nghiên cứu xây dựng
các chương trình hợp tác dịch thuật cụ thể với một số nước trọng điểm. Có thể
đề xuất một số chương trình cụ thể như:
- hương trình dịch các tác phẩm của Việt Nam ra các ngôn ngữ phổ
biến, như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp. Lựa chọn các tác phẩm có giá
trị của Việt Nam kể cả tác phẩm từ xưa đến nay, như: sử học, văn học cổ điển,
hiện đại, các công trình khoa học lớn,…
- hương trình dịch ra tiếng Việt. Lựa chọn các tác phẩm có giá trị tiêu
biểu của nhân loại, tập trung trước hết vào các tác phẩm có ý nghĩa trực tiếp
đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. hương trình này
được thực hiện sẽ góp phần tạo ra sự phong phú, giàu đẹp cho kho tàng tri
thức Việt Nam, góp phần thực hiện tốt chức năng nâng cao dân trí của xuất
bản, đồng thời cũng là một cơ hội kinh doanh thuận lợi.
- hương trình hợp tác dịch thuật xuất bản (co-publishing) với các đối
tác nước ngoài. hương trình này cần có sự hợp tác trực tiếp giữa Việt Nam
với từng đối tác cụ thể. Có thể gắn chương trình này vào trong tổng thể một
chương trình hay hoạt động đối ngoại hoặc giao lưu văn hóa giữa hai nước.
hương trình này sẽ bảo đảm sự cân đối về cơ cấu sách dịch, cũng như có
thể giúp tăng chất lượng sách dịch, song, đòi hỏi có sự liên kết chặt chẽ giữa
cả hai bên.
Thứ hai, cần có những chính sách đầu tư thiết thực, nâng cao tính chất
quốc tế của Hội chợ sách Việt Nam. Có thể nghiên cứu xây dựng một Trung
tâm Hội chợ sách (như ở Frankfurt, Cộng hòa Liên bang Đức), bảo đảm tính
chuyên nghiệp và thu hút được sự chú ý của các tập đoàn xuất bản, phát hành
lớn trên thế giới. Đồng thời, tạo điều kiện để các NXB, nhà sách Việt Nam

148
tham gia các Hội chợ Sách quốc tế ở nước ngoài, để quảng bá cho ngành Xuất
bản Việt Nam; chú trọng mở rộng quan hệ với những thị trường mới, đối tác
mới; coi trọng hoạt động marketing nhằm quảng bá, trao đổi. Mặt khác, cần
tăng cường hợp tác với nhiều thư viện quốc gia của các nước; những trường
đại học có các khoa Châu Á học, Đông Nam Á học; Việt Nam học; các viện
nghiên cứu; các tổ chức hữu nghị có quan hệ với Việt Nam và các cơ sở phát
hành sách nước ngoài.
Thứ ba, có nhiều biện pháp ngăn chặn, tiến tới chấm dứt tình trạng vi
phạm bản quyền quốc tế diễn ra ở Việt Nam, nhằm giữ uy tín cho xuất bản
Việt Nam. Tăng cường xây dựng ý thức dùng “sách bản quyền” cho người
đọc. Làm tốt vấn đề này, là tháo gỡ một “điểm nghẽn” trong tâm lý nghi ngại
của các NXB nước ngoài về tình trạng vi phạm bản quyền ở nước ta, tạo điều
kiện để việc mua bán bản quyền sách được thuận lợi.
4.2.2.6. Đối với việc đào tạo nguồn nhân lực xuất bản
Kết luận số 19/TB-TW ngày 29/12/2016 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng nêu rõ: “ ó kế hoạch cụ thể về đào tạo và tái đào tạo nguồn nhân lực
cũng như hoạch định về nhu cầu đầu tư cho đào tạo nhân lực của toàn ngành;
Đổi mới chương trình đào tạo để đáp ứng yêu cầu mới; Tăng cường hạ tầng,
thiết bị và chất lượng và đội ngũ giảng viên ở các cơ sở đào tạo; Tăng cường
hợp tác giữa cơ quan quản lý, cơ sở đào tạo và các đơn vị trong ngành xuất
bản” [31, Phụ lục 1]. Đó là những định hướng lớn về chính sách đào tạo
nguồn nhân lực xuất bản, nhất là đội ngũ biên tập viên. Theo đó, đối với hai
ngành Xuất bản, Phát hành (Kinh doanh XBP), đây là hai khâu có liên hệ mật
thiết với nhau, do đó, nên đào tạo cả hai ngành tại cùng một cơ sở đào tạo.
Riêng ngành in (liên quan đến kỹ thuật và công nghiệp) có thể đào tạo riêng
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng đào tạo của mỗi cơ sở đào
tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm kiện toàn, thống nhất mục tiêu, nội dung
chương trình đào tạo các ngành XBIPH và nâng cấp trình độ đào tạo thạc sĩ,

149
tiến sĩ đối với các ngành này, nhằm nâng cao chất lượng hơn nữa cho nguồn
lực xuất bản.
Có quy chế tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho các cơ sở đào
tạo để xây dựng và thực hiện đề án chương trình đào tạo tiên tiến, chất lượng
cao ngành Xuất bản, Kinh doanh XBP. Bổ sung danh sách Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, trường Đại học Văn hóa Hà Nội vào danh mục các trường
được đào tạo ngành Xuất bản, Kinh doanh XBP theo chương trình đào tạo
tiên tiến, chất lượng cao.
4.2.3. Nghiên cứu xây dựng và ban hành một số chính sách mới nhằm
thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển
4.2.3.1. Xây dựng Chiến ược Sách quốc gia Việt Nam
Nhằm hướng đến thực hiện tốt chức năng nâng cao dân trí, nâng cao đời
sống văn hóa xã hội của xuất bản, thì thực hiện chủ trương Ngày Sách Việt
Nam thôi là chưa đủ, cần phải xây dựng và triển khai thực hiện hương trình
sách quốc gia Việt Nam. hương trình sách quốc gia Việt Nam xác định mục
tiêu là cho xuất bản các loại sách trọng yếu phục vụ công cuộc đổi mới, phát
triển đất nước, đồng thời, quảng bá về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam
ra thế giới. Thực hiện hương trình, cần thành lập một Ban chỉ đạo Trung
ương gồm các cơ quan hữu quan thật sự có trách nhiệm, có quyền lực và sự
am hiểu cần thiết về lĩnh vực xuất bản như: Ban TGT , Bộ TTTT, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ VHTTDL, Ủy ban Giáo dục Thanh thiếu
niên và nhi đồng của Quốc hội... ơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu, xác
định hệ thống các loại sách trọng yếu trên các lĩnh vực để chỉ đạo, hướng dẫn
biên soạn. Đồng thời, xác định kế hoạch, lộ trình biên soạn thực hiện theo
từng giai đoạn 5 năm, 10 năm và xa hơn nữa. Lựa chọn một số NXB và tổ
chức hữu quan dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ đã được xác định và
những thế mạnh mà NXB cũng như một số ông ty văn hóa, nhà sách tư nhân

150
đang hoạt động để giao thực hiện nhiệm vụ quan trọng này dưới sự chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra của Ban chỉ đạo Trung ương.
Song song với thực hiện Chiến lược Sách quốc gia Việt Nam, cần sớm
xây dựng và thực hiện Đề án giải thưởng sách quốc gia như nhiều nước đã và
đang làm nhằm nâng cao giá trị và chất lượng các giải thưởng sách; động viên
và khích lệ sự sáng tạo của đội ngũ những người nghiên cứu, sáng tác; cổ vũ
sự phát triển văn hóa đọc của toàn xã hội; đồng thời, để giảm thiểu tính chất dễ
dãi, tùy tiện đã và đang có khuynh hướng bùng nổ một cách tự phát các giải
thưởng sách như hiện nay. Hiện có một số nhà sách tư nhân, trang điện tử tư
nhân cũng trao giải thưởng sách với mục đích khác nhau theo những động cơ,
mục đích riêng, nhiều lúc, nhiều nơi không xuất phát từ Chân - Thiện - Mỹ.
Đồng thời với đó, cần gắn kết chặt chẽ giữa Chiến lược Sách quốc gia,
Ngày Sách Việt Nam với thực hiện chính sách phát triển hệ thống thông tin –
thư viện Việt Nam. Như đã phân tích ở hương 3 về những hạn chế của hệ
thống thông tin - thư viện, hiện nay, các thư viện ở các địa phương được đầu
tư rất ít kinh phí, số lượng người đọc đến thư viện tỷ lệ cũng rất thấp. Đó là
những vấn đề cần khắc phục để góp phần phát triển xuất bản Việt Nam. Theo
đó, cần tăng cường đầu tư cho hệ thống thông tin - thư viện. Có thể gắn kết
phát triển thư viện thành một nội dung trong Chiến lược Sách quốc gia Việt
Nam, cùng hướng tới mục tiêu phát triển văn hóa đọc Việt Nam. Cần thực
hiện ngay việc xây dựng Quy chế quan hệ hoạt động giữa xuất bản, phát hành
XBP và hệ thống thư viện theo chỉ đạo của Chỉ thị 42.
4.2.3.2. Xây dựng Trung tâm Dữ liệu - Thông tin Việt Nam
Xây dựng trung tâm Dữ liệu - thông tin là một nhu cầu thực tế mà các
nước thành viên Hiệp hội Xuất bản châu Á - Thái Bình ương ( PP ) và
Hiệp hội Xuất bản Đông Nam Á ( BP ) đã đề cập đến nhiều lần tại các
phiên hợp thường niên. ác nước trong hai Hiệp hội đều rất muốn xây dựng
nên một Mạng thông tin số (Digital Network) cho toàn khu vực mà thành viên

151
là các Trung tâm Dữ liệu – Thông tin của từng quốc gia. Hiện tại, các nước và
vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài
Loan đã thành lập nên một thiết chế là East sia Library (Thư viện Đông Á) -
thực chất là lưu giữ thông tin về các đầu sách hay, có thể trao đổi giữa các
nước với nhau để dịch và xuất bản ra các thứ tiếng bản ngữ.
Để hội nhập quốc tế thành công, ngành xuất bản nước ta cần xây dựng
một Trung tâm Dữ liệu - Thông tin về Xuất bản mang tầm vóc quốc gia đủ
năng lực về công nghệ thông tin và nguồn nhân lực để cung cấp thông tin
nhanh và toàn diện về xuất bản của khu vực và thế giới. Trung tâm đó sẽ là
nơi thu thập, lưu trữ đầy đủ dữ liệu về thư tịch xuất bản ở Việt Nam (kể cả thư
tịch cổ), cập nhật thông tin kịp thời về hoạt động của ngành xuất bản, nhằm
mục đích phục vụ nghiên cứu, cung cấp thông tin cho việc hoạch định chính
sách ngành và cung cấp thông tin cho những ai quan tâm. Như vậy, Trung tâm
sẽ phải kết nối được với tất cả các NXB, các đơn vị nghiên cứu ở trong nước.
Đồng thời, với việc thành lập trung tâm, phải có quy định rõ về việc thực thi
quyền tác giả và các vấn đề liên quan trong đó. Ngoài ra, Trung tâm cũng phải
được kết nối với hệ thống các Trung tâm Dữ liệu – thông tin ở các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới, trọng tâm là nền xuất bản của một số nước
phát triển và trong khu vực châu Á, Đông Nam Á.
Có thể nói, xây dựng thành công một Trung tâm như vậy là một việc
không đơn giản, cần phải tính đến nhiều góc độ, không chỉ về tài chính, mà
còn cả về luật pháp, những vấn đề về quản lý nhà nước… Song, Trung tâm ra
đời, sẽ giúp ích rất nhiều cho sự phát triển xuất bản Việt Nam. Không chỉ đối
với những người sáng tạo tác phẩm, có nguồn dữ liệu phong phú, mà nó còn
thực hiện chức năng dự báo xu hướng phát triển của ngành xuất bản thế giới,
nhằm giúp cho cơ quan quản lý xuất bản ở Việt Nam có cơ sở hoạch định
chính sách phát triển ngành một cách phù hợp.
4.2.3.3. Xây dựng thiết chế hỗ trợ xuất bản Việt Nam

152
Nghiên cứu xây dựng, hình thành các thiết chế hỗ trợ xuất bản, cụ thể
như thành lập Quỹ hỗ trợ xuất bản Việt Nam. Quỹ này sẽ hỗ trợ đối với các
NXB, các tác giả có tác phẩm và các cơ quan, tổ chức có liên đến xuất bản
thuộc phạm vi hỗ trợ của quỹ. Có thể xác định một số phạm vi hỗ trợ của
Quỹ, như: Công bố tác phẩm, tài liệu có giá trị cao về các lĩnh vực; hoạt động
dịch thuật các tác phẩm có giá trị; hoạt động phổ biến, tuyên truyền một số tác
phẩm có giá trị cao, đưa sách đến hệ thống các thư viện cơ sở; hỗ trợ đầu tư
hiện đại hóa lĩnh vực xuất bản,…
Để tạo ưu đãi cho xuất bản phát triển, chính sách thuế cần có sự điều
chỉnh, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống dưới 10% đối với đơn vị xuất
bản; giảm thuế V T đối với XBP được tài trợ, trợ giá; đưa thuế V T đối với
loại sách miễn thuế sang loại 0%.
Quan tâm đúng mức tới các doanh nghiệp phát hành sách sau cổ phần
hóa. Nên có các cơ chế nhằm hỗ trợ khó khăn cho các đơn vị này, như giải
quyết vấn đề thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần phát hành sách;
dành quỹ đất xây dựng hiệu sách, đặc biệt, cấp đất và đầu tư kinh phí xây
dựng một số hiệu sách huyện miền núi gặp nhiều khó khăn; cơ chế vay vốn
kinh doanh, điều chỉnh tạo bình đẳng thuế doanh nghiệp giữa các doanh
nghiệp tư nhân và các công ty phát hành sách cổ phần.
Bổ sung các chế độ ưu đãi khuyến khích các tổ chức, cá nhân phát hành
sách đến vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, phục vụ đồng bào dân
tộc thiểu số. Có chính sách về quỹ đất dành cho phát triển các thiết chế văn
hóa, trong đó, có việc khôi phục lại các nhà sách cấp huyện.
4.2.4. Phát huy vai trò các chủ thể của chính sách xuất bản Việt Nam
4.2.4.1. Đối với Đảng, Nhà nước
Để có được sự hoàn thiện của SXB, điều đầu tiên cần đến, đó chính là
những đường lối, phương hướng đối với xuất bản được vạch ra dưới sự chỉ
đạo của Đảng, Nhà nước. Chỉ thị số 42-CT/TW khẳng định, đổi mới, nâng

153
cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh vực XBIPH là một trong
những giải pháp hàng đầu, là yếu tố quyết định thắng lợi của toàn ngành xuất
bản. Chính vì vậy cần tập trung thực hiện Thông báo số 19-TB/TW ngày 29-
12-2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của
Ban Bí thư khoá IX về nâng cao chất lượng toàn diện của xuất bản; đẩy mạnh
đổi mới công tác quản lý xuất bản theo hướng tăng cường vai trò của công tác
quy hoạch, định hướng chiến lược; việc xây dựng hệ thống pháp luật cần thể
hiện rõ nét ưu đãi của Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đặc thù
qua chính sách thuế và các hỗ trợ khác; hỗ trợ phát triển văn hóa đọc và thực
hiện hiệu quả, đầy đủ cơ chế hậu kiểm.
Ban TGT cần chủ trì, phối phợp với các cơ quan hữu quan tiến hành
xây dựng quy chế phối hợp, phân rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền
hạn giữa các cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, Hội
Xuất bản Việt Nam, Hiệp hội In Việt Nam và cơ quan chủ quản NXB trong
xuất bản. Đặc biệt làm rõ về cơ chế phối hợp, xác định rõ cơ quan nào chịu
trách nhiệm chính, tránh tình trạng “tranh công, đổ lỗi”.
Xác định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức đảng trong thực tiễn
hoạt động. Cần nhấn mạnh các nội dung về lãnh đạo xây dựng phương hướng,
định hướng chiến lược, đặc biệt là chiến lược về xây dựng đội ngũ cán bộ, đề
xuất giải pháp xây dựng mô hình NXB hiện đại, phù hợp với tình hình mới.
Xây dựng và tổ chức vận hành các quy chế phối hợp chỉ đạo, quản lý giữa cơ
quan đảng, cơ quan quản lý nhà nước các cấp, cơ quản chủ quản và các ngành
có liên quan.
Cần định hướng những đề tài hoặc những mảng đề tài quan trọng để
làm căn cứ cho các cơ quan chức năng nhà nước và NXB xây dựng kế hoạch
đặt hàng, tài trợ xuất bản hằng năm. Nội dung định hướng đề tài cần có sự
thống nhất trong tổng thể Chiến lược Sách quốc gia Việt Nam, theo lộ trình

154
từng năm, từng giai đoạn, đồng thời, hướng vào các nhiệm vụ văn hóa, tư
tưởng lớn mà Đảng và Nhà nước xác định.
Đảng và Nhà nước cần nhận thức đúng và đẩy đủ về xuất bản. Xác định
tính đặc thù của hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng, cần
thấy rõ sự đan xen, phối hợp giữa chức năng tư tưởng chính trị và chức năng
kinh doanh của xuất bản. Vì vậy, Nhà nước cần sớm có cơ chế chính sách phù
hợp cho xuất bản phát triển bền vững. Trong đó, nhất là xây dựng quy hoạch,
chiến lược phát triển ngành xuất bản giai đoạn 2020-2030, nghiên cứu, xây
dựng các đề án sắp xếp, đổi mới tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các NXB,
công ty phát hành sách phù hợp với tình hình mới. Có thể mạnh dạn xây dựng
chủ trương, chính sách hình thành (trước mắt thực hiện thí điểm một hoặc một
vài) tập đoàn kinh tế xuất bản - truyền thông; tổ chức rút kinh nghiệm kịp
thời.
4.2.4.2. Đối với cơ quan quản nhà nước về xuất bản
Thực tế hiện nay, trong quá trình hoạt động, có những bất cập đã xảy
ra, bởi lẽ, cùng xuất bản, nhưng có đến hai bộ có liên quan trực tiếp, đó là Bộ
TTTT và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, trong đó chức năng quản lý nhà
nước được giao cho Bộ TTTT. Nhưng, chức năng quản lý nhà nước về bản
quyền tác giả, quảng cáo, thư viện, hội trợ triển lãm về văn hoá, quản lý các
hội sáng tạo văn học nghệ thuật là những lĩnh vực thuộc Bộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch. Xuất phát từ đó, có thể nghiên cứu xây dựng một cơ chế quản
lý phối hợp giữa hai bộ một cách phù hợp, hoặc có thể gộp một số nhiệm vụ
lại và giao cho một Bộ thống nhất quản lý đối với xuất bản.
Xây dựng quy chế có tính pháp lý về phẩm chất, tiêu chuẩn tạo điều
kiện để xuất bản nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ làm công tác xuất
bản. Cần thể chế hoá các chính sách ưu đãi đối với một số lĩnh vực đặc thù
nhằm tạo điều kiện cho xuất bản nâng cao năng lực, tiềm lực, phát triển thành
ngành kinh tế - công nghệ hiện đại.

155
Đẩy mạnh phân cấp quản lý, để nâng cao tính chủ động và chịu trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân xuất bản; đề cao vai trò, trách nhiệm, quyền
hạn, tính năng động, sáng tạo của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
XBIPH. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của NXB, hướng tới chuyển từ việc quản lý hành chinh sang mô hình
quản trị xuất bản hiện đại như ở một số nước.
Huy động, tổ chức, quản lý tốt mọi nguồn lực, thành phần kinh tế - xã
hội tham gia thị trường XBP. Cần làm rõ vai trò, vị trí và triển khai thực hiện
tốt cơ chế lãnh đạo của Đảng về xuất bản trong các cơ quan xuất bản. Đẩy
mạnh việc phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo và quản lý cấp trên gồm Ban
TGT và Bộ TTTT, theo dõi, giám sát xuất bản trong phạm vi được phân
công.
Nên xây dựng chính sách riêng theo từng mảng XBP riêng biệt. Đối với
mảng XBP thuộc diện kinh doanh, Nhà nước để thị trường tự điều tiết; sử
dụng quy luật giá trị, quy luật cung cầu và cạnh tranh để kích thích sản xuất
kinh doanh phát triển. Khi đó, giá sách do quan hệ cung cầu, sức mua của
khách hàng quyết định, nhà sản xuất kinh doanh phải luôn đổi mới và nâng
cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đối với
mảng XBP được Nhà nước tài trợ, trợ giá, Nhà nước có thể quy định mức giá
chuẩn nhất định cho từng mặt hàng khác nhau phù hợp với giá cả thị trường
hoặc sử dụng mã vạch riêng để ngăn chặn hành vi gian lận.
4.2.4.3. Đối với các cơ quan chủ quản NXB
ơ quan chủ quản cần nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm đối với
NXB, có sự phối hợp các ban, bộ, hội để tạo điều kiện cho NXB hoạt động
một cách tốt nhất, góp phần quan trọng để tạo sự thông thoáng trong thực hiện
CSXB.
Cần củng cố, kiện toàn tổ chức bộ phận chuyên trách làm công tác
tham mưu lãnh đạo, quản lý xuất bản ở các cơ quan theo phân cấp quản lý. Cụ

156
thể hoá các chức danh cán bộ, viên chức ngành xuất bản để từ đó tiến tới thể
chế hoá việc tuyển dụng, đề bạt, xây dựng chế độ đãi ngộ phù hợp.
Tăng cường công tác quy hoạch cán bộ và xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực xuất bản đáp ứng yêu cầu công tác văn hóa – tư tưởng
trong tình hình mới. Trong quy hoạch, cần nghiên cứu, đánh giá thực trạng
cán bộ, biên tập viên theo từng mảng sách, nghiên cứu nhu cầu, đòi hỏi của
thực tiễn phát triển, đồng thời, cần có tầm nhìn xa, để đảm bảo quy hoạch
nhân lực có chất lượng. Hoàn thiện cơ chế, quản lý về công tác cán bộ quản lý
xuất bản nhằm thể hiện được những ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối với
xuất bản.
4.2.4.4. Đối với các NXB
Các NXB là một đơn vị cơ sở trong thực hiện SXB, cũng là một khâu
quan trọng để căn cứ vào đó, có những điều chỉnh, bổ sung, phát triển chính
sách. Các NXB là những đơn vị trực tiếp làm việc với thị trường, vì vậy, ở
góc độ xây dựng chính sách công, các NXB có vai trò rất quan trọng trong
việc nắm phản hồi của thị trường (thông tin ngược của chu trình chính sách).
ác đơn vị xuất bản cần chủ động hơn nữa trong hoạt động của mình, tránh ỷ
lại vào sự trợ cấp của các cơ quan nhà nước. Cần coi xuất bản và kinh doanh
sách là hoạt động đầy tiềm năng, có nhiều cơ hội phát triển. Tuy nhiên mỗi
đơn vị cũng cần có chiến lược cho sự phát triển ổn định và lâu dài của mình.
Song, dù chiến lược phát triển như thế nào vẫn cần phải có chữ tín đối với
khách hàng, trong đó, tôn trọng, thực thi đúng những cam kết về bản quyền
đang là yêu cầu rất lớn, đồng thời, cũng là một trong những vấn đề lớn của
xuất bản, mà chính NXB cần phải thực hiện nghiêm túc trước tiên.
Các NXB cần nắm chắc các chính sách, quy định về định hướng phát
triển, về tổ chức, biên chế, về công tác cán bộ, biên tập viên... ăn cứ vào
nhiệm vụ cụ thể của đơn vị mình và những đặc điểm về thị trường có liên quan,
chủ động kiện toàn tổ chức, hoàn thiện quy chế hoạt động của mình. Trong đó,

157
cần xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng vị trí công tác, quy định rõ
quy trình xuất bản và điều hành thực hiện nghiêm túc, ngăn chặn các sai sót, vi
phạm. Thực hiện tự bồi bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của các biên tập viên trong chính NXB của
mình.
Trên cơ sở các định hướng lớn của CSXB theo từng năm, từng giai
đoạn và nhu cầu thị trường, các NXB cần phát huy tính năng động, tích cực
khai thác các nguồn đề tài, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật và
công nghệ xuất bản. Áp dụng công nghệ thông tin để hiện đại hoá quy trình
biên tập và thực hiện quản lý xuất bản theo tiêu chuẩn quốc tế.
4.2.4.5. Đối với các tổ chức hội xuất bản
Tiếp tục có những chính sách thích hợp, ưu đãi cả về tài chính, nhân
lực, cơ chế, nhằm phát huy vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam đối với xuất
bản như hỉ thị 42- T/TW đã chỉ rõ. Tạo điều kiện để Hội có đủ khả năng và
điều kiện tích cực và chủ động tham gia vào công tác chỉ đạo, quản lý xuất
bản cũng như để chăm lo đến việc giáo dục, bồi dưỡng chính trị, tư tưởng,
đạo đức, nghiệp vụ cho hội viên và cho đội ngũ những người xuất bản thuộc
các tổ chức xuất bản, phát hành, các nhà sách, các công ty văn hóa trong cả
nước. Trong điều kiện của cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, vai trò
và trách nhiệm của Hội Xuất bản cần được quan tâm và coi trọng đúng mức.
Mặt khác, Hội cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò tư vấn, giám định, phản
biện đối với các vấn đề liên quan đến đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước về xuất bản. Hội Xuất bản Việt Nam cũng có điều kiện để
tham gia thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân nhằm góp phần vào việc
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhất là khi
Hội Xuất bản Việt Nam đã là một thành viên có uy tín và trách nhiệm thuộc
các tổ chức Hiệp hội xuất bản Đông Nam Á, Hiệp hội Xuất bản châu Á - Thái
Bình ương.

158
Với những chức năng nói trên, việc xây dựng Hội Xuất bản Việt Nam
trở thành một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của những người làm
xuất bản Việt Nam, hoạt động theo tính chất một Hội đặc thù như Nghị định
số 45/2010 của Chính phủ là yêu cầu và đòi hỏi chính đáng cần được Đảng,
Nhà nước sớm xem xét và quyết định. Đồng thời, bản thân Hội Xuất bản Việt
Nam và tổ chức các cấp của Hội cũng phải không ngừng phấn đấu vươn lên
để có đủ điều kiện và khả năng góp phần tích cực và xứng đáng vào việc nâng
cao chất lượng toàn diện của xuất bản, phấn đấu xây dựng ngành xuất bản
Việt Nam trở thành một ngành xuất bản tiên tiến, hiện đại.
Có thể nghiên cứu, thành lập thêm một số tổ chức hội như các tổ chức
quản lý tập thể bản quyền, hội dịch thuật, hiệp hội sao chép… Ban hành các
văn bản quy định về cơ chế tham gia của các tổ chức hội này vào xây dựng và
giám sát thực hiện Luật Xuất bản, đưa các hội trên trở thành một cơ quan văn
hóa, có vai trò quan trọng trong việc đề xuất và thực hiện các CSXB. Giảm
thiểu những can thiệp trực tiếp không cần thiết từ phía Nhà nước, đồng thời,
phát huy vai trò tự quản của các tổ chức hội.

159
KẾT LUẬN C ƢƠNG 4
Xuất bản trên thế giới hiện nay xuất hiện nhiều xu hướng mới, nổi bật là
xu hướng tự xuất bản sách online, vai trò ngày càng tăng của lực lượng tư nhân
và sự liên kết ngày càng chặt chẽ và rộng lớn của những tập đoàn, đơn vị xuất
bản lớn. Xu thế đó đặt ra những yêu cầu khách quan đối với CSXB Việt Nam, cần
phải có những đột phá mạnh mẽ, giải quyết dứt điểm những hạn chế, yếu kém, bứt
tốc, vượt lên, không bị lạc hậu; phải nêu cao quyết tâm của các chủ thể; phải thực sự
thực tế, khả thi; đồng thời, cần tích cực học hỏi kinh nghiệm quốc tế.
Cần tiến hành nhiều giải pháp để hoàn thiện CSXB ở Việt Nam trong
thời gian tới. Nghiên cứu sinh tập trung làm rõ bốn giải pháp lớn. Trước hết,
cần có những điều chỉnh thích hợp từ mục tiêu chính sách, cần xác định cụ
thể, và hướng mạnh hơn vào chức năng sản xuất kinh doanh của các đơn vị,
bổ sung mục tiêu hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa và đẩy mạnh xã hội hóa
trong thời gian tới. Điều chỉnh, sửa đổi một số nội dung, giải pháp hiện còn
bất cập, không phù hợp với thực tiễn, đồng thời, bổ sung, xây dựng mới một
số nội dung giải pháp như: Xây dựng Chiến lược Sách Quốc gia Việt Nam,
xây dựng Trung tâm Dữ liệu – thông tin, xây dựng thiết chế hỗ trợ xuất bản
Việt Nam. Trong số các giải pháp, cũng cần quan tâm đến phát huy vai trò
tích cực, chủ động, sáng tạo của các chủ thể trong quá trình xây dựng và thực
thi CSXB ở Việt Nam, trong đó, đặc biệt, cần hướng mạnh hơn đến việc trao
quyền tự chủ cho các NXB, những đơn vị trực tiếp hiện thực hóa mọi chủ
trương thành hành động cụ thể trong thực tiễn.

160
KẾT LUẬN

1. Chính sách xuất bản là một bộ phận trong hệ thống chính sách công
của nhà nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học cả ở trong
nước và ngoài nước về lý luận chính sách công, về bản thân xuất bản và
nhiều khía cạnh của hoạt động ấy, song, chưa có công trình nào trực tiếp
nghiên cứu về SXB như một chỉnh thể từ góc độ chuyên ngành chính
sách công. Đề tài Luận án cố gắng làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về CSXB ở Việt Nam, hy vọng góp phần đóng góp những cơ sở khoa
học để cho các nhà khoa học và các nhà quản lý tiếp tục hoàn thiện và
thực hiện tốt hơn SXB trong thời gian tiếp theo.
2. Chính sách xuất bản là tập hợp các quyết định và hành động tương
ứng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng đến các chủ thể xuất bản,
nhằm đưa HĐXB thực hiện tốt chức năng văn hóa - tư tưởng và chức năng
kinh doanh của mình. CSXB bao gồm những nội dung cơ bản, đó là, chính
sách về quy hoạch, quản lý, kiểm soát, hỗ trợ, hợp tác quốc tế, chính sách
phát triển xuất bản điện tử và những chính sách khác có liên quan. CSXB có
vai trò rất to lớn, nó xác lập vị trí, vai trò của ngành xuất bản và định hướng
phát triển đúng hướng, điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước, huy
động lực lượng xã hội và ngăn chặn những phản giá trị xâm nhập vào đời
sống xã hội.
3. Thực tiễn CSXB ở Việt Nam những năm vừa qua có nhiều ưu điểm,
trực tiếp đưa ngành xuất bản thực hiện tốt chức năng văn hóa – tư tưởng, nâng
cao dân trí và từng bước vươn lên vượt qua những khó khăn về kinh tế. Song,
bên cạnh đó, cũng còn không ít những hạn chế. Xác định mục tiêu chính sách
còn tương đối chung chung, thiên nhiều về chức năng văn hóa – tư tưởng mà
ít quan tâm đến chức năng sản xuất, kinh doanh. Nhiều giải pháp, công cụ
chính sách còn bất cập, mâu thuẫn lẫn nhau, thiếu tính khả thi và đồng bộ.

161
Điều đó dẫn đến trong thực tiễn xuất bản còn nhiều hiện tượng vi phạm kéo
dài, chậm được giải quyết, khắc phục, nhiều đơn vị xuất bản hoạt động cầm
chừng, làm ăn thua lỗ, cơ sở vật chất và công nghệ lạc hậu, văn hóa đọc trong
xã hội chậm phát triển...
4. Cần tiến hành nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện SXB, đáp ứng với
xu thế phát triển của xuất bản khu vực và thế giới, cũng như đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của nhiệm vụ tư tưởng - văn hóa, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XH N. Trước hết, cần điều chỉnh, bổ sung mục tiêu
hướng tới hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa và xã hội hóa trong hệ thống mục
tiêu chính sách. Các nội dung, giải pháp bất cập, lạc hậu cần phải điều chỉnh
trong tính tổng thể. Bổ sung những nội dung, giải pháp mới nhằm thực hiện
tốt hơn mục tiêu phát triển xuất bản hiện đại, chuyên nghiệp. Đồng thời, cần
phát huy cao hơn nữa tính năng động, tích cực của các chủ thể xây dựng và
thực thi CSXB.
5. Luận án đã cố gắng luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về
CSXB ở Việt Nam, song, những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, cần
được tiếp tục phát triển, nghiên cứu thêm. Nghiên cứu sinh trân trọng cảm ơn
các nhà khoa học đã hướng dẫn, giúp đỡ nghiên cứu sinh xây dựng đề tài luận
án. Đồng thời, kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, góp ý trong thời
gian tiếp theo để bản thân tiếp tục hoàn thiện công trình đạt chất lượng cao
hơn./.

162
DANH MỤC CÔNG TRÌN Đ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Việt Hà (2021), Về chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay, Tạp
chí Nhân lực Khoa học Xã hội, số 4.
2. Nguyễn Việt Hà (2020), Xây dựng nguồn nhân lực xuất bản điện tử ở
Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 5.
3. Nguyễn Việt Hà (2020), Cách mạng công nghiệp 4.0 và những dự báo của
ngành xuất bản, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6.
4. Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Việt Hà (2019), Một số vấn đề đặt ra đối với
xây dựng chiến ược sách quốc gia, Kỷ yếu hội thảo khoa học Xây dựng chiến
ược sách quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
5. Bùi Bội Thu, Nguyễn Việt Hà (2019), Phát triển nguồn nhân lực xuất bản
điện tử trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu hội thảo khoa học
Chuyển giao cong nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất ượng cao trong bối
cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, Hà Nội.
6. Nguyễn Việt Hà (2018), Xuất bản điện tử: Cơ hội và thách thức trong thời
đại cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu hội thảo khoa học Nâng cao chất
ượng đối ngũ cán bộ biên tập, xuất bản trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0, Hà Nội.

163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Thị Thục An (2014), Quản lý hoạt động xuất bản sách in ở Việt
Nam, luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế.
2. Ngô Nguyễn Cảnh, ương Thị Mỹ Ngọc (2018), “Pháp luật quyền tác
giả trong hoạt động của thư viện một số đánh giá và kiến nghị hoàn
thiện”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 6, tr. 16-22.
3. Vũ Mạnh Chu (1996), Pháp luật xuất bản ở Việt Nam, quá trình thực
hiện và đổi mới trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, luận án phó tiến sĩ Luật học.
4. Vũ Hoàng ông (2004), Mấy khía cạnh lý luận về chính sách, Kỷ yếu đề
tài, Hà Nội.
5. Cục Xuất bản, Bộ TTTT (2008), Một số văn bản chỉ đạo và quản lý của
Đảng, Nhà nước về hoạt động xuất bản, NXB Bưu điện, Hà Nội.
6. Đặng Ngọc anh (2015), “Nghiên cứu và đánh giá chính sách”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1(31), tr 57-62.
7. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ, NXB Thống kê, Hà
Nội.
8. Đỗ Quý oãn (2008), “Hoạt động báo chí, xuất bản và công tác quản lý
nhà nước về báo chí, xuất bản hiện nay”, Tạp chí Tạp chí Cộng sản, Số
11 (155) năm 2008.
9. Đỗ Quý Doãn (2009), “ ông tác chỉ đạo, quản lý báo chí, xuất bản và
những định hướng trong thời gian tới”, Tạp chí Tạp chí Cộng sản, Số 12
(180) năm 2009.
10. Nguyễn Hoàng ũng (2002), Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản nước ta hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước.

164
11. Vũ ao Đàm, Phạm Xuân Hằng, Trần Văn Hải, Đào Thanh Trường
(2011), Kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách, NXB Thế giới, Hà
Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 60,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Ngô Huy Đức (2010), Chuyên đề chính sách công, NXB Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.
14. Phan Huy Đường (Chủ biên, 2015), Chính sách xã hội các vấn đề và sự
lựa chọn theo hướng phát triển bền vững, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội.
15. Emamnuel Pierrat (2007), Quyền tác giả và hoạt động xuất bản, NXB
Hội Nhà Văn, Hà Nội.
16. Phạm Thị Hương Giang (2008), Công ước Berne và việc thực hiện trong
ĩnh vực xuất bản ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Quan hệ quốc tế, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
17. Đỗ Thị Hải Hà (2007), Quản lý dịch vụ công, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
18. Hùng Hải (2008), “Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng,
các cơ quan quản lý nhà nước và cả xã hội về vị trí, vai trò của hoạt động
xuất bản”, Tạp chí Tạp chí Cộng sản, Số 5 (149).
19. Khuất Duy Kim Hải (1994), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức quản lý
ở các NXB nước ta hiện nay, luận án phó tiến sĩ Kinh tế.
20. Khuất Duy Kim Hải, Nguyễn Hải Bình: “Xu thế phát triển tất yếu của
xuất bản điện tử ở Việt Nam”, tham luận tại hội thảo: “Xây dựng các
giải pháp, huy động nguồn lực xã hội để phát triển sự nghiệp xuất bản -
in - phát hành” do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức ngày 14/6/2013
tại Hà Nội.

165
21. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên, 2008), Giáo trình hoạch định và phân tích
chính sách công, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
22. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (2015), Đại cương về phân tích chính
sách công, NXB CTQG-ST, Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Hải (2016), Chính sách công - Những vấn đề cơ bản, NXB
CTQG-ST, Hà Nội.
24. Đỗ Phú Hải (2014), “Đánh giá chính sách công tại Việt Nam: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học chính trị, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia HCM, Khu vực II, số 6.
25. Đỗ Phú Hải (2017), Tổng quan về chính sách công, NXB CTQG-ST, Hà
Nội.
26. Trần Văn Hải (2010), “Mối quan hệ giữa ba lĩnh vực xuất bản, in, phát
hành nhìn từ góc độ văn hóa và kinh tế”, Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông, số 10, tr. 21-25.
27. Trần Văn Hải (2011), “Xuất bản - một hoạt động truyền thông đại chúng
cơ bản của xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền thông, số 03, tr.
51-52.
28. Nguyễn Thị Hạnh (2004), “Xuất bản điện tử”, Tạp chí Thông tin và tư
liệu, số 2, tr. 27-32.
29. Hồ Việt Hạnh (2017), Bàn về khái niệm chính sách công, Tạp chí nhân
lực khoa học xã hội, số 12 (55).
30. Bích Hằng (2016), 6 NXB thuộc Bộ VH-TT-DL thua lỗ hàng chục tỷ đồng,
https://zingnews.vn/6-nha-xuat-ban-thuoc-bo-vh-tt-dl-thua-lo-hang-
chuc-ty-dong-post671655.html (07/08/2016).
31. Phạm Quế Hằng (2019), “Những vấn đề đặt ra đối với báo chí, xuất bản
hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, http://www.tapchicongsan.org.vn/nghien-
cu/-/2018/495481/nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-bao-chi%2C-xuat-ban-
hien-nay.aspx (19-06-2019)

166
32. Trần Hân (2013), Luận đàm về ngành xuất bản Trung Quốc, NXB
CTQG-ST, Hà Nội.
33. Bùi Ngọc Hiển (2018), Chính sách phát triển giáo dục vùng đồng bằng
song Cửu Long, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
quốc gia.
34. Thanh Hiệp (2019), Lãng phí sách xuất bản theo "đơn đặt hàng",
https://nld.com.vn/thoi-su/lang-phi-sach-xuat-ban-theo-don-dat-hang-
20191206225557237.html, (07/12/2019)
35. Ngô Văn Hiệp (2005), “Quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản, thực
trạng và giải pháp”, Tạp chí Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 12 (165).
36. Châu Úy Hoa (2017), Truyền thông số và chuyển đổi mô hình xuất bản,
NXB CTQG-ST, Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Hoa (2018), Chính sách phát triển giảng viên chính trị ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học viện Khoa học
xã hội.
38. Lê Văn Hòa (2016), Giám sát và đánh giá chính sách công, NXB
CTQG-ST, Hà Nội.
39. Vũ Hoan (2006), “Bản quyền dịch sách nước ngoài qua thực tiễn của
một số NXB Việt Nam”, Tạp chí Sách và đời sống, số 8, tr.30-32.
40. Vũ Hoan (2007), “Quyền tác giả trong xuất bản”, Tạp chí Sách và đời
sống, số 9, tr.33-35.
41. Đào Thị Hoàn (2020), Đảng Cộng sản Việt Nam ãnh đạo công tác xuất
bản từ năm 1990 đến năm 2016", Luận án tiến sĩ ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
42. Học viện Báo chí và tuyên truyền (2008), Khoa học chính sách công,
NXB TQG, Hà Nội.
43. Học viện CTQG-ST Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Chính trị (1999), Tìm
hiểu về khoa học chính sách công, NXB CTQG-ST, Hà Nội.

167
44. Học viện Hành chính quốc gia (2006), Giáo trình phân tích và hoạch
định chính sách công, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
45. Nguyễn Duy Hùng (2010), Xây dựng tập đoàn xuất bản ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ.
46. Trần Mai Hùng (2015), “Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội
vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách công”, Tạp chí Quản lý
nhà nước, số 6 (228).
47. Nguyễn Lan Hương (2013), Quản nhà nước về bảo hộ quyền tác giả
trong xuất bản ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước.
48. Nguyễn Kiểm (2010), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp kỹ thuật và
pháp lý nâng cao hiệu quả xử lý xuất bản phẩm vi phạm pháp luật, Đề
tài khoa học cấp bộ.
49. Nguyễn Kiểm (2019), “Liên kết trong hoạt động xuất bản”, Nhân dân
điện tử, https://www.nhandan.com.vn/binhluan/binh-luan-phe
phan/item/41304402-lien-ket-trong-hoat-dong-xuat-ban.html
(23/08/2019).
50. Trần Đoàn Lâm (2008), “Tìm hiểu về Hiệp hội xuất bản Châu Á - Thái
Bình ương”, Tạp chí Xuất bản Việt Nam, số 6, tr.18-19.
51. Phương Liên (2017), Liên tiếp sai phạm trong xuất bản sách, Nhân dân
điện tử, https://nhandan.com.vn/xahoi/item/33625902-lien-tiep-sai-
pham-trong-xuat-ban-sach.html (29/7/2017)
52. Vương Thuỳ Linh (2015), Chính sách phát triển xuất bản điện tử ở Việt
Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ hính sách công.
53. Việt Linh (2007), “Bảo hộ quyền tác giả khuyến khích lao động sáng
tạo”, Tạp chí Tạp chí sách và đời sống, Số 7.
54. Xuân Lộc (2019), Hội nghị toàn quốc Tổng kết 5 năm thực hiện Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về Ngày Sách Việt Nam,
https://mic.gov.vn/Pages/TinTuc/138885/Hoi-nghi-toan-quoc-Tong-ket-

168
5-nam-thuc-hien-Quyet-dinh-cua-Thu-tuong-Chinh-phu-ve-Ngay-Sach-
Viet-Nam.html (18/04/2019).
55. Tô Trọng Mạnh (2020), Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học viện Khoa học
xã hội.
56. Lê Chi Mai (1998), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình
chính
sách, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
57. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách công và chu
trình chính sách, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
58. Lê Chi Mai (2006), Dịch vụ hành chính công, NXB Lý luận chính trị, Hà
Nội.
59. Nguyễn Thị Thu Nga (2019), Chính sách phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học viện Khoa học
xã hội.
60. Bùi Nghĩa (2019), Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ chính sách công, Học viện Khoa học xã hội.
61. Lý Thị Ngọc (2020), Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học
viện Khoa học xã hội.
62. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2021), Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện
ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính quốc
gia.
63. NXB CTQG-ST (2019), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng Chiến
ược sách Quốc gia Việt Nam”, Hà Nội.
64. Nguyễn Tiến Phát (2014), “Xuất bản sách điện tử ở Việt Nam hiện nay
và xu hướng phát triển”, Tạp chí Phần mềm và Nội dung, số 5, tr.24-27.

169
65. Philip G. Altbach và Damtew Teferra (Chủ biên, 1999), Xuất bản và
phát triển, NXB CTQG-ST, Hà Nội.
66. Đỗ Thị Quyên (2008), Nghiên cứu vấn đề quản lý thị trường xuất bản
phẩm ở Việt Nam từ năm 1993 đến nay, luận án tiến sĩ Văn hoá học.
67. Tô Huy Rứa (2009), Nâng cao bản ĩnh chính trị, xây dựng nền xuất bản
hiện đại đáp ứng yêu cầu cách mạng giai đoạn mới,
http://www.tuyengiao.vn/Home/BantuyengiaoTW/huongdanchidao/9759
/ (10/12/2009)
68. Ngô Hoài Sơn (2021), Thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ hính sách công, Học
viện Khoa học xã hội.
69. Đường Vinh Sường (1993), Đổi mới quản nhà nước đối với hoạt động
của các NXB trong bước chuyển sang cơ chế thị trường, luận án phó tiến
sĩ kinh tế.
70. Trần nh Tài (2005), “Vai trò và xu hướng phát triển của các ngành sản
xuất truyền thống ở các nước tư bản phát triển”, Tạp chí Khoa học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 1, tr. 31-39.
71. Phạm Thị Thanh Tâm (1996), Kinh doanh xuất bản phẩm trong cơ chế
thị trường ở Việt Nam, luận án phó tiến sĩ Kinh tế.
72. Phạm Thị Thanh Tâm, Thái Thu Hoài (2015), “Ngành xuất bản, xu
hướng phát triển và vấn đề quản lý”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
362.
73. Tần Tần (2018), 2018 xuất bản hơn 390 triệu bản sách, tăng vượt trội so
với 2017, https://viettimes.vn/2018-xuat-ban-hon-390-trieu-ban-sach-
tang-vuot-troi-so-voi-2017-311939.html (25/12/2018).
74. Giang Thiệu Thanh (2007), Từ điển xuất bản, NXB Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.

170
75. Nguyễn Đăng Thành (2012), “Đánh giá chính sách công ở Việt Nam:
vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, số 6 (836), tr.45-51.
76. Hoàng Mạnh Thắng (2012), Thương mại hoá trong hoạt động xuất bản
sách - thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu cấp bộ.
77. Vi Quang Thọ (2009), Suy nghĩ về chiến ược xây dựng và phát triển bền
vững các NXB và ngành xuất bản Việt nam, Tham luận tại Hội nghị xây
dựng mô hình NXB trước yêu cầu mới do Ban tuyên giáo TW tổ chức.
78. Phạm Thị Thu (2013), Lý luận nghiệp vụ xuất bản, NXB TTTT, Hà Nội.
79. Phạm Thị Xuân Thuỷ (2009), Nghiên cứu các biện pháp giảm thiểu các
hành vi vi phạm trong ĩnh vực xuất bản, Đề tài khoa học cấp bộ.
80. Nguyễn An Tiêm, Nguyễn Nguyên (đồng chủ biên, 2013), Tổ chức,
quản lý và chính sách xuất bản của một số quốc gia - kinh nghiệm đối
với Việt Nam, NXB CTQG-ST, Hà Nội
81. Nguyễn An Tiêm, Nguyễn Nguyên (đồng chủ biên, 2015), Xã hội hóa
hoạt động xuất bản một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB CTQG-ST,
Hà Nội.
82. Nguyễn Anh Tú (2015), Quản nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế.
83. Nguyễn Văn Tuấn (2008), Sách điện tử và công nghệ tạo sách điện
tử, NXB VH-TT, Hà Nội.
84. Đào Trí Úc, Vũ ông Giao (2015), Vận động chính sách công, lý luận và
thực tiễn, NXB lao động, Hà Nội.
85. Trần Thị Trà Vi (2018), “Xuất bản phẩm điện tử - nhân tố tạo nên sự thay đổi
trong hoạt động thư viện”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 6, tr. 23-29.
86. Nguyễn Hồng Vinh (chủ biên, 2011), Xuất bản Việt Nam trong những
năm đổi mới đất nước, NXB CTQG-ST, Hà Nội.
87. Nguyễn Hồng Vinh, Nguyễn Kiểm, Hoàng Phong Hà, Trần Đoàn Lâm,
Nguyễn Thế Kỷ, Đường Vinh Sường, Trần Văn Hải, Nguyễn Quý Thao,

171
Vi Quang Thọ, Võ Tử Thành (2012), Xuất bản Việt Nam trong bối cảnh
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, NXB Thời đại, Hà Nội.
88. Hoàng Xuân Vinh (2011), Chiến ược kinh doanh độc lập của NXB Giáo
dục Việt Nam khi không còn độc quyền xuất bản sách giáo khoa, Luận
văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
89. Hoàng Xuân Vinh (2020), Phát triển nhân lực ngành xuất bản Việt Nam
trong xu thế hội nhập, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
90. Vụ Thư viện, Cục Xuất bản, Bộ VH-TT (2003), Mối quan hệ giữa ngành
xuất bản và ngành thư viện trong cơ chế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam, NXB VH-TT, Hà Nội.
91. Hoàng Thị Vui (2010), Quảng bá sách Việt Nam ra nước ngoài trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xuất bản,
Học viện Báo chí và tuyên truyền.
92. Phạm Thị Vui (2020), Vai trò của công tác tư tưởng trong quản lý hoạt
động xuất bản ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành ông
tác tư tưởng, Học viện Báo chí và tuyên truyền.
93. Lê Văn Yên (2012), Thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng in lậu
sách ở nước ta, Đề tài khoa học cấp bộ.
II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
94. André Schiffrin (2000), The Business of Books: How International
Conglomerates Took Over Publishing and Changed the Way We Read,
Verso.
95. B. Guy Peter (2019), American Public Policy: Promise and
Performance, (eleventh edition), SAGE Publication, University of
Pittsburgh, USA.
96. Claire A. Dunlop, Claudio M. Radaelli, Philipp Trein (2018), Learning
in Public Policy: Analysis, Modes and Outcomes (International Series
on Public Policy), Springer.

172
97. David Leo Weimer, Aidan R. Vining (2017), Policy Analysis: Concepts
and Practice, Taylor & Francis.
98. Dallas John Baker, Donna Lee Brien, Jen Webb (2019), Publishing and
Culture, Cambridge Scholars Publishing.
99. e Prato Giuditta và Jean Paul Simon (2014), “Public policies and
government interventions in the book publishing industry”, The Journal
of Policy, Regulation and Strategy for Telecommunications, Information
and Media, No. 16 (2), pg. 47-66.
100. Frank Fischer, Gerald J Miller (2017), Handbook of Public Policy
Analysis: Theory, Methods, and Politics, Routledge.
101. G. Bruce Doern, Peter Aucoin (1971), The structures of policy-making in
Canada, Michigan University, Macmillan of Canada, Toronto, Canada.
102. Gary Banks (2013), “Public Inquiries, Public Policy and the Public
Interest”, Academy Papers, No. 2, The Academy of the Social Sciences
in Australia, pg. 5 – 17.
103. Grigore Ana-Maria (2014), “Book Publishing Business in Romania - An
Analysis from the Perspective of Porter's Five Force Model”, Revista de
Management Comparat International, No. 15(1), pp: 31-47.
104. Hean Tat Keh (1998), “Evolution of the book publishing industry
Structural changes and strategic implications”, Journal of Management
History, Vol. 4 No. 2, MCB University Press, USA, pg.104-123.
105. James Anderson (2015), Public policy making (eight edition), Texas
A&M University, Cengage Learning.
106. Kelvin Smith (2014), The Publishing Business: From p-books to e-
books, Bloomsbury Publishing.
107. Meng Siyu (2012), “ hina's Book Publishing Industry: Review of
2011”, Publishing Research Quarterly, No. 28(2), pp: 124-129.
108. Michael E. Kraft, Scott R. Furlong (2013), Public Policy: Politics,
Analysis, and Alternatives, fouth edition, CQ Press, SAGE Publication,
USA.

173
109. Michael Howlett and M. Ramesh Toronto (1995), Studying Public
Policy: Policy Cycles and Policy Subsystems, Oxford University Press.
110. Paul Spicker (2006), Policy Analysis for Practice: Applying Social
Policy, Policy Press.
111. Philip G. Altbach, Edith S. Hoshino (2015), International Book
Publishing: An Encyclopedia, Routledge.
112. Robbie Allen (2006), The dynamics of Internet publishing on the
computer book industry, Thesis (S.M.) Master of Science in Engineering
and Management and Master of Science in Civil and Environmental
Engineerin, Massachusetts Institute of Technology, USA.
113. Robert Baensch (2017), The Publishing Industry in China, Routledge.
114. Robin Birn, Patrick Forsyth (2002), Marketing in Publishing, Routledge.
115. Thomas R.Dye (1972), Understanding Public Policy, Prentice-Hall,
USA.
116. Victor Bekkers, Menno Fenger, Peter Scholten (2017), Public Policy in
Action: Perspectives on the Policy Process, Edward Elgar Publishing.
117. Wayne Parsons (1992), Public Policy: An Introduction to the Theory and
Practice of Policy Analysis, Elgar.
118. William Ieuan Jenkins (1978), Policy, Analysis: a political and
organisational perspective, (Government and administration series),
Martin Robertson Publish, London.
119. William N. Dunn (2015), Public policy analysis (fifth Edition),
Routledge.
120. Xun Wu, M Ramesh, Michael Howlett, Scott Fritzen (2018), The Public
Policy Primer: Managing the Policy Process (Second edition),
Routledge Publish, New York, USA.

174
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
CÁC LUẬT, VĂN BẢN
CÓ L ÊN QUAN ĐẾN CHÍNH SÁCH XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM
TT Số văn bản Cơ quan, ngày ban Nội dung
hành
LUẬT
1. Hiến pháp 2013 Quốc hội (2013)
2. Luật 50/2005/QH11 Quốc hội (2005) Luật Sở hữu trí tuệ
3. Luật 13/2008/QH12 Quốc hội (2008) Luật thuế Giá trị gia tăng
4. Luật 14/2008/QH12 Quốc hội (2008) Luật thuế Thu nhập doanh
nghiệp
5. Luật 23/2018/QH14 Quốc hội (2018) Luật Cạnh tranh
6. Luật 68/2014/QH13 Quốc hội (2014) Luật Doanh nghiệp
7. Luật 36/2005/QH11 Quốc hội (2005) Luật Thương mại
8. Bộ luật 91/2015/QH13 Quốc hội (2015) Luật Dân sự
9. Bộ luật 100/2015/QH13 Quốc hội (2015) Luật Hình sự
10. Luật 19/2012/QH13 Quốc hội (2012) Luật Xuất bản
NGHỊ ĐỊNH
11. Nghị định số 11/6/2002 về chế độ nhuận bút
61/2002/NĐ-CP Chính phủ
12. Nghị định số 16/10/2013 quy định xử phạt vi phạm
131/2013/NĐ-CP Chính phủ hành chính về quyền tác
giả, quyền liên quan
13. Nghị định số 23/02/2016 quy định chi tiết một số
22/2012/NĐ-CP Chính phủ điều và biện pháp thi
hành Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều
của Luật sở hữu trí tuệ
năm 2009 về quyền tác
giả, quyền liên quan.
14. Nghị định số 14/3/2014 Quy định về chế độ
18/2014/NĐ-CP Chính phủ nhuận bút trong lĩnh vực
báo chí, xuất bản (thay
thế cho Nghị định
61/2002/NĐ-CP ngày
11/6/2002).
15. Nghị định số 08/9/2006 về chuyển đổi công ty

175
TT Số văn bản Cơ quan, ngày ban Nội dung
hành
95/2006/NĐ-CP Chính phủ nhà nước thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một
thành viên
16. Nghị định số 27/12/2011 Sửa đổi, bổ sung một số
122/2011/NĐ-CP Chính phủ điều của Nghị định số
124/2008/NĐ-CP ngày
11 tháng 12 năm 2008
của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của
Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp.
17. Nghị định 159/2013/NĐ- 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm
CP Chính phủ hành chính trong hoạt
động báo chí xuất bản
18. Nghị định số 21/4/2010 Quy định về tổ chức,
45/2010/NĐ-CP Chính phủ hoạt động và quản lý hội.
19. Nghị định 32/2019/NĐ- 10/4/2019 Quy định giao nhiệm vụ,
CP Chính phủ đặt hàng hoặc đấu thầu
cung cấp sản phẩm, dịch
vụ công sử dụng ngân
sách nhà nước từ nguồn
kinh phí chi thường
xuyên.
QUYẾT ĐỊN , T ÔNG TƢ
20. Quyết định 7/6/2004 Về việc gia nhập công
332/2004/QĐ-CTN Chủ tịch nước ước Berne về bảo hộ tác
phẩm văn học và nghệ
thuật
21. Quyết định số 581/QĐ- 06/5/2009 Về việc phê duyệt Chiến
TTg Thủ tướng Chính lược phát triển văn hoá
phủ đến năm 2020
22. Quyết định số 692/QĐ- 04/5/2013 phê duyệt Đề án Xóa mù
TTg Thủ tướng Chính chữ đến năm 2020
phủ
23. Quyết định số 329/QĐ- 15/3/2017 phê duyệt Đề án phát
TTg Thủ tướng Chính triển văn hóa đọc trong
phủ cộng đồng đến năm 2020,
định hướng đến năm

176
TT Số văn bản Cơ quan, ngày ban Nội dung
hành
2030
24. Quyết định số 284/QĐ- 24/02/2014 về Ngày Sách Việt Nam
TTg Thủ tướng Chính
phủ
25. Quyết định số 88/QĐ- 20/01/2017 về việc phê duyệt đề án
TTg Thủ tướng Chính tăng cường năng lực
phủ quản lý và thực thi có
hiệu quả pháp luật bảo hộ
quyền tác giả, quyền liên
quan đến năm 2020, định
hướng đến năm 2025.
26. Quyết định số 283- 26/01/2010 Ban hành Quy định về sự
QĐ/TW Ban Bí thư phối hợp giữa Ban Tuyên
giáo Trung ương, Ban
Cán sự Đảng Bộ Thông
tin và Truyền thông với
các cơ quan đảng, cấp ủy,
tổ chức đảng các cơ quan
nhà nước, tổ chức đoàn
thể trong công tác chỉ
đạo, quản lý hoạt động
xuất bản
27. Thông tư 15/5/2018 về thực hiện đặt hàng xuất
07/2018/BTTTT Bộ Thông tin bản phẩm sử dụng ngân
Truyền thông sách nhà nước
NGHỊ QUYẾT, KẾT LUẬN, BÁO CÁO, CHỈ THỊ
28. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành về tiếp tục sắp xếp, đổi
Trung ương 3 (khóa IX) Trung ương Đảng mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước
29. Nghị quyết số 19- 25/10/2017 Về tiếp tục đổi mới hệ
NQ/TW Ban Chấp hành thống tổ chức và quản lý,
Trung ương khóa nâng cao chất lượng và
XII hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp
công lập
30. Nghị quyết số 08/NQ-CP 24/01/2018 về hương trình hành
Chính phủ động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 19-

177
TT Số văn bản Cơ quan, ngày ban Nội dung
hành
NQ/TW về tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và
quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự
nghiệp công lập
31. Kết luận số 19-TB/TW 29/12/2016 Về việc tiếp tục thực hiện
Ban Bí thư Chỉ thị số 42 của Ban Bí
thư khóa IX về nâng cao
chất lượng toàn diện của
hoạt động xuất bản
32. Thông tư liên tịch số 29/02/2008 giữa hướng dẫn truy cứu trách
01/2008/TTLT- Tòa án nhân dân tối nhiệm hình sự đối với
TANDTC-VKSNDTC- cao, Viện Kiểm sát các hành vi xâm phạm
BCA-BTP nhân dân tối cao, Bộ quyền sở hữu trí tuệ.
Công an, Bộ Tư
pháp
33. Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (WCT)
(1996) với các tuyên bố
đã được thông qua của
Hội nghị Ngoại giao
thông qua Hiệp ước và
các quy định của Công
ước Berne (1971) dẫn
chiểu trong Hiệp ước.
34. Báo cáo tổng kết 10 năm
Ban Tuyên giáo
thực hiện Chỉ thị 42Trung ương
35. Báo cáo tổng kết hoạt
Cục Xuất bản, In và
động hàng năm Phát hành
36. Chỉ thị số 42-CT/TW Ngày 25-8-2004 Về nâng cao chất lượng
Ban Bí thư Trung toàn diện của hoạt động
ương xuất bản
37. Nghị quyết Hội nghị 2007, Ban Chấp Về công tác tư tưởng, lý
Trung ương 5 khóa X hành Trung ương luận, báo chí trước yêu
Đảng cầu mới

178
PHỤ LỤC 2

KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN


CỦA Đ NGŨ CÁN B CỤC XBIPH, B TTTT
1. Theo ông/bà, mục tiêu của chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay
được xác định là gì?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Giữ vững định hướng phát triển của ngành xuất bản theo 82
đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước
2 Thúc đẩy xuất bản thực hiện tốt vai trò nâng cao dân trí 85
và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
3 Bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các 86
tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học
4 Nâng cao hiệu quả kinh tế của xuất bản. 78
2. Ông bà cho rằng chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay giữ vai trò gì?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 CSXB xác lập vị trí, vai trò của xuất bản và định hướng 96
phát triển của xuất bản
2 CSXB góp phần điều phối hoạt động của các cơ quan nhà 82
nước, phân giao quyền hạn, trách nhiệm cụ thể cho từng cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền tham gia vào công tác xuất bản
3 CSXB giúp huy động sự tham gia của xã hội vào công tác xuất bản, 75
đồng thời, có vai trò định hướng phát triển văn hóa đọc trong nhân
dân
4 CSXB giúp chủ động kiểm soát, ngăn chặn sự xâm nhập, 81
phát triển của văn hóa xấu độc, góp phần xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh trong toàn xã hội
3. Theo ông/bà, việc xác định các mục tiêu CSXB như hiện nay đã
phù hợp hay chưa?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất phù hợp với những vấn đề hiện tại 21
2 Tương đối phù hợp 65
3 Không phù hợp 14
4. Theo ông/bà, các giải pháp CSXB hiện tại có bảo đảm hiệu quả,
khả thi hay không?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất khả thi, đạt hiệu quả tốt 12
2 Khả thi, đạt được hiệu quả khá 78
3 Không khả thi, ít hiệu quả 20
5. Theo ông/bà, công cụ của CSXB hiện nay có được sử dụng hiệu quả không?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Hiệu quả tốt 16
2 Hiệu quả khá 65
3 Hiệu quả trung bình 10

179
4 Kém hiệu quả 19
6. Theo ông/bà, cần thực hiện các giải pháp nào để hoàn thiện chính
sách xuất bản ở Việt Nam trong thời gian tới?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Điều chỉnh mục tiêu chính sách hợp lý hơn 68
2 Điều chỉnh, sửa đổi những nội dung, giải pháp chưa phù hợp 89
3 Bổ sung giải pháp mới 90
4 Phát huy vai trò của các chủ thể 93
7. Ông/bà có ý kiến như thế nào đối với những gợi ý sau nhằm hoàn
thiện chính sách xuất bản Việt Nam?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Hoàn thiện mô hình NXB theo hướng tăng quyền tự 94
chủ
2 Làm rõ hơn trách nhiệm pháp lý giữa NXB và đối tác 89
3 Tăng nặng các chế tài xử lý vi phạm xuất bản 75
4 Hình sự hóa với hành vi in và buôn bán lậu sách 88
5 Xây dựng Luật về giá sách 56
6 Tăng cường phối hợp mua bán bản quyền, dịch thuật 63
7 Xây dựng Hội chợ sách quốc tế xứng tầm cỡ 62
8 Xây dựng chiến lược Sách Quốc gia Việt Nam 78
9 Xây dựng Trung tâm Dữ liệu – Thông tin Việt Nam 81
10 Xây dựng thiết chế hỗ trợ xuất bản Việt Nam 88
8. Theo ông/ bà, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém của
CSXB ở Việt Nam hiện nay là do đâu?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Công tác lý luận về xuất bản chưa theo kịp thực tiễn của xuất 86
bản
2 Nhận thức về vị trí, tính chất, mục đích của xuất bản 82
chưa đúng, và chưa thống nhất
3 Vấn đề sở hữu và tính chuyên nghiệp của các NXB chưa cao 75
4 Thiếu đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý, tham mưu có 65
năng lực thực tiễn và tầm nhìn chiến lược
9. Ông/ bà đánh giá chung nhất về chính sách xuất bản ở Việt Nam
hiện nay như thế nào?
Tỷ lệ (%)
Tốt Tƣơng Chƣa tốt
Tiêu chí đối tốt
Tính phù hợp 22 57 21
Tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất 16 52 33
Tính khả thi 15 63 22
Tính hiệu lực và hiệu quả 23 58 19

180
PHỤ LỤC 3

KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN


CỦA Đ NGŨ CÁN B , BIÊN TẬP VIÊN
1. Chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay đã quan tâm, tạo ra
thuận lợi để các đơn vị xuất bản làm ăn có lãi ở mức độ nào?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Tạo điều kiện rất thuận lợi 15
2 Đã quan tâm, nhưng chưa đúng mức 60
3 Ít quan tâm, còn nhiều vướng mắc 13
4 Khó trả lời 12
2. Nhà nước có nên tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt
động xuất bản bằng việc cho phép cổ phần hóa một số NXB hoặc thí điểm
thành lập một số NXB tư nhân?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Ủng hộ cao, cần phải làm ngay 21
2 Đồng ý 50
3 Lưỡng lự 13
4 Không tán thành 16
3. Tình trạng phát triển của xuất bản điện tử hiện nay như thế nào?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Phát triển rất tốt 10
2 Phát triển chưa mạnh mẽ 68
3 Kém phát triển 22
4. Tình trạng vi phạm bản quyền, in lậu và buôn bán sách lậu hiện
nay diễn ra ở mức độ nào?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất nghiêm trọng và phổ biến 9
2 Nghiêm trọng và phổ biến 48
3 Chỉ diễn ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ 36
4 Đã được chấm dứt 7
5. Việc đào tạo đội ngũ biên tập viên ở các cơ sở đào tạo đã đáp ứng
tốt được yêu cầu nghề nghiệp?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Đáp ứng rất tôt 11
2 Đào tạo cơ bản, nhưng chưa sâu 63
3 Đào tạo còn chưa sát thực tiễn 12
4 Đào tạo chất lượng kém 14

181
6. Cần thực hiện các giải pháp nào để hoàn thiện chính sách xuất
bản ở Việt Nam trong thời gian tới?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Điều chỉnh mục tiêu chính sách hợp lý hơn 83
2 Điều chỉnh, sửa đổi những nội dung, giải pháp chưa phù hợp 92
3 Bổ sung giải pháp mới 85
4 Phát huy vai trò của các chủ thể 96
7. Cần thực hiện một số giải pháp sau nhằm hoàn thiện chính sách
xuất bản Việt Nam?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Hoàn thiện mô hình NXB theo hướng tăng quyền tự 98
chủ
2 Làm rõ hơn trách nhiệm pháp lý giữa NXB và đối tác 78
3 Tăng nặng các chế tài xử lý vi phạm xuất bản 75
4 Hình sự hóa với hành vi in và buôn bán lậu sách 73
5 Xây dựng Luật về giá sách 69
6 Tăng cường phối hợp mua bán bản quyền, dịch thuật 78
7 Xây dựng Hội chợ sách quốc tế xứng tầm cỡ 80
8 Xây dựng chiến lược Sách Quốc gia Việt Nam 92
9 Xây dựng Trung tâm Dữ liệu – Thông tin Việt Nam 88
10 Xây dựng thiết chế hỗ trợ xuất bản Việt Nam 85
8. Theo ông/ bà, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém của
CSXB ở Việt Nam hiện nay là do đâu?
TT Nội dung Lựa chọn
1 Công tác lý luận về xuất bản chưa theo kịp thực tiễn của xuất bản 82
2 Nhận thức về vị trí, tính chất, mục đích của xuất bản 76
chưa đúng, và chưa thống nhất
3 Vấn đề sở hữu và tính chuyên nghiệp của các NXB chưa cao 80
4 Thiếu đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý, tham mưu có 64
năng lực thực tiễn và tầm nhìn chiến lược
9. Ông/ bà đánh giá chung nhất về chính sách xuất bản ở Việt Nam
hiện nay như thế nào?
Mức độ đánh giá
Tốt Tƣơng Chƣa
Tiêu chí đối tốt tốt
Tính phù hợp 16 54 30
Tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất 10 47 43
Tính khả thi 29 54 17
Tính hiệu lực và hiệu quả 23 41 36

182
PHỤ LỤC 4
KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN
CỦA Đ NGŨ NGƢỜI SÁNG TẠO TÁC PHẨM
1. Chế độ chi trả nhuận bút cho tác giả hiện nay đã phù hợp, xứng
đáng với công sức sáng tạo chưa?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Nhuận bút quá thấp, không đủ công sức sáng tạo 26
2 Nhuận bút mới chỉ bù đắp một phần công sức 49
3 Nhuận bút đã tương xứng với công sức 20
4 Nhuận bút rất cao 5
2. Có cần phải tăng chế độ nhuận bút cho tác giả?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Ủng hộ cao, cần phải làm ngay 85
2 Đồng ý 10
3 Lưỡng lự 4
4 Không tán thành 1
3. Mức độ hợp lý của quy trình khi nộp bản thảo cho nhà xuất bản?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Quy trình rất hợp lý, thuận tiện 13
2 Quy trình tương đối thuận lợi 58
3 Còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa khoa học 29
4. Tình trạng vi phạm bản quyền, in lậu và buôn bán sách lậu hiện nay?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất nghiêm trọng và phổ biến 19
2 Nghiêm trọng và phổ biến 46
3 Chỉ diễn ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ 27
4 Đã được chấm dứt 8
5. Đội ngũ biên tập viên hiện nay đã đáp ứng tốt với yêu cầu biên
tập?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Đáp ứng rất tôt 23
2 Đáp ứng được yêu cầu cơ bản 43
3 Ít có chuyên môn sâu, khó thẩm định được các nội 34
dung phức tạp
6. Quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay được bảo hộ trên thực tế như thế nào?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất kém, còn rất nhiều vi phạm 14
2 Đã được quan tâm, nhưng còn nhiều vi phạm 72
3 Ít xảy ra vi phạm bản quyền 9
4 Bảo hộ rất tốt, không có vi phạm bản quyền 5

183
7. Mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật về quyền tác giả ở Việt
Nam hiện nay với các công ước Quốc tế?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất phù hợp, đồng bộ 31
2 Tương đối phù hợp, đồng bộ 60
3 Còn nhiều mâu thuẫn, bất hợp lý 9
4 Khó trả lời 0
8. Cần thực hiện một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xuất
bản Việt Nam?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Hoàn thiện mô hình NXB theo hướng tăng quyền tự 65
chủ
2 Làm rõ hơn trách nhiệm pháp lý giữa NXB và đối tác 80
3 Tăng nặng các chế tài xử lý vi phạm xuất bản 93
4 Hình sự hóa với hành vi in và buôn bán lậu sách 97
5 Xây dựng Luật về giá sách 84
6 Tăng cường phối hợp mua bán bản quyền, dịch thuật 91
7 Xây dựng Hội chợ sách quốc tế xứng tầm cỡ 76
8 Xây dựng chiến lược Sách Quốc gia Việt Nam 72
9 Xây dựng Trung tâm Dữ liệu – Thông tin Việt Nam 91
10 Xây dựng thiết chế hỗ trợ xuất bản Việt Nam 85
9. Ông/ bà đánh giá chung nhất về chính sách xuất bản ở Việt Nam
hiện nay như thế nào?
Mức độ đánh giá
Tốt Tƣơng Chƣa
Tiêu chí đối tốt tốt
Tính phù hợp 11 58 31
Tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất 5 51 44
Tính khả thi 25 56 19
Tính hiệu lực và hiệu quả 23 42 35

184
PHỤ LỤC 5
KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN
CỦA Đ NGŨ Đ C GIẢ

1. Hiện nay, xuất bản Việt Nam đã đáp ứng tốt nhu cầu của người
đọc hay chưa?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Đáp ứng tốt 10
2 Đáp ứng tương đối tốt, được những yêu cầu cơ bản 46
3 Mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ 34
4 hưa đáp ứng được yêu cầu 10
2. Tình trạng chất lượng các đầu sách ở Việt Nam như thế nào?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Chất lượng rất tốt 15
2 Chất lượng khá, ít có đầu sách tốt 51
3 Chất lượng thấp 32
4 Khó trả lời 2
3. Số lượng đầu sách ở Việt Nam có phong phú, đa dạng hay không?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất phong phú, nhiều thể loại 34
2 Nhiều thể loại, nhưng ít có tính sáng tạo đột phá 35
3 Kém phong phú 28
4 Khó trả lời 3
4. Tình trạng vi phạm bản quyền, in lậu và buôn bán sách lậu hiện
nay diễn ra ở mức độ nào?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Rất nghiêm trọng và phổ biến 23
2 Nghiêm trọng và phổ biến 53
3 Chỉ diễn ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ 16
4 Đã được chấm dứt 8
5. Tình trạng văn hóa đọc trong xã hội hiện nay?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Văn hóa đọc rất cao 24
2 Người đọc sách ít 86
3 Đọc sách chưa trở thành nhu cầu 87
4 Dòng sách thị trường, chất lượng kém còn nhiều, 93
ảnh hưởng đến văn hóa đọc của giới trẻ
6. Mức độ thường xuyên sử dụng các phương tiện nhất?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Sách 8

185
2 Báo, tạp chí 16
3 Truyền thanh, truyền hình 30
4 Mạng xã hội 40
7. Mức độ thường xuyên tới thư viện để đọc sách?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Ngày nào cũng đến 3
2 Tuần nào cũng đến 6
3 Tháng nào cũng đến 18
4 Hiếm khi 43
5 hưa bao giờ 30
8. Cần thực hiện một số giải pháp sau nhằm phát triển văn hóa đọc
trong xã hội?
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Xây dựng chiến lược Sách Quốc gia Việt Nam 61
2 Đẩy mạnh các hoạt động quảng bá sách 75
3 Nâng cao chất lượng các đầu sách 89
4 Ngăn chặn các dòng sách thị trường, chất lượng kém 84
5 Đầu tư nhiều hơn cho hệ thống thư viện 73
6 Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Ngày Sách Việt Nam 67
9. Ông/ bà đánh giá chung nhất về chính sách xuất bản ở Việt Nam
hiện nay như thế nào?
Mức độ đánh giá
Tốt Tƣơng Chƣa
Tiêu chí đối tốt tốt
Tính phù hợp 10 54 36
Tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất 6 51 43
Tính khả thi 25 56 19
Tính hiệu lực và hiệu quả 22 40 38

186
PHỤ LỤC 6

TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN SÂU


(Đối tƣợng: cán bộ Cục Xuất bản; cán bộ nhà xuất bản; độc giả)

Câu hỏi:
1. Xin cho biết ý kiến của ông / bà về vai trò của chính sách xuất bản ở
Việt Nam hiện nay ra sao?
2. Xin ông / bà cho biết mục tiêu chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện
nay đã được thể hiện rõ trong các văn bản quy định hay chưa, và nó có được
xác định phù hợp hay không?
3. Ông / bà đánh giá như thế nào về các giải pháp triển khai của chính
sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay?
4. Theo ông / bà, các công cụ của chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện
nay đã được sử dụng một cách hiệu quả hay chưa?
5. Xin ông/bà cho biết, đánh giá chung của ông/bà về chính sách xuất
bản ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Có vấn đề gì vướng mắc hay mâu
thuẫn, cần phải điều chỉnh?
6. Theo ông / bà, cần tiến hành các giải pháp gì, cần phải điều chỉnh,
sửa đổi hoặc xây dựng mới nội dung gì để thực hiện tốt chính sách xuất bản
trong thời gian tới?
Tổng hợp kết quả phỏng vấn:
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
Vai trò Chính sách xuất bản giữ vai trò quan trọng, định hướng, Cán
của dẫn dắt sự phát triển của ngành xuất bản ở Việt Nam, qua bộ
chính đó, gián tiếp góp phần phát triển đời sống tư tưởng, tinh Cục
sách thần, góp phần phát triển giáo dục đối với các tầng lớp Xuất

187
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
xuất nhân dân, hướng tới thực hiện mục tiêu, con đường đi lên bản
bản ở chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta. Cụ thể, CSXB quy hoạch
Việt sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực trong hoạt động
Nam xuất bản, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các lực
hiện lượng và huy động các nguồn lực hướng vào phát triển
nay xuất bản. Chính vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện, xây dựng
và cụ thể hóa hơn nữa cơ chế thực hiện chính sách xuất
bản trong thời gian tiếp theo
Hệ thống các văn bản quy định về công tác xuất bản có
ảnh hưởng trực tiếp đối với đội ngũ cán bộ, biên tập viên
nhà xuất bản, các cơ sở in, phát hành XBP. Nó không chỉ Cán
quy hoạch, định hướng về mặt vĩ mô, mà ở bình diện vi bộ nhà
mô, nó còn trực tiếp tác động vào hiệu quả kinh doanh, xuất
mức độ hoạt động của các NXB, qua đó, trực tiếp ảnh bản
hưởng đến đời sống và việc làm của hầu hết cán bộ, nhân
viên, biên tập viên của các cơ sở xuất bản, in, phát hành.
Các chính sách xuất bản ở Việt Nam hiện nay cũng như
trước đây đã và đang tác động, chi phối mạnh mẽ đến sự
phát triển hay chậm phát triển của nhu cầu đọc, định
hướng đến văn hóa đọc và công tác tư tưởng của quần
Độc
chúng nhân dân. Đối với đội ngũ độc giả, các chính sách
giả
ưu đãi, thúc đẩy phát triển xuất bản, cạnh tranh lành mạnh
sẽ tạo điều kiện để độc giả được tiếp nhận, thưởng thức
những tác phẩm có giá trị, có chất lượng cao, qua đó,
nâng cao đời sống tinh thần trong toàn xã hội.

188
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
Nhìn chung, từ trước đến nay, chính sách xuất bản ở Việt
Nam vẫn mang một điểm đặc thù so với hầu hết các nước
khác trên thế giới. Đó chính là đặt cao hơn mục tiêu tư
tưởng – văn hóa trong số các chức năng của ngành xuất
bản. Ở trên thế giới, một số nước coi các chức năng của
xuất bản là ngang nhau, thậm chí, nhiều nước đặt cao hơn Cán
chức năng kinh doanh. Xuất phát từ đặc thù đó, hiện nay, bộ
Về mục tiêu cơ bản của CSXB ở Việt Nam vẫn là thực hiện Cục
mục tốt nhiệm vụ định hướng tư tưởng – văn hóa, góp phần Xuất
tiêu tham gia làm tốt công tác này trong xã hội, bên cạnh đó, bản
chính cũng có chú ý hơn tới tạo điều kiện cho các cơ sở xuất
sách bản, in, phát hành kinh doanh, làm ăn có lãi. Tuy nhiên,
xuất trong thực tế, sự đồng bộ giữa hai mục tiêu: thực hiện tốt
bản ở chức năng văn hóa - tư tưởng và kinh doanh có lãi vẫn
Việt còn là một mâu thuẫn cần tiếp tục giải quyết tốt hơn.
Nam Trong thực tiễn thực hiện, tôi nhận thấy có sự bất hợp lý, Cán
hiện chưa đồng bộ giữa mục tiêu lớn của chính sách xuất bản bộ nhà
nay với các mục tiêu cụ thể, cũng như giữa mục tiêu của chính xuất
sách với các công cụ, giải pháp của nó. bản
Về mục tiêu của các chính sách liên quan tới hoạt động
xuất bản, cá nhân tôi nhận thấy, tuy chưa hoàn toàn thống
nhất, song về cơ bản, tôi cho rằng, chúng ta vẫn đang Độc
nghiêng nhiều hơn về phía mục tiêu thực hiện tốt chức giả
năng văn hóa – tư tưởng, mục tiêu để phát triển xuất bản
theo hướng kinh doanh có lãi dường như ít được chú

189
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
trọng hơn.
Hệ thống các giải pháp trong tổng thể CSXB ở Việt Nam
hiện nay nhìn chung đã đáp ứng được các mục tiêu đặt ra,
nhất là đáp ứng mục tiêu để xuất bản thực hiện tốt chức
năng văn hóa – tư tưởng. Các giải pháp quy hoạch, quản
lý, kiểm soát, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, bảo hộ tác quyền Cán
và phát triển văn hóa đọc nhìn chung đã tỏ ra có hiệu quả bộ
nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế, một số giải pháp cho Cục
thấy ít có tính khả thi, nhất là một số quy định về quy Xuất
hoạch xuất bản, quản lý, kiểm soát xuất bản. Một số giải bản
pháp ít có hiệu quả thực tế như giải pháp về phát triển văn
Về các
hóa đọc chưa như mong muốn. Hơn nữa, xét trong tổng
giải
thể, sự đồng bộ, thống nhất của các giải pháp còn nhiều
pháp
điểm chưa thực sự tốt, có biểu hiện mâu thuẫn với nhau.
của
Đối với hệ thống các nhà xuất bản, nhiều giải pháp của
CSXB
SXB đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển.
Nổi bật nhất phải kể đến giải pháp về quản lý, kiểm soát
xuất bản hiện nay đã từng bước "cởi trói" cho các nhà Cán
xuất bản, thúc đẩy họ tự phát huy tính chủ động, sáng tạo, bộ nhà
vươn lên làm ăn có lãi. Song, cũng ở chính các giải pháp xuất
mang tính "nới lỏng" này, một số hoạt động in lậu, phát bản
hành lậu, hoặc xuất bản sách có chất lượng, nội dung kém
đã và đang có chiều hướng gia tang. Điều này đòi hỏi cần
tiếp tục có các giải pháp hoàn thiện hơn.
Các giải pháp về chính sách xuất bản hiện nay nhìn chung Độc

190
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
đã tạo ra được hiệu quả nhất định. Từ góc độ một người giả
không nằm trong hệ thống xuất bản, tôi cũng có thể nhận
thấy sự khởi sắc của thị trường sách và sự phát triển của
văn hóa đọc trong xã hội. Đây chính là những minh chứng
sinh động cho hiệu quả, tính thực tiễn của các giải pháp
mà chúng ta đã triển khai. Song, hệ thống các giải pháp có
vẻ như chưa khơi thông được toàn bộ năng lực vốn có của
xuất bản, cũng như kích thích và thay đổi mạnh mẽ được
văn hóa đọc của người dân.
Công cụ của chính sách xuất bản hiện nay chủ yếu bao
gồm hai nhóm lớn. Một là nhóm công cụ tổ chức và hai là
nhóm công cụ về kinh tế, tài chính. Đối với nhóm công cụ
tổ chức, hiện nay, chỉ có một số vấn đề đang có sự chồng Cán
chéo nhất định giữa các cơ quan quản lý, ngoài ra, đều bộ
bảo đảm tương đối tốt. Đối với công cụ kinh tế, tài chính. Cục
Về hệ
Hằng năm, chúng ta đều có nguồn nhân sách chi cho phát Xuất
thống
triển xuất bản, được sử dụng vào hỗ trợ một số mặt, một bản
công
số địa phương còn hạn chế. Tuy nhiên, không phải lúc
cụ của
nào và ở đâu, việc sử dụng nguồn ngân sách này cũng
CSXB
thực sự hợp lý và hiệu quả thực tế như mong muốn.
Đối với CSXB, về phía các NXB như chúng tôi nhận
Cán
thấy, hiện nay, công cụ kinh tế, tài chính nhìn chung ít có
bộ nhà
sự hỗ trợ, trừ một số NXB lớn như TQG, QĐN ,…,
xuất
còn lại, hầu hết đều tự chủ làm ăn. Song, phải thừa nhận,
bản
xét ở bình diện vĩ mô, các chính sách hỗ trợ kinh phí cho

191
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
những mặt công tác nhất định của xuất bản đã tạo ra được
một số hiệu quả thực tiễn thúc đẩy xuất bản phát triển.
Ở khía cạnh một người hoạt động ngoài lĩnh vực, cá nhân
tôi nhận thấy CSXB của ta đã sử dụng một số công cụ
liên quan đến tài chính, vốn, kinh phí để xuất bản một số
đầu sách, phát triển hệ thống phòng đọc, thư viện và đưa
sách lên các vùng khó khăn, đó là những thành công lớn. Độc
Song, cá nhân tôi nhận thấy, một số đầu sách nằm trong giả
các chương trình hỗ trợ kinh phí đó có chất lượng chưa
thực sự tốt, chưa thực sự cần cho bà con nhân dân. Điều
đó có thể phản ánh việc sử dụng công cụ kinh tế, tài chính
hỗ trợ đó chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
Khách quan mà nói, hiện nay, SXB đã và đang đi đúng
hướng, đạt được hiệu quả nhất định, phản ánh bằng việc
xuất bản Việt Nam đã khởi sắc, sôi động hơn nhiều so với
Đánh
thời kỳ trước đây. Đó là điều mà ai cũng có thể nhận thấy.
giá
Song, đi vào chiều sâu và xét cụ thể của nó, thì cũng còn Cán
chung
không ít những hạn chế. Theo tôi, điểm mâu thuẫn lớn bộ
về
nhất, mang tính tổng quát nhất hiện nay vẫn là giải quyết Cục
chính
sự bất cập trong mục tiêu thực hiện chức văn hóa, tư Xuất
sách
tưởng và chức năng kinh doanh của xuất bản. CSXB làm bản
xuất
thế nào phải tháo gỡ được mâu thuẫn này, làm sao phải
bản
hài hòa giữa hai chức năng, trong đó, đáng chú ý là cần
phải mạnh dạn "mở ra" hơn chức năng sản xuất, kinh
doanh.

192
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
CSXB hiện nay, theo nhìn nhận của cá nhân tôi, vẫn còn
nhiều bất cập trong thực hiện các giải pháp. ường như
hệ thống các giải pháp khá nhiều, nhưng còn nhiều điểm
chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, do vậy, thậm chí triệt Cán
tiêu lẫn nhau và không đem lại hiệu quả như mong muốn. bộ nhà
Nếu đánh giá một câu chung nhất về SXB thì cũng khó xuất
có thể nói ngắn gọn được, song, ở mức độ chung nhất, bản
nhìn chung nó đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản. Về lâu về
dài, cần có có những chủ trương, chính sách mang tính
căn cơ, lâu dài và đồng bộ hơn.
Tôi nghĩ rằng, hiện nay CSXB của ta đã khá tốt, tạo ra
Độc
được nền xuất bản có nhiều điểm sáng, đã và đang từng
giả
bước đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.
Có nhiều vấn đề cần điều chỉnh, hoàn thiện SXB. Trước
hết, về mục tiêu chính sách, tôi cho rằng, cần cụ thể hóa
Những hơn về mục tiêu, và cần hướng mạnh hơn đến mục tiêu
chính chuyên nghiệp, hiện đại, xã hội hóa xuất bản. Đó đều là Cán
sách những mục tiêu hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện đại bộ
cần ngày nay. Về các giải pháp của chính sách, thiết nghĩ, nên Cục
điều đổi mới mạnh mẽ mô hình các NXB, bổ sung thêm các Xuất
chỉnh, quy định về thanh tra, kiểm soát xuất bản nhằm ngăn chặn bản
hoàn các XBP chất lượng kém, bảo hộ tác quyền một cách kiên
thiện quyết, đúng luật pháp. Đồng thời, đẩy mạnh việc hợp tác
quốc tế để thúc đẩy xuất bản phát triển.
Cá nhân tôi cho rằng, chúng ta cần nghiên cứu và xây Cán

193
Nội Tham
Trả lời
dung chiếu
dựng một chiến lược về sách ở tầm quốc gia và có tầm bộ nhà
nhìn dài hạn. Sách là XBP quan trọng nhất, chính vì thế, xuất
đây sẽ là một chiến lược mang tính chất giải pháp hỗ trợ, bản
thúc đẩy xuất bản phát triển. Đồng thời với đó, cũng nên
có một trung tâm dữ liệu lớn quản lý chung về mặt nội
dung, thông tin của các XBP từ tất cả các NXB. Và nếu
như trung tâm này liên kết với các trung tâm của các quốc
gia, khu vực khác thì càng tốt, bảo đảm hạn chế tối đa
tình trạng vi phạm bản quyền, đồng thời, hết sức tiện lợi
cho công tác quản lý nhà nước.
Trong thời gian tiếp theo, để xuất bản Việt Nam tiếp tục
phát triển, thiết nghĩ, chúng ta cần nỗ lực khá nhiều để
hoàn thiện hệ thống chính sách. Trong đó, rôi cho rằng,
chúng ta cần có giải pháp thúc đẩy sự phát triển văn hóa
đọc trong xã hội, định hướng, nâng cao nhu cầu đọc của
các tầng lớp nhân dân, nhất là tuổi trẻ, qua đó, gián tiếp Độc
thúc đẩy xuất bản phát triển. Đồng thời, hiện nay, trước giả
xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, của
các thiết bị điện tử, chúng ta cũng cần có chính sách cụ
thể nhằm phát triển lĩnh vực xuất bản điện tử, thậm chí,
có thể từng bước coi đây như là một bộ phận quan trọng
của nền xuất bản Việt Nam trong tương lai.

194

You might also like