You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI


--------

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HỌC KỲ I - NĂM HỌC 2022 – 2023

ĐỀ TÀI: Quá Trình Đổi Mới Tư Duy về xây dựng hệ
thống chính trị Việt Nam của Đảng

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY


Họ tên: ThS.GVC Hồ Thị Quốc Hồng

Cần Thơ, tháng 11 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
--------

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HỌC KỲ I, NĂM HỌC 2022 – 2023


LỚP HỌC PHẦN : CDT0120

ĐỀ TÀI: Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng hệ thống chính trị
Việt Nam của Đảng

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:


STT 104. Lê Đức Tín, MSSV: 2000767.
STT 96. Đặng Phước Thắng , MSSV: 2000212.
STT 95. Dương Hoàng Thái 2000198.
STT 55. Lê Duy Linh 2000054.
STT 34. Nguyễn Gia Huy 2000802.
STT 13. Phạm Chí Cường 2001029.
STT 30. Đặng Hoàng Hiếu 2000723.
STT 73. Châu Trọng Nhân 2001096.
STT 100. Phan phú Thịnh 2001036.
STT 98. Trần Quốc Thắng 2001122.
STT 86. Nguyễn Nhật Quang 2001229.

Cần Thơ, tháng 11 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
--------

Cần Thơ, ngày 21 tháng 11 năm 2022

NHẬN XÉT

ĐIỂM NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

GIẢNG VIÊN I GIẢNG VIÊN II

ThS.GVC Hồ Thị Quốc Hồng ThS. Trần Thị Vinh


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................1


B. NỘI DUNG ................................................................................................................3
I. Khái niệm hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam ............3
II. Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới chính trị, trước hết là đổi mới
hệ thống chính trị .......................................................................................................4
III. Hạn chế trước đổi mới ........................................................................................5
IV. Công cuộc đổi mới tư duy về hệ thống chính trị ..............................................5
1. Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị ............................................................... 5
2. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và những điểm mới về hệ thống chính trị
và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam ............................................................... 5
V. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kì đổi
mới ............................................................................................................................. 10
1. Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị: .............................. 10
1.1 Mục tiêu:......................................................................................................10
1.2 Quan điểm: ..................................................................................................10
2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị...................................................10
2.1 Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị .................................................10
2.2 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. ................................ 12
2.3 Xây dựng mặt trận mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị ...................................................................................13
VI. Kết luận .............................................................................................................13
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 15
A. PHẦN MỞ ĐẦU

Việc không sử dựng khái niệm "hệ thống chuyên chính vô sản" và sử dụng khái
niệm "hệ thống chính trị" là kết quả của bước đổi mới tư duy chính trị có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện ở các vấn đề như:

Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị.

Xét trên tổng thể, Đảng đã bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi
mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước
hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính
trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác
của đời sống xã hội. Như vậy, việc sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị" đã phản ánh
và đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phát triển đất nước trong
giai đoạn mới.
Về vấn đề này, Đại hội IX của Đảng cho rằng: "Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi
nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp,
các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và
hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu
chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tuởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội".

Nhận thức trên đây là cơ sở tư tưởng, lý luận rất quan trọng để xác định bản chất dân
chủ của hệ thống chính trị và đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.

1
Nhận thức mới này đã khắc phục tư tưởng tả khuynh cho rằng chuyên chính vô sản là
sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới.
Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chinh trị.
Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có tầm
quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ "xây dựng Nhà nước pháp quyền" lần đầu tiên được đề
cập tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (năm 1991). Đen Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) và các Đại hội VIII, IX, X và XI Đảng tiếp tục
khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
làm rõ thêm các nội dung của nó.

2
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao
gồm các đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết
với nhay trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp
cầm quyền.
Hệ thống chính trị (HTCT) là khái niệm, một phạm trù quan trọng của khoa học
chính trị. Cho đến nay, tuy còn nhiều những ý kiến, quan điểm khác nhau khi bàn về
HTCT nhưng các học giả, nhà khoa học, giới nghiên cứu, những người quan tâm đến
lĩnh vực chính trị đều thống nhất và cho rằng HTCT là một bộ phận cơ bản, quan trọng
của mỗi nền chính trị; các nước khác nhau với đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, kinh
tế - xã hội, văn hóa có những sự khác biệt nhất định trong quá trình hình thành, đặc
điểm, cấu trúc và tác động của các HTCT; HTCT bao gồm các tổ chức với tư cách là
chủ thể của các quyết sách chính trị, có quan hệ mật thiết với nhau và có vị trí, chức
năng, vai tròkhác nhau trong sự vận hành của các quá trình chính trị, với các cấp khác
nhau. Mặc dù, cấu trúc của HTCT rất đa dạngnhưng về căn bản, HTCT bao gồm ba bộ
phận chính: đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân. Có
thể quan niệm: “hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ một chỉnh thể các tổ chức
chính trị và chính trị - xã hội bao gồm đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị -
xã hội hợp pháp, có quan hệ kết nối với nhau và các cơ chế, nguyên tắc vận hành của
hệ thống nhằm hướng đến mục đích tác động vào các quá trình của đời sống xã hội,
hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị, thực thi quyền lực chính trị mà trung
tâm là quyền lực nhà nước”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức
sử dụng từ Hội nghị Trung ương 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3-1989) và
sau đó Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội
VII của Đảng (năm 1991). Về mặt pháp lý, khái niệm HTCT Việt Nam được đề cập
trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992. Có thể quan
niệm: “Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể gồm Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội. Trong đó, Đảng giữ vai trò cầm quyền, lãnh đạo; Nhà nước
đóng vai trò quản lý, điều hành, kiến tạo phát triển; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội có vai trò phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân. Hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng và hoạt động
theo những mối quan hệ, cơ chế và nguyên tắc nhất định, thống nhất từ trung ương đến
địa phương và cơ sở, nhằm mục đích xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân”.
Như vậy, có thể hiểu HTCT Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam với tư
cách là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng lãnh đạo HTCT, đồng
thời là bộ phận của hệ thống ấy; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhà
nước là trụ cột của HTCT; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đại diện
cho ý chí và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đồng thời thực hiện vai trò giám sát,

3
phản biện đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của
nhân dân.
HTCT Việt Nam được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống đến cơ sở và vận hành
theo phương thức hoạt động, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”, nhằm mục đích xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Đổi mới hệ thống chính trị, trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam từ
đại hội VI đến nay, đổi mới HTCT là một trong những nội dung mang tính cốt lõi, cấp
bách và hệ trọng. Những quan điểm của Đảng về đổi mới HTCT từ Đại hội VI đến Đại
hội XIII đã thể hiện rõ nét sự phát triển nhận thức của Đảng về vấn đề đổi mới nói
chung, đổi mới về chính trị mà trực tiếp là đổi mới HTCT nói riêng.
Từ nhận thức lý luận về HTCT, HTCT Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn công cuộc
đổi mới nói chung và đổi mới HTCT ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, có thể quan
niệm: “Đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam là quá trình nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động, vận hành của các bộ phận, thành tố cấu thành hệ thống chính trị trên
các phương diện: tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, phương thức hoạt động
của toàn bộ hệ thống chính trị và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, nhằm bảo đảm quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân, từng bước
hoàn thiện và nâng cao nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
Đổi mới HTCT Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi
mới.Đổi mới HTCT nhằm tăng cường vai trò và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng; tăng cường vai trò và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều
hành của Nhà nước; nâng cao tính năng động, sáng tạo và vai trò giám sát, phản biện
của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong một mục tiêu thống nhất là
đảm bảo toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới HTCT ở Việt Nam hiện nayphải tuân thủ nguyên tắc đổi mới nhưng không
làm thay đổi chế độ chính trị; đổi mới nhưng phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội;
đổi mới HTCT phải đồng bộ ở cấp trung ương và cấp địa phương, cơ sở;đổi mới
HTCT toàn diện, đồng bộ, những phải có bước đi vững chắc, cách làm phù hợp, đúng
đắn,có trọng tâm, trọng điểm...
II. Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới chính trị, trước hết là đổi
mới hệ thống chính trị
Đảng ta khẳng định đổi mới là một quá trình, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, trước hết là
đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị, phải tập trung
đổi mới kinh tế trước hết, vì có đổi mới thành công về kinh tế mới tạo được điều kiện
cơ bản để tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thuận lợi.
Mặt khác, nếu không đổi mới hệ thống chính trị, thì đổi mới kinh tế sẽ gặp trở ngại,
hệ thống chính trị được đổi mới kịp thời, phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng để thúc
đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Như vậy, đổi mới hệ thống chính trị là đáp ứng yêu
cầu chuyển đổi từ TCKT kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang TCKTTT Đh
XHCN
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng, hoạt động của nhà nước và phát huy quyền
dân chủ nhân dân
- Đảm bảo quyền lực, quyền giám sát và phân biệt xã hội cho mặt trận tổ quốc và các
tổ chức xã hội
4
=> coi đổi mới kinh tế là trung tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị.

III. Hạn chế trước đổi mới


1 - Mối quan hệ giũa đảng và nhà nước ở từng đơn vị chưa được xây định thật rõ, mỗi
bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính VS chưa làm tốt chức năng của
mình chế độ trách nhiệm, pháp xã hội chủ nghĩa còn nhiều thếu sót
2 - Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp là nguyên nhân trược tiếp.
3 - Sự lạnh đảo của đảng chưa ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa đáp un
ứng yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản và cấp bách
4 - Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc giáo dục,
động viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội.

IV. Công cuộc đổi mới tư duy về hệ thống chính trị
1. Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị
Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị thể hiện
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi
mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng tập trung trước
hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định
sự kết hợp nhuần nhuyễn và bước đi đúng đắn đó. Đến Đại hội X, Đảng đã xác định
đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo những nguyên
tắc xác định. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Đó là quá trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng
động, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri
thức, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…

Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân.
2. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và những điểm mới về hệ thống chính trị
và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là một sự kiện chính trị trọng đại
của Đảng ta, đất nước và dân tộc ta, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình tiếp
5
tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu
sắc lý luận và thực tiễn; kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta. Các văn kiện đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng gắn với việc nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
cương lĩnh năm 1991; tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; đề ra phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; xác định mục tiêu, phương hướng đến
năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của HTCT cũng như vấn đề đổi mới HTCT, trong các
văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII, so với Đại hội XII, Đảng ta đã rất chú trọng
đến những nội dung trọng tâm, những nhận thức mới về HTCT và nêu rõ, đề cập đến
những vấn đề liên quan đến đổi mới HTCT Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể như
sau:
- Về công tác xây dựng Đảng:
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đại hội XIII
đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. So với Đại hội XII, công tác xây dựng
Đảng không chỉ được đề cập trong Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mà còn có Báo cáo
tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII. Tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng được thể hiện
trong chủ đề, bài học kinh nghiệm, quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển, trong
nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cụ thể:
Về chủ đề, chủ đề Đại hội XIII đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Điểm mới là bổ sung “xây dựng hệ
thống chính trị” và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng.
Về bài học kinh nghiệm, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội XII, Báo cáo Chính trị Đại hội XIII rút ra 5 bài học kinh nghiệm.
Bài học kinh nghiệm đầu tiên là về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, trong đó nhấn
mạnh: “…công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn
diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”1.
So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị nhấn mạnh xây dựng Đảng về cán bộ. Đây là
bước phát triển về nhận thức của Đảng ta.
Về quan điểm, báo cáo chính trị nêu 5 quan điểm chỉ đạo, quan điểm đầu tiên là
“Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”2. So với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung
“kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng” Đây là bước phát triển nhận thức của Đảng
ta.
Về mục tiêu về xây dựng Đảng, về mục tiêu tổng quát, Đại hội XII xác định: Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Đại hội XIII xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện”3. Điểm mới của Đại hội XIII là không chỉ nâng cao “năng
6
lực lãnh đạo” mà cả “năng lực cầm quyền”, không chỉ “xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh” mà cả “hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”.
Về định hướng xây dựng Đảng, trong định hướng phát triển đất nước 10 năm 2021-
2030, Báo cáo chính trị nêu định hướng về xây dựng Đảng: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh
đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng…xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người
đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác
tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và
công tác dân vận của Đảng”4. So với Đại hội XII, Đại hội XIII xác định xây dựng,
chỉnh đốn Đảng toàn diện; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng; nêu yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Về nhận thức mới trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chính đốn Đảng. Kế thừa Đại
hội XII, Báo cáo chính trị và Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành
Điều lệ Đảng Đại hội XIII đã xác định 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng
trong 5 năm 2021-2025, gồm: (1) Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường xây dựng Đảng về
chính trị; (2) Nhiệm vụ, giải pháp coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; (3) Nhiệm vụ,
giải pháp tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; (4) Nhiệm vụ, giải pháp về đẩy mạnh
xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; (5) Nhiệm vụ, giải pháp củng cố, nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; (6) Nhiệm vụ, giải pháp tăng
cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu; (7)
Nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng; (8) Nhiệm vụ, giải pháp thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; (9) Nhiệm vụ, giải pháp kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí; (10) Nhiệm vụ, giải pháp
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Trong
10 nhóm nhiệm vụ giải pháp nêu trên, mỗi nhóm nhiệm vụ, giải pháp có những nhận
thức mới, những bổ sung, nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp mới.
- Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Từ thực tiễn 35 năm đổi mới, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng với
những thành tựu đạt được cùng những tồn tại, hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII tiếp tục xác định xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời bổ sung nhiều điểm
mới, như sau:
Về chủ trương, các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII nhấn mạnh tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới HTCT. Nâng
cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Trong điều kiện mới xác
định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các
nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành
động; xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan
7
nhà nước. “Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp
làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu cần phát triển nhanh, bền
vững”5. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai
thi hành hiến pháp 2013.
Về Quốc hội, so với văn kiện Đại hội XII, văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tăng tính chuyên nghiệp, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ và tổ chức trong hoạt động của
Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao. Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nhấn mạnh tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu
hoặc phê chuẩn. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội,
tăng hợp lý về số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công
tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Về Chính phủ, các văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý
các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; pháp huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện mới: “Nhà nước quản
lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công
cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát chủ động
điều tiết giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch các
quan hệ thị trường”6 và “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm
giữa chính phủ với các bộ, ngành; giữa chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa
phương…bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất”7. Đồng thời, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; khắc phục triệt để
chống chéo chứ năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự
nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, đảm bảo chất lượng, hoạt động hiệu quả. Nâng
cao chất lượng dịch vụ công.
Về tư pháp, văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục xây dựng nền tư pháp
Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Bổ sung nội
dung: “Nghiên cứu, ban hành chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030 định hướng đến 2045, trong đó chiến lược
pháp luật và cải cách tư pháp”8. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan
điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư
pháp; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và hành vi vi
8
phạm pháp luật. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện
theo luật định. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.
Về chính quyền địa phương, so với văn kiện Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung, làm
rõ hơn nội dung: Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa
bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực
hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô
hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương,
nâng cao tính chủ động, tự chủ ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ
máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức so với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung: tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân
dân và sự phát triển của đất nước, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng
nhân tài, khuyến khích cán bộ, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm
vì lợi ích chung. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ,
chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo,
phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người
không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức
nghề nghiệp không có uy tín đối với nhân dân.
Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu cần thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng
cường kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính
quyền với người dân và doanh nghiệp. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý các
nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực hiệu quả tổ
chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục
hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giảm
biên chế. Gắn kết chặt chẽ xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.
- Về tổ chức, hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội:
Sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt là trong
nhiệm kỳ đại hội XII. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều
đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia
các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân... Tuy đã
có nhiều đổi mới, nhưng tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, bộ máy vẫn còn cồng kểnh; cơ cấu tổ
chức vẫn tồn tại theo hướng hành chính - biên chế, một bộ phận cán bộ chuyên trách
công tác còn yếu về năng lực chuyên môn, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Việc tuyên
truyền, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động chưa thực sự
đi vào chiều sâu, chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức
xúc của nhân dân. Nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội có mặt còn chậm đổi mới so với yêu cầu nhiệm vụ.
Vì vậy, trong các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII, Đảng ta đã nhấn mạnh
việc tiếp tục tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp,
vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận

9
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân
chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đồng thời, “đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và
phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực
hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng
cường đối ngoại nhân dân”9. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết,
đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên đây là một số điểm mới về HTCT và đổi mới HTCT Việt Nam được đề cập
trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Chúng ta tin tưởng
rằng, với những nhận thức mới, giải pháp đúng hướng, kịp thời cùng với quyết tâm
cao, nỗ lực lớn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong thời gian tới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, HTCT Việt Nam sớm kiện toàn, tinh gọn, tiếp tục có nhiều đổi mới nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao sự nghiệp đổi mới, hội
nhập của đất nước.

V. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kì
đổi mới
1. Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị:
Đổi mới hệ thống chính trị được xác định trong Đại hội VI của Đảng.
1.1 Mục tiêu:
Đổi mới hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
1.2 Quan điểm:
Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Đổi mới tổ chức và phương pháp hoạt động của hệ thống chính trị không phải là
hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho
hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi
mới toàn diện, đồng bộ đất nước; Đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với kinh tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế Quốc tế.
Đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ có kế thừa, có bước đi,
hình thức và cách làm phù hợp.
Đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với nhau
và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều của cả hệ thống để thúc đẩy xã hội phát
triển.
2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
2.1 Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị
Trước đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đại hội X và XI đã bổ sung một số nội dung quan trọng:

10
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.
- Nhận thức mới về cơ cấu và cơ chế: Đảng lãnh đảo, nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ, trong đó, đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt
nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hành động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật.
+ Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân và vì lý do đảng cộng sản lãnh đạo, có chức năng thể chế hóa
và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của đảng.
+ Mặt trận Tổ quốc việt nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các
nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ,
có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội góp phân xây
dựng đảng, xây dựng nhà nước, phát huy quyền là chủ của nhân dân.
+ Nông dân là người làm chủ xh, làm chủ thông qua nhà nước và các cơ quan đại diện,
đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm dân kiểm
tra”, làm chủ thông qua hình tự quản.
+ Đảng cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo nhà nước những không làm thay nhà
nước, đảng quan tâm xây dựng cụng cố nhà nước, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
chính trị- xã hội, phát huy vai trò của các thành tổ này trong quản lý, điều hành xã hội,
đổi mới phương thức lãnh đạo cảu đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.

- Phương thức lãnh đạo: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội xác định “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu
những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng
viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng
tạo và trách nhiệm cảu các tổ chức khác trong hệ thống chính trị” Đảng không làm
thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
- Vị trí: Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh xác định: “Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và Pháp luật”.
Trọng tâm của đổi mới hệ tống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của các bộ phận cấu thành hệ thống. Trong đổi mới phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt và cũng là khó khăn nhất là đổi mới phương
thức hoạt động của Đảng, khác wphucj cả hai khuynh hướng thường xảy ra
trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo
của Đảng.

11
Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn luôn coi trọng việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết Trung ương V
kháo X về việc tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị đã chỉ rõ các
mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, năng cao tính khoa học, năng
lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó
mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu qủa quản lý của Nhà nước,
chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy
dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và
trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đồng bộ với đổi
mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng
với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế cảu đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng
thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm;
vừa phải quán triệt các nguyên tác chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu,
nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.

2.2 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định
và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm
riêng của xã hội ltuw bản chủ nghĩa mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài
người, của nền văn minh nhân loại, Việt Nam cần tiếp thu.
Chúng ta hiểu chế định Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà
nước, một chế độ nhà nước. Trong lịch sử loài người chỉ có bốn kiểu nhà nước. Nhà
nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo năm đặc điểm sau đây:
- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và đảm
bảo cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân; năng cao
trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh
đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặ trận Tổ quốc Việt Nam
và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đạt kết quả cao cần thực hiện tốt một số
biện pháp lớn:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong
văn bản pháp luật; tổ chức thực thi pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
12
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế
bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy định xây
dựng luật, giảm mạnh việc ban hành luật. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
- Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự
giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các
cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức
thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
2.3 Xây dựng mặt trận mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện
cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiện tốt Luật Mặt trặn Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công
đoàn…,quy chế dân chủ ở mội cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các
tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc
phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức; nâng cao chất
lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

VI. Kết luận


Tóm lại, đổi mới tư duy là đúng, Hệ thống chính trị đã thực hiện có kết quả một số
đổi mới quan trọng, đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, chính trị, truyền thống, văn hoá được pháp huy, tuy nhiên khi liên hệ quá trình
thực hiện đổi mới chúng ta vẫn còn bất cập như:
1 - Năng lực và hiệu quả lạnh đạo của đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước,
hệ quả hành động của mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị –xã hội chưa ngang
tầm đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới.
2 - Việc cải cách nên hành chính quốc gia còn rất hạn chế, bộ máy hành chính còn
nhiều tầng nấc làm cho việc quản lý các qúa trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh và
có hiệu quả cao. Tình trạng quan liêu hách dịch, nhúng nhiễu của một bộ phận công
chức nhà nước chưa được khắc phục, kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều nơi.
3 - Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của mặt trận và các tổ chức chính trị -
xã hội vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính, xơ cứng, một số cán bộ bị “viên chức
hóa”, chưa thật gắn bó với quần chúng. Nạn tham nhũng hệ thống chính trị còn trầm
trọng, bệnh cục bộ, bản vị, địa phương còn khá phổ biến. quyền làm chủ của nhân dân
còn bị vi phạm.

13
4 - Vai trò giám sát, phản biện của mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội còn yếu, chưa có cơ chế thật hợp lý để phát huy vai trò này. Đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị nói chung, của mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội nói riêng chất lượng còn bị hạn chế, nhất là ở cấp cơ sở.
5 - Phương thức lãnh đạo của đảng đối với hành động của hệ thống chính trị còn
chậm đổi mới, có mặt lúng túng.
❖ Ý kiến khắc phục hạn chế đó:
+ Nâng cao nhận thức về đổi mới HTCT mang tính thống nhất cao, trong hoạch định
và thực hiện một số chủ trương, giải pháp phải triệt để
+ Việc đổi mới hệ thống chính trị phải quan tâm đúng mức, ít nhất là ngang tầm so với
đổi mới kinh tế.
+ Lý luận về hệ thống chính trị và về đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta phải được
sáng tỏ.

14
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XIII,
nhiệm kỳ 2015 - 2020.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Trường Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ, nhiệm kỳ 2019 - 2022.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) (2002), Giá
trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị Quốc
Gia.
5. Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng (1998), Đạo đức học, Nxb. Giáo
dục.
6. Chu Xuân Diên (2000), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp
luận và thể loại nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
7. Vũ Trọng Dung (chủ biên) (2006), Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị Quốc gia.
8. Dương Văn Duyên (chủ biên) (2013), Giáo trình đạo đức học đại cương,
Nxb. Chính trị Quốc gia.
9. Cao Thu Hằng - Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên) (2017), Giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
10. Nguyễn Ngọc Long (2000), Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc
gia.
11. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự
thật.
12. Hồ Chí Minh (2012), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự
thật.
13. Sơn Nam (1985), Cá tính miền Nam, Nxb. Văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh.
14. Lê Anh Trà (chủ biên) (1984), Mấy đặc điểm văn hóa Đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb. Viện Văn hóa.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập 1, Nxb CTQG, H, 2021, tr. 95.

15

You might also like