You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Khoa
-------------oOo-------------

BÀI TIỂU LUẬN


TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN
ĐỀ 15:
VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
TRONG ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT
NAM

Họ và tên:
Lớp học phần:
Giảng viên:

Hà Nội 2022
Tiếp
2.3. Vai trò của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng
Trong kiến trúc thượng tầng, Nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối
với cơ sở hạ tầng, làm chức năng bảo vệ, duy trì quyền sở hữu tư liệu sản xuất và
lợi ích của giai cấp thống trị thông qua bộ máy quyền lực Nhà nước, bao gồm: cảnh
sát, nhà tù, trại giam, quân đội, vũ khí tự vệ và chiến đấu.
Các yếu tố khác như: triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học
cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước và pháp luật chi
phối.
  Xét đến cùng kinh tế là nhân tố quan trọng quyết định đối với kiến trúc
thượng tầng. Nếu Kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội,
thì sớm hay muộn sẽ bị thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới, tiến bộ nhằm
thúc  đẩy kinh tế - xã hội phát triển

I. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam
1. Khái quát tình hình Việt Nam
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả
nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên
xã hội chủ nghĩa. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phóng kiến với nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, chịu tổn thất lớn do chiến tranh đã bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì hình thức quá độ
gián tiếp, chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng đất nước.
Thực tế, những khó khăn và sai lầm khuyết điểm đã mắc phải trong thời kỳ
trước đổi mới đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những
năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ trước đã làm cho Việt Nam không thể phát
triển. Trên cơ sở phân tích, thẳng thắn nhìn nhận những thiếu sót, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng
ta đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế dựa
trên ba nguyên tắc: một là, nhất thiết phải tuân theo quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất để xác định hình thức và
bước đi thích hợp; hai là, phải xuất phát từ thực tế của đất nước và vận dụng quan
điểm của V.I.Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ
quá độ; ba là, phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt - chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Chính đường lối đổi mới đúng đắn với những nội dung phù hợp đã tạo nên bước

1
chuyển căn bản và làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế nước ta theo hướng tích
cực.
Đánh giá tình hình đất nước sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội
lần thứ VIII của Đảng đưa ra nhận định rằng, về cơ bản, Việt Nam đã thoát ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta bước
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trong việc giữ vững ổn định chính
trị và phát triển kinh tế, cũng như khắc phục những khó khăn và yếu kém, Đại hội
VIII xác định nhiệm vụ tổng quát của chúng ta trong thời kỳ phát triển mới là đẩy
mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,... tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả
cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, cải thiện
đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế(2)
Tại các kỳ Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa... phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Có thể nói, trong suốt tiến trình đổi mới đất nước, sự
thống nhất giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế luôn được Đảng và Nhà
nước ta duy trì, củng cố và phát triển. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh, “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang đẩy mạnh... Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định”(3). Tựu trung lại, trong tiến trình đổi
mới, Đảng ta đã xác định những nội dung cơ bản, đó là: thứ nhất, chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; thứ hai, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thứ ba, gắn tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con
người; thứ tư, từng bước thực hiện đổi mới hệ thống chính trị.
Nhìn lại chặng đường gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta có
thể thấy rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển rõ rệt về trình độ lý
luận, tư duy lý luận của Đảng đã được đổi mới và có những tiến bộ đáng kể, thể
hiện qua các kỳ Đại hội. Qua tổng kết thực tiễn của quá trình đổi mới, những
nghiên cứu lý luận đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc bổ sung
2
và phát triển đường lối đổi mới của Đảng, tăng cường sự thống nhất về chính trị,
tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Yếu tố ổn định chính trị,
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta rất quan tâm, coi đó là yếu tố quyết định
hàng đầu. Trên thực tế, Việt Nam được đánh giá là một nước có nền chính trị ổn
định nhất trong khu vực.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác lý luận hiện vẫn chưa
theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định
chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị,
tư tưởng trong xã hội. Nói chung, trình độ tư duy lý luận của Đảng về nhiều mặt
vẫn có những bất cập so với yêu cầu của thực tiễn cách mạng nên vai trò tiên
phong, dẫn đường của lý luận cách mạng còn bị hạn chế. Do vậy, cần thiết phải
tiếp tục đổi mới công tác lý luận, bám sát thực tiễn, phân tích và tổng kết thực tiễn
để khái quát thành lý luận mới.
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác coi xã hội là một chỉnh thể bao gồm
nhiều bộ phận, yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, bổ
sung cho nhau và đều vận động, phát triển theo quy luật khách quan. Trong đó có
mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với biểu hiện
cụ thể là kinh tế và chính trị. V.I.Lênin cũng đã từng nói, chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế, chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Như vậy, có thể nói, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của mối
quan hệ giữa chính trị và kinh tế: một mặt, đánh giá cao vai trò của chính trị, coi
ổn định chính trị là sự thể hiện sức mạnh của một nền kinh tế mạnh và phát triển;
mặt khác, khẳng định sự phát triển vững chắc của nền kinh tế là cơ sở để củng cố,
tăng cường sức mạnh chính trị và giữ vững sự ổn định chính trị. Có thể nói, mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định chính trị luôn là vấn đề cốt lõi, quan
trọng nhất và xuyên suốt công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò
kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ
với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động
của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá
sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan

3
của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn quan liêu,
cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”1. Tức là phải lấy đổi mới kinh tế - cơ sở hạ tầng
làm trọng tâm đồng thời đổi mới kiến trúc thượng tầng với chính trị là đại diện.
Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn. Vai trò quyết định
của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ những biến đổi căn
bản trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến sự biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. Mác có
viết: Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi ít
nhiều nhanh chóng. Với cơ sở kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thì không thể phát triển cùng với kiến trúc thượng tầng biểu hiện tư bản
được. Vì vậy, muốn thay đổi toàn diện phải đổi mới cả kinh tế và chính trị.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là
“khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước và coi đó là mô hình kinh tế phù hợp
với thực tiễn Việt nâm. Nền kinh tế thị trường của Việt Nam bao gồm nhiều thành
phần kinh tế: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân) và thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mô hình phát triển kinh tế mới này thể hiện rõ quan
điểm đổi mới của Đảng và thực tiễn đổi mới kinh tế Việt Nam theo 3 phương diện:
một là, sự đoạn tuyệt với mô hình phát triển kinh tế cũ (mô hình kế hoạch hóa tập
trung); hai là, sự tìm tòi và quyết tâm xây dựng một mô hình phát triển nền kinh tế
mới phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại; ba là, xây
dựng nền kinh tế mới phải hướng đến mục tiêu phát triển chung của đất nước là
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vì vậy,
để củng cố kiến trúc thượng tầng vững mạnh thì cần phải mở rộng và phát huy vai
trò của các quan hệ sản xuất trong đời sống xã hội, cụ thể:
+ Thực hiện mở rộng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đặt dưới sự
quản lý của Nhà nước.
4
+ Thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối sản
phẩm nhằm bảo đảm lợi ích cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Qua đó, sẽ
kích thích, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, góp phần củng cố kiến
trúc thượng tầng và tình hình an ninh chính trị của quốc gia.
- Trong quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất
thống trị và mầm mống của quan hệ sản xuất tương lai.
+ Nhà nước và các tổ chức xã hội cần có cơ chế, chính sách loại bỏ dần các
quan hệ sản xuất tàn dư, lạc hậu và củng cố vững chắc quan hệ sản xuất thống trị
hiện tồn
+ Từng bước ưu tiên phát triển những quan hệ sản xuất mới tiến bộ, khoa học
nhằm thúc  đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động. Qua
đó, góp phần củng cố kiến trúc thượng tầng vững mạnh.
Kiến trúc thượng tầng là do cơ sở hạ tầng sinh ra. Vì vậy, phải xây dựng và
hoàn thiện một hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, đầu tư chiến lược phù hợp
với cơ sở hạ tầng, tức là phù hợp với quan hệ sản xuất hiện tồn và cơ cấu thành
phần kinh tế nhằm kích thích sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi
mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ
thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới,
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh chính trị
để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ
XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động
trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân. Chính trị và hệ thống chính trị trong đó có Đảng và
Nhà nước quyết định trực tiếp đến kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đổi mới về
chính trị, về kiến trúc thượng tầng nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ
sở kinh tế, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại
từ thời thuộc địa nửa phong kiến. Ngoài ra, kiến trúc thượng tầng còn định hướng
những hoạt động thực tiễn đam lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế - xã hội.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có nghĩa là
bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các lĩnh
5
vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn định
chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi
mới đất nước. Đảng khẳng định : Lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng
XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm
phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng
tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin”.
Có thể thấy,tính đa dạng, phức tạp và đan xen của cơ sở hạ tầng quy định tính
phức tạp nhiều mặt của kiến trúc thượng tầng ở nước ta, được biểu hiện cụ thể trên
lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
thể thống nhất của hai mặt không thể tách rời nhau. Toàn bộ xã hội thuộc về nhân
dân, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng
cố vai trò của Đảng và Nhà nước đối với toàn xã hội, đặc biệt là chức năng kinh tế
của nhà nước. Đồng thời Nhà nước cx đề ra đường lối chính sách phát huy tính
năng động của cơ sở hạ tầng, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động
của mọi cá nhân, tầng lớp xã hội. Làm sao để cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng
tầng cùng nhau phát triển, ảnh hưởng tích cực lẫn nhau, hoàn thiện và cùng tiến
lên hướng tới xã hội chủ nghĩa.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi
chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và
không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại
cho sự nghiệp đổi mới” 2.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành
thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng
bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
6
ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” 4. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính
trị”5.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong
các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến
hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”6. Đại hội XI của Đảng
đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong
Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”7.
Như vậy,về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện
đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế
theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo
đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực
hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu
là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới
7
chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng
đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong
Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra,
sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ
trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết là
thực hiện dân chủ trong Đảng.
Thứ hai, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của
mình; chống tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ
cương; phê phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những
hành vi lợi dụng dân chủ vì mục đích xấu
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
“làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát
triển”8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu chí
này đã chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta. Trong
8
những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đã
đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước.

9
Kết luận
Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới kinh tế và chính trị ở nước
ta đã một lần nữa chứng minh sự đúng đắn của quy luật phát triển và mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của cơ sở hạ
tầng phải tương ứng với sự phát triển của kiến trúc thượng tầng để đảm bảo hài hòa
cho sự phát triển của đất nước. Một đất nước phát triển đòi hỏi sự phát triển đồng
thời cả hai mặt kinh tế và chính trị. Không thể có một cơ sở hạ tầng phát triển trên
một kiến trúc thượng tầng lạc hậu, thấp kém.
Vận dụng sáng tạo và triệt để phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nhiệm vụ khó khăn của
Đảng. Với sự đồng lòng nhất trí, ra sức phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân tất yếu sẽ giành thắng lợi hoàn toàn.
Mặc dù tự hào về công cuộc đổi mới của Đảng nhưng chúng ta cũng cần nhìn nhận
thẳng thắn và khách quan những thiết sót chưa thể giải quyết. Đó là những biểu
hiện tiêu cực của Đảng viên: tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, lợi ích cá
nhân. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến chính trị, kinh tế của đất nước và cần được
loại bỏ càng sớm càng tốt.
Cho dù vẫn còn những hạn chế, thiếu sót tuy nhiên mỗi người dân Việt Nam trong
đó có em cần phải tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực học tập,
rèn luyện tư duy kkhoa học, linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng những lý luận vào
thực tiễn cuộc sống, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Tài liệu tham khảo:


1. Giaso trình Triết học Mác lênin - Nxb Chính trị Quốc Gia sự thật(2021)
2. Giaso trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - Nxb Chính trị
Quốc Gia sự thật(2017)
3. Văn kiện đại hội Đảng
4. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: dangcongsan.vn
5. Tạp chí điện tử: Lý luận chính trị http://lyluanchinhtri.vn

10

You might also like