You are on page 1of 19

Đề 15.

Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết các vấn đề
thuộc chính sách xã hội theo tinh thần Đại hội XII (2016) – Liên hệ địa phương
Anh/Chị
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Bối cảnh lịch sử và những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung Đại hội XII (2016)
2.Nội dung và ý nghĩa của Đại hội XII
2.1 Nội dung
2.2 ý nghĩa
II. Vận dụng
1. Làm rõ những nội dung thuộc về Chính sách xã hội (1 trong 6 nhiệm vụ
trọng tâm mà Đại hội XII có đưa ra)
2. Làm rõ sự cần thiết phải chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo
đảm an sinh xã hội.
3. Liên hệ địa phương
3.1 - Về chính sách ưu đãi người có công
3.2 - Về bảo đảm an sinh xã hội
3.3 - Về trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
3.4 - Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân,
đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc
thiểu số
3.4.1 Bảo đảm giáo dục tối thiểu
3.4.2 Bảo đảm y tế tối thiểu
3.4.3 Bảo đảm nhà ở tối thiểu
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và nghị quyết các hội nghị Trung
ương khóa XI, tình hình kinh tế - xã hội đất nước tiếp tục có những chuyển biến
sâu sắc. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện
ba đột phá chiến lược bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Giáo dục,
khoa học, văn hóa, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được chú trọng. Việc
bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm.
Chính trị - xã hội ổn định, an ninh - quốc phòng được tăng cường. Thể chế về
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Quan
hệ đối ngoại rộng mở, đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và
quốc tế. Vị thế, uy tín của nước ta tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế.
Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng cường.
Đại hội XII của Đảng tiến hành vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng. Toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và
nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Chúng ta đã trải
qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm
2013.

Đại hội XII sẽ đi sâu kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, nhìn lại 30
năm đổi mới, rút ra những bài học; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong 5 năm tới. Đại hội XII cũng sẽ kiểm điểm sự
lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; đánh giá việc thi hành
Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII gồm các
đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo,
bản lĩnh và trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới. Trong đó cần chú trọng nhất trong việc giải quyết các
vấn đề thuộc chính sách xã hội theo tinh thần Đại hội XII. Từ những lý do trên,
em xin chọn đề tài:” Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết
các vấn đề thuộc chính sách xã hội theo tinh thần Đại hội XII (2016) – Liên hệ
địa phương Anh/Chị” làm đề tiểu luận của mình

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Bối cảnh lịch sử và những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung Đại hội XII
(2016)
Đại hội XII của Đảng họp từ ngày 20 đến 28/1/2016 tại thủ đô Hà Nội. Đại
hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức
tạp, khó lường. Đất nước đã qua 30 năm đổi mới, thế và lực tăng lên rõ rệt, có
cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt.
Dự Đại hội có hơn 1.510 đại biểu, thay mặt cho 4,6 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đại hội đã tổng kết 30 năm đổi mới, bầu BCH TW và bầu lại đồng chí
Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư của Đảng.
Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hưởng hiện đai".
2.Nội dung và ý nghĩa của Đại hội XII
2.1 Nội dung
Đại hội XII khẳng định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ đổi mới, đặc biệt chú
trọng tập trung lãnh đạo, chi sáu nhiệm vụ trọng tâm:
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biển”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Chú trọng
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược; chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới..
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại.
Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm
lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm an sinh xã hội. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sau Đại hội XII, Trung ương đã tiếp tục chỉ đạo đổi mới những lĩnh vực trọng
Hội nghị Trung ương 4, khóa XII (10-2016) đã chủ trương “Thực hiện hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối
cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Quan điểm
chỉ đạo của Trung ương là:
Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa
quan quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia-
dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập
kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực
khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là
sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng
đi đầu. Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ
động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình
thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là
trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị-xã hội.
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới.
Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, tăng cưởng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
tiến trình hội nhập quốc tế.
Hội nghị Trung ương 5 (5-2017) chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là:
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát
triển nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn.
Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế.
Gắn kết hải hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoả IX (8-2001), các doanh nghiệp nhà
nước tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Vai
trò của doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế còn hạn chế; hiệu quả sản
xuất kinh doanh và đóng góp cho nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với
nguồn lực Nhà nước đầu tư; nợ nân, thua lỗ, thất thoát lớn. Trước tình hình đó,
Hội nghị Trung ương 5 (5-2017) chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Quan điểm chỉ đạo: Doanh
nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc
cổ phần, vốn góp chi phối ở những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn
quan trọng và quốc phòng, an ninh; là lực lượng vật chất trọng của kinh tế nhà
nước; hoạt động theo cơ chế thị trưởng, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh
giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng và có vai trò
nòng cốt, dẫn dắt phát triển các với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác. Trung ương đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm
2020 và năm 2030 và đưa ra những nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá
IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển kinh tế tư nhân”, kinh tế tư nhân ở nước ta đã không ngừng phát triển,
đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước. Việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân còn hạn chế, yếu kém. Hệ thống pháp luật, các
cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều bất cập,
thiếu đồng bộ. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan
trọng của nền kinh tế. Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong
kinh tế tư nhân còn khá phổ biến.
Nhằm tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân, Hội nghị Trung ương 5, khóa XII (5-
2017) chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự
cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai
trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là
không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển,
giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển
bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về
biển, góp phần duy trì môi trưởng hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển
bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là
quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam.
Trung ương đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và
năm 204, một số chủ trương lớn và khâu đột phá, các giải pháp để thực hiện
Chiến lược biển tiếp tục phát triển phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
trong nhiều năm tới
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm về công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, về sinh hoạt đảng về năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng... Hội nghị Trung ương 4 (10-2016) ra
Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong nội bộ.
Đảng đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều
chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị. Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-
xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ
công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh
hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
quyền làm chủ của nhân dân và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp
phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực,
hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; cơ cấu bên
trong chưa hợp lý; tổ chức bộ máy của khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp công lập chậm được đổi mới; tổ chức và biên chế
ngày càng phình to; cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
còn chưa hợp lý. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước ở các
đơn vị sự nghiệp công và người hoạt động không chuyên trách cấp xã ngày càng
nhiều...
Đảng đã có nhiều quyết sách đúng đắn về cán bộ và công tác cán bộ; kiên trì,
kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp, đạt
được những kết quả quan trọng. Nhờ đó, đội ngũ các cấp đã có bước trưởng
thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ
tuổi, giỏi tỉnh, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn.
Đội ngũ cán bộ và công tác căn hộ còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém.
Cơ cấu giữa các ngành, nghề, lĩnh vực chưa thật sự hợp lý, thiếu sự liên thông
giữa các cấp, các ngành, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa
học và chuyên gia đầu ngành.
Hội nghị Trung ương 7 khai XII (5-2018) đã ban hành Nghị quyết tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, tầm nhiệm vụ. Tháng 10-2018, Hội nghị Trung ương 8 của Đảng
đã ban hành Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết
là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Ngày 14-1-1993, Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã ban hành Nghị quyết
chuyên để về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân
dân. Năm 2005, Bộ Chính trị khóa IX cũng ra Nghị quyết về vấn đề này. Việt
Nam được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục
tiêu Thiên niên kỷ trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
Hội nghị Trung ương 6 khoá XII (10-2017) đã ban hành Nghị quyết tăng cường
công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới
và Nghị quyết về công tác dân số trong tỉnh hình mới .
Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội là một bộ phận rất quan trọng, có
quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế-xã
hội. Trong vấn đề này, song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Hội nghị Trung
ương 7 khoá XII (5- 2018) đã ban hành Nghị quyết cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao
động trong doanh nghiệp và Nghị quyết cái cách chính cách bảo hiểm xã hội .
Trung ương đã đưa ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp, trong đó
nhấn mạnh: Cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ
thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả
những hạn chế; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật của
kinh tê thị trường. Bảo hiểm hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chính
sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các
cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã
hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
2.2 ý nghĩa
Đại hội đã nhìn lại 30 năm đổi mới và một lần nữa khẳng định: Qua 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn
tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình
hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường; thách thức đan
xen, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết; cán bộ, đảng viên, nhân dân ta đặt
kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng để phát triển đất
nước ta nhanh và bền vững hơn. Đại hội không chỉ kiểm điểm việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng mà đánh giá 10 năm thực hiện Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020, mà còn nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực
hiện Cương lĩnh năm 1991. Đại hội quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ nhiệm kỳ 2021-2020, phương hướng, mục tiêu đến năm 2030 (kỷ niệm 100
năm thành lập Đảng) và tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam)
II. Vận dụng
1. Làm rõ những nội dung thuộc về Chính sách xã hội (1 trong 6 nhiệm
vụ trọng tâm mà Đại hội XII có đưa ra)
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta đã có
những nhận thức đúng đắn và ngày càng rõ hơn về nhân tố con người, được thể
hiện ở quan điểm coi con người là nguồn vốn quý giá nhất; nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của con người, phát triển con người là mục tiêu cao nhất;
do vậy sự phát triển của con người nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, là nhiệm vụ cao cả nhất của Đảng, Nhà nước và toàn bộ hệ
thống chính trị. Nhận thức mới này thể hiện tính ưu việt của sự nghiệp xây dựng
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, vừa khắc phục quan niệm, nhận thức
đã từng tồn tại trong thời gian dài cho rằng mục tiêu cao nhất của quá trình phát
triển đất nước là chủ nghĩa xã hội, còn sự phát triển con người chỉ như phương
tiện để thực hiện mục tiêu đó. Nhận thức mới về nhân tố con người giờ đây
không còn chung chung, trừu tượng như trước đây, mà đã mang tính cụ thể,
thiết thực, bao gồm cả cộng đồng những con người (giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi,
giới, dân tộc, tôn giáo, địa phương, cơ quan, doanh nghiệp,tổ chức – xã hội…)
và con người cá thể; cả phẩm chất, trình độ, năng khiếu, năng lực, nhu cầu, các
quan hệ gia đình và quan hệ xã hội; cả con người với tư cách công dân và con
người với tư cách một thành viên của một tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, một tổ chức kinh tế, một giáo hội. Nhân tố
con người vì vậy gắn rất chặt với các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Từ tư duy mới của Đảng về vai trò con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa
là động lực để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, Đảng ta xác định rõ các nhiệm
vụ và giải pháp có tính chất toàn diện và tổng thể chiến lược phát triển con
người trong thời kỳ đổi mới, từ công tác kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc
làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội; xây dựng lối sống văn
hóa; đảm bảo an toàn xã hội; khôi phục trật tự, kỉ cương trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội; chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe của nhân dân; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội;…đến thực
hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Phải bằng một hệ thống
chính sách xã hội toàn diện, sâu sát và cụ thể mới tạo điều kiện xây dựng và
phát triển con người, phục vụ đắc lực yêu cầu của công cuộc đổi mới. Và được
thể hiện rất rõ qua các kỳ Đại hội của Đảng ta.
Đại hội VII khẳng định rõ hơn: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất
với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con
người và vì con người”. Như vậy, các chính sách xã hội không thoát ly khỏi
điều kiện kinh tế và nó phải thật sự là một động lực phát triển kinh tế; thực hiện
các chính sách xã hội cũng là thực hiện công bằng trong kinh tế, trước hết là tạo
sự công bằng trong cơ hội lao động, cơ hội thể hiện các năng lực sáng tạo của
mỗi cá nhân, từ đó có công bằng trong phân phối lợi ích, thu nhập và tự cải
thiện đời sống của mình, giảm bớt sự bao cấp của nhà nước.
Chăm lo xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta.
Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII (1993) đã ra 5 Nghị quyết quan trọng:
Nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ trong những năm trước mắt;
Nghị quyết về sự nghiệp giáo dục - đào tạo; Nghị quyết về những vấn đề cấp
bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; Nghị quyết về chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Nghị quyết về công tác thanh niên trong
thời kỳ mới. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết tập
trung vào chủ đề xây dựng con người và phát huy vai trò của con người trong sự
nghiệp phát triển đất nước và khái niệm “chất lượng cuộc sống con người” được
Đảng chính thức sử dụng.
Hội nghị Trung ương năm khóa VII của Đảng (năm 1998) đã xác định nhiệm
vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức
tính cụ thể như sau: có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích
chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh; lao động chăm chỉ với lương
tâm nghề nghiệp; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên
môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Trong những phẩm chất cơ bản của con
người mới mà chúng ta xây dựng hiện nay đã chứa đựng những tố chất mới phù
hợp với cơ chế thị trường và yêu cầu thời đại. Phạm trù “con người” ở đây là
“con người chất lượng”, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhất quán tư tưởng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì
con người và coi con người luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã
hội. Con người trước hết là tiềm năng trí tuệ, tinh thần, đạo đức, là nhân tố
quyết định là vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Quan điểm đó được nhấn mạnh: “Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý
thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo
đức, lối sống, nếp sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn
lên vì tương lai của mỗi ngươi và tiền đồ của đất nước, bồi dưỡng ý thức và
năng lực phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: chiến lược
con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương, chính
sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể
của mọi hành động kinh tế, văn hóa xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng là phục vụ nhân dân.
Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các đại hội trước, trong
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định: “Xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc
tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt
là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con
người Việt Nam”. Đặc biệt Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước được tiếp tục khẳng định việc:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Quan điểm này khẳng định những phẩm chất cần có trong quá trình xây dựng
con người mới hiện nay.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh nhân tố con người
gắn với xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hóa và con
người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và
thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hóa. Yếu tố con người được đề cập là
những con người rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực, kỹ năng, trách nhiệm xã hội, việc xây dựng con người phải thông qua hoạt
động thực tiễn, cụ thể của từng người, chứ không nói chung chung. Đồng thời
chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống,
trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”. Đảng ta
khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành
một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa
và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân
cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội,
nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đây là quan điểm mà Đảng ta
luôn nhất quán, mang tính định hướng chiến lược trong xây dựng, phát triển con
người Việt Nam.
Kế thừa và phát triển những nội dung cốt lõi về vấn đề con người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII
của Đảng đã khái quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng,
phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
kinh tế - xã hội đất nước.
Trước hết, lấy con người làm trung tâm và kiên định phát triển con người
Việt Nam toàn diện. Đảng ta chủ trương: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con
người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục
tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm phát triển bền vững; phải có cơ chế, chính
sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà
nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc
của Nhân dân”. Tại Đại hội XIII, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã được đúc kết
thành bài học, với những nguyên tắc cơ bản, định hướng mọi chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn tới. Nghị quyết Đại hội tiếp tục khẳng
định các giá trị, nội dung cốt lõi của bài học “lấy dân làm gốc”, đó là: Phải luôn
quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”. Bài học “lấy
dân làm gốc” càng trở nên sâu sắc và có ý nghĩa hơn khi được thực thi một cách
hiệu quả cùng với phát huy tối đa nguồn lực con người Việt Nam. Quan điểm về
nguồn lực con người, đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng. Thực hiện chủ
trương trên, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, cần: “Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao
đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”; thực hiện phương châm: “Đào
tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm
công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ
thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn
cầu)”. Nhấn mạnh thêm về con người là động lực của sự phát triển, Đảng ta
khẳng định con người và nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, tạo môi
trường, điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự
hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài năng, phẩm chất của con người
Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất
nước.
Với những quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong suốt
chặng đường phát triển đất nước đã phát huy hiệu quả và đạt được nhiều thành
tựu to lớn: Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế cũng ngày càng khởi sắc và
trên đà phát triển ổn định, đời sống của người dân được cải biến rõ nét, con
người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của
Đảng và thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất; chăm lo cho hạnh
phúc của con người là tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của Đảng, là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta…
2. Làm rõ sự cần thiết phải chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
bảo đảm an sinh xã hội.
Trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”(2). Chăm lo đời sống nhân dân, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ
quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đầy đủ
và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới và
ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần.
Ngay từ khi Đảng vừa ra đời, trong Chương trình tóm tắt của Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai
cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Khi đất nước vừa giành
được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Người cùng Chính phủ xác định rõ những nhiệm vụ cấp
bách cần tập trung giải quyết, trong đó việc chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ
nạn xã hội; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện quyền tự do, dân chủ,... là
những nội dung, biện pháp và bước đi quan trọng để từng bước chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người đề nghị Chính phủ lâm thời phát
động một chiến dịch tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để cứu đói. Trong
thư Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng
gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là cách thiết thực của chúng ta để
giữ vững quyền tự do, độc lập”(3). Để cứu đói dân nghèo trước khi thu hoạch
vụ mùa, Người kêu gọi sẻ cơm nhường áo trên tinh thần “lá lành đùm lá rách”
và gương mẫu thực hiện trước, “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3
bữa, mỗi bữa nhịn một bơ”. Và đem gạo đó để cứu dân nghèo. Sau một thời
gian ngắn phát động, nhân dân cả nước đã quyên góp được một lượng lớn lương
thực và nạn đói sớm được khắc phục.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu
phương của tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chăm lo đời sống, hạnh phúc của nhân
dân là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới. Người cho rằng: “Nói một cách đơn
giản và dễ hiểu là: Chủ nghĩa xã hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(4). Người diễn giải mục
đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ… Xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa thì
quyền lợi cá nhân, quyền lợi Nhà nước và quyền lợi tập thể mới thống nhất. Vì
vậy, muốn nâng cao đời sống nhân dân, đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để chăm lo tốt cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân, trước hết phải xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính phủ phải là công bộc của dân. Công
việc của Chính phủ phải nhằm một mục đích duy nhất là đem lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Chính sách của Ðảng và Chính
phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Ðảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Ðảng
và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Ðảng và Chính phủ có lỗi”(5). Vì vậy, cán
bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết. Phải lãnh đạo,
tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì
những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân
đói, rét, bệnh tật thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện
được. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định trách nhiệm của Đảng, Chính phủ
là bảo đảm tự do, hạnh phúc cho nhân dân, bởi “Nếu nước nhà độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Trên tinh thần các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ “hứa với dân, sẽ gắng
sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”. Trong việc kiến thiết nước nhà, sửa
sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà làm được
hết. “Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng phương châm... Việc gì
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6).
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, xác định công việc cụ thể, bước đi thích hợp
để chăm lo đời sống nhân dân, góp phần từng bước đẩy lùi nạn đói và mang lại
quyền lợi dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh rằng, xây dựng và phát triển đất nước sau kết thúc chiến tranh
luôn là một nhiệm vụ to lớn, nặng nề và phức tạp mà cũng rất vẻ vang. Đó là
một cuộc “chiến đấu”, đầy khó khăn để chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng;
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Ðể giành lấy thắng lợi trong cuộc “chiến
đấu” ấy, Đảng và Chính phủ không chỉ cần tiến hành “khôi phục và mở rộng
các ngành kinh tế”; “phát triển công tác vệ sinh, y tế”; “sửa đổi chế độ giáo dục
cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”; “củng cố quốc phòng”,... mà còn
phải động viên toàn dân, tổ chức, giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại
của toàn dân và tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh
phúc của mình.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(7). Vì “đầu tiên là công việc đối
với con người”, nên Người căn dặn phải chăm lo cho các đối tượng “cán bộ,
binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong” để họ có nơi ăn, chốn ở yên
ổn đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người; quan tâm
đến “cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng
thiếu”, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích
hợp, quyết không để họ bị đói rét; có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc
và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc
lãnh đạo. Cùng với đó, Nhà nước và các cấp chính quyền phải vừa dùng giáo
dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo và giúp “những nạn nhân của chế độ xã hội
cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... trở nên những người lao động
lương thiện”; miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào thêm
niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất… Những điều Người dặn, những quyết
sách mà Người cùng Đảng và Chính phủ nỗ lực thực hiện đã góp phần chăm lo
đời sống nhân dân, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
3. Liên hệ địa phương
3.1 - Về chính sách ưu đãi người có công
Tập trung triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với người có công, chú trọng giải
quyết những trường hợp còn tồn đọng. Nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi
người có công phù hợp với lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu. Ðến hết năm
2013, hỗ trợ giải quyết cơ bản về nhà ở đối với hộ người có công đang có khó
khăn về nhà ở. Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp đối với người có công và
thân nhân về phát triển sản xuất, việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản,
nhất là y tế, giáo dục, đào tạo. Ðẩy mạnh việc tu bổ nghĩa trang, tìm kiếm và
quy tập hài cốt liệt sĩ, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Có biện pháp khắc phục
có hiệu quả tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách người có công.
3.2 - Về bảo đảm an sinh xã hội
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất,
tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người
nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc
biệt khó khăn. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; khẩn trương nghiên cứu
xây dựng Chương trình việc làm công. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ thất
nghiệp chung dưới 3%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%.
Ðẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương
trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chú trọng các chính sách giảm
nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu
số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó
khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, thu hẹp chênh lệch về mức sống và an
sinh xã hội so với bình quân cả nước. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách
hỗ trợ hộ cận nghèo để giảm nghèo bền vững. Phấn đấu đến năm 2020, thu nhập
bình quân đầu người của hộ nghèo tăng trên 3,5 lần so với năm 2010, tỷ lệ hộ
nghèo cả nước giảm 1,5 - 2%/năm; các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao giảm
4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.
Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng,
bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo
hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của Quỹ bảo hiểm xã
hội. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong
khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Rà soát, bổ sung
quy định buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao
động theo quy định của pháp luật. Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực
lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; 35% lực lượng lao động tham gia bảo
hiểm thất nghiệp.
3.3 - Về trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ
hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường
xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện
được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội.
Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình chăm sóc
người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu
vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi,
người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Phấn đấu đến năm 2020 có
khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên, trong đó trên
30% là người cao tuổi.
Thực hiện tốt công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp
rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương
thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; mở rộng
sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng.
3.4 - Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người
dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào
dân tộc thiểu số
3.4.1 Bảo đảm giáo dục tối thiểu
Tiếp tục thực hiện các chiến lược, chương trình, đề án về giáo dục. Mở rộng
và tăng cường các chế độ hỗ trợ, nhất là đối với thanh niên, thiếu niên thuộc hộ
nghèo, người dân tộc thiểu số ở các huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó
khăn để bảo đảm phổ cập giáo dục bền vững. Tăng số lượng học sinh trong các
trường dân tộc nội trú, mở rộng mô hình trường bán trú; xây dựng và củng cố
nhà trẻ trong khu công nghiệp và vùng nông thôn. Xây dựng đề án phổ cập mầm
non cho trẻ dưới 5 tuổi. Nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở, đặc biệt
là đối với con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Phấn đấu đến năm 2020 có 99% trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học, 95%
ở bậc trung học cơ sở; 98% người trong độ tuổi từ 15 trở lên biết chữ; trên 70%
lao động qua đào tạo.
3.4.2 Bảo đảm y tế tối thiểu
Tiếp tục triển khai chiến lược, các chương trình, đề án về y tế, nhất là đề án
khắc phục quá tải ở các bệnh viện. Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân
dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hoàn thiện việc phân công quản lý các đơn vị
thuộc ngành y tế ở địa phương. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức
khỏe bà mẹ và trẻ em. Ðến năm 2020, trên 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng
đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân 10%. Ðẩy mạnh
việc thực hiện Chương trình phòng, chống lao quốc gia, giảm mạnh số người bị
mắc bệnh lao và chết do lao, phấn đấu đưa Việt Nam ra khỏi danh sách 20 nước
có tỷ lệ người mắc bệnh lao cao nhất thế giới.
Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng miền núi, các hộ nghèo. Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế, đổi mới
công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế, có chính sách khuyến khích người
dân, nhất là người có thu nhập dưới mức trung bình tham gia bảo hiểm y tế. Ðến
năm 2020 trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế.
3.4.3 Bảo đảm nhà ở tối thiểu
Cải thiện điều kiện nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị,
từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công
nghiệp và học sinh, sinh viên.
Ðẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa nhà tạm giai
đoạn 2013 - 2020. Ðổi mới cơ chế hỗ trợ nhà ở cho người thu nhập thấp ở đô thị
để có giá thuê, giá mua hợp lý với các đối tượng. Tập trung khắc phục những
khó khăn về đất đai, quy hoạch, vốn, thủ tục, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh
doanh tham gia thực hiện các dự án phát triển nhà ở xã hội, có chính sách ưu đãi
cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các khu công nghiệp.
C. KẾT LUẬN
Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986-2016), Đại hội XII của Đảng khẳng định: 30
năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự phát triển của nước ta,
đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi
mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới
và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Nhiều vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải
quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội.
Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng
đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa
đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Ngoài ra phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với kinh tế thị trường và
tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận các chính sách an sinh xã hội, nhất là bảo
hiểmxã hội, giảm nghèo và hòa nhập xã hội nhóm yếu thế (trợ giúp xã hội)…
chính là thực hiện công bằng trong kinh tế thị trường và là một trong những chỉ
báo quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển hệ thống an sinh xã
hội đa tầng, linh hoạt có khả năng bảo vệ và giúp mọi người chống đỡvới các
rủi ro xã hội trong kinh tế thị trường là một trong những mục tiêu pháttriển xã
hội quan trọng hướng vào phát triển con người. Và do đó, trở thànhyếu tố, động
lực thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Đầu tư cho chính sách ansinh xã hội cũng
chính là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển.

Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nộidung
chủ yếu trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của đất nước ta.
Đây cũng là một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
Với nhận thức mới và quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, bằng sự lãnh đạo
sáng tạo của cấp ủy đảng, sự quản lý chỉ đạo có hiệu lực hiệu quảcủa chính
quyền các cấp, sự tham gia sâu rộng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân và toàn xã hội, nhất định chúng ta sẽ thực hiện ngày càng tốt hơn
nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, nângcao đời sống vật chất,
tin thần cho nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.76.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.217.
4. .Nguyễn Thị Loan Anh (2013), Một số ý kiến về chế định quyền an sinh
xãhội trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
5. Đặng Nguyên Anh (2015) (Chủ nhiệm đề tài),“Đảm bảo an sinh xã hội:Định
hướng mô hình và giải pháp”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Hàn lâmKhoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội

You might also like