You are on page 1of 5

Bài tự học 2

Phân tích mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam

Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai
trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong
quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về
tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can
thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh
chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn
quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả. Từ khi đổi mới đến nay, về
quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.

Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền
kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới,
kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.

Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành
của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh
chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền
dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có
nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện
cho các lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện
hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình đổi mới đất nước. Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong
Đảng và trong nhân dân, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá
VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi
mới theo đúng định hướng XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những
quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về
chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.

Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6
Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt
đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một
cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có
mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về
chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và
thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị
lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng
trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta
là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta
không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức
chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính
sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng
cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để
tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh
tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân
dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Kinh nghiệm thành
công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”.

Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản,
trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong
đổi mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết
và hàng đầu. Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh “làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới
và phát triển”8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói
riêng. Tiêu chí này chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của
Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:

- Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn đối
với dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải
bắt đầu từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các
nước XHCN khác ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập
tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản
lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
- Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển
đổi cơ chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh
tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện
rỡ rệt. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích
của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân
dân nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi
thở” cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách vừa có tính định hướng,
vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống,
tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần sáng tạo,
tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời
sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ
chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm hiện
Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra
khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng
cường”.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối
quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn
có nhiều đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình
lâu dài và phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới
và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng
định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó
trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ
thể. Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính
trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”; “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế
và quản lý đất nước”; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém,
chậm được khắc phục”. Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ
với đổi mới kinh tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm
kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần
do chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng
với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta
mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa
thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và
cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.

Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là
thực chất, yêu cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ
quá độ lên CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.

You might also like