You are on page 1of 12

VẬN DỤNG TRIẾT HỌC

1)Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:


Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách
mạng của Việt Nam:
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất.
Cụ thể là:
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm
nền tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để
đề ra đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng
cơ sở lý luận của triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã
khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên
tắc được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt
Nam. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật
khách quan. Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.
Trong nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực
tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình,
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định
các đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực
hóa đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là
động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau
(lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể, lợi ích xã hội...) thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Đồng thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của con
người trong việc nhận thức,tác động cải tạo thế giới. Quan điểm khách quan trên giúp ta
ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ
việc cường điệu tính sáng tạo của ýthức, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí,
bất chấp qui luật khách quan, xa rời hiện thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất.
Ở nước ta, trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt
bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng
vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng
các thành phần kinh tế ….Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh
tế, đã có hiện tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là
phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp ,
phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển lực lượng sản
xuất.
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý
luận, do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan. Chúng
ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan
của vật chất, của các qui luật tự nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ
quan.
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và
hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận,
nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó
là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất
quá độ.
Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế
khách quan của đất nước và phù hợp qui luật. Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó càng nắm
bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác , đầy đủ trung thực và xử lý các thông
tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu quả .Đồng thời cần
thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri thức củng như
các qui luật của thế giới khách quan .
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức . Đảng ta xác định
;Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật
khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan). Như
vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ vật chất và ý thức, củng như từ những
kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng
ta đả rút ra bài học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện
nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi
Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức
đúng, tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và
toàn cầu hoá đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước a
trải qua.
7) Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng
trầm, đầy khó khăn thậm chí đã rơi vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng về kinh tế
do việc vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan, nhất là về phạm trù hình thái
KT - XH.
Thật vậy, trước thời kỳ đổi mới quan điểm con đường đi lên CNXH của nước ta
là quá độ thẳng trực tiếp từ sản xuất nhỏ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN. Tức là không có trung gian, không chấp nhận kinh tế hàng hoá, phủ nhận kinh
tế thị trường, bỏ qua kinh tế nhiều thành phần, phủ nhận những bước đi mà CNTB khi
chiến thắng chế độ phong kiến đã từng thực hiện, trong khi đó LLSX chúng ta còn yếu
kém, lạc hậu… Kết quả trong thời gian dài đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế, xã hội trầm trọng. Bài học kinh nghiệm xương máu ấy đã được Đảng ta đánh
giá trong đại hội VII một trong những sai lầm là bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan và đã phân tích những biểu hiện cụ thể của căn bệnh trong một số
lĩnh vực : Nóng vội trong cải tạo XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần ;
có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp năng; duy trì quá lâu cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả
tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm
trọng.
Nguyên nhân cơ bản mà Đảng ta đã chỉ ra đó là về mặt nhận thức, sự yếu kém
lạc hậu về tư duy lý luận dẫn đến việc nhận thức và vận dụng các quy luật đang hoạt
động trong thời kỳ quá độ, từ đó cho ra đời những chủ trương chính sách thiếu căn cứ
khoa học, xa rời với thực tế. Sai lầm về chủ quan duy ý chí.
Những sai phạm nêu trên đã đưa XH Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Thực tế,
người lao động không còn động lực trực tiếp về lợi ích để phấn đấu, không phát huy,
tạo môi trường thuận lợi để khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh
tế nên sức sản xuất vật chất bị đình trệ, kìm hảm làm cho đời sống nhân dân cực kỳ
khó khăn, xã hội rối ren, phức tạp, người dân mất niềm tin nơi nhà nước. Nhìn nhận
vấn đề trên, có thể kết luận chủ yếu do khả năng yếu kém trong nhận thức thực tiển,
yếu kém trong nghiên cứu CN Mác – Lênin nên mô hình XD CNXH đã bị chệch
hướng so với mô hình được Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng.
Từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đảng ta thực hiện đường lới đổi mới đất
nước, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng được đổi mới và xác định ngày càng rõ
nét và đúng đắn phù với quá trình lịch sử-tự nhiên đặc thù của nước ta. Đại hội VIII
của Đảng ta chỉ ra rằng “ Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng xác định rõ
hơn” đến đại hội đảng lần thứ IX của Đảng thì cho rằng “ Chúng ta nhận thức ngày
càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta”, và khẳng định “ con đường đi lên
của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa…”. Như vậy, chúng ta không bỏ qua những thành tựu về khoa học
công nghệ và cơ sở vật chất, tiếp tục chọn lọc kế thừa và điều chỉnh để phát triển
thành quả đó ngày càng tốt hơn; không được bỏ qua kinh tế hàng hoá thị trường,
không được bỏ qua những thành tựu kinh nghiệm mà chủ nghĩa tư bản đạt được; đặc
biệt không để mất vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý điều hành của
nhà nước vô sản. đại hội IX của Đảng còn nêu rõ những nội dung, nhiệm vụ cụ thể mà
con đường đi lên CNXH ở nước ta phải thực hiện đó là :Phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều chặn đường, tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH; Phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN; Tiếp tục thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại mở cửa.
Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế; thực hiện thắng lợi nội dung, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN; đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo của đảng cộng sản, xem
đó là nhân tố quyết định giữ vững định hướng XHCN; phát triển lực lượng sản xuất,
phải gắn với việc đồng thời xây dựng và hoàn thiện cả quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng theo định hướng XHCN; Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với đảm bảo
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá giáo dục, đào tạo con người, xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc; Kết hợp phát triển KT - XH với quốc phòng an ninh và phải đảm bảo cho
được kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng
kinh tế quốc dân…
Có như vậy chúng ta mới có thể tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả các
lĩnh vực dù biết rằng đó là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặn đường để thực hiện bằng được mục tiêu cuối cùng là
ước nguyện của cả dân tộc : xây dựng thành công CNXH theo mô hình đã được xác
định trong Cương lĩnh Đảng lần thứ VII. Đó là một xã hội “Do nhân dân dân lao
động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức bốc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động. Có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Thế kỷ 21 là thế kỷ khoa học và công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, kinh tế
trí thức ngày càng có vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển của
lực lượng sản xuất của các quốc gia; toàn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế khách
quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, trong đó có nước ta; cơ sở vật chất
kỹ thuật nước ta ngày càng được tăng cường, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển
nhanh, tích luỹ nội bộ kinh tế tăng trưởng qua từng năm và cơ cấu kinh tế nước ta có
bước chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại, vấn đề lương thực cơ bản đã được giải
quyết và đã có xuất khẩu cao, nhiều năm liền chúng ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới; đất nước còn nhiều tiềm năng to lớn về tài nguyên và lao động.
Tình hình chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường;
đặc biệt giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng, đảng luôn thể hiện chính trị vững vàng
và có đường lối lãnh đạo đúng đắn; Nhà nước đã có nhiều cố gắng lớn trong việc điều
hành quản lý; quan hệ đối ngoại luôn được mỡ rộng hội nhập kinh tế quốc tế được chủ
động và đạt hiệu quả tốt. Nhờ vậy chúng ta tranh thủ được ngoại lực, nguồn vốn công
nghệ, kinh nghiệm quản lý , mỡ rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá.
Mặt khác nhân dân ta có phẩm chất tốt. Toàn dân, toàn quân ta tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng; phát huy được lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm,
đoàn kết nhất trí, cần cù năng động sáng tạo, tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa.
Với kết quả đạt được qua gần 20 năm đổi mới và những tiền đề khách
quan chủ quan như trên, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhất định sẽ thành công như mong đợi.
Đảng ta đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta:
Nước ta là nước có nền kinh tế kém phát triển, LLSX đa dạng khác nhau, do
vậy ta phải xây một QHSX đa dạng phù hợp LLSX đa dạng đó như: Xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế ứng với một quan hệ sở hữu, một
kiểu tổ chức, quản lý,…như thế nào cho phù hợp với sự đa dạng của LLSX.
LLSX nước ta đa dạng, thấp kém, nên muốn có một xã hội mới phải tạo ra
LLSX mới, do vậy phải thực hiện CNH, HĐH để phát triển LLSX ở trình độ nhất
định. Chủ trương của Đảng ta, lấy giáo dục đào tạo, phát triển công nghệ là quốc sách
hàng đầu để phát triển LLSX và không ngừng điều chỉnh QHSX phù hợp với LLSX
để kích thích cho sự phát triển LLSX ở nước ta (cứ qua mỗi kỳ Đại hội Đảng ta đều
điều chỉnh lại QHSX sao cho phù hợp với LLSX trong tình hình thực tiễn. Vừa qua,
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng đã xác định điều đó.
8) Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
Đảng CSVN đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Lịch sử xã hội loài người đã trãi qua 4 hình thái KTXH, đó là: chế độ công sản
nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và
đang trãi qua thời kỳ quá độ của CNXH, giai đoạn đầu tiên của CNCS. Mác cho rằng
không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh
tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định,
một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định
nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch
sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử. Tuy nhiên, phát triển rút ngắn
đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện được.
Lê-nin cũng đã nói con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức
khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo
người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ CNTB lên CNXH;
còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa đi lên CNXH. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối
cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và
do vậy, về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước
đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất
Dựa vào học thuyết của Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận
dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chọn lựa con đường phát
triển rút ngắn - tức là đi lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa. Sự chọn lựa đó dựa trên những yếu tố khách quan và chủ quan như sau :
Về khách quan, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới và theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến
tới CNXH. Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ mặc dù trước mắt CNTB vẫn còn tiếp tục
phát triển nhưng nó không giải quyết được mâu thuẩn cơ bản giữa quan hệ sản xuất đã
lạc hậu với lực lượng sản xuất phát triển mạnh, từ đó làm cho lực lượng sản xuất chưa
phát triển đúng với tiềm năng của nó, dẫn đến những suy thoái kinh tế tất yếu xảy ra
và cùng với nó là sự khủng hoảng về chính trị. Bỡi lẽ, phương thức sản xuất TBCN
làm cho quy mô của các công ty tư bản sẽ ngày càng lớn do hệ quả của các cuộc
khủng hoảng kinh niên và mang tính tàn phá của nền kinh tế tư bản. Cùng với chế độ
bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu
nghèo được đẩy tới đỉnh điểm. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các
cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức
nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở
các nước tư bản đang phát triển. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản
chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền
tệ), làm cho lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở
đó được đẩy tới cực độ. Hệ quả của thực tế đó chắc chắn sẽ đúng như sự tiên đoán của
C. Mác: "cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai
cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai
cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó.
Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như
nhau".
Mặt khác, thế kỷ XXI là thế kỷ khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt,
kinh tế trí thức ngày càng có vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực
lượng sản xuất của các quốc gia. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế đối với mọi nước, nhất là các nước đang phát triển, vừa là thời cơ vừa là thách thức.
Đối với nước ta, thời cơ lớn hơn thách thức. Chúng ta chẳng những có khả năng tiếp
cận những tiến bộ KHKT, tranh thủ nắm bắt và vận dụng những thành tựu khoa học
và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản
lý sản xuất của con người để nhanh chóng xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại mà
còn có khả năng tạo ra thời cơ nếu ta có đường lối đúng, có bản lĩnh để thực hiện
đường lối đó.
Trong thời gian qua nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng
như: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Cơ cấu của
từng ngành cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn
đối với thị trường trong và ngoài nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu
hướng tăng , các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu
vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều
ngành tăng lên.
Về chủ quan, Qua hơn 20 năm thực hiện những nội dung đối mới đó, nền kinh tế
nước ta đã có những bước chuyển tích cực trong việc xây dựng nền tảng cơ sở vật chất
cho CNXH. Tăng trưởng kinh tế nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, mở
rộng quan hệ quốc tế. Tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói
nghèo. Song song với sự thành tựu về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng
bắt đầu từ việc đổi mới về chính trị. Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ một bản
lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn. Nhà nước đã có nhiều cố
gắng trong việc điều hành và quản lý đất nước. Chúng ta đã có bài học của ba mươi
năm lãnh đạo xây dựng kinh tế trong hòa bình với tư cách của một Đảng cầm quyền
duy nhất của một nước có gần 90 triệu dân vốn cần cù, thông minh và giàu nghị lực
sáng tạo. Đó là những yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành công cho sự nghiệp xây dựng
CNXH
Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiển với tư duy quan điểm mới Đảng ta đã nhìn
nhận vấn đề bỏ qua “giai đoạn” hay “thời kỳ” đơn thuần là rút ngắn thời gian trên cơ
sở có được những điều kiện, thời cơ và tiền đề vật chất quan trọng nhất đó là sự phát
triển của LLSX và sự trưởng thành của giai cấp vô sản. Cụ thể hoá nội dung “bỏ qua”,
đại hội ĐBTQ lần IX của Đảng đã nêu rõ :”Bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền KT hiện đại”. Nghĩa là chúng ta thừa
nhận sự tồn nền KT nhiều thành phần theo định hướng XCHN. Có tiếp nhận, cải tạo
các quan hệ sản xuất cũ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy mọi thành phần
kinh tế, nâng sức sản xuất của XH, tạo ra thật nhiều sản phẩm phong phú có sức cạnh
tranh trên thị trường. Đồng thời thông qua sự nghiệp CNH-HĐH – đây là nội dung
mang tính quyết định và đột phá nhằm nâng tầm về chất của LLSX và xây dựng
LLSX cần thiết cho chế độ mới. Sự nghiệp CNH phải đi đôi với HĐH nghĩa là trong
xu thế tất yếu của toàn cầu hoá kinh tế và trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ ngày nay chúng ta tiếp tục đường lối kinh tế đối ngoại rộng mở, hoà
nhập đi trước đón đầu, mở cửa hiện đại hoá ra bên ngoài tiếp thu những thành tựu
khoa học hiện đại của nhân loại, chú trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu đó là xây
dựng LLSX phát triển với thiết bị hiện đại, công nghệ hàng đầu, đặc biệt là đào tạo lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn hoá cao là điều kiện cần thiết để nền KT phát
triển nhanh, bền vững và hiệu quả.
Tóm lại ”XD CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên
tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trãi qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế XH có tính
chất quá độ” là quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc vận dụng một cách hiệu
quả mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, phù hợp với
tình hình đất nước. Phù hợp với tiến trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội.

Lê-nin từng khẳng định: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự
cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm
và sự cứng nhắc”. Tư duy biện chứng có vai trò to lớn đối với nhận thức và hoạt
động thực tiễn của sinh viên, giúp khắc phục lối tư duy siêu hình, phiến diện.
Nguyên tắc này giúp cho sinh viên trong quá trình nhận thức, nghiên cứu biết đi
thẳng vào vấn đề, xem xét và phân tích đối tượng một cách chính xác, đầy đủ, toàn
vẹn; khắc phục được cách đánh giá đơn giản, một chiều. Đối với bản thân em, học
phần chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp em thứ nhất có cái nhìn toàn diện, đa
chiều về một sự việc, vấn đề trong cuộc sống, chủ động, sáng tạo tổng hợp tri thức
trong quá trình học tập, nghiên cứu, định hướng lối tư duy, suy nghĩ của chính
mình. Thứ hai sau khi nắm vững phương pháp tư duy biện chứng duy vật, em có
thể làm việc một cách có khoa học, biết sâu chuỗi vấn đề, đặt các sự vật, hiện
tượng trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ, tự ý thức được giá trị của bản thân:
điểm mạnh, điểm yếu, trình độ năng lực, cái riêng cũng như cái đơn nhất của mình.
Thứ ba nhờ vào nguyên tắc phát triển của tư duy biện chứng duy vật, em trở nên tự
tin, năng động, nhiệt huyết, biết rèn luyện ý chí, khả năng chịu đựng để tránh rơi
vào trạng thái bi quan, cực đoan. Tri thức triết học nói chung và phương pháp tư
duy biện chứng duy vật nói riêng có vai trò quan trọng trong quá trình định hình
suy nghĩ của bản thân, biết ứng dụng vào các bộ môn khoa học khác. Bản thân em
cảm thấy việc rèn luyện lối tư duy như thế giúp em có được phương pháp học tập,
làm việc hiệu quả, không nôn nóng, bão thủ, giải quyết được những mâu thuẫn khó
khăn, khắc phục được lối tư duy dài dòng, thiếu trọng tâm.  Để cải thiện và nâng
cao năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn không có cách nào khác là phải bồi
dưỡng phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Nó cho phép em tiếp cận và nắm
bắt các tri thức một cách tinh tế, sâu sắc và linh hoạt hơn. Qua đó, em được rèn
luyện năng lực vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học để luận giải những vấn
đề thực tiễn một cách có hiệu quả, kích thích khả năng gắn lý luận với thực tiễn,
hiểu sâu sắc hơn các vấn đề đã được học tập, khắc phục tình trạng học máy móc,
chỉ thuộc lòng câu chữ.

You might also like