You are on page 1of 8

Họ tên: Vũ Thảo Nhi

STT: 57
MSSV: 2114530006

1: Làm sao để phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, tính dân chủ
(giải pháp)?
1. Tình hình thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay
Dân chủ luôn đi liền với cơ chế bảo đảm dân chủ, mà cơ chế này phải được luật hóa. Tuy vậy, việc
bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở vẫn còn những tồn tại, hạn chế, đó là:
Nhận thức về dân chủ ở một bộ phận cán bộ, người dân còn hạn chế
Một số người đồng nhất dân chủ với dân chủ XHCN theo nghĩa hoàn thiện, “kỳ vọng” đạt ngay một
trình độ phát triển cao của dân chủ trong khi nhiều tiền đề khách quan và chủ quan chưa chín muồi.
Một số khác lại “mơ hồ”, phiến diện về dân chủ, ngộ nhận nền dân chủ tư bản chủ nghĩa là giá trị
đỉnh cao phải khuôn theo.
Các chủ trương, đường lối của Đảng về dân chủ ở cơ sở đã được thể chế hóa thành pháp luật và trở
thành hành lang pháp lý buộc các tổ chức, cá nhân tuân theo. Tuy vậy, vẫn còn sự nhận thức tách
rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân
dân.
Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
Ở một số cơ sở đảng, tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng vẫn còn và thường đi liền với phong cách
lãnh đạo, quản lý độc đoán, chuyên quyền, thậm chí gia trưởng. Ngược lại, có tình trạng dân chủ
không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; chấp hành nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước không nghiêm. Vẫn còn nhiều vi phạm trong việc thực hiện chế
độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu và tổ chức đảng,
chính quyền quy định chưa rõ ràng, thực hiện chưa nghiêm dẫn đến tình trạng “tranh công đổ lỗi” -
thành tích thì cá nhân nhận, khuyết điểm thì đổ cho tập thể.
Dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ
Tình trạng dân chủ hình thức vẫn còn trong một số cơ quan, đơn vị khiến dân chủ không được phát
huy, ảnh hưởng đến quyền lợi của một số bộ phận quần chúng, tính thống nhất của hệ thống quản lý
nhà nước. Có lúc, có nơi, vấn đề dân chủ quá trớn, dân chủ cực đoan hay độc đoán chuyên quyền
hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối trật tự vẫn diễn ra. Vẫn còn
những người lãnh đạo mang nặng tính quan liêu, gia trưởng, đặt mình lên trên tập thể, không muốn
nằm trong sự kiểm soát của tổ chức; thiếu sâu sát thực tế, không lắng nghe quần chúng và cấp dưới.
Nhiều đảng viên, cán bộ cấp dưới “xuôi chiều”, không dám thẳng thắn sử dụng quyền làm chủ của
mình.
Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập trên là do nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền còn
hạn chế, chưa xác định được việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở là nhiệm vụ quan
trọng trước mắt và lâu dài; chậm cụ thể hóa Quy chế dân chủ thành cơ chế giám sát của người dân ở
cơ sở. Bên cạnh đó, sự chỉ đạo phối hợp của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể quần chúng còn chưa nhịp nhàng, đồng bộ; việc kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm
chưa được quan tâm đúng mức.
Những sơ hở, thiếu đồng bộ của cơ chế chính sách cùng những khiếm khuyết trong phương thức
lãnh đạo, nhất là quyền lực không đi cùng với cơ chế giám sát của người dân đã vô tình tạo lỗ hổng
lớn trong thực hiện dân chủ cơ sở trên thực tế.

2. Một số kiến nghị và giải pháp

Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu
biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ
Muốn thực hiện quyền làm chủ thì trước tiên nhân dân phải hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về các
quyền tự do dân chủ ở cơ sở của mình. Đó là quyền được biết những công việc mà chính quyền có
trách nhiệm phải công khai, quyền được bàn và quyết định trực tiếp, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định đối với những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân, quyền giám sát các công
việc của chính quyền... Pháp luật về dân chủ ở cơ sở cũng quy định các hình thức thực hiện các
quyền dân chủ của nhân dân. Nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc thực thi,
phát huy dân chủ ở cơ sở, để từ hiểu rõ ý nghĩa, vai trò, người dân sẽ chủ động và tích cực thực thi,
sử dụng các quyền dân chủ và đấu tranh bảo vệ quyền dân chủ; học dân chủ, nâng cao trình độ hiểu
biết về dân chủ, đồng thời phấn đấu, rèn luyện phương pháp thực hành dân chủ và có bản lĩnh thực
hành dân chủ. Có như vậy nhân dân mới thực hiện quyền làm chủ thực sự, tránh tình trạng dân chủ
chung chung, dân chủ hình thức, đó chính là từ “pháp luật trên giấy tờ” trở thành “pháp luật trong
hành động”.
Chỉ khi nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ thì các lợi ích của Nhà nước,
cộng đồng, các quyền và lợi ích của mỗi người dân mới được bảo đảm. Đây cũng là tiêu chí quan
trọng nhất để đánh giá hiệu quả của thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Cán bộ, công chức, đảng viên là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình thực thi dân chủ tại cơ
sở, do vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức, cấp ủy và chính quyền có ý nghĩa to lớn, góp phần quyết định thực thi dân chủ ở cơ sở.
Trước hết cần bồi dưỡng phong cách quần chúng, thực hành dân chủ theo tư tưởng, phong cách dân
chủ Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về dân chủ bằng những diễn đạt ngắn
gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, “Dân là gốc”, “Nước ta là nước dân chủ”, “quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”, và vai trò “Dân chủ là cái chìa khóa vạn năng”. Thực hiện tư tưởng của
Người, chính quyền phải giúp cho nhân dân có năng lực làm chủ, biết hưởng quyền làm chủ, biết
dùng quyền làm chủ và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, pháp luật có để người dân thể hiện
quyền làm chủ.
Thứ hai, đích cuối cùng của thực hiện dân chủ cơ sở là góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân
Thực hiện Quy chế dân chủ không phải vì bản thân quy chế đó hay vì sự ổn định xã hội nhất thời,
mà đích cuối cùng là bảo đảm cho nhân dân có cuộc sống ấm no hơn, tiến bộ hơn. Do vậy, để đạt
được mục đích đó cần hướng vào: Tạo điều kiện thuận lợi và giúp các nhà đầu tư, doanh nghiệp
triển khai các dự án tại địa phương; xây dựng và mở rộng nhiều mô hình xây dựng nông thôn mới
thiết thực, hiệu quả; đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, môi
trường; thực hiện có hiệu quả các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, an ninh -
trật tự.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng. Đảng phải là tấm gương về dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của mình
Cần tiếp tục nghiên cứu về lý luận và thực tiễn để làm rõ trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy
nhất cầm quyền vẫn phát huy được dân chủ thực sự, vẫn giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng, Đảng
trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên không rơi vào suy thoái, xa rời quần chúng. Phải dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng, “dựa vào dân để sửa chính sách”, “sửa cán bộ” như Hồ Chí Minh đã
chỉ ra. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải được thảo luận trong Đảng và đưa ra toàn dân
thảo luận rộng rãi trước khi Đảng quyết định.
Để có dân chủ rộng rãi trong Đảng, điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ. Mọi đảng viên được quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định mọi công
việc của Đảng - từ những công việc cụ thể của tổ chức đảng cơ sở đến những vấn đề lớn như xây
dựng đường lối. Đảng viên có quyền tranh luận, nêu ý kiến của riêng mình và có quyền bảo lưu ý
kiến lên cấp lãnh đạo cao nhất. Đảng phải khuyến khích thảo luận, tranh luận với những ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau để đi đến thống nhất về quan điểm nhưng khi đã thành nghị quyết
của tập thể thì mọi đảng viên phải tôn trọng, nói và làm theo nghị quyết. Bên cạnh đó, mọi cấp ủy
đảng phải thực sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới và đảng viên, biết tổng hợp trí tuệ và sáng kiến,
kinh nghiệm công tác phong phú của đảng viên.

Cần xây dựng Quy chế dân chủ của Đảng đồng thời với việc đẩy mạnh quá trình tự đổi mới, tự
chỉnh đốn trong Đảng. Đảng phải là tấm gương tiêu biểu nhất về dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của mình thông qua việc tiếp tục thực hiện tốt quy định của Bộ Chính trị khóa XI, ngày 25-4-2015,
“Về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước” nhằm bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong Đảng được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến
nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng kết quả nghiên cứu trong các hoạt động
nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.

Bên cạnh đó, để tăng cường và nâng cao quyền giám sát của người dân, cần xây dựng cơ chế kiểm
tra, giám sát của nhân dân đối với Đảng. Chẳng hạn, nhân dân được giám sát những nội dung gì,
phản ánh cho ai, bằng hình thức nào, cơ chế phản hồi như thế nào... nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Đồng thời, cần tiến hành thể chế hóa quyền và trách nhiệm của Đảng trong xã hội; thể chế hóa quan
hệ giữa Đảng và các thiết chế chính trị - xã hội. Theo đó, cần tiến hành đẩy mạnh dân chủ hóa trong
công tác cán bộ; cải tiến công tác bầu cử; đồng thời hoàn thiện cơ chế dân chủ trong các cuộc bầu
cử. Bầu cử cấp ủy, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư và bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng
nhân dân cần có số dư. Đồng thời, cần khuyến khích những người có đức, có tài ra ứng cử, hướng
đến việc bầu cử nên qua tranh cử. Cơ cấu đại biểu trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước phải lấy tiêu chuẩn làm đầu.

Mở rộng quyền dân chủ ở cơ sở, áp dụng hình thức toàn dân bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân
ở cấp xã (phường, thị trấn). Ủy ban kiểm tra do Đại hội Đảng cùng cấp bầu thay cho cấp ủy bầu như
hiện nay, tiến tới bí thư và thường vụ cấp ủy cũng do đại hội cùng cấp bầu. Thực hiện dân chủ trong
việc nhận xét, đánh giá cán bộ, xây dựng quy trình nhận xét, đánh giá cán bộ một cách dân chủ.

Mặt khác, cần nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ (dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện). Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các luật về trưng cầu ý dân, luật biểu tình, luật về hội, luật
về tiếp cận thông tin để tạo cơ sở pháp lý giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân trong xã
hội.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ trong các cơ quan, đơn vị
nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng cao vai trò của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị

Phát huy dân chủ trong cơ quan, đơn vị có vai trò hết sức quan trọng góp phần để cơ quan, đơn vị
hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng khối đại đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, đơn vị; từ đó góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng suất,
chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước. Xuất phát từ thực trạng
vấn đề dân chủ trong các cơ quan, đơn vị hiện nay; để nâng cao chất lượng của chế độ thực hành dân
chủ, trước hết cần đổi mới cơ bản về hệ thống chính trị ở các cấp chính quyền cơ sở. Do đó để nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở cần: đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo
của Đảng; đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước ở chính quyền cơ sở; đổi mới và kiện
toàn các đoàn thể chính trị - xã hội.

Cần tiếp tục bồi dưỡng và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, để cán bộ, công
chức cấp xã thực sự là “công bộc của nhân dân”, làm việc cũng phải vì lợi ích của nhân dân và Nhà
nước, góp phần xây dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Cần tăng cường công tác
kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công
tác giáo dục rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạnh của cán bộ, đảng viên; thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trẻ hóa đội ngũ cán bộ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải
quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở. Có chính sách, chế độ ưu đãi thực sự để
thu hút người trẻ tuổi, có trình độ chuyên môn về công tác tại xã, phường, thị trấn.

Trong hệ thống các cơ quan, đơn vị, Công đoàn cơ sở là một tổ chức đóng vai trò rất quan trọng
trong vấn đề thực hiện quy chế dân chủ. Phát huy vai trò của các tổ chức Công đoàn cơ sở vừa là
mục tiêu, vừa là động lực quan trọng của quá trình xây dựng một nền dân chủ vững mạnh, trong
sạch, góp phần quan trọng trong việc tạo ra môi trường làm việc minh bạch, thân thiện, đoàn kết,
chuyên nghiệp và hiệu quả trong các cơ quan, tổ chức.

Theo đó, mỗi cơ quan, đơn vị cần nêu cao ý thức, trách nhiệm trong vấn đề thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở đơn vị mình, phù hợp với hoàn cảnh và tình hình thực tiễn, đặc biệt là các nội dung liên
quan tới quản lý tài chính tài sản, đào tạo, thi đua khen thưởng, chính sách cán bộ... Những nội dung
này phải được tập thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của cơ quan, đơn vị thảo luận
và cho ý kiến. Đồng thời, các cấp Công đoàn phải thường xuyên phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ
chức quán triệt ý nghĩa, nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức; nhất là
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tuyên dương
các gương cá nhân tiêu biểu trong vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở cơ quan, đơn vị đó.

Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị phải luôn nhận thức được rằng
việc triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở là một nội dung công tác thường xuyên, có ý nghĩa quan
trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của mình; góp phần đẩy lùi tình trạng quan liêu, cửa quyền
trong bộ máy quản lý của cơ quan, đơn vị nhằm xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh và thực hiện tốt công tác cải cách hành chính.

2: Lịch sử nhà nước pháp quyền trên thế giới và liên hệ Việt Nam?
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Nhà nước pháp quyền hay còn gọi là Pháp quyền (the rule of law) là một phát hiện vĩ đại của nhân
loại. Nhà nước pháp quyền là một phạm trù mang tính lịch sử, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện
của nhà nước. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của tri
thức nhân loại.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ thời cổ đại mà đại diện tiêu biểu là các nhà tư
tưởng Hy Lạp cổ đại như Salon, Platon, Aristot, Xixeron,...trong bối cảnh xã hội có đầy rẫy những
áp bức bất công, những quyền tự nhiên vốn có của con người hàng ngày hàng giờ bị xâm phạm, mà
chủ thể thường xuyên xâm phạm đến những quyền tự nhiên vốn có ấy chính là nhà nước - thiết chế
quyền lực công của xã hội. Mà đáng lẽ, quyền lực công ấy phải bảo đảm, bảo vệ chính những giá trị
về quyền tự nhiên vốn có và phẩm giá của con người. Trước thực trạng ấy, các nhà tư tưởng Hy Lạp
cổ đại mong muốn tìm kiếm một phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền tự nhiên vốn có, phẩm giá
của con người. Từ đó, tư tưởng về Pháp quyền (the rule of law) hay nhà nước pháp quyền xuất hiện.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền ra đời từ khát vọng giải phóng con người khỏi sự áp bức của
cường quyền bằng sức mạnh của luật pháp dựa trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo vì tự do và
quyền con người. Ra đời từ rất sớm ở một số quốc gia phương Tây cổ đại và được thể hiện trong tư
tưởng chính trị - triết học của các nhà tư tưởng cổ đại Plato (427 – 327BC) cho rằng “Ở đâu luật
pháp dưới trướng nhà cầm quyền thì sự sụp đổ của quốc gia không xa, nhưng ở đâu mà pháp luật
đứng trên chính quyền thì tình hình có nhiều hứa hẹn và dân chúng vui hưởng trọn vẹn những ân
sủng của Thượng đế ban cho quốc gia”. Aristote (384 – 322BC) cho rằng, để đảm bảo tự do, luật
pháp nên cai trị; Xixerôn (106 – 43BC), mong muốn giải phóng các thần dân bằng sức mạnh của
luật pháp…
Tuy nhiên, phải đến thời kỳ phục hưng và khai sáng châu Âu (Thế kỷ XVII – XIX), tư tưởng
về nhà nước pháp quyền mới thật sự phát triển và trở thành học thuyết chính trị pháp lý gắn liền
với các nhà tư tưởng tiêu biểu như John Locke (1632 – 1704), JJ Rutxô (1712 – 1788), P.Kent (1724
– 1804), Montesquieu (1698 – 1755), Heghen (1770 – 1831), Tomat Jepphecxon (1743 – 1826) tác
giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776, Tomat Pen (1737 – 1809), Jon Adam (1735 – 1826).
Montesquieu với học thuyết tam quyền phân lập nổi tiếng đã từng cho rằng: “Nhà nước pháp
quyền là sự phân chia và chế ước quyền lực nhà nước thành các nhánh lập pháp, hành pháp và
tư pháp rạch ròi, sao cho pháp luật được đề cao và thực thi hiệu quả, các quyền và tự do cơ bản
của công dân được bảo đảm. Nhà nước pháp quyền là nhà nước nơi những người được giao
trọng trách quản lý và điều hành xã hội, thông qua cơ chế phổ thông đầu phiếu, do người dân
bầu ra, dù bằng hình thức bầu trực tiếp hay qua hình thức đại diện. Trải qua thời kỳ khai sáng ở
Châu Âu, học thuyết nhà nước pháp quyền tiếp tục được các nhà tư tưởng cận đại phát triển và ngày
càng có nhiều cách tiếp cận khác nhau góp phần làm phong phú thêm các giá trị của học thuyết.
Luật gia, nhà tư tưởng nổi tiếng của nước Anh, Albert Venn Dicey (1835 – 1922) đã đưa ra 3 nguyên
tắc cơ bản của chế độ phân quyền: (1) không ai có thể bị trừng phạt hoặc phải chịu đựng một hình
phạt trừ khi có hành vi trái pháp luật được chứng minh tại tòa án. (2) không ai đứng trên pháp luật
và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bất kể địa vị xã hội, kinh tế hay chính trị của họ. (3)
Nguyên tắc pháp quyềnbao gồm những kết quả của các quyết định tư pháp xác định quyền của các
cá nhân. Ba nguyên tắc của nhà nước pháp quyền này đã trở thành các nguyên tắc nền tẳng trong tổ
chức và hoạt động của nhiều nhà nước pháp quyền trong thế giới ngày nay. Tinh thần cơ bản của các
nguyên tắc này đã tạo nên các tiêu chuẩn quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc tế hiện đại đặc
biệt là pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người.
Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời mang lại những giá trị to lớn cho nhân loại trong
bối cảnh lúc bấy giờ. Đưa nhân loại thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, tạo tiền đề cho sự phát triển
mạnh mẽ các ngành khoa học cả tự nhiên và xã hội. Các nhà tư tưởng tư sản mà đại diện tiêu biểu
là: J. Locke (1632-1704), T. Hobbs (1588-1679), J.S.Mill (1806-1873), Montesquieu (1689-1755),
Rousseau (1712-1788)… Đã bổ sung, phát triển tư tưởng pháp quyền, đưa tư tưởng pháp quyền
lên tầm cao mới. Ngày nay, tư tưởng nhà nước pháp quyền không chỉ đạt được những tiến bộ to lớn
mà còn được các nước tư bản vận dụng để xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản với những thành
công rực rỡ.
Theo các học giả tư sản, nhà nước pháp quyền phải bảo đảm các yếu tố sau:
Thứ nhất, nguồn gốc của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với học thuyết khế ước xã hội.
Thứ hai, phải có hệ thống pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân mà không thể hiện ý chí của nhà
nước; hệ thống pháp luật về những quyền tự nhiên vốn có của con người. Trong đó quyền sở hữu là
thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Thứ ba, nhà nước ban hành pháp luật (theo ý chí nhân dân) nhưng nhà nước cũng phải tuân thủ triệt
để hệ thống pháp luật ấy.
Thứ tư, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát thông qua các thiết chế và cơ chế phù hợp nhằm
ngăn chặn xu hướng lạm quyền, độc tài cho dù đó là độc tài cá nhân hay quả đầu chế (độc tài của
nhóm người).

VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM


1. Hơn 2.000 năm trước, người Việt đã có các quy định pháp luật với bản sắc riêng của mình.
Trong thời phong kiến, đã có những vị vua anh minh như Lý Thái Tông (1000-1054) đặt ra các bộ
luật nhằm giảm sự phiền nhiễu trong kiện tụng cho dân, tránh để xảy ra oan uổng, đồng thời giúp
cho phép xử án được bằng thẳng rõ ràng. Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) có công san định luật
lệ, ban hành Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng, vừa để “trừ kẻ gian”, vừa khoan dung với phụ nữ, trẻ
em, người già, người yếu thế theo đạo lý truyền thống dân tộc Việt.
Mặc dù vậy, chế độ phong kiến không đưa được dân tộc Việt đến bến bờ phồn vinh và hạnh phúc
thực sự. Những tháng năm cuối của chế độ ấy phải chứng kiến cảnh đất nước ta thành thuộc địa của
thực dân.
2. Trong đêm đen của ách thực dân nửa phong kiến, lớp lớp người Việt đã không ngừng đứng dậy
đấu tranh với hi vọng giành lại nền độc lập, tự do cho tổ quốc. Trong tiến trình vận động lịch sử ấy,
với lòng yêu nước và thương dân nồng nàn, bằng trí tuệ thiên tài và mẫn cảm chính trị nhạy bén,
thông tỏ thời cuộc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc.
Người đã cùng các đồng chí của mình trong Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng tháng
Tám, lập nên nước Việt Nam dân chủ Hcộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên bước đường cứu nước, ngay từ những ngày còn hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thức sâu sắc tầm quan trọng của “thần linh pháp quyền” trong việc thiết lập nền công lý cho
một quốc gia phát triển. Nhất quán tư tưởng này, ngay khi nước nhà giành được độc lập, trong bản
Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân, đồng bào vào ngày 2/9/1945, Người đã trịnh trọng tuyên bố
với thế giới “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đó là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, suy rộng ra, “tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
Chỉ một ngày sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3/9/1945), Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân
không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”.
3. Trải qua cuộc trường chinh gian khổ của lịch sử, năm 1975 nước nhà đã thực sự thống nhất, và
đến năm 1986, Đảng ta phát động công cuộc Đổi mới vĩ đại, từng bước hoàn thiện mô hình phát
triển phù hợp hơn với thực tiễn đất nước trong bối cảnh mới.
Khi Việt Nam đã áp dụng cơ chế thị trường, nhu cầu xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ,
chuyển phương thức quản lý, điều hành từ chủ yếu dựa trên mệnh lệnh hành chính, quan liêu sang
dựa trên luật lệ và tuân thủ quy luật thị trường ngày càng trở nên cấp thiết. Đây cũng chính là một
trong những tiền đề khách quan để Đảng ta chính thức đề ra chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ năm 1994.
Càng đi sâu vào cải cách, đổi mới, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, chủ trương đó của Đảng
càng chứng minh được tính đúng đắn của mình. Chính vì thế, chủ trương ấy không chỉ được khẳng
định nhất quán trong văn kiện của tất cả các kỳ Đại hội Đảng sau này, mà bản thân nội dung này
cũng không ngừng được bổ sung, phát triển.
Trong lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp vào năm 2001, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức được hiến định. Năm 2011, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển) của Đảng ta chính thức xác
định một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng chính là phải có nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chủ trương ấy đã được thể
chế hóa trong Hiến pháp năm 2013.
4. Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn công phu, nhất là tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết
số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW (năm 2005) của Bộ Chính trị về các chiến lược pháp
luật và chiến lược cải cách tư pháp, cùng các chủ trương có liên quan, trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế
thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về
“tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới”.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng ta ban hành một Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có rất nhiều nội dung, yêu cầu mới, quan
trọng. Có thể nói, một thiết kế tổng thể nhất về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được hình thành, dựa trên quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn công phu, đầy trách nhiệm và trí tuệ
của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền, các chuyên gia, nhà khoa học đầu
ngành, nhà hoạt động thực tiễn và trí tuệ của nhân dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong mục tiêu, 5
quan điểm chỉ đạo, 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nhiệm
vụ, giải pháp cụ thể trong Nghị quyết số 27-NQ/TW.
5. Theo nội dung của Nghị quyết, Đảng ta chủ trương: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có
hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và
pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành
chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự
chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào
năm 2045.
Nghị quyết đặt ra nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều
chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh
nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo… tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất
nước”.
Đây là những yêu cầu cao hơn về chất so với các chủ trương hiện hành, nhất là yêu cầu bảo đảm tính
“dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, ổn định, dễ tiếp cận” của hệ thống pháp luật. Nghị
quyết chủ trương “đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, …bảo đảm pháp luật được thực hiện công
bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả”.

You might also like