You are on page 1of 13

1.

Khái quát về “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011).

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được công bố tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng. Cương lĩnh được ban hành trong bối cảnh phần lớn các
quốc gia vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu và
trong 10 năm qua vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn do tác động nhiều mặt về
kinh tế, xã hội sau khủng hoảng. Thực tiễn 10 năm xây dựng và phát triển đất
nước, Cương lĩnh 2011 đã khẳng định giá trị là ngọn cờ tư tưởng lý luận, là kim
chỉ nam của Đảng dẫn dắt toàn dân tộc tiếp tục vững vàng và đẩy mạnh công cuộc
đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Cương lĩnh 2011 được bổ sung, phát triển trên cơ sở nghiên cứu lý luận với tư duy
đổi mới và sự tổng kết thực tiễn đất nước qua hơn 20 năm đổi mới, thực tiễn thế
giới với nhiều động thái, xu thế vận động mới đã làm sáng tỏ hơn những đặc trưng
cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta phấn đấu xây
dựng, những mục tiêu, phương hướng, những định hướng lớn trên các lĩnh vực cơ
bản của đời sống đất nước với tầm nhìn trung hạn, dài hạn. Cương lĩnh 2011 và
những nghị quyết của Đảng từ Đại hội XI, XII đến nay khẳng định sự vững vàng
của Đảng, sự đúng đắn của đường lối đổi mới, thật sự trở thành ngọn cờ tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là cội nguồn và động lực tạo nên những thành tựu
to lớn, toàn diện của đất nước trong 10 năm qua.

1.2. Những phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011).

1.2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
Cơ sở của phương thức lãnh đạo bắt nguồn từ vị trí, vai trò của Đảng với tư cách là
một đảng cầm quyền, có trách nhiệm trọng đại đối với sự phát triển của đất nước.
Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị Việt Nam. Vị trí lãnh đạo
và cầm quyền của Đảng quyết định phương thức lãnh đạo của Đảng. Điều này
không phải là vấn đề lợi ích riêng của Đảng, của các tổ chức đảng, mà trái lại,
chính là sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm chính trị của Đảng đối với nhân dân, dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội với vai trò, vị trí là một
đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, chịu
sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của
mình. Bản chất của đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo chính quyền và nhờ đó bảo
đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ
xã hội. Vấn đề cốt yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm quyền một
cách khoa học, dân chủ và tuân theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch,
vững mạnh của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt
giữa đảng với nhân dân. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước nhưng không đồng
nhất quyền lực của đảng với quyền lực nhà nước. Quyền lực của đảng là quyền lực
chính trị, thể hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương đúng
đắn, sáng suốt, được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu
các đảng viên ưu tú, có uy tín để nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà
nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của bộ
máy nhà nước. Quyền lực nhà nước về hình thức là quyền lực công, nhưng về bản
chất vẫn là quyền lực chính trị, bởi bất cứ lực lượng chính trị nào muốn thực hiện
mục tiêu, lý tưởng của mình cũng đều phải tìm cách giành lấy chính quyền, sử
dụng sức mạnh nhà nước phục vụ cho mục tiêu chính trị của mình. Chính điều này
quy định nhà nước mang chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội, bảo
đảm sự thống nhất giữa hai chức năng này là cơ sở cho giữ vững được bản chất
cách mạng của nhà nước và không ngừng phát huy dân chủ trong xã hội, bảo đảm
nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Thông qua Nhà nước, Đảng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật; lãnh đạo Nhà nước thực hiện đường lối phát triển đất nước
của Đảng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

1.2.2. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương lớn.

“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Đảng lãnh đạo Nhà nước và thông qua Nhà
nước để lãnh đạo xã hội chủ yếu bằng thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ
trương, định hướng phát triển đất nước của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế,
chính sách để đưa vào cuộc sống; lãnh đạo thực hiện thông qua hệ thống pháp luật
của Nhà nước bằng sự quản lý của Nhà nước”. Tức là Đảng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội theo con đường pháp quyền hóa - cầm quyền. Còn Đảng lãnh đạo mặt trận
tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương thức cụ thể hóa cương lĩnh,
đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đất nước của Đảng thành các nhiệm
vụ, nội dung hoạt động phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng, tính chất của từng tổ
chức; thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức đó để lãnh đạo - vận
động thực hiện, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức theo nguyên tắc và cơ chế tự
chủ, tự nguyện, lãnh đạo các tổ chức hoạt động theo đúng luật pháp của Nhà nước
và điều lệ của từng tổ chức.

Như vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị bằng đường
lối, chủ trương, định hướng chính sách lớn (thể hiện bằng các nghị quyết) thông
qua tổ chức đảng và các đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị sẽ bao gồm
“chuỗi các công đoạn” sau: i). Đảng (cấp ủy) ban hành nghị quyết chứa đựng các
nội dung lãnh đạo; ii). Các tổ chức đảng trong các tổ chức Nhà nước lãnh đạo cụ
thể hóa, thể chế hóa các nội dung nghị quyết; iii). Các tổ chức đảng và các đảng
viên trong các tổ chức Nhà nước lãnh đạo thực hiện các nội dung nghị quyết (đã
được cụ thể hóa, thể chế hóa) bằng con đường Nhà nước; iv). Đảng (cấp ủy) kiểm
tra, đánh giá việc thực hiện nghị quyết thông qua cơ chế của Đảng đối với các tổ
chức đảng và đảng viên trong các tổ chức nhà nước, thông qua việc tuân thủ pháp
luật của nhà nước và thông qua đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện nghị quyết của
Đảng trên thực tế; rút ra những vấn đề cần thay đổi, sửa đổi, bổ sung, hay ban hành
mới.

2.3. Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tư tưởng đối với hệ thống chính trị và toàn xã
hội, từ việc xác lập, xây dựng đến truyền bá, phổ biến, giáo dục, bổ sung, phát triển
nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Đồng thời, Đảng thường xuyên lãnh đạo xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ
và hoạt động của hệ thống thiết chế công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, Nhà nước
và hệ thống chính trị, đó là các hội đồng lý luận ở Trung ương, các cơ quan tuyên
giáo, cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản, đội ngũ báo cáo viên, phóng viên, biên
tập viên, phát thanh viên và đội ngũ giáo viên, giảng viên lý luận chính trị ở các cơ
sở đào tạo, các học viện, nhà trường... để phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng trong
từng giai đoạn, từng thời kỳ, với từng đối tượng.

Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo đồng thời cũng là phương thức cầm
quyền của Đảng. Các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp
hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng,
các chỉ thị, nghị quyết, quy chế, quy định... của Đảng. Đảng giám sát hoạt động
của đội ngũ đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước, giám sát việc thực thi chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước; giám sát, kiểm soát việc thực thi Hiến
pháp và pháp luật của các cơ quan, công chức nhà nước, nhằm bảo đảm Nhà nước
phải phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, giữ vững bản
chất giai cấp công nhân. Các đảng viên nắm giữ những chức vụ trong bộ máy nhà
nước có trách nhiệm báo cáo công tác trước chi bộ, cấp ủy đảng, nơi sinh hoạt
đảng về chức trách, nhiệm vụ được giao và mức độ hoàn thành công việc của
mình. Do đó, Đảng xây dựng cơ chế hiệu quả để giám sát hoạt động của đội ngũ
đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, Đảng quản lý nghiêm minh
đảng viên, thực hiện cầm quyền bằng chế độ kỷ luật đảng.

Hành động gương mẫu của đảng viên là một trong những phương thức lãnh đạo
của Đảng và cũng là một bảo đảm trên thực tế việc giữ vững, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng. Trong các lĩnh vực, các công việc, mọi lúc, mọi nơi, đảng viên
gương mẫu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng thì mới lôi cuốn được nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng viên đi trước làng nước theo
sau. Hành động gương mẫu là một biểu hiện khẳng định trên thực tế vai trò lãnh
đạo của đảng viên, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đảng viên nào
không gương mẫu là đã tự tước đi vai trò lãnh đạo của mình; không những thế, họ
còn làm suy giảm sức mạnh lãnh đạo của Đảng.

2.4. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu

những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng cử cán bộ, đảng viên vào các cơ quan nhà
nước, các đoàn thể. Vì vậy, công tác cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đảng
cần phải có một đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt và có số lượng không những đủ
cho nhu cầu trước mắt mà còn cho lâu dài. Đội ngũ ấy phải bao gồm đủ loại cán bộ
về tất cả các ngành, các mặt, thỏa mãn yêu cầu rộng lớn trong mọi lĩnh vực của sự
nghiệp cách mạng.

Công tác cán bộ phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo tập trung của Đảng. Các cấp
ủy đảng cần trực tiếp xem xét và tập thể quyết định việc lựa chọn, đánh giá, cất
nhắc, thay đổi những cán bộ giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân. Công tác cán bộ phải có kế hoạch trước mắt và kế
hoạch lâu dài, theo sát các yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cụ
thể.

Sử dụng cán bộ cũng là một vấn đề quan trọng của Đảng. Sử dụng đúng người,
đúng việc, kết hợp cán bộ cao tuổi có nhiều kinh nghiệm với cán bộ trẻ. Đồng chí
Lê Duẩn chỉ rõ: “Quy luật phát triển của cách mạng cũng như của Đảng đòi hỏi
phải kết hợp đúng đắn cán bộ đã từng chiến đấu lâu năm với cán bộ trẻ để bổ sung
ưu điểm cho nhau, đồng thời giúp nhau khắc phục nhược điểm, bởi vì cả hai loại
cán bộ đó đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Đảng ta cần chăm lo
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lâu năm, đồng thời phải rất quan tâm bồi dưỡng, đào tạo
và mạnh dạn đề bạt thêm nhiều cán bộ trẻ có phẩm chất cách mạng cao, có năng
lực dồi dào, có sức vươn lên mạnh mẽ, xuất hiện trong các phong trào cách mạng”.

Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ
máy nhà nước sao cho mọi tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện đúng
quan điểm, chủ trương của Đảng. Đảng có trách nhiệm làm tốt công tác cán bộ, từ
đào tạo, bồi dưỡng đến đánh giá, bố trí, sắp xếp cán bộ; xây dựng nguồn quy
hoạch, thử thách cán bộ thông qua luân chuyển cán bộ, cử cán bộ tham gia công
tác thực tiễn, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực
chuyên môn để giới thiệu cho bộ máy nhà nước.
Thông qua hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà
nước, Đảng lựa chọn, giới thiệu cán bộ, đảng viên của Đảng để Quốc hội, hội đồng
nhân dân các cấp bầu vào các cơ quan nhà nước, gắn với xác định cơ cấu nhân sự
hợp lý trong từng cơ quan nhà nước.

2.5. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ
chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người
đứng đầu.

Đảng thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng ở các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở xã, phường, thị trấn; thực hiện
nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng dù được thành lập
ở loại hình đơn vị cơ sở nào, thì đều có vai trò là hạt nhân chính trị, là “sợi dây liên
hệ giữa Đảng với quần chúng”. Tổ chức cơ sở đảng trực tiếp tiến hành các hoạt
động xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ;
bảo đảm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống
và được thực hiện có hiệu quả. Hiện nay, hầu hết các tổ chức cơ sở đảng đã xây
dựng quy chế, chương trình làm việc của cấp ủy; tuy nhiên, một số cấp ủy không
triển khai thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn; thay vào đó là sự chỉ đạo theo thói
quen và làm việc theo kinh nghiệm, dẫn đến có những vi phạm đáng tiếc đã xảy ra.
Vì vậy, các tổ chức cơ sở đảng cần rà soát, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm
túc quy chế, chương trình làm việc của cấp ủy.

Đồng thời, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ
công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Cấp ủy các cấp
cần chú ý lựa chọn những đảng viên có tâm huyết, tinh thần trách nhiệm cao, biết
tập hợp quần chúng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để lãnh đạo
toàn diện công tác của tổ chức cơ sở đảng. Đội ngũ này cần có đạo đức trong sáng,
lối sống lành mạnh; có khả năng đoàn kết đảng viên, quần chúng xung quanh cấp
ủy. Sau đại hội, cần thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
cho các cấp ủy viên, trước hết là bí thư, phó bí thư cấp ủy của tổ chức cơ sở đảng;
tạo điều kiện để đội ngũ này được thường xuyên học tập, nghiên cứu, có nhận thức
đúng đắn, đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng, các nghị quyết của đảng ủy
cấp trên, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; và nắm vững nguyên tắc, thủ tục sinh hoạt
đảng, nhất là các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
tự phê bình và phê bình.

2.6. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng
thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là sự tập trung phát triển một cách toàn diện
các yếu tố cần thiết cho sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm từ năng lực định hướng
đường lối, chiến lược; năng lực đề ra chủ trương, chính sách; năng lực tổ chức và
chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát công việc của Đảng; năng lực đánh giá, rút ra
những bài học kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời, hiệu quả.

Đổi mới hệ thống chính trị là một điều kiện hàng đầu bảo đảm cho việc nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Đây là điều kiện để xây dựng, hoàn thiện và thực thi hệ thống thể chế
nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, khai thác và phát huy những tiềm năng,
lợi thế, tận dụng các nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước.

1.3. Ý nghĩa những phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lý luận và thực tiễn, là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thể hiện nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh là cơ sở đoàn kết,
thống nhất giữa tư tưởng với hành động của toàn Đảng, toàn dân, là ngọn cờ chiến
đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, Việt Nam nhất
định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.

Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền thể hiện ở nội dung lãnh đạo thông qua
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011); về bản chất, những nội dung Đảng cầm quyền thể hiện rõ uy
thế cầm quyền của một đảng duy nhất lãnh đạo, được nhân dân tin yêu, thừa nhận
và Hiến pháp hiến định. Đảng không đứng trên pháp luật, ở ngoài pháp luật, không
làm trái với quyền lực, lợi ích của nhân dân; không có đảng đối lập và cạnh tranh
quyền lực. Việc xác định đúng đắn, hợp lý và tối ưu các nội dung cầm quyền lãnh
đạo của Đảng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, từng yêu cầu nhiệm vụ cụ thể để
Đảng đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành công. Điều đó đã khẳng định uy tín,
vị thế cầm quyền của Đảng; biểu hiện sinh động tính đặc thù và tất yếu khách quan
của cách mạng cần có sự cầm quyền thống nhất của Đảng, phù hợp với tiến trình
lịch sử, tiến bộ xã hội và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.

II. Phần liên hệ thực tiễn.

2.1. Thành tựu và hạn chế của những phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.

Đảng ta lãnh đạo Nhà nước và xã hội với những thành tựu sau:
Thứ nhất, đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới một cách đúng
đắn, vận dụng sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Ở những bước ngoặt
của cách mạng và những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực,
Đảng ta vẫn kiên định và kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn
nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự
thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong Nhân dân.

Thứ hai, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ trong
Đảng và trong xã hội, tập trung trí tuệ của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong
quá trình ban hành đường lối lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Thứ ba, đề ra chủ trương và biện pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị. Xây dựng và triển khai thực
hiện chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kiện toàn cơ quan
lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đảm bảo tính kế thừa và phát triển. Đổi
mới công tác tổ chức và cán bộ, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên; ngăn chặn sự sa sút, yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng;
bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Công tác kiểm tra
việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, việc giữ gìn phẩm chất, đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và xử lý kỷ luật đảng có nhiều tiến bộ.

Thứ tư, tiếp tục hoàn chỉnh quan điểm và bổ sung chủ trương, giải pháp về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân; lãnh đạo xây dựng quy chế phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, trước
hết là ở cơ sở, ban hành và đưa vào thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở;
kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và cải cách chính sách tiền lương,
trợ cấp xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực do hệ thống một đảng cầm quyền tạo
nên, lại tiềm ẩn những yếu tố làm nảy sinh một số hạn chế, nguy cơ, đó là:

Thứ nhất, bệnh chủ quan, kiêu ngạo, tự mãn, duy ý chí, vô kỷ luật; bệnh hám danh,
tham lam vật chất, ưa hưởng thụ vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán: “Tự cao tự đại, ham địa vị, hay lên
mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm
được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng
mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc
gì cũng muốn làm thầy người khác”.

Thứ hai, một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền tham nhũng tài sản công, biến
quyền lực công thành tài sản riêng, phục vụ cho lợi ích của mình, gia đình mình;
tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã đến mức báo động.

Thứ ba, có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình
thức “Chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham
gia của Nhân dân vào công tác xây dựng Đảng”.

2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong bối cảnh, điều kiện hiện nay, cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng thông qua việc củng cố sức mạnh chính trị, sức mạnh tư tưởng
và xây dựng tổ chức của Đảng.

Một là, nâng cao năng lực dự báo và xây dựng các định hướng, tầm nhìn và chiến
lược như Cương lĩnh chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược
quan trọng trong các ngành, lĩnh vực, khu vực quan trọng ở tầm chiến lược, khoa
học và tính khả thi cao. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ và khả năng
vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo.

Hai là, phát huy khả năng lãnh đạo Nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối của
Đảng thành pháp luật, làm cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện trong toàn xã hội.
Đây là vấn đề rất quan trọng, thể hiện rõ vai trò, năng lực cầm quyền của Đảng.
Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước và xã hội chủ yếu qua vai trò của chính quyền
nhà nước. Chính quyền nhà nước vững mạnh thì Đảng càng vững mạnh.

Ba là, củng cố khả năng lãnh đạo sử dụng quyền lực của Nhà nước và phát huy vai
trò của các tổ chức chính trị - xã hội để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối lãnh
đạo của Đảng.

Bốn là, tăng cường công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục và quản lý đội
ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị nhằm đảm bảo năng lực, phẩm chất đạo đức
và tư cách của đội ngũ cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Năm là, nâng cao năng lực công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn một cách
thực chất để không ngừng hoàn thiện đường lối lãnh đạo. Việc kiểm tra, giám sát
một cách bài bản, hệ thống, định kỳ, thường xuyên và hiệu quả sẽ đảm bảo sự tuân
thủ các quy định của cán bộ, đảng viên cũng như chất lượng quá trình thực hiện.

Sáu là, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp
nhân dân và huy động được sự ủng hộ, chung sức của quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đòi hỏi phải nắm vững
và thực hiện tốt các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc
đoàn kết, thống nhất, tự phê bình, phê bình và gắn bó mật thiết với Nhân dân.

You might also like