You are on page 1of 76

Câu 1: Phân tích nội dung và giải pháp đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được hình
thành trên cơ sở nhận thức và tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, tư tưởng tích
cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, kết hợp với
sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam cũng như tổng kết bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ 1945 đến nay, nhất là trong những năm đổi
mới. Đảng ta đã lựa chọn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong giai đoạn hiện nay cần phải nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan của
việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước xuất phát từ bản
chất cách mạng khoa học, vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng và mục đích, lý tưởng
đấu tranh của Đảng Cộng sản; xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam; xuất phát từ trọng trách lãnh đạo xây dựng xã hội mới - xã hội
chủ nghĩa của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân phải bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước và được thể
hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, đường lối, chính sách của Đảng là định hướng chính trị và nội dung
hoạt động của Nhà nước.
Hai là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm
xây dựng, hoàn thiện tổ chức hoạt động của Nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
cách mạng trong từng giai đoạn.
Ba là, Đảng lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
bảo đảm thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại
biểu xứng đáng vào các cơ quan này.
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các
cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức Nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là, Đảng lãnh đạo hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật, tăng cường pháp chế trong đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước, cán bộ
công chức nhà nước:
Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân.
Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
rất toàn diện và bao quát toàn bộ những vấn đề quan trọng về tổ chức, hoạt động của
Nhà nước. Đúng như V.I.Lênin đã nhấn mạnh: "'trong nước Cộng hòa chúng ta
không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan nhà nước
giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng" 1. Nhưng
một vấn đề quan trọng cần phải nhận thức là mặc dù Đảng có trọng trách lãnh đạo
xây dựng nhà nước song bất cứ nội dung lãnh đạo nào của Đảng đối với quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền nêu trên đều phải dựa vào dân, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
1
V I Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, trang 38.
Mặt khác, bên cạnh những mặt thuận lợi của một Đảng duy nhất cầm quyền cần
phải nhận thức hết những nguy cơ tiềm ẩn do thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm
dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền. Đó là các nguy cơ chủ quan, duy ý chí và
quan liêu trong xây dựng chủ trương chính sách; cơ quan, tổ chức Đảng dễ áp đặt ý
kiến của mình đối với cơ quan nhà nước; tự đặt Đảng lên trên nhà nước và pháp luật;
Đảng bao biện, làm thay công việc của Nhà nước mà không chịu trách nhiệm pháp lý
về các quyết định của mình v.v...
Để ngăn chặn và loại trừ những nguy cơ ấy và thực hiện tốt vai trò xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tập trung dân chủ, thực
hiện dân chủ thực sự trong Đảng và trong xã hội. Mặt khác, phải xây dựng quy chế
phối hợp làm việc giữa cơ quan, tổ chức Đảng và cơ quan, tổ chức nhà nước trong
đó xác định rõ những loại việc mà Đảng phải chủ động ra Nghị quyết lãnh đạo, chỉ
đạo; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; trong hoạt động của
mình, các cơ quan, tổ chức Đảng và mọi cán bộ đảng viên phải tuân thủ pháp luật,
tôn trọng thể chế của cơ quan nhà nước v.v... Thực hiện được những yêu cầu cơ bản
nêu trên, Đảng mới thực hiện được trọng trách và sứ mệnh lịch sử của mình lãnh đạo
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân để tiến hành xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta.
Muốn đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước
ta hiện nay cần thực hiện đồng bộ hai nhóm giải pháp lớn, đó là nhóm giải pháp về
chỉnh đốn, đổi mới Đảng và nhóm giải pháp về đổi mới nội dung phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thứ nhất, các giải pháp chỉnh đốn, đổi mới Đảng, xây dựng Đảng xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, thực sự trong sạch, vững mạnh; đủ năng lực
trí tuệ và uy tín làm tròn trọng trách của lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng
chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; kiên quyết khắc
phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ: quy hoạch; đào tạo,
bồi dưỡng; đánh giá, tuyển dụng; luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ; xây dựng chế độ,
chính sách cán bộ; tăng cường quản lý kiểm tra giám sát cán bộ. Tiếp tục đổi mới công
tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế độ trách
nhiệm, bộ máy và con người làm công tác cán bộ.
Ba là, đẩy mạnh công tác xây dựng, củng cố nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở Đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cơ
sở và phong trào cách mạng của quần chúng.
Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục kiện
toàn tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, một số giải pháp đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải
tránh khuynh hướng buông trôi, khoán trắng hoặc bao biện làm thay. Mặt khác phải
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và xây
dựng nhà nước pháp quyền. Theo những yêu cầu nêu trên cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phân định vai trò
lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp làm việc giữa cơ quan,
tổ chức Đảng với cơ quan, tổ chức nhà nước ở tất cả các cấp theo phương châm tôn
trọng Điều lệ Đảng; tôn trọng Hiến pháp, pháp luật, thể chế của cơ quan nhà nước,
tính đến đặc thù của từng lĩnh vực nội dung lãnh đạo.
Ba là, tiếp tục tổng kết và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
trong các lĩnh vực xây dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là
cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Đảng và chính quyền cơ sở là những vấn
đề bức xúc cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Bốn là, tăng cường hoạt động kiểm tra, bảo vệ nội bộ của Đảng, chỉ đạo sát sao
hơn đối với hoạt động thanh tra và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ
trong bộ máy nhà nước, bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải thực hiện đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt
động lập pháp, hành pháp, tư pháp; đổi mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ v.v... đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước,
xây dựng đội ngũ cán bộ v.v... Chính vì vậy, ngoài việc xây dựng chiến lược, xác
định chủ trương, giải pháp đúng đắn phải có kế hoạch và bước đi thích hợp. Đồng
thời điều quan trọng nhất là thống nhất nhận thức và biến thành quyết tâm thực hiện
trong toàn bộ hệ thống chính trị. Chỉ trên cơ sở đó mới từng bước xây dựng thành
công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì
dân.
Câu 2: Nêu khái niệm hệ thống pháp luật và phân tích các tiêu chí đánh
giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật?
- Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, được phân định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo những trình tự, thủ tục luật định.
Như vậy, hệ thống pháp luật bao gồm hai mặt trong một chỉnh thể thống
nhất là hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
2- phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật?
Một là, tính thống nhất đồng bộ của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí quan
trọng để xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật được
coi là thống nhất đồng bộ khi các bộ phận cầu thành hệ thống không có trùng lặp,
chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Đồng thời các bộ phận này có quan hệ chặt chẽ
với nhau trong một thể thống nhất. Tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp
luật được thể hiện.
Sự thống nhất đồng bộ giữa các ngành luật với nhau. Điều này, đòi hỏi phải xác
địnhh rõ ranh giới giữa các ngành luật. Đồng thời, phải xây dựng được một hệ thống
quy phạm căn bản để tạo cơ sở thống nhất của cả hệ thống.
Sự thống nhất, đồng bộ còn thể hiện trong một ngành luật, mỗi chế định pháp
luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau
Hai là, tính toàn diện của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí để định lượng hệ
thống pháp luật, tiêu chí này được thể hiện: Một mặt, hệ thống pháp luật phải có đủ các
ngành, không còn khoảng trống, theo cơ cấu nội dung và hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật tương ứng. Mặt khác, trong mỗi ngành luật có đủ chế định và các quy phạm
điều chỉnh đầy đủ các quan hệ phát sinh trong ngành luật đó.
Ba là, tính phù hợp của hệ thống. Tiêu chí này được thể hiện: Một mặt, hệ thống
pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội, không thể cao hơn,
hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Mặt khác, sự phù hợp của hệ thống pháp luật thể
hiện trên nhiều mặt và cùng với việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với
kinh tế, chính trị, đạo đức, hệ thống chính trị, các quy phạm xã hội khác…
Bốn là, tính ổn định tương đối của hệ thống. Đây là đặc trưng nhằm bảo đảm duy
trì được kỷ cương, trật tự và nề nếp trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể nói riêng và cả
hệ thống pháp luật nói chung. Đồng thời góp phần tạo cơ sở pháp lý ổn định cho việc
điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội có hiệu quả cao…
Năm là, tính minh bạch, cụ thể và tính khả thi. Đây là tiêu chí quan trọng một
mặt vừa bảo đảm tính thống nhất của hệ thống. Đồng thời, hệ thống đó cũng phải rất
cụ thể, minh bạch rõ ràng và có tính khả thi trong thực tiễn.
Sáu là, bảo đảm tính hiện đại và kỹ thuật pháp lý cao trong xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là - Ngôn ngữ pháp lý phải chính xác, một
nghĩa…
Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là Tiếng Việt.
Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phải thống
nhất cách diễn đạt, rõ ràng, dễ hiểu.
Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định được tiếp nội dung cần điều chỉnh,
không quy định chung chung, không quy định lại nội dung đã quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật khác.
Văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng thì tùy theo nội dung
có thể được bố cục theo phần, chương, mục, điều, khoản, điểm
Phải có quy trình xây dựng pháp luật khoa học.
Câu 3. Phân tích những đặc trưng của nền hành chính hiện đại.
Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó
là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước trong quản lý
xã hội theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định
và phát triển của xã hội.
Trải qua một thời gian dài được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, mô
hình hành chính công truyền thống đã bộc lộ những hạn chế nhất định như tính quan
liêu, cứng nhắc của hệ thống hành chính cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu quả quản lý
thấp do chỉ quan tâm đến yếu tố đầu vào và quá trình hoạt động mà không chú trọng
đến kết quả đầu ra.
Thế giới đang không ngừng đổi thay. Cùng với sự phát triển nhanh chóng
của kinh tế thị trường, của khoa học công nghệ, sự phát triển dân trí và dân chủ
hóa đời sống xã hội, với xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, các nước đều
phải đối mặt với những hiểm họa to lớn như khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã
hội, biến đổi khí hậu… Vai trò của Nhà nước ngày càng không thể thiếu trong mối
tương tác với thị trường nhằm khắc phục các khiếm khuyết của thị trường. Đồng
thời các Chính phủ cũng phải không ngừng tự cải cách để khắc phục các khiêm
khuyết của bản thân mình, bảo đảm thực thi vai trò của mình trước xã hội và duy
trì lòng tin của nhân dân vào thiết chế của mình. Trong bối cảnh đó, các lý thuyết
và thực tiễn hành chính nhà nước không ngừng được hoàn thiện và định hình ra
mục tiêu và các đặc trưng của hành chính nhà nước hiện đại.
Mục tiêu cao nhất của hành chính nhà nước hiện đại là nhằm thỏa mãn tốt nhất
nhu cầu của người dân. Công dân được coi như khách hàng của nền hành chính. Nhà
nước có trách nhiệm phục vụ tốt nhất nhu cầu của công dân. Việc thỏa mãn nhu cầu
của công dân đòi hỏi hành chính nhà nước phải chuyển từ “cai trị” sang “phục vụ”,
phải trở nên năng động, có hiệu lực, hiệu quả, cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất
lượng cao, nhanh chóng, công chức có thái độ phục vụ tận tâm và công bằng…
Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng các Hiến chương khách hàng, ban hành
các bộ tiêu chuẩn về dịch vụ, thiết lập cơ chế tiếp nhận và xử lý phản hồi của các
công dân, tổ chức, đánh giá mức độ hài lòng của người dân… để từ đó đề xuất các
giải pháp cải cách hành chính nhà nước.
Để đạt được mục tiêu thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của công dân, mô hình hành
chính công hiện đại có các đặc trưng mới như sau:
Một là, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động
của chính phủ
Trong hành chính nhà nước, trách nhiệm giải trình là khả năng yêu cầu các
công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Trách nhiệm giải
trình bao gồm hai thành tố: (i) khả năng giải đáp và (ii) chịu trách nhiệm về hậu quả
xảy ra. Các công chức phải giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ
đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, đã sử dụng các nguồn lực ra sao và đạt
được những kết quả gì. Các tổ chức chính quyền cần dự báo được hậu quả sẽ xảy ra
trong mỗi hoạt động của mình và chịu trách nhiệm về các hậu quả này. Trách nhiêm
giải trình phải được thực hiện không chỉ đối với cơ quan cấp trên trong bộ máy nhà
nước, mà còn phải giải trình với bên ngoài – các tổ chức và công dân – thông qua ý
kiến phản hồi của các tổ chức và công dân sử dụng các dịch vụ công.
Hoạt động của các cấp chính quyền, các cơ quan hành chính nhà nước và cán
bộ, công chức phải được thông tin tới cơ quan lập pháp, các cơ quan có liên quan
khác trong bộ máy nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc bảo đảm cung
cấp các thông tin này tới xã hội không chỉ làm tăng khả năng kiểm soát của công dân
và xã hội đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, mà còn giúp làm giảm
khả năng lạm quyền, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, giảm quan liêu,
phiền hà.
Hai là, có sự tham gia của các chủ thể trong xã hội vào hoạt động hành chính
nhà nước
Sự tham gia của công dân dưới nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động thực
thi quyền lực nhà nước là yếu tố cơ bản bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, tạo khả năng kiểm soát thực tế các hoạt động của chính phủ.
Sự tham gia của các tổ chức và cá nhân vào hoạt động của hành chính nhà
nước phải được mở rộng đối với tất cả các cấp chính quyền từ trung ương đến địa
phương. Các tổ chức và công dân có thể tham gia vào hoạt động của chính phủ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự tham gia của các chủ thể bên ngoài nhà nước tập
trung vào việc theo dõi hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền. Ý kiến của
người sử dụng các dịch vụ công được coi trọng nhằm kiểm soát việc tiếp cận của họ
đến dịch vụ công cũng như chất lượng của dịch vụ công.
Ba là, tính dự đoán được của hành chính nhà nước
Tính dự đoán được là sản phẩm của một hệ thống luật pháp và các quy định rõ
ràng, cụ thể và được công khai hóa, đồng thời được tuân thủ một cách thống nhất và
có hiệu quả.
Tính dự đoán được đòi hỏi chính phủ phải xây dựng các quy định pháp luật rõ
ràng đối với các dịch vụ công do chính phủ cung cấp, cũng như đối với hoạt động của
khu vực tư nhằm hướng dẫn họ trong sản xuất, tiếp thị và chọn lựa các quyết định
đầu tư.
Bốn là, tính công bằng
Hành chính nhà nước phải bảo đảm sự phục vụ công bằng, bình đẳng cho mọi
đối tượng khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Hành
chính nhà nước cần phải tính đến nhu cầu của các nhóm thiểu số và người nghèo.
Nếu không tính đến hoàn cảnh và nhu cầu của những người nghèo và các nhóm bị
thiệt thòi trong xã hội thì chính quyền không thể duy trì sự phát triển một cách bền
vững, bởi vì những căng thẳng nội bộ tích tụ lại sẽ làm mất đi sự tự nguyện hợp tác.
Năm là, tính thích ứng linh hoạt với sự thay đổi
Chính phủ cần có năng lực quản lý sự thay đổi. Sự thay đổi có thể diễn ra bên
trong hệ thống chính trị mỗi quốc gia, hoặc do sự tác động của môi trường bên ngoài.
Sự thích ứng linh hoạt của chính phủ trong bối cảnh hiện tại đòi hỏi việc áp dụng cơ
chế thị trường và các phương pháp quản lý hiện đại của khu vực tư như cạnh tranh,
đấu thầu, so sánh chi phí và lợi ích, coi công dân là khách hàng, quản lý theo kết quả
…để làm cho nền hành chính trở nên năng động, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao
của công dân. Tính thích ứng linh hoạt cũng đòi hỏi cơ chế hoạt động của hành chính
nhà nước mềm dẻo hơn để thích nghi nhanh chóng với tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội luôn thay đổi. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính nhà
nước, xây dựng chính phủ điện tử là những yêu cầu quan trọng để bảo đảm sự vận
hành nhanh chóng của hành chính nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công cho xã
hội.
Sáu là, tính hiệu lực và hiệu quả
Hiệu lực của hành chính nhà nước là sự thực hiện đúng, có kết quả chức năng
quản lý của bộ máy hành chính để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Hiệu quả
hành chính nhà nước là kết quả quản lý đạt được của bộ máy hành chính trong sự
tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực.
Trong điều kiện hiện nay, khi công dân quan tâm ngày càng nhiều đến việc
chính phủ sử dụng các khoản thuế mà họ đóng góp như thế nào, các chính phủ đều
phải kiểm soát chi tiêu, phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực tài chính để tạo ra
những đầu ra mong muốn. Hành chính nhà nước hiện đại hướng tới không chỉ đảm
bảo hiệu lực, tức là đảm bảo các kết quả đạt được thỏa mãn mục tiêu mà nhà nước
mong muốn, mà còn phải hướng tới đạt hiệu quả cao nhất tức là giảm chi phí tới
mức tối đa. Để làm điều này, cần giảm bớt các nhiệm vụ nhà nước trực tiếp đảm
nhận và tăng cường sự tham gia của khu vực phi nhà nước, trước hết là các doanh
nghiệp tư nhân trong cung cấp sản phẩm và dịch vụ./.
Các đồng chí tự liên hệ.
Câu 4: Nêu khái niệm, bản chất và phân tích vai trò của pháp luật XHCN.
Liên hệ thực tiễn ở VN?
Trả lời:
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội có tính lịch sử, chúng không
phải vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã hội có sự phân
chia giai cấp, có đấu tranh giai cấp. Nhà nước và pháp luật luôn luôn vận động, phát
triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của
chúng không còn nữa.
Pháp luật là một trong những hiện tượng lịch sử của đời sống CT-XH. Tương ứng
với mỗi kiểu nhà nước trong lịch sử là một kiểu pháp luật, kiểu pháp luật tiến bộ nhất
trong lịch sử là pháp luật XHCN.
Pl XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do NN XHCN ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Pháp luật XHCN VN: là hệ thống những quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của
nhân dân lao động, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung,
được nhà nước bào đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; thu
hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp
luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.
Bản chất của PL XHCN :
Nói đến NN là nói đến tổ chức bộ máy, con người, chủ thể, chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền. Còn nói tới pl là nói tới quy tắc, chuẩn mực ứng xử, hành vi: ý chí)
Bản chất của NN là có tính giai cấp và tính xã hội, NN quản lý xã hội bằng pl do
đó, pl cũng có tính giai cấp và tính xã hội. Giai cấp thống trị muốn cài đặt ý chí của
mình vào trong pl.
a) Tính giai cấp của pl XHCN:
PL XHCN thể hiện trước lợi ích của gccn và lợi ích của ndlđ. Trong đó thông qua
các quy định của pl nhằm củng cố, duy trì và đảm bảo quyền lãnh đạo của giai cấp
công nhân đối với NN và đối với xã hội. Thông qua quy định của pl, xác định hệ tư
tưởng chính thống đối với xã hội. Đặc biệt, với việc quy định chế độ sở hữu công đối
với tư liệu sản xuất đã bảo đảm được lợi ích vật chất của gccn đối với xã hội và làm
cho địa vị của giai cấp này khác hẳn so với các kiểu NN trước đó, biến họ là người
“làm thuê” trong NNTS trở thành người chủ thực sự trong chế độ mới.
Không chỉ thể hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, pl XHCN còn thể
hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, lực lượng liên minh
với giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng XHCN và xây dựng CNXH.
b) Pl XHCN có tính xã hội:
Bên cạnh sự thể hiện tính giai cấp, thì tính xã hội của pl XHCN luôn phát triển
theo hướng mở rộng lới ích của các thành phần và các bộ phận khác trong xã hội.
Tính xã hội biểu hiện ở các nội dung sau:
- PL XHCN có liên hệ mật thiết với các quy tắc xã hội, nhất là với các quy tắc đạo
đức, tập quán và các quy phạm của các tổ chức xã hội. Các quy tắc tiến bộ của đạo
đức luôn có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình xây dựng pl, cũng như quá trình thực
hiện pl.
- PL XHCN bảo vệ những tập quán, truyền thống tiến bộ, ngăn cản, hạn chế
những tập tục lạc hậu không còn phù hợp với xã hội mới.
- PL XHCN cũng có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm của các tổ chức xã hội,
như các quy tắc của đoàn thanh niên, tổ chức công đoàn và các tổ chức khác…
Thông qua các mối quan hệ trên, pháp luật thể hiện được lợi ích tinh thần cũng
như vật chất của xã hội nói chung. Bản chất xã hội của pháp luật XHCN còn được thể
hiện ở việc nó thực sự là thước đo hành vi, đánh giá tính xã hội của công dân và tổ
chức.
(SS bản chất pl XHCN với CNTS: cùng có tính giai cấp và tính xã hội, đều thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị. Khác nhau: pl TSCN: thể hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền - giai cấp bóc lột, gc bị bóc lột là đa số ndlđ; duy trì chế độ tư hữu của gc
bóc lột, duy trì sự bất bình đẳng trong xã hội. Pl XHCN: bảo vệ lợi ích, ý chí của đa
số nhân dân lao động, đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ bóc lột, xóa bỏ
bất bình đẳng).
Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Hiện nay, chúng ta dang tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện đó, không thể không khẵng định vai trò của pháp luật đối với quản lý
nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò đó thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Vai trò của pháp luật đối với kinh tế
Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lý bình
đẵng đối với chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các “khung pháp lý” để điều
khiển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi
trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất,
kinh doanh có hiệu quả.
Pháp luật là phương tiện cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp
luật. Khi đó, pháp luật xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và
nghĩa vụ cũng như khách thể mà các bên tham gia hoạt động kinh tế.
Pháp luật là phương tiện cũng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền
kinh tế thị trường. Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế tốt
nhất cho các bên tham gia hoạt động kinh tế trong trường hợp sảy ra trnh chấp kinh
tế, vi phạm hợp đồng kinh tế…
* Vai trò của pháp luật đối với xã hội:
Là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật trước hết là một trong
những yếu tố bảo đảm và bảo vệ sự ổn định trật tự của xã hội. Một mặt pháp luật ghi
nhận và thể chế hóa quyền con người, quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp lý
cho các quyền đó được thực hiện. Mặt khác, pháp luật là phương tiện để các thành
viên của xã hội bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
* Quan hệ của pháp luật đối với hệ thống chính trị
- Đối với sự lãnh đạo của Đảng,  pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng,  làm cho đượng lối đó có hiệu lực thực thi và
bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Đồng thời, pháp luật là phương tiện để
Đảng kiểm tra đương lối của mình trong thực tiễn.
- Đối với nhà nước, pháp luật là cơ sở pháp lý tổ chức và phương thức hoạt động
của chính mình (dựa vào các luật như: Luật tổ chuwcxs HĐND và UBND, Luật tổ
chức Quốc Hội, Chính phủ…), là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của nhà
nước đối với xã hội và cá nhân, công dân, là phương tiện quản lý có hiệu lực đối với
mọi mặt đời sống xã hội. Pháp luật là phương tiện chứa đựng trong đó sự kết hợp
giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ, giữa năng động, sáng tạo
với kỉ cương, kỉ luật. Do đó, khi thực hiện các chức năng của mình, nhà nước không
thể không sử dụng pháp luật.
- Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là cơ sở pháp lý bảo đảm cho
nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính
trị - xã hội của mình. Pháp luật thể chế hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dực vào pháp luật để
phản ứng, đấu tranh với các hành vi làm quyền, cưởng chế ngoài quy định của pháp
luật.
Tóm lại, pháp luật là phương tiện thiết lập các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động
của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo cho hệ thống hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp.
* Vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng
- Đối với đạo đức, các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể chế hóa thành các
quy phạm pháp luật. Do vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ và phát triển đạo đức
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính công bàng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương
tâm con người.
- Quy tắc đạo đức trên đã được nâng lên thành quy phạm pháp luật tại điều 35 của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn,
báo hiếu với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn
danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình”.
- Đối với tư tưởng, pháp luật là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học, các
tư tưởng tiến bộ và các giá trị nhân loại. Vì thế, pháp luật xã hội chủ nghĩa có vai trò
quan trọng trong cũng cố và nâng cao nhận thức tư tưởng cho con người dưới chủ
nghĩa xã hội.
- Điều đó được thể hiện: Một mặt, pháp luật thừa nhận và khuyến khích sự phát
triển của một hoặc nhiều hệ tư tưởng; mặt khác, pháp luật phủ nhận, không ghi nhận
hoặc cấm sự tồn tại hoặc hạn chế sự phát triển của những hệ tư tưởng không phù hợp
với hệ tư tưởng giữ địa vị thống trị, với lợi ích hoặc mục đích của giai cấp thống trị
* Vai trò của pháp luật đối với quá trình hội nhập quốc tế
Trong thời đại ngày nay, xu thế hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan của mọi
quốc gia. Cùng với những tuyên bố chính trị, các quốc gia đanh hướng xây dựng một
hệ thống pháp luật, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình hội nhập quốc tế.
Hiện nay nước ta đang tiến hành hội nhập quốc tế sâu sắc., quan hệ ngoại giao gần
180 quốc gia, quan hệ kinh tế với hơn 200 quốc gia vùng lãnh thổ, hội nhập phải tuân
thủ theo pháp luật, pháp luật phải phù hợp với pháp luật quốc tế để thúc đẩy phát
triển. Vì vậy PL là phương tiện thực hiện chủ trương, chính sách  đối ngoại của Việt
nam trên trường quốc tế.
Pháp luật là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá trình
hội nhập quốc tế
Liên hệ thực tiễn :
Trong thời gian qua, do yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, vai trò của pháp
luật ngày càng được coi trọng trong đời sống xã hội Nhà nước ta đã từng bước xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cơ sở pháp lý cho việc phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN . Cùng thời gian ấy, nước ta đã xây dựng
được một số lượng lớn các văn bản pháp luật, trước hết là Hiến pháp năm 1992, HP
2013 - hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước. Tiếp đó là hàng loạt bộ luật , đạo luật
ra đời. Có thể nói, số lượng các bộ luật và đạo luật được ban hành trong thời kỳ đổi
mới nhiều hơn số lượng văn bản pháp luật của mấy chục năm trước đây kể từ khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Xây dựng pháp luật ở nước ta đã trở thành
hình thức hoạt động cơ bản của Nhà nước, được đẩy mạnh ở cả ba cấp độ: lập pháp,
lập quy của cơ quan nhà nước Trung ương và cấp độ lập quy của chính quyền địa
phương tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Năng lực lập pháp, lập quy của Quốc
Hội, Chính phủ, các Bộ, ngành ngày càng được nâng cao, những cơ sở pháp lý điều
chỉnh hoạt động xây dựng pháp luật ngày càng được hoàn thiện và sự lãnh đạo của
Đảng, mối quan tâm của toàn XH đối với xây dựng Pháp luật ngày càng được tăng
cường, coi trọng. Nhờ đó, đã tạo ra cơ sở pháp lý thúc đẩy quá trình hình thành nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, thúc đẩy quá trình phát triển nền dân chủ
XHCN, hoàn thiện nhà nước, mở rộng quan hệ đối ngoại. Pháp luật đã trở thành công
cụ chủ yếu để quản lý nhà nước và XH. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được đề
cao và phát huy hiệu quả trên thực tế.
Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống Pháp luật nước ta vẫn chưa đáp ứng các đòi hỏi
của công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước, còn bộc lộ nhiều yếu kém như:
Ở nước ta rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy
phạm pháp luật. HTPL ở nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu tính thống nhất, tính
khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống( mâu thuẩn, trùng lắp, chồng chéo dẫn đến hiệu
quản quản lý nhà nước không cao, lúng túng, trách nhiệm, quyền hạn không rõ ràng..
Pháp luật thường xuyên thay đổi. Rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp,
tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Tính minh bạch
của hệ thống pháp luật còn hạn chế. Trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng
pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật và do đó khó trách khỏi hậu quả
pháp luật xa rời thực tiễn. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và
chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng Luật và pháp lệnh còn
chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm
thi hành pháp luật còn thiếu và yếu…Nói tóm lại hệ thống pháp luật nước ta chưa
hoàn thiện. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế là do đ85c điểm của thời kỳ quá
độ ở nước ta; hậu quả chiến trach, hậu uqa3 của cơ chế, tư duy cũ; sụ lung túng và
chậm trẻ trong việc xây dựng chủ trương chính sách nhát là về thể chế kinh tế; năng
lực và cơ chế xây dựng pháp luật chậm đổi mới.
Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật:
1 là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pl, kịp thời đề ra
quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách và định hướng xây dựng pháp luật, kiểm
tra hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà nước.
2 là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền khoa học pháp lý để cung cấp luận cứ khoa
học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược pháp luật, hình thành các chương
tring, kế hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
3 là, xây dựng chiến lược phát triển HTPL gắn với chiến lược phát triển kinh tế
xã hội.
4 là, tăng cường năng lực lâp pháp của Quốc Hội.
5 là, tăng cường sự chỉ đạo điều hành của CP đối với công tác xây dựng các dự án
luật, pháp lệnh trong Q Hội và UB TV Q Hội và các văn bản quy phạm pl thuộc thẩm
quyền của CP và thủ tương CP.
6 là, tăng cường năng lực xây dựng ca1cdu75 án páp luật của các Bộ, ngành.
7 là, thường xuyên ra soát và xử lý văn bản, tăng cương công tác đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ làm công tác pháp luật.
Đất nước trong thời kỳ đổi mới đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một cơ chế mới mẻ, chưa có
mô hình cụ thể. Mặt khác, với các tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị trường thì một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và hoàn thiện có vai trò quan trọng trong việc
tổ chức, điều hành nền kinh tế, bảo vệ và củng cố chế độ XHCN, bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, thực hiện công bằng xã hội.
Câu 5: Nêu khái niệm và phân tích vai trò của pháp luật đối với hệ thống
chính trị.
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội có tính lịch sử, chúng
không phải vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã hội có
sự phân chia giai cấp, có đấu tranh giai cấp. Nhà nước và pháp luật luôn luôn vận
động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và
phát triển của chúng không còn nữa.
Pháp luật là một trong những hiện tượng lịch sử của đời sống CT-XH. Tương
ứng với mỗi kiểu nhà nước trong lịch sử là một kiểu pháp luật, kiểu pháp luật tiến bộ
nhất trong lịch sử là pháp luật XHCN.
Pl XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do NN XHCN
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được Nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khái niệm trên ta thấy, bản chất pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng được thể
hiện ở tính giai cấp và tính xã hội như các kiểu pháp luật đã và đang tồn tại. Nhưng,
sự biểu hiện của các bản chất đó có những điểm khác với bản chất pháp luật nói
dung, đó là:
Trong xã hội – xã hội chủ nghĩa, pháp luật là sản phẩm của hoạt động nhà nước
và xã hội chủ nghĩa – nhà nước kiểu mới – nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy,
pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân.
- Cũng như nhà nước xã hội chủ nghĩa, pháp luật xã hội chủ nghĩa không chỉ
có tính giai cấp công nhân mà còn có tính nhân dân, tính dân tộc.
Ở VN, bản chất này của pháp luật là do bản chất nhà nước và mục tiêu xây
dựng một nước VN “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” quy định.
Mục tiêu đó không chỉ là nguyện vọng của riêng giai cấp công nhân mà còn là
nguyện vọng của toàn thể nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đó là hiện thực, bởi vì
hơn ở đâu hết, trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta, lợi ích
dân tộc cơ bản là thống nhất. Vì vậy, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta không chỉ là sự lựa chọn của giai cấp công nhân, mà là sự lựa chọn của
toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Cũng chính bởi thể, pháp luật xã hội chủ nghĩa
cũng chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam thành pháp luật
nhà nước.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng mang tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Bất kỳ
pháp luật nào cũng cso tính cưỡng chế - tức là tính bắt buộc đối với người thực hiện.
Tuy nhiên pháp luật xã hội chủ nghĩa có bản chất nhân đạo sâu sắc. Pháp luật xã hội
chủ nghĩa một mặt nghiêm khắc trong việc ngăn chặn, đấu tranh chống lại mọi hành
vi vi phạm pháp luật; mặt khác, rất khoan hồng đối với người phạm tội khi biết hối
cải, trở thành người công dân lương thiện.
* Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung
và của nền đạo đức nói riêng…Đối với Việt Nam chúng ta, từ khi thành lập năm
1945, Pháp luật XHCN đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh, chính
trị xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, mà còn góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển.
Ngày nay, đất nước ta đang tiến hành đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường,
vai trò của pháp luật XHCN càng có ý nghĩa quan trọng đòi hỏi việc xây dựng hệ
thống phát luật phù hợp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của
nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất
nước.
- Vai trò của pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy
mô toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong
thực tiễn.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng
bằng đường lối chính trị với chức năng tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động xã
hội của Nhà nước.
Vì vai trò quan trọng như vậy, cho nên, mọi mặt đòi hỏi chất lượng cao của
đường lối và mặt khác đòi hỏi chất lượng cao của việc thể chế hóa đường lối. Do vậy,
mọi sai lầm về đường lối và sai lầm trong việc thể chế hóa đường lối đều dẫn đến hậu
quả xấu mà cả xã hội phải gánh chịu. Đồng thời, khắc phục được những khiếm
khuyết trong thực tiễn như báo hiệu, làm thay, lấn sân giữa sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
- Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước
Đối với Nhà nước, pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế, xã
hội. Để quản lý toàn bộ xã hội, Nhà nước dùng nhiều phương tiện, biện pháp, nhưng
pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng có của mình,
pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước nhanh
nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Nhà nước cũng dựa vào
pháp luật để phát huy quyền lực và kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các tổ chức, các
cơ quan, nhân viên nhà nước và mọi công dân. Ngoài ra, Nhà nước có thể tự hoàn
thiện chính mình thông qua việc quy định bằng pháp luật các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ, các chế độ, thể lệ, quy chế của các cơ quan quản
lý nhà nước, quy chế viên chức nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước.
- Vai trò của pháp luật đối với các tổ chức chính trị - xã hội
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là phương tiện bảo đảm cho
quần chúng nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua
các tổ chức chính trị - xã hội của mình. Đồng thời, pháp luật còn là yếu tố thể chế
phát triển nền dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân
dựa vào pháp luật để chống lại các hành vi lộng quyền, bạo lực trực tiếp không có tổ
chức.
Như vậy, đối với toàn bộ hệ thống chính trị, pháp luật được xem như phương
tiện quan trọng ghi nhận các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của
toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho hệ thống hoạt động đồng bộ và có hiệu quả. Đồng
thời, pháp luật là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo lý của các yếu tố
tạo nên hệ thống và của cả các thành viên hoạt động trong hệ thống đó.
Câu 6: Phân tích đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền với tính cách là học thuyết về tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước, là một giá trị, là tinh hoa của nhân loại có nguồn gốc xa xưa, từ
thời cổ đại có thể được áp dụng ở các nước trên cơ sở những nét đặc trưng về văn
hóa, chính trị, tư tưởng - pháp lý, truyền thống dân tộc. Chính vì vậy, việc áp dụng
học thuyết nhà nước pháp quyền vào nước ta hiện nay với những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội là điều hoàn toàn có thể được. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra
được những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóa và những điều kiện riêng của Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, những đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân ngày càng được định hình, có thể
nêu lên một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí
Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền
lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước
thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ
máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Là nhà nước của
dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là
phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại,
đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ
nhân dân.
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành
một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ
cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng
suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà nước ta
tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.
Hai là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tôn
trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách
mạng chân chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy
gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng
suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người. Do
vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ,
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà
nước, … luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều Hội nghị của Trung
ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X và
nhiều Nghị quyết trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định: Xây dựng
một chính quyền không có đặc quyền, đặc lợi, hoạt động vì cuộc sống của nhân dân.
Nghị quyết trung ương 8 khoá VII xác định trên nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa
là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên
mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá báng pháp luật… Dân chủ đi đôi
với kỷ cương, kỷ luật… Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định rõ những phương châm
cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là cơ
quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản,
bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà
nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết
định và thực hiện các quyết định.
Ba là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động theo
pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và
luật trong đời sống Nhà nước và xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hoá đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói
đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các
quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp
luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích
của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính
chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công
bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền
vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và
đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và
kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các
cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được
xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ
đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn
định xã hội và sự an toàn của người dân.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý
quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó
chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không
hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và của cá tính
chất chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của
nhân dân, cho nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát
hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là
rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Bốn là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tổ chức
theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự
phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nước mới được chính thức
khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung
ương lần thứ tám (khoá VII), (1995) quan niệm của Đảng về ba quyền đã được sự bổ
sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nghị quyết đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước thấp kém quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đều có bổ sung quan tâm vấn đề kiểm soát
quyền lực trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Theo đó nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước
quan trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính
nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Năm là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chịu
trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân
thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và
điều chỉnh.
Sáu là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu
lịch sử và tất yếu khách quan.
+ Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
nhà nước, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là ở
chỗ sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống
xã hội và đời sống nhà nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà
nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước
ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện
thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động
quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại…
Bảy là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực
hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển với
nhân dân các dân tộc và các nước trên toàn thế giới, đồng thời tôn trọng và cam kết
thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và
tích cực hội nhậpquốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoáquan hệ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát
triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủquyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao
vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấutranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN VN thể hiện
những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của
nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
Câu 7. Phân tích vai trò của Nhà nước đối với đảm bảo cung ứng dịch vụ
công cho xã hội?
Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của
người dân vì lợi ích chung của chung của xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước
xã hội (trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện)
nhằm bảo đảm hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội
Phạm vi của dịch vụ công cũng được xác định rất khác nhau, tuỳ thuộc vào
cách nhìn nhận của mỗi quốc gia.
Theo nghĩa rộng nhất, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà Nhà
nước can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó,
dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của
Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, an ninh,
quốc phòng, cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ
trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung
cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.
Việc sử dụng khái niệm dịch vụ công theo nghĩa rộng hay hẹp phải nhằm
hướng tới các mục tiêu phù hợp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, khái niệm
dịch vụ công được hiểu theo nghĩa hẹp với các lý do sau đây:
Thứ nhất, do yêu cầu tách biệt giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng
phục vụ của Nhà nước để từ đó có thể đề ra các biện pháp cải tiên thích hợp đối với
từng loại hoạt động nói trên.
Thứ hai, do càng ngày người ta càng chú trọng hơn đến chức năng phục vụ
của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của việc cung ứng dịch vụ công
- Là những hoạt động phục vụ lợi ích cơ bản của người dân, đáp ứng nhu cầu
của xã hội, gồm các lợi ích cần thiết, các quyền, nghĩa vụ cơ bản của con người để
bảo đảm cho cuộc sống của dân được bình thường và an toàn;
- Hoạt động cung ứng dịch vụ công mang tính chất phục vụ. Dịch vụ công chịu
sự chi phối của cơ chế thị trường, nhưng về cơ bản không tuân theo quy luật của thị
trường, không vì mục tiêu lợi nhuận.
- Do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp cung ứng hoặc uỷ
nhiệm việc cung ứng). Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao dịch vụ này cho tư nhân
cung ứng thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt nhằm bảo đảm sự công bằng
trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các khiếm khuyết của thị trường.
- Không phân biệt đối tượng được cung ứng, thụ hưởng dịch vụ công. Nhà
nước khi nhân danh xã hội thực hiện cung ứng dịch vụ công, không loại trừ bất cứ
chủ thể nào ra khỏi đối tượng của sự phục vụ. Mọi người dân có quyền bình đẳng
trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ công với tư cách là đối tượng phục vụ
của chính quyền.
1.1.3.Các loại dịch vụ công
Căn cứ vào các tiêu chí nói trên có thể xác định 3 loại dịch vụ công cụ thể như
sau:
+ Dịch vụ hành chính, Dịch vụ sự nghiệp, Dịch vụ công ích
1.2. Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công cho
xã hội
Mọi nhà nước, không phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội đều có trách
nhiệm bảo đảm cung ứng dịch vụ công cho nhân dân. Trách nhiệm của Nhà nước
trong việc cung ứng dịch vụ công xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Thị trường bị thất bại trong việc cung ứng các dịch vụ công cho xã hội, thể
hiện dưới 4 dạng cơ bản là các hàng hóa công cộng thuần túy, các dịch vụ có tác
động ngoại ứng, tình trạng độc quyền thị trường trong cung ứng hàng hóa, dịch vụ và
tình trạng thông tin không đối xứng trong cung ứng dịch vụ. Đối với các hàng hóa,
dịch vụ nói trên, thị trường tư nhân sẽ hành động vì mục tiêu lợi nhuận nên không
muốn hay không thể cung ứng (hàng hóa công cộng); cung ứng không đầy đủ hoặc
xâm phạm lợi ích của người sử dụng dịch vụ (độc quyền thị trường, thông tin không
đối xứng), cũng như lợi ích của người chịu tác động ngoại ứng tiêu cực (như tình
trạng ô nhiễm môi trường) nhằm thu được lợi nhuận cho mình.
- Tình trạng bất công bằng trong thụ hưởng các hàng hóa, dịch vụ cơ bản đối
với đơi sống xã hội. Có những loại dịch vụ mà tư nhân có thể cung cấp, nhưng việc tư
nhân cung cấp sẽ dẫn đến chỗ những người có thu nhập thấp (nhất là người nghèo) sẽ
có ít hoặc không có cơ hội sử dụng các dịch vụ này, chẳng hạn như dịch vụ y tế, giáo
dục, cung cấp điện, nước sinh hoạt…
Những nguyên nhân nói trên đòi hỏi Nhà nước – đại diện cho quyền lực công
do nhân dân bỏ phiếu bầu ra – phải có trách nhiệm khắc phục các thất bại của thị
trường bằng cách trực tiếp cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát thị trường tư nhân
nhằm bảo đảm cho việc cung ứng dịch vụ đó được bình thường, công bằng, phục vụ
các nhu cầu cơ bản của con người.
Trách nhiệm cụ thể của Nhà nước về dịch vụ công bao gồm:
1.2.1. Trực tiếp tổ chức thực hiện một số dịch vụ công
Đối với một số hàng hoá, dịch vụ, Nhà nước thấy cần thiết phải duy trì vị trí sở
hữu, là người trực tiếp cung ứng để bảo đảm việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ này.
Nhà nước trực tiếp thực hiện cung ứng một số dịch vụ công thông qua các cơ quan, tổ
chức của mình lập ra. Điều quan trọng là Nhà nước cần phải nghiên cứu xác định rõ
các dịch vụ nào thực sự cần thiết mà Nhà nước phải trực tiếp làm, phạm vi đến đâu,
để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép.
Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ trực tiếp cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho
đa số trong các trường hợp mà thị trường thất bại và không bảo đảm công bằng trong
cung ứng các dịch vụ này đối với người nghèo. Song ngay cả khi đó, Nhà nước cũng
chỉ nên cung ứng các dịch vụ công sau đây:
- Dịch vụ không thể xác định được các đặc tính đầu ra: một số dịch vụ khó có
thể xác định được các đặc tính đầu ra (chẳng hạn như vấn đề giữ gìn an ninh trật tự
trên một địa bàn), hoặc rất khó có thể giám sát việc cung ứng các dịch vụ này, từ đó
có thể dẫn đến các hậu quả xấu (chẳng hạn như việc sản xuất vũ khí). Trong các
trường hợp đó Nhà nước nên trực tiếp cung ứng để có thể điều phối và giám sát tốt
hơn viêc sản xuất và cung ứng các dịch vụ này, tránh các ảnh hưởng tiêu cực cho xã
hội.
- Dịch vụ khó cạnh tranh: các dịch vụ công mà tư nhân không muốn tham gia,
không đủ khả năng để tham gia.
- Dịch vụ có sự nhạy cảm về chính trị: một số loại dịch vụ có tính chính trị,
Nhà nước phải trực tiếp đứng ra cung ứng để tránh những hậu quả xấu về mặt chính
trị, chẳng hạn như tạo ra sự bất ổn về chính trị, tư tưởng, an ninh, quốc phòng…
Đương nhiên, tuỳ theo bối cảnh chính trị của mỗi nước mà Nhà nước quyết định
phạm vi các dịch vụ cần được cung ứng trực tiếp.
1.2.2.Thực hiện quản lý nhà nước về cung ứng dịch vụ công
Ngoài các dịch vụ công mà Nhà nước trực tiếp cung ứng, khu vực tư cũng
tham gia ngày càng nhiều vào việc cung ứng các dịch vụ công. Nhiều nước thực hiện
nguyên tắc: những dịch vụ công nào mà khu vực tư có khả năng và muốn tham gia thì
Nhà nước khuyến khích họ tham gia cung ứng cho xã hội. Tuy nhiên, tất cả những
hoạt động cung ứng dịch vụ công nói trên, dù được tiến hành dưới hình thức nào thì
Nhà nước cũng là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc cung ứng chúng. Vì
vậy, khác với các dịch vụ tư do tư nhân trực tiếp cung ứng và thu lời, các dịch vụ
công chịu tác động quan trọng của Nhà nước trong việc thực thi, phân phối, giá cả,
chất lượng… Nét đặc thù này quy định vai trò quản lý nhà nước đối với việc cung
ứng các dịch vụ công. Cụ thể, vai trò quản lý nhà nước về cung ứng dịch vụ công bao
gồm các nội dung sau:
- Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng dịch vụ công.
Nhà nước xây dựng chiến lược cung ứng dịch vụ công nhằm đề ra định hướng và các
giải pháp bảo đảm về số lượng và chất lượng dịch vụ công cho xã hội gắn với tầm
nhìn dài hạn. Trên cơ sở đó, Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và cơ chế
cung ứng các loại dịch vụ công cơ bản. Hệ thống cơ chế chính sách này là căn cứ
pháp lý để tổ chức, chỉ đạo thống nhất hoạt động cung ứng dịch vụ công.
- Phân cấp quản lý trong cung ứng dịch vụ công: Thực hiện phân cấp ngày
càng nhiều cho các bộ ngành và đặc biệt là các cấp chính quyền địa phương về quản
lý và cung ứng các dịch vụ công. Về nguyên tắc, các đơn vị ở cấp cơ sở gắn trực tiếp
với người hưởng lợi sẽ là người cung ứng dịch vụ công thích hợp và có hiệu quả
nhất, vì họ hiểu rõ nhất nhu cầu của người dân và có thể tạo ra sự thuận lợi nhất cho
người dân trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ công.
- Thực hiện chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch
vụ công nhằm bảo đảm các mục tiêu của Nhà nước: Sự chỉ đạo, điều hành và kiểm
tra, giám sát của Nhà nước nhằm bảo đảm duy trì việc cung ứng các dịch vụ công
thiết yếu cho xã hội một cách liên tục, ổn định; thiết lập được môi trường chung,
thống nhất cho các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ công để họ tự nguyện cùng
tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng; thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa
các tổ chức cung ứng dịch vụ; tạo điều kiện và bảo đảm quyền lợi của người tiêu
dùng.
- Tạo lập môi trường để tăng cường tiếng nói của người dân đối với các chính
sách của Nhà nước: Nhà nước cần quán triệt quan điểm cung ứng dịch vụ công định
hướng khách hàng. Việc Nhà nước lắng nghe tiếng nói của người dân sẽ giúp Nhà
nước cải tiến các chính sách đề ra phù hợp với thực tế, và đáp ứng nguyện vọng của
nhân dân.
- Ban hành các cơ chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện dịch vụ công:
Chính phủ đang từng bước đổi mới cơ chế hoạt động thích ứng đối với từng loại đơn
vị cung ứng dịch vụ công để khuyến khích các đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình, đa dạng hoá các dịch vụ, mở rộng cung ứng dịch vụ cả về số
lượng dịch vụ, địa bàn, số cơ sở cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng
nhu cầu ngày càng lớn của các tổ chức và công dân.
- Khuyến khích và thực hiện xã hội hoá các dịch vụ công: Xã hội hóa là một
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động, tổ chức sự tham gia
rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công
trên cơ sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người để cải thiện
hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
- Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo để tăng khả năng tiếp cận của họ đến các
dịch vụ công: Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đi liền với sự gia tăng bất bình
đẳng, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội và sự chênh lệch trong hưởng thụ các dịch
vụ công. Để tránh tình trạng giá cả của dịch vụ có thể trở thành hàng rào ngăn cản
người nghèo sử dụng dịch vụ công và nhằm thực hiện công bằng xã hội, Nhà nước có
trách nhiệm hỗ trợ người nghèo trong việc tiếp cận đến các dịch vụ công.
1.2.3. Các mối quan hệ trách nhiệm trong cung ứng dịch vụ công
Trên thực tế, có ba nhóm chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng dịch vụ
công:
Nhóm thứ nhất: người sử dụng dịch vụ (bệnh nhân, học sinh, hành khách xe
buýt…)
Nhóm thứ hai: Các nhà cung ứng dịch vụ trực tiếp (trường học, bệnh viện,
công ty xe buýt…).
Nhóm thứ ba: các nhà hoạch định chính sách về dịch vụ công.
Mối quan hệ giữa ba nhóm chủ thể nói trên trong quá trình cung ứng dịch vụ
hướng vào thực hiện mục tiêu của Chính phủ về cung ứng dịch vụ công là bảo đảm
tính công bằng và hiệu quả.
Người sử dụng dịch vụ là các công dân và các tổ chức trong xã hội. Họ có nhu
cầu về dịch vụ và họ có thể tiếp cận đến các dịch vụ được cung cấp từ các nhà cung
ứng. Các nhà cung ứng chịu sự chi phối bằng các chính sách do Chính phủ (nhà
hoạch định chinh sách) ban hành, đồng thời lại là chủ thể cung câp dịch vụ cho người
sử dụng. Nhà hoạch định chính sách (đại diện cho chính phủ) ban hành các chính
sách về cung ứng dịch vụ công, có thể bao gồm cả các quy định cụ thể về giá cả dịch
vụ, điều kiện cung ứng và chất lượng dịch vụ.
Trong trường hợp Chính phủ cấp tiền cho các nhà cung ứng để họ cung cấp
dịch vụ cho xã hội, các nhà cung ứng sẽ không cần quan tâm đến khách hàng, mà chỉ
quan tâm đến Chính phủ (nhà hoạch định chính sách) - người cấp tiền cho họ hoạt
động.
Trường hợp khách hàng trả tiền (toàn bộ hoặc một phần) cho dịch vụ, lúc đó
nhà cung ứng sẽ chịu sự chi phối của khách hàng và quan tâm hơn đến việc đáp ứng
các nhu cầu của khách hàng.
Vì vậy, việc Nhà nước điều tiết các mối quan hệ giữa ba nhóm chủ thể nói trên
có tác dụng quan trọng đến mục tiêu cung ứng dịch vụ công mà Nhà nước đề ra.
Câu 8. Nêu k/n, phân tích nội dung QLNN đối với ngành, lĩnh vực xã hội
1. Khái niệm quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực
Quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực là hoạt động quản trị nhà nước do
các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân và các chủ thể có liên quan tiến hành
theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể hoặc theo hình thức đa ngành, đa lĩnh vực.
2. Nội dung quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực
2.1. Xây dựng quy hoạch ngành, lĩnh vực cấp quốc gia
a. Khái niệm quy hoạch ngành, lĩnh vực
- Định nghĩa quy hoạch ngành, lĩnh vực
Quy hoạch được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, “quy
hoạch” là khái niệm được dùng để chỉ một phương án mang tính chiến lược, dài hạn,
toàn diện và có tính khái quát cao. Điều này để phân biệt với “kế hoạch” thường có
tính ngắn hạn, tính chấp hành và tính thao tác. Nói cách khác, “quy hoạch” nhấn
mạnh vào phương diện chiến lược còn “kế hoạch” nhấn mạnh vào phương diện chiến
thuật. Thực hiện kế hoạch chính là việc triển khai quy hoạch trên thực tế và do vậy
một quy hoạch sẽ có nhiều kế hoạch thực hiện đi kèm.
Khoa học chính sách công xem xét “quy hoạch” theo nghĩa hẹp, tức là chỉ
tiến hành quy hoạch đối với không gian (như đất đai, mặt nước...) để đảm bảo cho
việc sử dụng hiệu quả các tài nguyên hữu hạn của xã hội. Điều 4 Luật Quy hoạch (Dự
thảo lần 2) đưa ra định nghĩa như sau: Quy hoạch là định hướng, sắp xếp và phân bổ
theo không gian các hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường để sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực hữu hạn, phục vụ cho mục tiêu phát triển được
đặt ra cho thời kỳ dài hạn trên một lãnh thổ xác định.
Để tránh sự chồng chéo trong quy hoạch và sự lãng phí nguồn lực, Luật Quy
hoạch (Dự thảo) quy định bốn loại quy hoạch bao gồm: quy hoạch quốc gia, quy
hoạch vùng, quy hoạch cấp tỉnh và quy hoạch ngành quốc gia.
Quy hoạch ngành quốc gia là việc cụ thể hóa, tuân thủ các định hướng phát
triển của quy hoạch quốc gia, liên kết giữa các ngành và xác định những lĩnh vực lớn
của ngành trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, làm cơ sở cho lập quy hoạch
vùng, quy hoạch cấp tỉnh và quy hoạch đô thị, nông thôn trên cả nước.
- Đặc điểm của quy hoạch ngành, lĩnh vực
+ Thứ nhất, đối với các ngành và lĩnh vực không tiến hành xây dựng quy
hoạch sản phẩm mà chỉ quy hoạch đối với không gian (như đất đai, mặt nước...) để
đảm bảo cho việc sử dụng hiệu quả các tài nguyên hữu hạn. Việc quy hoạch sản
phẩm như sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu do thị trường quyết định. Nhà nước chỉ
quy hoạch không gian để đảm bảo cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh được diễn
ra tốt nhất và huy động được tối đa các nguồn lực xã hội.
+ Thứ hai, hạn chế quy hoạch ngành đơn lẻ mà thực hiện quy hoạch liên
ngành, theo đó các ngành cùng làm việc, thảo luận và thương lượng để lập quy hoạch
phát triển chung, trên cơ sở phù hợp với quy hoạch quốc gia, xác định những ngành
và lĩnh vực ưu tiên phát triển, tránh sự chồng chéo hoặc trùng lắp gây lãng phí nguồn
lực.
+ Thứ ba, chỉ thực hiện quy hoạch ngành, lĩnh vực cấp quốc gia, không quy
hoạch ngành, lĩnh vực cấp địa phương. Nền kinh tế nước ta chưa phát triển và sức
cạnh tranh quốc tế của hầu hết các ngành còn rất thấp, hơn nữa đất nước được chia
thành quá nhiều tỉnh có quy mô nhỏ, nên việc thực hiện quy hoạch ngành cấp địa
phương có thể dẫn đến sự chồng chéo, hạn chế sự phát triển tổng thể và sức cạnh
tranh của ngành quốc gia, đồng thời gây lãng phí nguồn lực trong quá trình lập và
thực hiện quy hoạch.
+ Thứ tư, quy hoạch ngành, lĩnh vực là một quá trình động, mang tính chiến
lược của một ngành và không được coi quy hoạch là một sản phẩm. Chính vì vậy,
quy hoạch mang tính chiến lược không phải là cái nhất thành bất biến, không thể thay
đổi, điều chỉnh mà nó có thể thay đổi nếu hoàn cảnh đã có những biến đổi nhất định.
Tuy nhiên, quy hoạch mang tính chiến lược tốt là quy hoạch có tầm nhìn xa trông
rộng trên cơ sở phân tích kỹ hiện trạng, các mục tiêu ưu tiên phát triển và các khả
năng thay đổi của ngoại cảnh.
b. Chu trình quy hoạch ngành quốc gia
Chu trình quy hoạch là quá trình luân chuyển các bước, từ lập quy hoạch cho
đến khi xác định được hiệu quả của quy hoạch trong đời sống xã hội.
1. Lập quy hoạch ngành
- Chủ thể tổ chức lập quy hoạch ngành: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ lập quy
hoạch ngành theo phân công của Chính phủ. Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức lập
quy hoạch có thể trực tiếp lập quy hoạch hoặc thuê các tổ chức chuyên nghiệp thực
hiện việc lập quy hoạch.
- Chủ thể tham gia lập quy hoạch ngành: cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng
đồng dân cư có liên quan về quy hoạch.
2. Thẩm định và phê duyệt quy hoạch ngành
- Hội đồng thẩm định quy hoạch ngành: do Chính phủ thành lập, bao gồm Chủ
tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên. Thành viên có thể là đại diện các Bộ, ngành, cơ
quan có liên quan hoặc các chuyên gia về quy hoạch.
- Thẩm quyền phê duyệt quy hoạch ngành: Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định phê duyệt quy hoạch ngành.
3. Quản lý và thực hiện quy hoạch
Việc quản lý và thực hiện quy hoạch được thể hiện trên ba phuơng diện là (i)
công bố quy hoạch, (ii) thực hiện phát triển theo quy hoạch và (iii) đánh giá,
điều chỉnh quy hoạch.
- Công bố quy hoạch
Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày được phê duyệt, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ phải công bố Quy hoạch đã được phê duyệt đó. Việc công bố có thể được
thực hiện thông qua các hình thức:
+ Thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin
điện tử của cơ quan lập, thẩm định, phê duyết quy hoạch.
+ Tổ chức các hội nghị, cuộc họp để công bố.
+ Trưng bày thường xuyên, liên tục các bản đồ, mô hình tại các triển lãm,
trung tâm thông tin quy hoạch.
+ Phát hành ấn phẩm.
+ Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông
tin cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu, trừ những nội dung liên quan
đến bí mật nhà nước.
- Thực hiện phát triển theo quy hoạch
Việc quản lý phát triển theo quy hoạch chính là cụ thể hóa các nội dung mang
tính chiến lược của quy hoạch. Việc cụ thể hóa này có thể được thực hiện thông qua
những kế hoạch 5 năm, chương trình đầu tư phát triển, chính sách ưu đãi liên quan
đến thuế, đất đai, tài nguyên hoặc thông qua việc chuẩn bị nguồn lực (bao gồm vốn,
nhân lực…) cho phát triển.
Thông thường các hoạt động trên được thể hiện thông qua các đề án, dự án.
Việc lập đề án, dự án phải sử dụng các phương pháp khoa học cũng như có các hình
thức kiểm tra đánh giá hiệu quả phù hợp. Nội dung này sẽ được trình bày trong
chuyên đề nghiên cứu về xây dựng đề án, dự án.
- Đánh giá và điều chỉnh quy hoạch
Việc thực hiện quy hoạch đòi hỏi phải được đánh giá định kỳ nhằm phát hiện
những yếu tố mới cần phải bổ sung hoặc sửa đổi. Thông thường, chu kỳ đánh giá đối
với quy hoạch là 5 năm, kết quả của việc đánh giá là tiếp tục duy trì quy hoạch hoặc
điều chỉnh quy hoạch.
Có hai hình thức điều chỉnh quy hoạch là điều chỉnh tổng thể và điều chỉnh cục
bộ. Điều chỉnh tổng thể được thực hiện khi mục tiêu, định hướng phát triển thay đổi
dẫn đến thay đổi khả năng thực hiện kịch bản và không gian phát triển kinh tế xã hội.
Điều chỉnh cục bộ được thực hiện khi định hướng phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội, định hướng khai thác tài nguyên thiên nhiên thay đổi hoặc do biến động của
tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến khả năng thực hiện quy hoạch.
Do quy hoạch là phương án mang tính chiến lược mà không phải là một sản
phẩm có tính nhất thành bất biến nên việc điều chỉnh quy hoạch là vấn đề không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, quá trình lập quy hoạch nếu phân tích tốt các điều kiện tác
động, dự báo chính xác xu hướng phát triển thì sẽ hạn chế được việc phải điều chỉnh
quy hoạch.
c. Sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào chu trình quy hoạch ngành
Các tổ chức, cá nhân tham gia vào chu trình quy hoạch thể hiện trên ba phương
diện:
- Một là, các chủ thể có liên quan trực tiếp đến đề án được tham vấn khi lập đề
án. Các chủ thể khác có quyền đưa ra ý kiến góp ý và cơ quan chịu trách nhiệm lập
đề án có trách nhiệm tiếp thu và giải trình tiếp thu.
- Hai là, các tổ chức, cá nhân có quyền được thông tin về quy hoạch. Trừ
những vấn đề liên quan đến bí mật quốc gia, các thông tin khác của quy hoạch phải
được cung cấp cho các cá nhân, tổ chức nếu họ có yêu cầu. Việc cung cấp thông tin
có thể trực tiếp cho người yêu cầu hoặc có thể thông qua phương tiện thông tin đại
chúng, trang thông tin điện tử hoặc thông qua các ấn phẩm về quy hoạch.
- Ba là, các tổ chức, cá nhân có quyền giám sát thực hiện quy hoạch. Trong
trường hợp phát hiện việc thực hiện quy hoạch có vi phạm, tổ chức, cá nhân có quyền
khiếu nại tới các cơ quan nhà nước để tiến hành thanh tra và xử lý vi phạm.
2.2. Xây dựng chính sách công
a. Định nghĩa và bản chất của chính sách công
Chính sách công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn trên cơ sở có
sự tham gia của các chủ thể liên quan để giải quyết các vấn đề công cộng của xã hội,
phù hợp với quan điểm chính trị và điều kiện kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ.
Các vấn đề công cộng của xã hội, xét đến cùng đều là vấn đề lợi ích của các
nhóm chủ thể khác nhau trong xã hội. Do đó, quá trình hình thành chính sách công là
quá trình mà ở đó các nhóm chủ thể khác nhau đưa ra các yêu cầu về lợi ích. Chính
phủ ban hành chính sách để điều chỉnh các mối quan hệ yêu cầu lợi ích đó. Cụ thể là
chính sách được ban hành là để thừa nhận lợi ích của mỗi chủ thể, đồng thời để giải
quyết mâu thuẫn giữa người này với người khác, khiến cho mọi người khi theo đuổi
lợi ích cá nhân thì cũng đồng thời gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội.
Do đó, bản chất của chính sách công chính là việc phân phối lợi ích công cộng.
Đây là sự phân phối có chọn lọc, sau khi đã cân nhắc các mâu thuẫn lợi ích của các
nhóm chủ thể khác nhau. Việc thực hiện chính sách chính là để hiện thực hóa sự phân
phối lợi ích nói trên.
b. Phân loại chính sách công
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, chính sách bao gồm nhiều loại như chính
sách kinh tế, chính sách văn hóa, giáo dục, chính sách an ninh – quốc phòng…
- Căn cứ vào thời gian tồn tại của chính sách có ba loại chính sách ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn.
- Căn cứ vào phạm vi tác động, có chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
c. Yêu cầu đối với việc xây dựng chính sách
- Tạo ra động lực phát triển
Những biện pháp chính sách có tác động mạnh đến mục tiêu thường mang tính
cơ chế cao như cơ chế tự chủ, cơ chế lợi ích, cơ chế trách nhiệm, cơ chế xã hội hóa…
Thực tế nước ta cho thấy đã có nhiều chính sách tạo ra động lực mạnh cho sự phát
triển kinh tế như chính sách kinh tế nhiều thành phần, chính sách lưu thông sản phẩm,
hàng hóa tự do, chính sách giá thống nhất, chính sách kinh tế hộ, kinh tế trang trại
trong nông nghiệp, chính sách dân số, lao động, việc làm…
+ Thông thường nếu mục tiêu chính sách phù hợp với lợi ích của đa số nhân
dân thì sẽ thu hút được đông đảo quần chúng tham gia tự giác vào quá trình chính
sách, tạo nên một động lực mạnh để thực hiện các mục tiêu phát triển.
- Phù hợp với tình hình thực tế
+ Chính sách được ban hành phải xuất phát từ những vấn đề nảy sinh trong
thực tế và lại trở giải quyết chính những vấn đề đó.
+ Liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, một chính sách tốt phải là chính
sách quản lý để thúc đẩy sự phát triển (phát triển đến đâu quản lý theo kịp đến đó)
chứ không phải là khả năng quản lý đến đâu thì cho phát triển đến đó.
- Có tính khả thi
+ Chính sách phải biến các mong muốn của người dân và nhà nước thành hiện
thực và phải được ban hành vào thời điểm thích hợp.
+ Chính sách hạn chế xe máy (biển chẵn, biển lẻ), người có vòng đo ngực
trung bình dưới 72 cm không được cấp bằng lái hạng A1, do đó không được đi xe
trên 50 cc.
- Có tính hợp lý
+ Tính hợp lý là sự cân đối, hài hòa giữa mục tiêu chính sách với nguyện vọng
của đối tượng thụ hưởng trong hiện tại và tương lai.
+ Chính sách về xây dựng mô hình ngân hàng một cấp không hợp lý dẫn đến
lạm phát cao ở Việt Nam thập niên 80.
d. Chu trình chính sách
Chu trình chính sách là quá trình luân chuyển các bước, từ khởi sự chính sách
cho đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội.
Câu 9 phân tích quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và
định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân đến năm 2020
1- Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, được phân định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể
hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo những trình tự và hình thức và thủ tục nhất định
2- Mục tiêu
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật;
phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
3- Quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Một là, Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể
hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Hai là, Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện
đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc
văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.
Bốn là, Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.
Năm là, Tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với
những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng
điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.
4- Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân đến năm 2020.
Đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều
hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cụ
thể hoá đầy đủ nguyên tắc hiến định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy
nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân
chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; trong đó, các đạo luật
ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoàn thiện
pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật
thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật,
giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành
văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật được
thi hành ngay khi có hiệu lực.
- Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và
Hiến pháp.
- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà
nước.
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết định và hành vi
hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi kiện trước toà án; đổi
mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
theo hướng công khai, đơn giản, thuận lợi cho dân, đồng thời bảo đảm tính thông
suốt, hiệu quả của quản lý hành chính.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm
mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, đồng
thời khắc phục tình trạng công tác thanh tra, kiểm tra gây khó khăn, phiền hà cho
hoạt động của các cơ quan hành chính và doanh nghiệp.
Ban hành Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà
nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
Hoàn thiện Luật chống tham nhũng, thực hiện nguyên tắc người đứng đầu cơ
quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của
cán bộ do mình trực tiếp quản lý trong khi thi hành công vụ.
Đến năm 2020, pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan
hành pháp được hoàn thiện theo hướng Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý,
điều hành vĩ mô và thực hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Hình thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng
thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình
quản lý, tổ chức thi hành pháp luật.
1.5- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác
định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư
pháp.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân, bảo đảm
toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm
quyền xét xử của toà án sơ thẩm và toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp
xét xử. Hoàn thiện cơ chế quản lý toà án nhân dân địa phương theo hướng bảo đảm
tính độc lập giữa các cấp toà án trong hoạt động xét xử.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân
dân theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành viện công tố.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều
tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra ban đầu với
hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra.
Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; xác
định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất công tác thi
hành án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng,
giám định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các
nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hoá
mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các
tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng,
công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát
của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên
toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án,
coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm
quyền xét xử của toà hành chính đối với tất cả các loại khiếu kiện hành chính.
Ngoài định hướng trên trong thời gian tới cần tiếp tục quan tâm thực hiện tốt
các định hướng sau để đảm bảo tính đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam:
- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, y tế, văn hoá - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và
chính sách xã hội
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế
Kết luận
Câu 10. Phân tích các nguyên tắc xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là gồm nhiều hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các cá nhân được Nhà nước trao quyền, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
theo những trình tự thủ tục luật định nhằm chuyển hóa ý chí của giai cấp cầm quyền
và ý chí chung của toàn xã hội thành các quy định pháp luật.
1.2. Các nguyên tắc xây dựng pháp luật
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những quan điểm tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
trong quá trình tổ chức và hoạt động xây dựng pháp luật. Hay nói cách khác nguyên
tắc xây dựng pháp luật là "kim chỉ nam" định hướng cho hoạt động xây dựng pháp
luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật có những nguyên tắc cơ bản sau:
a. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng pháp luật
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo toàn
diện mọi mặt đời sống kinh tế chính trị xã hội thì Đảng phải lãnh đạo công tác xây
dựng pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện
ở các khía cạnh:
- Đảng phải đề ra chủ trương đường lối chiến lược về xây dựng pháp luật, phải
nghiên cứu tình hình thực tiễn về kinh tế; xã hội cũng như các quan hệ xã hội phát
sinh tồn tại và phát triển trong xã hội để ban hành các chủ trương đường lối cho phù
hợp.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải nhất quán trong chủ trương đường lối xây
dựng pháp luật. Một sự không ăn khớp, hoặc mâu thuẫn về chủ trương đường lối đều
ảnh hưởng tới công tác xây dựng pháp luật.
Đảng lãnh đạo, nhưng Đảng phải tôn trọng các cơ quan tổ chức cá nhân có chức
năng xây dựng pháp luật, tránh bao biện làm thay các cơ quan nhà nước, tổ cá nhân
trong xây dựng pháp luật. Đảng tập trung lãnh đạo các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xây dựng pháp luật, như Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Chính phủ...
để thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động xây dựng pháp luật, Đảng
phải củng cố và nâng cao chất lượng các tổ chức Đảng thuộc các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xây dựng và ban hành pháp luật. Đặc biệt phải phát huy vai trò tích
cực của đội ngũ đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và các
cán bộ công chức tham gia vào việc xây dựng pháp luật.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng pháp luật cần tránh hai khuynh
hướng Đảng can thiệp quá sâu hoạt động xây dựng pháp luật hoặc buông lỏng
khoán trắng cho Nhà nước mà không quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động này.
b. Nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi trong xây dựng pháp luật phải đáp ứng được
những yêu cầu khách quan của các quan hệ xã hội, phải tôn trọng các quy luật khách
quan về tự nhiên, kinh tế, xã hội, tránh tình trạng áp đặt chủ quan, duy ý chí trong
hoạt động xây dựng pháp luật.
Trong xây dựng pháp luật phải vừa bám sát các đường lối chủ trương của Đảng
về phát triển kinh tế - xã hội, vừa phải khảo sát nghiên cứu thực tế để nghiên cứu các
quan hệ xã hội, tồn tại một cách khách quan trong đời sống xã hội, phải nắm chắc
tình hình kinh tế xã hội để xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp, có tính khả thi.
Đặc biệt trong xây dựng pháp luật phải đảm bảo công khai minh bạch, tránh lợi ích
nhóm, tránh cục bộ ngành, cục bộ địa phương trong xây dựng pháp luật.
c. Nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật
Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải
tạo điều kiện thực sự để nhân dân và các tổ chức xã hội, các đoàn thể tham gia vào
hoạt động xây dựng pháp luật như góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp, Luật, Bộ luật,
Pháp lệnh v.v..
Các cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải lắng nghe tôn trọng ý
kiến góp ý của dân, những ý kiến có cơ sở lý luận và thực tiễn phải tiếp thu để chỉnh
sửa trong các văn bản dự thảo.
Ngược lại các công dân phải có năng lực để thực hiện làm chủ trong xây dựng
pháp luật. Người dân phải hiểu biết sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, về
kiến thức pháp luật và có ý thức trách nhiệm để thực hiện quyền làm chủ của mình
trong xây dựng pháp luật.
Bên cạnh đó, các cơ quan xây dựng pháp luật cũng phải tạo điều kiện để nhân dân
được làm chủ trong xây dựng pháp luật, như thông qua các tổ chức chính trị xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn thể hoặc trực tiếp thực hiện các quyền dân chủ của
mình trong xây dựng pháp luật, như người dân trực tiếp góp ý vào các dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật, hoặc trực tiếp tham gia các hội thảo về góp ý sửa đổi bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đòi hỏi phải triển khai cả
hai hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp trong xây dựng pháp luật.
d. Nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật
Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng pháp luật là chế độ mà trong đó các
cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân phải dân chủ triệt để các quy định pháp luật.
Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi trong quá trình xây dựng pháp luật các cơ quan có
thẩm quyền phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục xây
dựng và ban hành các văn bản pháp luật (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật).
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thường xuyên hệ thống hóa văn bản
pháp luật xử lý nghiêm đối với những văn bản ban hành trái thẩm quyền vi phạm luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những quy định vi Hiến, những văn bản, quy
phạm pháp luật không có tính khả thi v.v..
Đặc biệt phải tăng cường trách nhiệm của các tổ chức cá nhân trong việc tham
gia soạn thảo ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cán bộ, công chức phải tuân
thủ nghiêm ngặt các trình tự thủ tục nội quy, quy chế trong hoạt động xây dựng pháp
luật.
e. Nguyên tắc lôgic và khoa học
Hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn, nhiều
thủ tục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy trong xây dựng pháp luật phải
đảm bảo tính lôgic, tính khoa học. Đặc biệt trong xây dựng cá vcăn bản quy phạm
pháp luật bao gồm nhiều quy phạm, nhiều chế định pháp luật khác nhau, giữa các
quy phạm, chế định pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể
thống nhất, do đó cần phải thực hiện nguyên tắc lôgic trong xây dựng pháp luật.
Phải xem đây là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động xây dựng
pháp luật.
Bên cạnh đó phải tổ chức khoa học quá trình xây dựng pháp luật, nghĩa là
phải quản lý một cách khoa học trong hoạt động xây dựng pháp luật, như quản lý
về con người, chương trình, kế hoạch và tài chính trong quá trình xây dựng pháp
luật, để tránh lãng phí các nguồn lực, như nguồn lực con người, nguồn lực tài
chính, nguồn lực thời gian...
Phải tổ chức khoa học việc biên soạn văn bản pháp luật, cắt giảm các thủ tục
hành chính rườm rà trong hoạt động xây dựng pháp luật, vừa coi trọng số lượng, vừa
coi trọng chất lượng trong hoạt động xây dựng pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này
đòi hỏi phải biết thiết kế một cách lôgic, khoa học, hợp lý, các chế định pháp luật, các
quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt phải nghiên cứu
để kết cấu một cách lôgic, khoa học các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống
pháp luật. Các cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải nghiên
cứu một cách kỹ lưỡng để tránh việc trùng lắp chồng chéo, hoặc lỗ hổng các văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Văn phong trong các văn bản quy phạm
pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, từ ngữ phải có độ chính xác cao.
Đặc biệt phải huy động các nhà khoa học pháp lý tham gia vào hoạt động xây
dựng pháp luật, để đưa ra và phân tích cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong những năm qua công tác xây dựng pháp luật ở nước ta đã thu được
nhiều thành tựu to lớn, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992, sửa
đổi bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như Bộ luật Dân
sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng
dân sự, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật
Xử lý vi phạm hành chính, Luật Giáo dục, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư v.v..
Bên cạnh đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành một số pháp lệnh và
nghị quyết trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt Chính phủ và các bộ
ngành đã ban hành nhiều nghị định, thông tư để hướng dẫn thi hành các luật, bộ
luật... Đã tạo ra một hệ thống pháp luật đa dạng, phong phú điều chỉnh có hiệu
quả, nhiều quan hệ xã hội, có nhiều điều luật trong các bộ luật, luật đã tương thích
với pháp luật của một số nước phát triển trên thế giới, tạo cơ sở pháp lý cho Việt
Nam hội nhập sâu với nhiều nước trên thế giới.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được. Công tác xây dựng pháp luật của
Việt Nam cũng còn một số bất cập hạn chế, như chưa rà soát kịp thời các văn bản quy
phạm pháp luật đã ban hành, nên hệ thống pháp luật của chúng ta còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc. Do đó một số quy định còn bị trùng lắp chồng chéo, mâu thuẫn không
có tính khả thi.
Một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng chưa được kịp thời sửa đổi bổ
sung nên một số quy định không còn phù hợp, một số quy định không có tính khả thi
hoặc thiếu một số quy định tạo hỗ lổng cho hệ thống pháp luật.
Trình độ năng lực của một số cán bộ công chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật còn hạn chế, nên chất lượng của một số văn bản quy phạm pháp luật không cao, do
đó một số quy phạm pháp luật vừa ban hành nhưng đã lạc hậu, hiệu quả điều chỉnh thấp,
chưa đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Trước thực trạng như vậy chúng ta phải thực hiện các phương hướng, giải pháp
tăng cường công tác xây dựng pháp luật:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng các chiến lược, kế hoạch chương trình xây dựng pháp
luật.
Thứ hai, phải tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục tăng cường công tác lập pháp của Quốc hội, công tác thẩm định
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Thứ tư, nâng cao trình độ năng lực phẩm chất của đội ngũ cán bộ công chức làm
công tác soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ năm, phải huy động các nhà khoa học tham gia vào hoạt động xây dựng
pháp luật.
Có thể nói, muốn tăng cường xây dựng pháp luật phải triển khai một cách đồng
bộ các phương hướng giải pháp nêu trên, nhưng điểm then chốt để tăng cường công
tác xây dựng pháp luật là phải cải cách đổi mới mô hình về cơ chế xây dựng pháp
luật; đảm bảo dân chủ công khai minh bạch và cải cách hành chính trong xây dựng
pháp luật. Đặc biệt phải nâng cao trình độ năng lực đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân và đội ngũ cán bộ công chức làm công tác soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật.
Câu 11: Nêu định hướng phát triển hành chính nhà nước Việt Nam theo
đặc trưng mô hình hành chính nhà nước
Trả lời: Hành chính nhà nước là hoạt động của các cơ quan nhà nước sử dụng
quyền lực nhà nước để quản lý công việc nhằm phục vụ lợi ích chung của xã hội hay
lợi ích riêng hợp pháp của các công dân.
Hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay đang vận hành trong một bối cảnh
đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội. Bối cảnh đó tác động đến hành chính nhà nước
và định hình các đặc trưng của hành chính nhà nước ở Việt Nam: Trong môi trường
chính trị: Hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với mọi mặt hoạt động kinh tế- xã hội, chịu sự lãnh đạo của Đảng và phải đảm bảo
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội trong xây dựng và
tham gia quản lý nhà nước.Trong môi trường kinh tế: Nền kinh tế nhà nước đang
chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Môi trường pháp lý: Từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế phục vụ
cho sự phát triển kinh tế thị trường, tạo môi trường pháp lý công khai và bình đẳng
cho hoạt động của các thành phần kinh tế. Môi trường văn hóa xã hội: Hình thành xã
hội dân chủ với trình độ dân trí ngày càng cao; phát huy những giá trị tốt đẹp của dân
tộc, hướng đến tính ổn định, tính thứ bậc của hành chính nhà nước.
Chính từ bối cảnh đến đã đặt ra những thách thức đối với hành chính nhà nước
Việt Nam trong tiến trình đổi mới đó là: Thách thức về đổi mới tư duy từ nền hành
chính bao cấp sang nền hành chính phục vụ; thách thức từ mâu thuẫn giữa năng lực
quản lý của nhà nước với sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa;
thách thức từ đòi hỏi đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội; thách thức trước yêu
cầu hiện đại hóa nền hành chính dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ; thách
thức về nguồn lực tài chính công cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước những
thách thức to lớn đặt ra, hành chính nhà nước Việt Nam cần có các định hướng phát
triển đúng đắn để có thể vượt qua các trở ngại và từng bước hình thành các đặc trưng
của hành chính công hiện đại trong điều kiện cụ thể của việt nam, các định hướng đó
là:
Thứ nhất: đổi mới căn bản tư duy về một nền hành chính phục vụ, chuyển
từ hành chính tập trung, quan liêu với cơ chế xin cho phổ biến sang nền hành
chính phục vụ là cả môt cuộc cách mạng nhằm xóa bỏ thói cửa quyền, phiền hà,
sách nhiễu, đặc biệt tình trạng hối lộ tham nhũng, hình thành nền hành chính
nhà nước thực sự của dân, do dân vì dân:
Chính phủ hướng tới coi công dân như khách hàng của nhà nước, bảo đảm
cung cấp các dịch vụ công cho người dân với số lượng đầy đủ và chất lượng tốt. Bảo
đảm sự tiếp cận dễ dàng của công dân đối với các cơ quan hành chính, các cơ quan
hành chính phải nhận thức rõ trách nhiệm của mình trước công dân và tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân khi đến giải quyết công việc tại các cơ quan hành chính, bảo
đảm việc đối xử công bằng với mọi tổ chức và công dân. Hoạt động của các cơ quan
hành chính phải đặt dưới sự giám sát của xã hội và các công dân. Mở rộng việc đánh
giá mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với dịch vụ do cơ quan hành chính cung
cấp một cách thường xuyên và thực chất. Đặc biệt phải có các biện pháp để ngăn
chặn tệ nạn tham nhũng và hối lộ, có các chế tài nghiêm khắc để xử lý các hành vi vi
phạm nhằm làm lành mạnh hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và tạo
được sự tin cậy của nhân dân.
Thứ hai, tiếp tục mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, huy
động sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước, việc mở rộng dân chủ được
tiến hành trên các nội dung:
Tăng cường dân chủ gián tiếp của nhân dân thông qua các cơ quan đại diện của
người dân như Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Để sự tham gia quản lý nhà
nước thông qua các cơ quan đại diện của dân có hiệu quả, cần xây dựng cơ chế bầu
cử đại biểu của nhân dân gắn liền với cơ chế bãi miễn; chuyển các đại biểu được bầu
sang chế độ hoạt động chuyên nghiệp.
Mở rộng dân chủ trực tiếp thông qua việc xây dựng cơ chế huy động nhân dân
tham gia vào quản lý nhà nước, mở rộng sự hình thành và tham gia của các tổ chức
xã hội, các hội, tổ chức phi chính phủ trong việc giải quyết nhu cầu của nhân dân và
tích cực tham gia vào công tác quản lý nhà nước. Mở rộng hình thức quyết định trực
tiếp thông qua trưng cầu dân ý, để toàn dân có quyền tham gia vào các công việc
trọng đại của đất nước, của địa phương, đó là: Đề cao vai trò và tiếng nói của người
dân, các cơ quan ngôn luận đối với hành chính nhà nước trên cơ sở xây dựng cơ chế
phát huy vai trò phản biện của người dân và các tổ chức xã hội đối với chính sách và
quyết định của cơ quan hành chính nhà nước; gia tăng trách nhiệm và đa dạng hóa
các hình thức phản hồi của các tổ chức và công dân về chất lượng dịch vụ công và
hoạt động cung ứng dịch vụ công; đề cao vai trò của công dân trong đánh giá hoạt
động của Nhà nước và tăng cường sự tham gia của nhân dân trong hoạch định chính
sách và ra các quyết định.
Thứ ba: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, đặc
biệt là các thể chế của nền kinh tế thị trường và các thể chế về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Thể chế hành chính nhà nước bao gồm các văn bản luật, thủ tục hành chính và
thiết chế tổ chức, làm cơ sở để điều chỉnh hành vi của công chức nói riêng và công
dân nói chung, trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường , cần tập trung xây
dựng hệ thống thể chế kinh tế tương thích với các quy luật của thị trường nhằm điều
tiết và tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế thuộc mọi thành phần phát triển.
Cải cách thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước, điều chỉnh hoạt động công vụ, tài chính và ngân sách nhà nước. Tiến hành cải
cách thủ tục hành chính liên quan tới cá nhân, tổ chức theo hướng gọn nhẹ, đơn giản
hướng tới giảm thiểu chi phí tuân thủ. Cải cách thể chế công vụ nhằm loại bỏ những
cản trở trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, tạo điều kiện cho các
cơ quan hành chính chủ động linh hoạt hơn trong quản lý thực thi công vụ, đổi mới
cách thức cung cấp dịch vụ công phù hợp, hiệu quả hơn, áp dụng cạnh tranh, tạo
động lực làm việc cho công chức, thực thi công vụ dựa vào nhu cầu của công dân.
Thứ tư: Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hành chính nhà
nước, xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hợp lý.
Chính phủ tập trung làm tốt hơn việc hoạch định các chính sách, xây dựng thể
chế và nâng cao năng lực chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã
hội. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức các bộ theo nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, lĩnh vực
nhằm thu gộn đầu mối, đồng thời tiến tới tinh giảm cơ cấu bên trong các bộ. Đổi mới
phương thức hoạt động của bộ máy hành chính theo hướng đảm bảo đáp ứng nhanh
với yêu cầu của các tổ chức và công dân, xác định các nhiệm vụ nhà nước phải thực
hiện và các nhiệm vụ có thể chuyển giao cho tổ chức ngoài nhà nước đảm nhận.
Thứ năm: đổi mới cách thức quản lý nguồn nhân lực hành chính nhà nước,
từng bước chuyển dần từ chế độ chức nghiệp sang kết hợp quản lý công chức theo
chế độ việc làm và theo chức nghiệp nhằm đảm bảo một nền công vụ mở, cạnh
tranh và chú trọng năng lực thực thi công vụ.
Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút người có tài vào làm việc
trong khu vực công, tăng cường sự tự chủ cho các cơ quan hành chính trong việc
tuyển dụng, sa thải, đào tạo bồi dưỡng đánh giá thăng tiến và thuyên chuyển công
chức, thay đổi văn hóa tổ chức theo hướng quan tâm đến hiệu quả công việc.
Tạo động lực cho cán bộ, công chức làm việc bằng việc trả lương theo vị trí
công việc và năng lực thực thi trên cơ sở các tiêu chí rõ rang và các công cụ để đo
lường hoạt động thực thi công vụ của công chức; đạo đức công chức cần được chuẩn
mực trở thành bắt buộc mang tính nguyên tắc dựa trên pháp luật, công chức phải có
tính liêm khiết, công minh, có lương tâm và trách nhiệm trong thực thi công vụ.
Thứ sáu: tăng cường trách nhiệm giải trình, đẩy mạnh kiểm soát đối với
hành chính nhà nước, trách nhiệm giải trình của tổ chức hành chính được thực
hiện trước hết là dựa trên các quy định của pháp luật và của tổ chức.
Cơ chế giải trình chính thức với bên ngoài là việc tổ chức thực thi trách nhiệm
giải trình của cơ quan nhà nước đối với các cơ quan cấp trên, được thực hiện thông
qua việc giải trình trước các cơ quan chức năng về việc thực thi pháp luật, tuân thủ
các quy định cụ thể do cấp trên ban hành, bảo đảm quy trình ra quyết định của tổ
chức hành chính.
Trách nhiệm giải trình với bên ngoài bao gồm việc giải trình đối với các tổ
chức và công dân thông qua việc tổ chức công khai thông tin liên quan đến người
dân, trả lời các kiến nghị hay khiếu nại của dân. Trách nhiệm giải trình bên trong bao
gồm trách nhiệm giải trình của các đơn vị trực thuộc bên trong tổ chức và của từng
công chức.
Đối với công chức, tiêu chí về trách nhiệm giải trình hành chính căn cứ vào
những quy định pháp luật chặt chẽ cũng như đòi hỏi của vị trí công việc, sự tuân thủ
các quy định và thủ tục hành chính, sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực công
được giao, ứng xử với cấp trên, công dân và đồng nghiệp đúng mực, tôn trọng lẫn
nhau.
Tăng cường thanh tra công vụ và các cơ chế kiểm soát khác đối với hành chính
nhà nước để bảo đảm pháp chế, kỷ cương và kỷ luật.
Thứ bảy: hiện đại hóa hành chính nhà nước, áp dụng công nghệ thông tin
trong hành chính nhà nước làm thay đổi cách thức hoạt động của chính phủ, vừa
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, vừa giúp giảm chi phí hoạt động; góp
phần cải thiện hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong nền hành chính, theo
các giải pháp cơ bản:
Xây dựng hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước, nâng cao khả năng quản lý hệ thống và thực hiện việc trao
đổi tài liệu điện tử trong công vụ.
Xây dựng các hệ thống ứng dụng cho các giao dịch với dân nâng cấp các chức
năng và mối liên kết giữa các hệ thống phục vụ tương ứng.
Hình thành mạng chính phủ, các mạng nội bộ, các mạng liên kết giữa khu vực
nhà nước với khu vực tư nhân, thường xuyên nâng cấp và sử dụng hợp lý, khoa học
cơ sở hệ thống thông tin.
Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng để điều hành và xử lý hệ thống công
nghệ thông tin tại các cơ quan hành chính nhà nước,
Thứ tám, tăng cường năng lực quản lý tài chính công và tài sản công, nhà
nước có trách nhiệm quản lý và sử dụng tốt nhất các nguồn lực vật chất do nhà
nước trực tiếp quản lý và sử dụng đặc biệt là nguồn lực tài chính công.
Đổi mới quản lý tài chính công theo hướng nâng cao hiệu quả phân bổ và sử
dụng ngân sách nhà nước, tăng cường phân cấp quản lý ngân sách và mở rộng quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sử dụng ngân sách trên cơ sở đảm bảo hiệu
lực và hiệu quả hoạt động công vụ, đáp ứng đầy đủ và có chất lượng các dịch vụ công
cho người dân. Trong thời gian tới, việc nâng cao hiệu quả chi tiêu công là đòi hỏi
thiết yếu để bảo đảm tiền đóng thuế của người dân được chi dung một cách tiết kiệm
và đúng đắn. Cần xây dựng cơ chế quản lý tài chính và tài sản công phù hợp, đề cao
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính. Cần nghiêm khắc ngăn ngừa và
xử lý các hiện tượng tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước, các
quỹ công của Nhà nước và các tài sản công do Nhà nước quản lý.
Câu 12: Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của quản lý nhà nước đối
với ngành và lĩnh vực xã hội.
1. Khái niệm
Ngành là đơn vị tổng hợp của nhiều đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà
trong hoạt động có chung những đặc trưng về kỹ thuật, quy trình sản xuất giống nhau
hoặc tương tự nhau theo một quy trình kỹ thuật,công nghệ; sản xuất sản phẩm có
chung nguyên liệu; sản phẩm làm ra có giá trị sử dụng giống nhau hoặc tương tự như
nhau.
Lĩnh vực là tổng hợp những hiểu biết, chuyên môn trong hoạt động của đời
sống con người về một nội dung nào đó. Bộ quản lý theo lĩnh vực là đề cập đến chức
năng quản lý nhà nước của Bộ theo từng lĩnh vực của đời sống xã hội, như: khoa học,
công nghệ, môi trường, tài chính,v.v..
Xã hội là thuật ngữ dùng để chỉ: một hệ thống các hoạt động và các quan hệ
của con người cùng cư trú trên một lãnh thổ, trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của lịch sử; có đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị chung.
Trong thực tiễn, khái niệm xã hội còn được sử dụng theo những quan niệm
sau:
 Xã hội truyền thống, là thuật ngữ dùng để chỉ: sự phát triển của một xã hội
đạt đến trình độ sản xuất nông nghiệp có vị trí chủ đạo trong đời sống cộng đồng.
 Xã hội hiện đại, là thuật ngữ dùng để chỉ: sự phát triển của một xã hội đạt
đến trình độ sản xuất công nghiệp và dịch vụ có vị trí chủ đạo trong đời sống cộng
đồng.
 Xã hội công dân, là thuật ngữ chỉ: một bộ phận của xã hội không phải khu
vực nhà nước cũng không phải khu vực tư nhân, đó là khu vực có quy mô lớn và đa
dạng bao gồm từ cá nhân đến các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế. Nó
bao gồm các hội, các tổ chức công đoàn, các tổ chức công cộng, các tổ chức tôn giáo,
các hội hợp tác, các đảng chính trị và các tổ chức đại diện cho các nhóm lợi ích cụ
thể hoạt động với một nội dung duy nhất.
Trong quản lý nhà nước, hoạt động quản lý hành chính là hoạt động đa dạng,
trung tâm, chủ yếu; vì hoạt động hành chính là hoạt động tổ chức và điều hành để
thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, quản lý hành chính
nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước.
Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp
của Nhà nước tức là hoạt động chấp hành và điều hành.
Thứ hai, chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức
hành chính nhà nước trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở. Do đó quản lý
hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật Nhà Nước đối với các quá trình
xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan trong hệ thống Chính phủ từ
trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước,
nhằm duy trì và phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thỏa mãn cac
nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Quan niệm trên trên có ba nội dung quan trọng :
- Sự hoạt động thực thi quyền hành pháp:
Hành pháp là một trong 3 quyền của quyền lực nhà nước thống nhất mang tính
quyền lực chính trị. Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành và
điều hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn dân, toàn
xã hội. Nhưng Chính phủ thực hiện chức năng của mình phải thông qua hệ thống thể
chế hành chính của nền hành chính nhà nước. Vì vậy, chính phủ còn là cơ quan quản
lý hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước phục vụ chính trị bằng quyền hành pháp trong
hành động (hành chính nhà nước).
- Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh:
Tổ chức nói ở đây là tổ chức hành chính nhà nước, là sự thiết lập mối quan hệ
và con người, giữa cá thể với tập thể để thực hiện quản lý hành chính nhà nước một
quá trình xã hội. Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức rất quan
trọng, vì không có tổ chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức cả triệu
người và mỗi người đều có vị trí tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của mình để
tạo ra lợi ích cho xã hội. Nhà nước quy định về mặt pháp lý các quyết định quản lý về
nguyên tắc, tiêu chuẩn, biện pháp nhằm tạo sự phù hợp của các quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người.
- Sự tác động bằng pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế:
Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổ chức cao.
Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền để làm trái pháp luật, phải nghiêm trị
mọi sự vi phạm pháp luật.
Từ đó, quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội được quan niệm là: Quá trình
tác động, điều chỉnh của Nhà nước trên cơ sở của luật pháp đối với các hoạt động
của các lĩnh vực trong xã hội để các hoạt động đó diễn ra theo quy định của pháp
luật.
2. Đặc điểm và nội dung:
2.1. Đối tượng quản lý rộng
Đây là một đặc điểm mang tính xuyên suốt trong quản lý nước đối với lĩnh vực
xã hội nói chung.
- Đối tượng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực liên quan đến toàn bộ
dân cư, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, địa bàn cư trú trên lãnh thổ cả nước và còn
liên quan đến cộng đồng người Việt làm ăn, sinh sống ở nước ngoài. Ví dụ: bản sắc
văn hóa của người Việt không chỉ ở cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh thổ
Việt Nam, mà còn liên quan đến cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài. Bảo
về tài nguyên, môi trường không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn liên quan đến
nhiều quốc gia,v.v..
- Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nhân
loại (thông tin, công nghệ, môi trường, hiểm họa thiên nhiên, ràng buộc tài chính, tác
động văn hoá, các chi phối quân sự, chính trị v.v.), cho nên, các hoạt động quản lý xã
hội của mỗi quốc gia đều bị chi phối ràng buộc chặt chẽ vào nhau. Bảo vệ chủ quyền,
an ninh quốc gia; quản lý văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường của mỗi quốc gia phải
tính đến sự tác động, chi phối của các quốc gia khác, như sự giao lưu của của những
giá trị văn hóa; sự ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng chống dịch bệnh; sự kế
thừa các giá trị trong giáo dục đào tạo; sự hợp tác trong phòng chống biến đổi khí
hậu, bảo đảm tính đa dạng sinh học, chống ô nhiễm môi trường.v.v.
- Khách thể quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội đa dạng, phức tạp do
tính đa dạng, phức tạp của ngành, lĩnh vực nhà nước phải quản lý. Nhà nước phải tổ
chức quản lý nhằm tạo sự hợp lý giữa chủ thể và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng,
cân đối giữa các mặt hoạt động của quá trình văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và
hành vi hoạt động của con người.
- Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội có ý nghĩa quyết định đến phát triển
bền vững của quốc gia. Quản lý ngành, lĩnh vực liên quan đến các giá trị tinh thần,
vật chất; là nền tảng, động lực của sự phát triển, liên quan trực tiếp đến cuộc sống và
chất lượng sống của mọi người.
Bởi vậy, quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội có ảnh trực tiếp đến mọi
công dân và có ý nghĩa quyết định đến phát triển bền vững của quốc gia
2.2. Nội dung quản lý đa dạng
Nội dung quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội về lý luận bao gồm:
- Xây dựng chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trên cơ sở những quan điểm,
mục tiêu lãnh đạo của Đảng cho từng thời kỳ.
- Hoạch định, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, cơ
sở cho quản lý. Bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ công dân; thiết lập trật tự an toàn xã
hội; bảo đảm sự bình đẳng của công dân và các quan hệ xã hội trên cơ sở của luật
pháp.
- Hoạch định kế hoạch, chương trình, dự án về xã hội để giải quyết các vấn đề xã
hội nhằm mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
- Hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội nhằm thực
hiện công bằng xã hội.
- Tổ chức sử dụng, thu hút các nguồn lực có hiệu quả để giải quyết các vấn đề
xã hội bảo đảm sự phát triển kinh tế-xã hội phát triển bền vững.
- Tổ chức bộ máy để quản lý xã hội cho phù hợp với sự phát triển chung.
- Đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực để vận hành bộ máy quản lý và thực hiện
những hoạt động xã hội.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài bảo đảm cho sự
phát triển.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát để các hoạt động trong
quản lý của nhà nước được bảo đảm theo quy định của pháp luật và quyền, trách
nhiệm của công dân.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở bảo đảm đường lối đối ngoại của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do đối tượng quản lý, khách thể
quản lý thuộc nhiều ngành, lĩnh vực nên rất đa dạng. Bởi vậy, nội dung quản lý cũng
rất đa dạng, phong phú và phức tạp.
2.3. Phương thức quản lý linh hoạt
Phương thức quản lý là phương pháp và cách thức quản lý. Phương thức quản
lý phụ thuộc vào mục đích và đối tượng quản lý. Mục đích và đối tượng quản lý là
những yếu tố quan trọng chi phối đến việc lựa chọn phương thức quản lý. Trên cơ sở
mục đích, đối tượng quản lý, nhà quản lý lựa chọn phương thức quản lý cho phù hợp
với đối tượng để đạt tới mục đích của quản lý.
Trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội việc lựa chọn phương thức
quản lý phải căn cứ vào những yếu tố sau:
- Mục tiêu quản lý: Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực nào đó phải đạt
được tính hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
- Đối tượng quản lý: Câu hỏi quản lý ai ? quản lý cái gì ? có ý nghĩa quan
trọng trong việc lựa chọn phương thức quản lý. Phương thức quản lý phù hợp mới
phát huy được tính tích cực và năng động xã hội.
- Thể chế của nền hành chính nhà nước: Đây là yếu tố bảo đảm cho một nhà
nước dân chủ, quản lý bằng pháp luật. Bởi vậy, phương thức quản lý nhà nước đối
với ngành, lĩnh vực không thể không căn cứ vào hệ thống pháp luật, chính sách xã
hội để chọn những phương thức quản lý phù hợp với đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục tiêu quản lý xã hội.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế: Đây là yếu tố vật chất, kỹ thuật bảo đảm
cho các phương thức quản lý có hiệu quả.
- Văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo.v.v: Đây
cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đến lựa chọn phương thức quản lý đối với ngành,
lĩnh vực. Phương thức quản lý phải phù hợp với những đặc trưng về văn hóa, tập
quán, tôn giáo, ... thì mới đạt được hiệu lực, hiệu quả của quản lý.
Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực Do mục đích quản lý mỗi ngành,
lĩnh vực khác nhau, đồng thời do đối tượng quản lý cũng rất khác nhau nên việc lựa
chọn phương thức quản lý đối với mỗi ngành, lĩnh vực cũng không giống nhau.
Việc lựa chọn phương thức quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực rất đa
dạng, linh hoạt không máy móc, giáo điều, cứng nhắc, mà phải linh hoạt, phù hợp với
mục đích và đối tượng quản lý.
Câu 13: Phân tích khái niệm và mục đích của giáo dục pháp luật
2.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Nghiên cứu các quan điểm lý luận về giáo dục pháp luật cho thấy hiện nay đang
có ba quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục
chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức, nên nếu tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng
và đạo đức tốt thì tức là đã giáo dục pháp luật tốt. Do đó phải tích cực tuyên truyền
đường lối của Đảng.
Quan điểm thứ hai: đồng nhất giữa giáo dục pháp luật với tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, nên chỉ cần sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền phổ
biến pháp luật là đủ, mà không cần phải giáo dục pháp luật.
Quan điểm thứ ba cho rằng: không cần giáo dục pháp luật. Pháp luật là các quy
tắc có tính bắt buộc chung mọi người phải có nghĩa vụ nắm bắt, hiểu và tuân theo.
Cái gọi là giáo dục pháp luật thực chất là phổ biến, tuyên truyền pháp luật.
Vậy quan niệm giáo dục pháp luật như thế nào cho đúng: Theo chúng tôi, khái
niệm giáo dục pháp luật thường xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư
phạm, giáo dục trong khoa học sư phạm có hai nghĩa:
Thứ nhất, theo nghĩa rộng: giáo dục là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện
khách quan như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống... và sự tác
động của các nhân tố chủ quan như giáo dục của cha mẹ, thầy cô giáo, đoàn thể xã
hội v.v.. đối với các đối tượng giáo dục (học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức...).
Thứ hai, theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động có định hướng của nhân
tố chủ quan lên đối tượng giáo dục, như giáo dục của thầy, cô giáo đối với học sinh,
sinh viên, giáo dục của cơ quan đối với cán bộ công chức, giáo dục của các tổ chức
xã hội đối với các hội viên.
- Giáo dục pháp luật thường được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục
trong khoa học sư phạm. Bởi vì: hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động có tổ
chức bao gồm hàng loạt biện pháp mang tính chủ quan như tuyên truyền pháp luật,
phổ biến pháp luật, giải thích pháp luật v.v.. nhằm tác động lên những con người cụ
thể làm cho họ hiểu pháp luật và tuân theo pháp luật. Tuy vậy cũng cần lưu ý trong
quá trình giáo dục pháp luật để nâng cao tri thức pháp luật cho nhân dân, thì điều kiện
khách quan có ảnh hưởng nhất định, nhưng trong đó quan trọng nhất vẫn là sự tác
động của nhân tố chủ quan, tức là sự tác động trực tiếp của chủ thể giáo dục pháp luật
đối với các đối tượng được giáo dục. Bởi vì nhân tố khách quan sẽ tác động tự phát
theo chiều này hoặc chiều kia. Còn nhân tố chủ quan tác động trực tiếp bao giờ cũng
là tự giác, có ý thức, có chủ định và theo một hướng xác định.
Đi sâu xem xét giáo dục pháp luật cho thấy nó có những nét đặc thù khác với
các loại giáo dục khác:
Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của nó. Đó là hoạt động nhằm hình thành
tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và thói quen xử sự phù hợp với các quy định
của pháp luật.
Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là chuyển tải tri thức pháp luật của
nhân loại nói chung và từng nhà nước nói riêng cho các cá nhân.
Hình thức, phương tiện, chủ thể đối tượng, phương pháp giáo dục pháp luật
cũng có những nét đặc thù riêng:
- Giáo dục pháp luật là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài,
còn giáo dục bình thường thì chỉ có một lần, hoặc một giai đoạn...
- Giáo dục pháp luật được thực hiện ở tất cả các môi trường, như gia đình,
trường học, bạn bè, cơ quan, đơn vị vũ trang...
- Trong giáo dục pháp luật phải nắm được chủ thể giáo dục pháp luật và đối
tượng giáo dục pháp luật. Chẳng hạn người giáo dục pháp luật phải là người có trình
độ năng lực hiểu biết sâu sắc pháp luật và là tấm gương để người khác nói theo trong
việc tuân thủ pháp luật. Bên cạnh đó phải nắm được đối tượng giáo dục pháp luật và
phân loại đối tượng, như giáo dục pháp luật cho thanh niên, phụ nữ, cán bộ công chức
để có nội dung thích hợp.
Từ sự phân tích trên ta đi đến khái niệm:
Giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể
giáo dục pháp luật, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ
tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống
pháp luật hiện hành.
2.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Thứ nhất, mục đích nhận thức: là làm cho người được giáo dục pháp luật
hình thành từng bước tri thức pháp luật và mở rộng hệ thống tri thức pháp luật.
Theo quan điểm của một số nhà khoa học thì tri thức pháp lý bao giờ cũng là
vấn đề hàng đầu của giáo dục pháp luật bởi có tri thức pháp luật mới nhận thức được
đầy đủ pháp luật từ đó mới có hành động phù hợp với pháp luật. Có thể nói hiện nay
ta hiểu biết pháp luật còn kém, bởi vì chúng ta chưa thực sự quan tâm tới pháp luật,
chưa thấy hết vai trò quan trọng của pháp luật do đó phải nâng cao tri thức pháp luật.
Nhưng cần lưu ý, người có tri thức pháp lý không phải là người am hiểu một số
quy phạm pháp luật. Mà phải am hiểu pháp luật một cách có hệ thống; có những nhận
thức thấu đáo về nội dung, ý nghĩa của pháp luật, biết đánh giá một cách tinh tường
các sự kiện pháp lý, biết xem xét hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là không hợp
pháp.
Nghiên cứu mục đích nhận thức cho thấy bao gồm các nội dung sau: hình thành
tri thức pháp luật; mở rộng và làm sâu sắc tri thức pháp luật; am hiểu thấu đáo pháp
luật; biết cách đánh giá chính xác các hành vi pháp lý.
Thứ hai, mục đích hình thành lòng tin pháp luật: lòng tin là cực kỳ quan trọng, các
nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng một người không có lòng tin thì hành vi thường lệch khỏi
các chuẩn mực xã hội. Đối với pháp luật cũng vậy, một người thiếu lòng tin vào pháp luật
thì hành vi thường lệch khỏi chuẩn mực pháp luật, trái lại người có lòng tin vào pháp luật
thì hành vi của họ luôn luôn phù hợp với pháp luật.
Nhedobai một nhà luật học Nga nổi tiếng đã nói: Có được lòng tin vào tính công
bằng của pháp luật con người sẽ có hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy
phạm pháp luật một cách độc lập và tự nguyện. Vì vậy giáo dục để có lòng tin vào
pháp luật là cực kỳ quan trọng. Muốn thực hiện được mục đích hình thành lòng tin
vào pháp luật thì trong giáo dục pháp luật cần có:
Giáo dục tình cảm công bằng: tức là giáo dục cho con người biết đánh giá quy
phạm pháp luật có công bằng hay không công bằng, biết soạn thảo các tiêu chuẩn để
đánh giá tính công bằng của quy phạm pháp luật, biết quan hệ với người khác một
cách công bằng, bình đẳng.
Giáo dục tình cảm trách nhiệm: tức là làm cho người được giáo dục pháp luật ý
thức được những trách nhiệm nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình. Thực hiện nghiêm
các mệnh lệnh của pháp luật. Hoàn thành các nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật.
Giáo dục tình cảm không khoan nhường đối với hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm: tức là giáo dục cho con người có ý thức không khoan dung đối với hành vi vi
phạm pháp luật, chống lại pháp luật.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng tình cảm không khoan dung đối với hành vi vi
phạm pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành hành vi tích cực đấu
tranh chống tiêu cực các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Giáo dục tình cảm pháp chế: là giáo dục cho con người hình thành ý thức tuân
thủ pháp luật; ý thức tuân thủ các nguyên tắc xử sự của công dân trong các quan
hệ với nhau và quan hệ với Nhà nước. Đặc biệt những người có chức vụ quyền hạn
ý thức được rằng các quyết định của mình phải dựa trên cơ sở pháp luật.
Thứ ba, mục đích hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật.
Nghiên cứu thực tế cho thấy trong hệ thống mục đích giáo dục pháp luật, thì
mục đích hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, bởi vì kết quả cuối cùng của giáo dục pháp luật phải được thể hiện qua hành vi
xử sự của con người.
Có thể nói cung cấp tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin vào pháp luật, giáo dục
tình cảm về pháp luật cuối cùng là để đạt được động cơ và hành vi tích cực pháp luật.
Để đạt được mục đích này là cả một công việc khó khăn phức tạp. Vì vậy phải
kiên trì giáo dục pháp luật với nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, để từ đó hình
thành nên thói quen xử sự theo pháp luật.
Thói quen xử sự theo pháp luật thường tồn tại ở các dạng: thói quen tuân theo
các quy phạm pháp luật; thói quen chấp hành các quy phạm pháp luật; thói quen sử
dụng các quy phạm pháp luật và biết áp dụng pháp luật một cách chính xác và đúng
đắn.
Thứ tư, tạo lập khả năng áp dụng pháp luật đúng đắn của cán bộ công chức có
thẩm quyền.
Hoạt động giáo dục pháp luật sẽ nâng cao ý thức pháp luật cho các cán bộ công
chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật, làm cho họ hiểu đầy đủ chính xác các quy
phạm pháp luật, hiểu được các vấn đề về lý luận áp dụng pháp luật, như đặc điểm,
quy trình áp dụng pháp luật; chủ thể đối tượng áp dụng pháp luật, thẩm quyền áp
dụng pháp luật v.v.. Chính vì vậy giáo dục pháp luật có mục đích tạo lập cho cán bộ
công chức áp dụng pháp luật đúng đắn và chính xác các vụ việc trong đời sống xã
hội.
Câu 14: Phân tích các giải pháp đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham
nhũng trong bộ máy nhà nước ta hiện nay t 118
Để đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tiêu cực khác
trong bộ máy nhà nước, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, đánh giá đúng thực trạng tình hình và kết quả đấu tranh với các căn
bệnh nêu trên.
Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong
bộ máy nhà nước nói riêng và trong hệ thống chính trị nói chung là vấn đề rất bức
xúc, thường xuyên được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất quan tâm. Đảng và Nhà
nước đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp kiên quyết đấu tranh với quan liêu, tham
nhũng và những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước và đã đạt được những kết
quả nhất định.
Tuy nhiên cho đến nay tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu
dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất, đạo đức, lối sống của một số cán
bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng và khá phổ biến, chưa tạo được những chuyển
biến căn bản, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Nguyên nhân của tình hình trên đây, về mặt khách quan, là do tác động của
mặt trái kinh tế thị trường, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, do Đảng, Nhà
nước ta chưa lường hết mặt trái của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chưa có những giải pháp kịp thời về tư tưởng và khả năng ứng phó cho cán
bộ, đảng viên; do những yếu kém trong công tác cán bộ; chậm cụ thể hóa những
chủ trương, giải pháp đồng bộ có hiệu quả về pháp luật cơ chế, chính sách, những
biện pháp xử lý kỷ luật khi cán bộ vi phạm; chậm tăng cường xây dựng các cơ
quan bảo vệ pháp luật và tổ chức cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh. Hơn nữa,
sự tu dưỡng rèn luyện của một bộ phận cán bộ trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp chưa tự giác, chưa thường xuyên và nghiêm túc; chưa thật sự dựa vào
dân, chưa thu hút cả hệ thống chính trị và cả xã hội vào cuộc đấu tranh thường
xuyên chống quan liêu tham nhũng, lãng phí.
Hai là, nhận thức đúng tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng và những tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước.
Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa IX) cũng chỉ rõ
tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng và khá phổ biến hiện nay
"làm cho nhân dân bất bình và lo lắng", "là những điều xã hội bức xúc nhất hiện
nay và đang hạn chế việc phát huy những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được" 2 "là
nhân tố tiêu cực lớn đang hạn chế, kìm hãm bước tiến của công cuộc đổi mới; là
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và Nhà nước ta" 3.
Như vậy, vấn đề bức xúc hiện nay là phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên trong
toàn bộ hệ thống chính trị nhận thức rõ tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống quan
liêu tham nhũng, lãng phí, chống nhũng nhiễu dân, chống suy thoái về tư tưởng chính trị
và phẩm chất đạo đức, lối sống có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp đổi mới, với sinh
mệnh của Đảng, Nhà nước và chế độ.
Ba là, xác định đúng đắn quan điểm và thái độ trong đấu tranh chống quan liêu
tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác.

2
Sđd, trang 72
3
Sđd, trang 127
Nghiên cứu quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng như của Đảng ta về vấn đề này có thể khái quát những quan điểm cơ bản
sau đây:
- Phải làm rõ sự thật về tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực khác trong bộ
máy nhà nước.
- Không hoang mang, dao động, bối rối trước các diễn biến phức tạp và nghiêm
trọng của tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực hiện nay.
- Có chiến lược, kế hoạch đấu tranh với quan liêu tham nhũng và các hiện tượng
tiêu cực khác.
- Cần có thái độ kiên quyết, kiên trì và liên tục đấu tranh.
Bốn là, triển khai đồng bộ các giải pháp thích hợp trong đấu tranh phòng chống
quan liêu, tham nhũng và tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước.
- Phải gắn các biện pháp đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, tiêu cực với
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách nhà nước và hệ thống chính trị.
- Xây dựng các thiết chế đấu tranh ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, tiêu cực
"từ gốc", không để cho chúng dễ dàng phát sinh, phát triển.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong cuộc đấu tranh phòng chống
quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước cũng như hệ thống chính trị,
nhất là sự tham gia của nhân dân, các đoàn thể tổ chức xã hội, các phương tiện thông
tin đại chúng.
- Kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi trường hợp đã phát hiện, thực
hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật.
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, xác định trách nhiệm của người
đứng đầu các cơ quan, tổ chức đơn vị nơi để xảy ra quan liêu tham nhũng, tiêu cực
gây hậu quả nghiêm trọng.
- Nghiên cứu xây dựng cơ quan chuyên trách đấu tranh chống tham nhũng.
Các giải pháp nêu trên là đúng hướng, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
Tuy nhiên, đề ra được giải pháp đúng đắn chưa đủ, mà điều quan trọng hơn là phải
xây dựng thành các chế độ, chính sách, quy định, biện pháp hành động và biến thành
quyết tâm chính trị của cả hệ thống chính trị.
Câu 15: Nêu K/n chức năng của nhà nước XHCN và phân tích chức năng
bảo vệ tổ quốc XHCN?

1. Các chức năng cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khái niệm chức năng NNXHCN.
Khái niệm: Chức năng của NNXHCN là những phương diện hoạt động chủ
yếu của NN, thể hiện bản chất của NNXHCN, được quy định bởi thực tế khách quan
của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế, bảo đảm cho NN thực
hiện được các nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng.
1.1. Phân loại chức năng của NNXHCN.
Lý luận chung về NN và pháp luật: căn cứ vào phạm vi tác động của các
phương diện hoạt động của NN để phân chia các chức năng của NN thành: Chức
năng đối nội và chức năng đối ngoại.
* Các chức năng đối nội bao gồm:
1/ Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
2/ Chức năng thực hiện, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công
dân.
3/ Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.
4/ Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
5/ Chức năng tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục.
6/ Chức năng xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội.
* Các chức năng đối ngoại gồm:
1/ Chức năng bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2/ Chức năng củng cố và tăng cường tình hữu nghị và sự hợp tác truyền thống
với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, đồng thời mở rộng quan hệ với
các nước khác, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau.
3/ Chức năng ủng hộ phong trào tiến bộ trên thế giới, tích cực đấu tranh vì hoà
bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ XH.
2. Phân tích chức năng bảo vệ tổ quốc XHCN
* chức năng đối nội
Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
Muốn tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải có đủ sức mạnh và kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của
giai cấp bóc lột (tuy đã bị lật đổ) của các thế lực thù địch cấu kết với bọn đế quốc và
phản động quốc tế. V.I.Lênin đã dạy rằng, bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản là một thời kỳ lịch sử lâu dài, trong đó cuộc đấu tranh giai cấp vẫn
diễn ra gay gắt. Mặt khác, bọn đế quốc và các thế lực phản động quốc tế luôn tìm mọi
cách phản kích và làm suy yếu chủ nghĩa xã hội, nuôi dưỡng và khuyến khích bọn
phản cách mạng tiến hành các hoạt động phá hoại và bạo loạn, gây cản trở cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm rối loạn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội.
Thực tiễn cách mạng nước ta trong những năm qua chứng minh tính tất yếu
khách quan phải tăng cường chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế còn nhiều âm mưu thâm độc chống phá cách mạng nước ta. Chúng đang ráo
riết tiến hành chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý, kích động và nuôi dưỡng bọn
phản cách mạng sống lưu vong và bọn phản động trong nước.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định: “Mục tiêu, nhiệm
vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
* chức năng đối ngoại
chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả nhiều chức năng đối nội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được
triển khai thực hiện khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là
chức năng cần thiết có tính chất sống còn của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là vấn đề
có tính quy luật trong suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững những
thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân lao động,
tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được hiểu theo nghĩa đầy đủ là bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc.

VD minh họa:
Các bạn tự lấy nhé:
- Chúng ta đấu tranh chống diễn biến hòa bình, chống chế độ của các thế lực
thù địch ntn?
- Trước tình trạng biển đảo bị xâm lấn, đe dọa, ta ntn?
Câu 16: Trình bày đặc điểm và các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp
luật?
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, nhưng đây là một hình
thức thực hiện pháp luật rất đặc thù, bởi vì chỉ có áp dụng pháp luật mới làm cho
pháp luật được thực hiện triệt để trong thực tế cuộc sống, do áp dụng pháp luật có sự
can thiệp của Nhà nước, Nhà nước bắt buộc các chủ thể phải thực hiện đúng quy định
của pháp luật. Ví dụ: Khi UBND cấp huyện ra quyết định thu hồi đất để làm đường
giao thông thì người sử dụng đất phải chấp hành triệt để quyết định này. Như vậy, các
quy định pháp luật về đất đai đã được thực hiện triệt để trong cuộc sống. Còn các
hình thức thực hiện pháp luật khác như chấp hành, tuân thủ pháp luật... thì pháp luật
thường không được thực hiện triệt để, vì các chủ thể tự giác thực hiện các quy định
của pháp luật mà không có sự can thiệp của Nhà nước, nên họ có thể thực hiện,
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Có thể nói nếu thiếu hình thức áp dụng
pháp luật thì nhiều quy phạm pháp luật không trở thành hiện thực trong thực tế của
đời sống xã hội. Bởi vì nhiều trường hợp nếu thiếu sự tác động can thiệp của Nhà
nước thì các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy phạm
pháp luật.
Nghiên cứu áp dụng pháp luật, người ta thấy có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có
thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định cho mỗi loại cơ quan nhà nước được quyền
áp dụng một số loại văn bản quy phạm pháp luật nhất định, trong những trường hợp
nhất định. Chẳng hạn, chỉ có tòa án mới được áp dụng pháp luật hình sự để xét xử kẻ
phạm tội, còn UBND thì không được áp dụng pháp luật hình sự để xử lý đối với
những hành vi vi phạm pháp luật, mà chỉ được áp dụng pháp luật hành chính.
Pháp luật cũng quy định trao quyền cho một số cá nhân, tổ chức có quyền áp
dụng pháp luật.
Chẳng hạn Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2003 quy định: Các chiến sĩ
công an đang làm nhiệm vụ có quyền xử phạt hành chính đối với hành vi gây mất
an ninh trật tự xã hội và một chiến sĩ công an đã ra quyết định xử phạt hành chính
đối với một công dân A có hành vi gây rối an ninh trật tự xã hội là 100 ngàn đồng.
Có thể nói ngoài các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền thì không có
bất cứ một chủ thể nào có quyền áp dụng pháp luật.
Hai là, áp dụng pháp luật là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, thể
hiện: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật theo ý chí đơn phương mà
không phụ thuộc vào ý chí của bên bị áp dụng; việc thực hiện các quy định trong văn
bản áp dụng pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Chẳng hạn một người lấn chiếm đất đai khi bị thu hồi thì họ làm đơn khiếu nại, hoặc
tiếp cận cơ quan nhà nước để xin được sử dụng. Những cơ quan ra quyết định thu hồi
vẫn thực hiện theo quyết định của mình.
Ba là, áp dụng pháp luật là một hoạt động được tiến hành theo một thủ tục rất
chặt chẽ do pháp luật quy định. Chẳng hạn muốn áp dụng pháp luật hình sự phải tiến
hành theo một tố tụng hình sự rất chặt chẽ. Ví dụ: muốn điều tra một vụ án hình sự thì
phải có quyết định khởi tố của cơ quan công an và quyết định đó phải được sự phê
chuẩn của Viện kiểm sát hoặc quá trình xét xử một vụ án hình sự cũng phải theo
những thủ tục tố tụng hình sự rất chặt chẽ hoặc xử phạt hành chính phải tiến hành theo
các thủ tục xử phạt hành chính.
Bốn là, áp dụng pháp luật là một hoạt động khoa học và sáng tạo. Trong quá
trình áp dụng pháp luật không được rập khuôn, máy móc, đơn thuần pháp lý. Nếu áp
dụng pháp luật cứng nhắc thì có thể dẫn đến sai lầm hoặc hiệu quả áp dụng pháp luật
không cao, mà áp dụng pháp luật phải phù hợp với thực tế khách quan của vụ việc.
Trong khuôn khổ của pháp luật cho phép thì áp dụng pháp luật phải khoa học sáng
tạo, phải biết vận dụng những quy định pháp luật chung chung để giải quyết những
vụ việc cụ thể rất đa dạng và phức tạp. Do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật phải
lật đi lật lại vấn đề. Chính vì vậy mà phải nâng cao trình độ năng lực và nghiệp vụ
chuyên môn của các cán bộ công chức thực hiện chức năng áp dụng pháp luật như
thấm phán, hội thẩm nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cán bộ điều tra v.v..
Từ sự phân tích trên có thể đi tới khái niệm áp dụng pháp luật:
Áp dụng pháp luật là một hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước
trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các Tổ
chức xã hội, các cá nhân được Nhà nước trao quyền. Căn cứ vào các quy định của
pháp luật để ra các quyết định cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) làm phát sinh,
thay đổi chấm dứt các quan hệ pháp luật.
3.2.2. Các trường hợp áp dụng pháp luật
Thứ nhất, áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp khi Nhà nước
thấy cần phải sử dụng một biện pháp cưỡng chế
Thứ hai, áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp khi các chủ thể
có quyền và nghĩa vụ không mặc nhiên phát sinh, thay đổi, chấm dứt nếu thiếu sự can
thiệp của Nhà nước.
Thứ ba, áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp khi xảy ra tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật, mà tự họ không
thể giải quyết được.
Thứ tư, áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện trong trường đặc biệt cần thiết,
hoặc trong trường hợp Nhà nước thấy cần phải tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động
của các bên trong quan hệ pháp luật; hoặc xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một
quan hệ pháp luật.
3.2.3. Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật
Quá trình áp dụng pháp luật phải trải qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Phân tích những tình tiết khách quan của vụ việc và làm rõ các đặc
trưng pháp lý của vụ việc. Giai đoạn này cần lưu ý:
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải xem xét tất cả các
tình tiết khách quan của vụ việc và làm rõ các sự kiện có liên quan. Phải xác định các
tình tiết của vụ việc có thể xảy ra trong thực tế hay không? Hay là giả tạo; mức độ tin
cậy ra sao?... trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng tới các biện pháp chuyên
biệt, như là giám định pháp y để xác định các tình tiết của vụ việc.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thu thập các tình tiết thực tế, khách
quan của vụ việc và làm rõ các tình tiết đó có phù hợp với pháp luật hay không để áp
dụng pháp luật. Hay nói cách khác, phải xác định rõ các đặc trưng pháp lý của các
tình tiết, các vụ việc. Bởi không thể áp dụng pháp luật đối với những vụ việc không
có đặc trưng pháp lý, không phù hợp với pháp luật. Do đó ở giai đoạn này phải
nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết của vụ việc, không
bỏ qua chứng cứ. Và cũng cần lưu ý rằng trong quá trình tìm hiểu, thu thập chứng cứ
thì phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng.
Giai đoạn 2: Giai đoạn lựa chọn những quy phạm pháp luật tương ứng để đưa
ra áp dụng. Giai đoạn này cần lưu ý các điểm:
Trước hết phải xác định vụ việc do ngành luật nào điều chỉnh. Chẳng hạn nếu
chết người, do tai nạn lao động thì phải xác định do Luật lao động điều chỉnh. Còn
nếu chết người do hành vi tội phạm gây ra, bởi một nhát đâm, nhát chém thì do ngành
Luật hình sự điều chỉnh.
Phải lựa chọn những vi phạm pháp luật nào là thích ứng tới vụ việc. Muốn lựa
chọn được vi phạm pháp luật thích ứng thì phải dựa vào phần giả định của quy phạm
pháp luật. Bởi phần giả định sẽ nêu lên những điều kiện, những hoàn cảnh, những
chủ thể cụ thể, mà khi trong thực tế xuất hiện giống như vậy thì ta phải lựa chọn quy
phạm pháp luật đó để áp dụng.
Phải xét hiệu lực của vi phạm pháp luật gồm: hiệu lực về người (cho loại người
nào); hiệu lực về không gian, tức là quy phạm pháp luật đó áp dụng cho cả nước hay
trong từng địa phương; hiệu lực về thời gian tức là xem quy phạm pháp luật đó còn hiệu
lực nữa hay không, hay có hiệu lực từ thời gian nào? và phải xem quy phạm pháp luật
đó có hiệu lực hội tố (hiệu lực trở về trước) hay không?
Giai đoạn 3: Giai đoạn làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung của quy phạm pháp luật
đưa ra áp dụng. Muốn thực hiện được giai đoạn này thì phải biết giải thích pháp luật,
thông thường có những phương pháp giải thích sau:
Giải thích lôgic: là phương pháp phân tích lôgic, suy đoán lôgic để làm rõ tư
tưởng nội dung của quy phạm pháp luật.
Giải thích về mặt văn phạm: là làm rõ ngữ nghĩa của từng câu, từng chữ, từng
dấu chấm, dấu phẩy trong các quy phạm pháp luật.
Giải thích về mặt lịch sử: là phân tích hoàn cảnh lịch sử khi xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật đó.
Giải thích hệ thống: là giải thích các quy phạm pháp luật trong mối quan hệ với
các quy phạm pháp luật khác gần gũi nó trong tính hệ thống.
Bốn phương pháp giải thích trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, không loại trừ
nhau mà bổ sung cho nhau và diễn ra khá nhanh trong tư duy người áp dụng.
Giai đoạn 4: Giai đoạn ra văn bản áp dụng pháp luật. Là giai đoạn các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hoặc các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền, căn
cứ vào các quy định pháp lý chung, để quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của
các chủ thể, hoặc các biện pháp pháp lý, các trách nhiệm pháp lý đối với những chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Chú ý: Văn bản áp dụng pháp luật phải ban hành đúng thẩm quyền có tên gọi, nội
dung văn bản phải rõ ràng, từ ngữ phải chính xác, chủ thể phải cụ thể.
Giai đoạn 5: Giai đoạn tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật. Giai đoạn
này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện đúng các quy định
trong văn bản áp dụng pháp luật. Đồng thời phải kiểm tra việc tổ chức, thực hiện văn
bản áp dụng pháp luật đó.
Cả 5 giai đoạn trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đảm bảo cho việc áp
dụng pháp luật được đầy đủ, chính xác, kịp thời trong đời sống xã hội.
Câu 17: Phân tích quan điểm, mục tiêu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật
1.1. Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, được phân định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo những trình tự, thủ tục luật định.
Như vậy, hệ thống pháp luật bao gồm hai mặt trong một chỉnh thể thống
nhất là hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
2.2. Quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một là, thể chế hóa kịp thời đầy đủ đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các
quy định của pháp luật về xây dựng nhà nước và pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển văn hóa – xã hội,
giữ vững an ninh, quốc phòng.
Hai là, phát huy cao độ nội lực, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện
đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc
phòng và định hướng XHCN.
Ba là, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thực hành pháp luật; kết hợp hài hòa bản
sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp
luật.
Bốn là, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện và tổ chức thực thi pháp luật.
Năm là, tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những
bước đi vững chắc, coi trọng số lượng và chất lượng có trọng tâm, trọng điểm; dự tính
đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
2.1. Mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất khả thi, công
khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế trị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực
hiện pháp luật; phát sinh vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần giữ vững xã
hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà
nước trong sách, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
2.3. Những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2020.
Một là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
Hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm hoạt động của Đảng phù
hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cụ thể
hóa đầy đủ nguyên tắc hiến định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy
nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân
chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; trong đó, các đạo luật
ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoàn thiện
pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật
thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật,
giảm dần việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành
văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật được
thi hành ngay khi có hiệu lực.
Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và
Hiến pháp.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà
nước.
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra
Hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ
Hoàn thiện Luật chống tham nhũng
Đến năm 2020, pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan
hành pháp được hoàn thiện theo hướng Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý,
điều hành vĩ mô và thực hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Xây dựng các luật về tổ chức và hoạt động của các bộ, ngành, ủy ban nhân dân
các cấp.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định
đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp.
Cụ thể:
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra;
Hoàn thiện pháp luật Luật thi hành án;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp
Hai là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền
tự do, dân chủ của công dân.
Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong xây dựng,
ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân
sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là tòa án trong việc bảo vệ
các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương hoàn thiện Luật về bồi
thường nhà nước. Xây dựng các đạo luật về lập hội, biểu tình nhằm xác định rõ
quyền, trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm
của Nhà nước trong việc dân trí, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng.
Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp
giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công
chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc
của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh;
Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường;
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh thị
trường lao động;
Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị
trường khoa học - công nghệ;
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và chuẩn mực
quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng;
Hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán;
Hoàn thiện pháp luật về tài chính công;
Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế;
Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật;
Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học -
công nghệ, y tế, văn hóa - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình,
trẻ em và chính sách xã hội. Cụ thể:
Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội (giáo dục
- đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghề, y tế, văn hóa, nghệ thuật, thể
thao…);
Thể chế hóa quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu;
Hoàn thiện pháp luật về khoa học và công nghệ;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân tộc, tôn giáo;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Hoàn thiện pháp luật về báo chí và xuất bản;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân;
Thể chế hóa các chính sách về công bằng xã hội.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh;
Hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng biển, vùng trời; về tổ chức,
hoạt động lực lượng vũ trang nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm;
Xây dựng mới các đạo luật về phòng thủ dân sự, giáo dục quốc phòng, bảo vệ
các mục tiêu quan trọng về an nhinh quốc gia, chống khủng bố
Sáu là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế.
Tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi
trường…
Hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với
ASEAN, tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á
vào năm 2020;
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế;
Nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên liên quan đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hoàn thiện Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao
người bị kết án phạt tù. 175
Câu 18: Phân tích khái niệm mục tiêu và phương hướng tiếp tục cải cách
thủ tục hành chính.
1.1. Khái niệm
Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính4 được hiểu là một quá trình lâu dài và
liên tục nhằm nâng cao hiệu suất tổ chức, cải tiến chế độ và phương thức hành chính
cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong phạm vi quản lý của một
tổ chức hay một hệ thống tổ chức. Theo nghĩa này, cải cách hành chính là những thay
đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách căn bản các bộ phận, các khâu
trong tổ chức và hoạt động quản lý như: lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức bộ máy,
công tác cán bộ, quản lý tài chính, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra, thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp, cải cách hành chính (của nhà nước hay cải cách hành chính
nhà nước) có thể hiểu như là một quá trình thay đổi hệ thống hành pháp của bộ máy
nhà nước nhằm nâng cao lực và hiệu quả quản lý nhà nước, cải tiến tổ chức, chế độ
và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới
trong nền hành chính nhà nước, có liên quan đến cải cách các lĩnh vực quản lý khác
nhau của bộ máy nhà nước. Theo quan điểm của Liên hiệp quốc (1971) thì cải cách
hành chính là những nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản trong
hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc thay đổi các
phương thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành hành chính nhà
nước: thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý.
Theo các tài liệu hiện có ở nước ta, và căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ
8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có thể định nghĩa cải
cách hành chính ở nước ta là “trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hoá xã hội chủ nghĩa Việt nam”, bao gồm những thay đổi có
chủ định nhằm hoàn thiện: thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của bộ máy hành chính các cấp; nền công vụ và đội ngũ công chức hành chính
để nâng cao năng lực, hiêu lực và hiệu quá hoạt động của hành chính nhà nước phục
vụ nhân dân.
3.2.1. Mục tiêu
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch
nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở
thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và
pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính
nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực
và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
3.2.2. Nhữn phương hướng cải cách

4
a. Cải cách thể chế
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp
luật;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách,
trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự
công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội;
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan,
lâu dài của các hình thức sở hữu, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
sở hữu khác nhau trong nền kinh tế;
- Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác định
rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước;
tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn
nhà nước;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy
định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ
trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp;
- Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước
và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý
kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng và về
quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
b. Cải cách thủ tục hành chính
- Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực
quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp;
- Thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững.
- Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các
ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
- Tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở
rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong
việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ
tục hành chính hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân
dân giám sát việc thực hiện;
- Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định
hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát
việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
c. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ
quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà
nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức
phi chính phủ đảm nhận;
- Xác lập mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp;
- Hoàn thiện cơ chế phân cấp;
- Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước;
thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông;
- Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được nâng
cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với
dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức
trên 80% vào năm 2020.
d. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
- Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu
hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có
bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân
thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
- Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức
danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công
chức lãnh đạo, quản lý;
- Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc
làm;
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên
chức;
- Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức khác nhau;
- Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương và các quy
định về chế độ phụ cấp ngoài lương. Đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức,
viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên
chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
- Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công
chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
- Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của
cán bộ, công chức, viên chức.
e. Cải cách tài chính công
- Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát
triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách
về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ
lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là cải
cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách;
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước; giữ
mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn;
- Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển
khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng
dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ sang
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ,
các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách
đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ;
- Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến
tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân
sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất
lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước;
- Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội
chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể
thao.
f. Hiện đại hóa hành chính
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp thông tin và dịch vụ
công trực tuyến;
- Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành
chính nhà nước;
- Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại, tập
trung ở những nơi có điều kiện.
Câu 19. Trình bày nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Khái niệm pháp chế XHCN có từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. V.I.Lê-nin
là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó đã làm giàu thêm lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. “Pháp chế XHCN là một
chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và
mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi
ích của  tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
Do ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của pháp chế XHCN, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ rõ phương hướng và biện
pháp cần thiết để tăng cường pháp chế XHCN. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng nhấn
mạnh: “Phải dùng sức mạnh của pháp chế XHCN kết hợp với sức mạnh của dư luận
quần chúng để đấu tranh chống những hành vi  phạm pháp. Các cấp ủy Đảng, từ trên
xuống dưới phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế... kiểm tra chặt chẽ hoạt
động của các cơ quan pháp chế”. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng khẳng định:
“Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp
luật và ý thức pháp luật của nhân dân”. Tại Đại hội VIII của Đảng, quan điểm này
được xác định: “Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo
đức...”.
Như vậy, tăng cường pháp chế XHCN là một đòi hỏi khách quan của quá trình
quản lý và lãnh đạo. Nó trở thành nguyên tắc hiến định của xã hội ta được quy định
tại Điều 12, Hiến pháp 1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. Do
đó, pháp chế XHCN là một khái niệm rất quan trọng trong tổ chức của bộ máy nhà
nước, trong hoạt động của mỗi chủ thể, công dân. kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay,
các nghị quyết của Đảng thường xuyên, liên tục đề cập đến vấn đề này. Hiến pháp
với tính chất là đạo luật cao nhất của nhà nước đã thể chế hóa quan điểm nêu trên của
Đảng, càng chứng tỏ pháp chế XHCN rất cần thiết, không thể thiếu trong đời sống xã
hội nước ta.
Những nguyên tắc của pháp chế XHCN:
Một là, tính thống nhất. Nội dung cơ bản: nhận thức, hiểu và áp dụng pháp luật
phải thống nhất trong phạm vi cả nước. V.I.Lê-nin viết: “Pháp chế không thể là pháp
chế của tỉnh Caluga hoặc tỉnh Ca-dan được mà phải là pháp chế duy nhất cho toàn
nước Nga và cho cả toàn thể Liên bang các nước cộng hòa Xô-viết nữa”. Nguyên tắc
pháp chế nhằm xóa bỏ tư tưởng cục bộ, địa phương, làm cho  các địa phương liên hệ,
phát triển, hồi sinh, hợp tác. Tính thống nhất đòi hỏi sự sáng tạo, song trong khuôn
khổ pháp luật. Ví dụ: ngày làm việc 8 tiếng, song không cứ phải thống nhất làm việc
từ 7 giờ, mà tùy vào điều kiện của  địa phương, đơn vị công tác.
Hai là, pháp chế và tính hợp lý. Trong môi trường pháp luật, tính hợp lý được
biểu hiện là sự phù hợp với luật, đối với các mục đích đặt ra, các chủ thể lựa chọn
phương án tối ưu về việc thực hiện pháp luật. Cơ sở của tính hợp lý của pháp luật là
sự phản ánh đúng đắn trong pháp luật các đòi hỏi của sự phát triển xã hội. Nếu pháp
luật quy định đúng đắn ý chí của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, các giá trị
xã hội, thì chắc chắn pháp luật là hợp lý.
Ba là, không có ngoại lệ. Nội dung của nguyên tắc này là khi pháp luật đã ban
hành, ai cũng phải thực hiện, nếu vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý theo pháp luật.
V.I.Lê-nin viết: “Tính nghiêm minh của pháp luật hoàn toàn không phải ở chỗ hình
phạt đó phải nặng, mà ở chỗ phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt”.
Bốn là, pháp chế XHCN gắn liền với dân chủ. Dưới chế độ dân chủ, pháp luật
thừa nhận mọi công dân đều có quyền bình đẳng trong việc tham gia quản lý và tham
gia công việc nhà nước. Chủ nghĩa xã hội và dân chủ gắn bó với nhau. Bản chất của
chủ nghĩa xã hội là dân chủ, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội là ở đó. Chủ nghĩa xã
hội không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ và dân chủ không thể thực
hiện được đầy đủ, mở rộng nếu không thể hiện bằng hệ thống pháp luật XHCN.
V.I.Lê-nin viết: “phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát
triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn...”. Dân chủ là chế độ
chính trị của nhà nước XHCN với sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân lao
động vào công việc nhà nước. Dân chủ có mối quan hệ không tách rời với pháp chế
XHCN. Không thể có dân chủ chân chính bên ngoài pháp chế XHCN. Ngược lại,
trạng thái pháp chế lại phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện dân chủ XHCN trong đời
sống nhà nước và xã hội. Dân chủ là một trong những tiền đề bảo đảm của pháp chế 
xã hội chủ nghĩa.
Năm là, mối quan hệ giữa pháp chế và văn hoá. V.I.Lê-nin coi đây là điều kiện
quan trọng để thực hiện pháp chế XHCN. Người viết: “Nếu chúng ta không áp dụng
cho bằng được điều kiện cơ bản ấy để thiết lập pháp chế thống nhất trong toàn Liên
bang, thì không thể nào nói đến vấn đề bảo vệ và xây dựng bất cứ một nền văn hoá
nào được”. Trình độ văn hoá của nhân dân lao động và những cá nhân có trách nhiệm
càng cao thì việc thực hiện pháp luật càng tự giác và thống nhất, ngược lại, sự tăng
cường pháp chế lại mở ra khả năng lớn để phát triển văn hoá XHCN.
Nguyên tắc pháp chế chi phối nhiều lĩnh vực khác nhau của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, để
tăng cường Pháp chế XHCH trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN
Việt Nam cần phải:
- Tăng cường xây dựng và hoàn thiện hệ thống PL theo hướng đồng bộ,
thống nhất, hợp lý (bao gồm sửa đổi, bổ sung & xây dựng mới). Đây là cơ sở pháp lý
hết sức cần thiết để thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Tổ chức thực hiện PL thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả; khuyến khích
sự linh hoạt, sáng tạo đồng thời chống các biểu hiện tuỳ tiện, lợi
dụng sự sáng tạo.
- Phát hiện kịp thời & xử lý công bằng, nghiêm minh các vi phạm PL.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, giám sát của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hoạt động nói trên.

Như vậy. nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy
nhà nước xã hôi chủ nghĩa phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để và chính xác. Nhà nước XHCN là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, pháp luật là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Do đó,
tuân thủ pháp luật là đồi hỏi bắt buộc đối với nhà nước. Mặt khác việc thực hiện
nguyên tắc này cũng xẽ góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước một cách
hữu hiệu, ngăn chặn tình trạng tha hóa quyền lực nhà nước, xâm phạm các quyền, lợi
ích hợp pháp của nhân dân. Ở khía cạnh khác, việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế sẽ
tạo ra sự thống nhất, đồng bộ, tránh sự chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong quá
trình tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
Câu 20: Trình bày khái niệm về các hình thức thực hiện pháp luật, phân tích
các đặc điểm áp dụng PL.
Thực hiện PL là 1 quá trình hoạt động mang tính ý thức có mục đích, có chủ định
của con người để làm cho các QPPL đi vào cuộc sống trở thành những hoạt động
thực tế của các chủ thể PL.
* Các hình thức THPL
Các QPPL rất đa dạng, phong phú, nên cách thức thực hiện cũng rất khác nhau,
căn cứ vào các tính chất của các hoạt động THPL, mà khoa học pháp lý chia thành
các hình thức THPL sau:
Thứ nhất, tuân thủ PL là hình thức THPL mà trong đó các chủ thể tự mình kiềm
chế không tiến hành những hoạt động mà PL ngăn cấm. VD: theo luật giao thông
đường bộ quy định: tất cả phương diện giao thông khi gặp đèn đỏ phải dừng lại, 1
người lái xe đến ngã tư gặp đèn đỏ anh ta dừng xe lại.
Tuân thủ PL có 2 đặc điểm: các chủ thể kiềm chế không hành động trái PL, không
làm những điều mà PL cấm, chưa nảy sinh QHPL.
Thứ hai, thi hành PL là hình thức thực hiện PL mà trong đó các chủ thể tích cực
thực hiện những nghĩa vụ của mình do PL quy định. VD: luật thuế sử dụng đất quy
định: người sử dụng đất phải có nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất tích cực thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất.
Thứ ba, sử dụng PL là 1 hình thức thực hiện PL mà trong đó các chủ thể tích cực,
chủ động thực hiện các quyền của mình theo quy định của PL. VD: Luật tố cáo năm
2011 có quy định công dân có quyền tố cáo. Một công dân tích cực, chủ động thực
hiện quyền tố cáo của mình đ/v hành vi tổ chức sử dụng chất ma túy của kẻ vi phạm
PL thì hành vi này là hoạt động sử dụng PL.
Thứ tư, áp dụng PL là 1 hình thức thực hiện PL mà trong đó, NN thông qua các cơ
quan NN có thẩm quyền hoặc các tổ chức, cá nhân được NN trao quyền để ra 1 QĐ
cá biệt làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt 1 QHPL.
Chẳng hạn UBND quận H căn cứ vào Luật XD ra QĐ áp dụng PL phá dỡ công
trình XD nhà không phép của ông Nguyễn Văn A.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, nhưng đây là một hình
thức thực hiện PL rất đặc thù, bởi vì chỉ có ADPL mới làm cho PL được thực hiện
triệt để trong thực tế cuộc sống, do ADPL có sự can thiệp của NN, NN bắt buộc các
chủ thể phải thực hiện đúng các quy định của PL. (ra quyết định thu hồi đất, xử lý vi
phạm HC, … thì người nhận QĐ phải nghiêm túc thực hiện). Thiếu hình thức ADPL
thì nhiều QPPL không thể trở thành hiện thực trong thực tế đời sống xã hội vì nếu
thiếu sự tác động, can thiệp của NN thì các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các QPPL.
Áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đặc cơ bản sau đây:
- Một là, áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm
quyền tiến hành. Pháp luật quy định các cơ quan nhà nước được quyền áp dụng một
số lại VB QPPL nhất định trong những trường hợp nhất định. Bên cạnh đó, PL cũng
quy định trao quyền cho một số cá nhân, tổ chức có quyền áp dụng pháp luật trong
phạm vị thẩm quyền. Như vậy so với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng
pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. (ví dự về quyền áp
dụng PL hình sự để xét xử các đối tượng phạm tội của TA, UBND xử lý VP hành
chính, CA giao thông xủ lý VP HC trong LV giao thông đường bộ, ….)
- Hai là, áp dụng pháp luật là một dạng hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng
pháp luật theo ý chí đơn phương không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng.
Việc thực hiện các quy định trong VB ADPL được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp
cưỡng chế NN. (ví dụ: không đội mũ BH > CSGT phạt 150k, không thương lượng,
…)
- Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục chặt chẽ do
pháp luật qui định. Thí dụ: việc áp dụng Luật Hình sự để giải quyết một vụ án hình sự
phải tuân thủ Luật Tố tụng hình sự với những qui định rất chặt chẽ, đòi hỏi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải
tuân thủ nghiêm ngặt các qui định có tính thủ tục đó.
- Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi vì áp dụng pháp
luật là quá trình vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để giải quyết các vụ
việc cụ thể. Điều đó đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải vận dụng
cái chung phù hợp với cái riêng rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Để làm điều đó
người áp dụng pháp luật không thể máy móc, rập khuôn mà đòi hỏi phải có ý thức
pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, kinh nghiệm cuộc sống phong phú.
Kết qủa áp dụng pháp luật chủ yếu được thể hiện bằng các văn bản áp dụng pháp
luật. Văn bản này có các đặc điểm sau:
- Văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ
chức xã hội được trao quyền mới có quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước.
- Văn bản áp dụng pháp luật chỉ đích danh tên các cá nhân, tổ chức cụ thể trong
những trường hợp xác định, chỉ áp dụng một lần.
- Văn bản áp dụng pháp luật phải căn cứ và dựa vào văn bản qui phạm pháp luật
và phải phù hợp với chúng. Nếu không căn cứ và phù hợp với văn bản qui phạm pháp
luật, văn bản áp dụng pháp luật sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ.
- Văn bản áp dụng pháp luật thường thể hiện dưới các hình thức như: bản án,
quyết định, lệnh.
Việc áp dụng pháp luật phải trải qua các giai đoạn từ việc xác định những tình tiết
thực tế khách quan của vụ việc, tìm kiếm và phân tích quy phạm pháp luật thích ứng
với vụ việc đó đến ra quyết định giải quyết vụ việc và tổ chức, kiểm tra thực hiện
quyết định ấy trên thực tế.
Câu 21, Khái niệm chức năng của nhà nước XHCN. Trình bày chức năng
tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước XHCN Việt Nam.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của giai cấp
vô sản và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cách mạng mỗi
nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau cho nên sự ra đời của các nhà nước
xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới cũng có những đặc điểm
khác nhau. Vì thế, mỗi nước cần phải chọn cho mình những phương pháp và hình
thức nhà nước thích hợp.
Khái niệm chức năng NNXHCN.
Khái niệm: Chức năng của NNXHCN là những phương diện hoạt động chủ
yếu của NN, thể hiện bản chất của NNXHCN, được quy định bởi thực tế khách quan
của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế, bảo đảm cho NN thực
hiện được các nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng.
1.1. Phân loại chức năng của NNXHCN.
Lý luận chung về NN và pháp luật: căn cứ vào phạm vi tác động của các
phương diện hoạt động của NN để phân chia các chức năng của NN thành: Chức
năng đối nội và chức năng đối ngoại.
* Các chức năng đối nội bao gồm:
1/ Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
2/ Chức năng thực hiện, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công
dân.
3/ Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.
4/ Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
5/ Chức năng tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục.
6/ Chức năng xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội.
* Các chức năng đối ngoại gồm:
1/ Chức năng bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2/ Chức năng củng cố và tăng cường tình hữu nghị và sự hợp tác truyền thống
với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, đồng thời mở rộng quan hệ với
các nước khác, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau.
3/ Chức năng ủng hộ phong trào tiến bộ trên thế giới, tích cực đấu tranh vì hoà
bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ XH.
Trình bày chức năng tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước XHCN Việt
Nam.
Tổ chức quản lý kinh tế, xét đến cùng, là chức năng quan trọng hàng đầu của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đối với nước ta, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
bắt đầu từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ thì chức năng tổ chức, quản
lý kinh tế của Nhà nước càng đặc biệt quan trọng và cũng hết sức khó khăn, phức tạp.
Tổ chức và quản lý kinh tế là vấn đề mới mẻ đối với Nhà nước ta. Hơn nữa, việc tổ
chức và quản lý một nền kinh tế nhiều thành phần, trong khi trình độ của lực lượng
sản xuất còn thấp, lại vừa bảo đảm yêu cầu quốc phòng, vừa bảo đảm ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân là một vấn đề không đơn giản.
Tổng kết kinh nghiệm quản lý kinh tế những năm trước đây, nhất là bài học
kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế từ khi có đường lối đổi mới của Đại hội VI, đến
nay Đảng ta đã nêu những định hướng lớn về phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng
sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; phát huy mạnh mẽ
vai trò then chốt của khoa học và công nghệ; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác
đầu tư, kinh tế đối ngoại.
Thực hiện tốt chức năng tổ chức và quản lý kinh tế sẽ tạo cơ sở vật chất, bảo
đảm thực hiện thắng lợi các chức năng khác của Nhà nước và suy đến cùng là yếu tố
quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Câu 22: Nêu khái niệm giáo dục pháp luật và trình bày các biện pháp tăng
cường giáo dục pháp luật ở Việt Nam hiện nay:
Trả lời:
Giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức của chủ thể pháp luật,
tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật,
tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Các biện pháp tăng cường giáo dục pháp luật
Hiện nay, công tác giáo dục pháp luật bên cạnh những thành tựu đat được, vẫn
còn những bất cập hạn chế, nên ý thức pháp luật của một số cán bộ, công chức và
công dân không cao dẫn đến vi phạm pháp luật. Để tăng cường công tác giáo dục
pháp luật cần triển khai một số biện pháp sau:
Thứ nhất, thu hút sự tham gia của quần chúng nhân dân vào hoạt động quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, qua đó để tăng cường giáo dục pháp luật. Đây là biện pháp
có ý nghĩa giáo dục pháp luật mạnh mẽ nhất, vì quản lý nhà nước, quản lý xã hội là
thực tiễn thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Thông qua hoạt động này sẽ hình
thành tri thức pháp luật, niềm tin đối với pháp luật và góp phần tạo cho công dân thói
quen xử xự theo yêu cầu của pháp luật.
Thứ hai, tăng cường giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xây dựng và ban
hành pháp luật. Đây là một biện pháp rất quan trọng bởi vì các tổ chức, các cá nhân
khi tham gia xây dựng, đóng góp ý kiến của mình cho các văn bản quy phạm pháp
luật dự thảo thì đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng về các vấn đề pháp luật
mà qua đó ý thức pháp luật không ngừng được nâng cao. Ngoài ra khi được thường
xuyên tiếp xúc với hoạt động xây dựng pháp luật thì ý thức pháp luật của họ sẽ được
củng cố và phát triển. Vì vậy cần phải công khai hóa hoạt động xây dựng pháp luật và
động viên mọi công dân, tổ chức tham gia vào hoạt động xây dựng phát luật.
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giải thích pháp luật qua
phương tiện thông tin đại chúng. Đây là biện pháp rất ưu việt, vì nó có ưu thế về mặt
không gian, thời gian, kịp thời và liên tục, đưa pháp luật đến tất cả các đối tượng
trong xã hội, làm cho mọi người hiểu sâu sắc pháp luật, thống nhất nhận thức trên cơ
sở đó nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao chất lượng các bài viết, các chuyên đề về
pháp luật, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật cho đội
ngũ phóng viên, biên tập viên và cộng tác viên.
Thứ tư, tăng cường công tác giảng dạy và học tập các môn của khoa học quản
lý như: tăng cường số tiết của môn luật trong các trường đại học và trung học, như
Đại học Luật Hà nội; khoa luật – đại học quốc gia, hệ thống các trường chính trị, hệ
thống các trường trung cấp, các trường phổ thông trung học.. Vì biện pháp này sẽ
chuyển tải được một lượng kiến thức pháp luật cho các học sinh, sinh viên đang theo
học tại các trường này, làm cho họ hiểu được cả chiều rộng, chiều sâu của pháp luật.
Đây là một biện pháp của tính chiến lược để nâng cao ý thức pháp luật, bởi đội ngũ
học sinh, sinh viên hiện nay rất đông đảo và là những cán bộ tương lai của đất nước,
Thứ năm, tăng cường mở rộng các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày, các lớp
tập huấn về pháp luật cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế, đặc biệt đội ngũ cán bộ quản lý xã phường, thị trấn. Đồng thời tổ chức các
buổi họp báo về pháp luật cho nhân dân tại các xã, phường thị trấn thông qua đó mà
tuyên truyền, phổ biến pháp luật nâng cao ý thức pháp luật cho tất cả mọi người.
Thứ sáu, chú trọng biên soạn, in và phát hành rộng rãi các tài liệu sách báo
pháp luật như hệ thống văn bản pháp luật, hỏi và đáp pháp luật, cũng như các ấn
phẩm, các đề cương, tài liệu pháp luật để phổ biến tuyên truyền pháp luật, đây là một
hình thức ưu việt vừa đáp ứng được cả chiều rộng lẫn chiều sâu, vừa giúp người dân
hiểu cặn kẽ pháp luật.
Thứ bảy, đổi mới và tăng cường công tác hòa giải các vụ việc tranh chấp ở xã,
phường, thị trấn. Bởi thông qua việc hòa giải mà các cán bộ hòa giải đã vận dụng
được các quy định của pháp luật, để thuyết phục phân tích đúng sai, trên cơ sở đó các
hoạt động làm cho người tranh chấp, khiếu kiện hiểu sâu sắc hơn và có thái độ đúng
đắn hơn đối với pháp luật, từ đó mà nâng cao ý thức pháp luật.
Thứ tám, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động
của các cán bộ quản lý nhà nước. Bởi trên cơ sở của các hoạt động quản lý nhà nước
các cán bộ quản lý với phong cách và lề lối làm việc tuân thủ theo pháp luật đã có tác
dụng lớn trong việc giáo dục pháp luật.
Thứ chín, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật, đây là
một hoạt động mới được ra đời từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường có
sự định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua hoạt động này các luật sư, luật gia đã đưa
pháp luật tới những người có nhu cầu tìm hiểu, phổ biến giảng giải cho họ, nhờ đó
mà ý thức pháp luật của họ được nâng cao. Mở rộng dịch vụ tư vấn, hiện nay các
quan hệ pháp luật trở lên phức tạp, do đó nhu cầu tư vấn ngày càng tăng, trong thời
gian tới cần mở rộng dịch vụ tư vấn rộng khắp trên các tỉnh, thành, các địa phương
nâng cao chất lượng tư vấn pháp luật. Đặc biệt chú trọng mở rộng tư vấn cho người
nghèo, cho các vùng sâu, vùng xa để cho mọi người có nhu cầu tìm hiểu pháp luật
được đáp ứng, chú trọng tăng cường việc tư vấn pháp luật thông qua các trung tâm tư
vấn pháp luật, thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức
pháp luật cho tất cả mọi người.
Thứ mười, tăng cường hoạt động xét xử các vụ án tại tòa án, bởi trong quá
trình hoạt động xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân, đại diện viện kiểm sát, người
bào chữa, luật sư đã giải thích các quy định của pháp luật cho những người tham gia
tố tụng và những người có mặt tại phiên tòa hiểu biết pháp luật và thông qua đó thực
hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho họ, vì vậy trong xét xử phải nghiêm
minh, đúng pháp luật mới thực hiện được việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục
pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật.
Câu 23: Nêu khái niệm cải cách hành chính, trình bày phương hướng xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hành chính ở
Việt Nam?
1.1. Khái niệm
Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính5 được hiểu là một quá trình lâu dài và
liên tục nhằm nâng cao hiệu suất tổ chức, cải tiến chế độ và phương thức hành chính
cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong phạm vi quản lý của một
tổ chức hay một hệ thống tổ chức. Theo nghĩa này, cải cách hành chính là những thay
đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách căn bản các bộ phận, các khâu
trong tổ chức và hoạt động quản lý như: lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức bộ máy,
công tác cán bộ, quản lý tài chính, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra, thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp, cải cách hành chính (của nhà nước hay cải cách hành chính
nhà nước) có thể hiểu như là một quá trình thay đổi hệ thống hành pháp của bộ máy
nhà nước nhằm nâng cao lực và hiệu quả quản lý nhà nước, cải tiến tổ chức, chế độ
và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới
trong nền hành chính nhà nước, có liên quan đến cải cách các lĩnh vực quản lý khác
nhau của bộ máy nhà nước. Theo quan điểm của Liên hiệp quốc (1971) thì cải cách
hành chính là những nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản trong
hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc thay đổi các
phương thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành hành chính nhà
nước: thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý.
Theo các tài liệu hiện có ở nước ta, và căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ
8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có thể định nghĩa cải
cách hành chính ở nước ta là “trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hoá xã hội chủ nghĩa Việt nam”, bao gồm những thay đổi có
chủ định nhằm hoàn thiện: thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của bộ máy hành chính các cấp; nền công vụ và đội ngũ công chức hành chính
để nâng cao năng lực, hiêu lực và hiệu quá hoạt động của hành chính nhà nước phục
vụ nhân dân.
Cải cách thể chế, Cải cách thủ tục hành chính, Cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước, Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, Cải cách tài chính công, Hiện đại hóa hành chính
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
- Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu
hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có
bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân
thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
- Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức
danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công
chức lãnh đạo, quản lý;
- Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc
làm;

5
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên
chức;
- Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức khác nhau;
- Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương và các quy
định về chế độ phụ cấp ngoài lương. Đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức,
viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên
chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
- Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công
chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
- Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của
cán bộ, công chức, viên chức.
Câu 24: Phân tích vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế và
xã hội?
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật có các quan hệ chặt chẽ như: Pháp luật và kinh tế, Pháp luật và
chính trị, Pháp luật và nhà nước, Pháp luật và các quy phạm xã hội khác Đó là các
quy phạm đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm của các tổ chức xã hội, quy phạm
pháp luật..
2.2.1. Các mối quan hệ của pháp luật
2.2.1.1. Pháp luật và kinh tế
Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế được biểu hiện dưới hai khía cạnh:
Một là, pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội
- Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật.
- Tính chất của các quan hệ kinh tế, cơ chế kinh tế quyết định tính chất của các
quan hệ pháp luật, mức độ và phương pháp điều chỉnh pháp luật.
- Các tổ chức và thiết chế pháp lý chịu ảnh hưởng quyết định từ chế độ kinh tế.
Hai là, mặc dù ra đời từ các điều kiện và tiền đề kinh tế nhưng pháp luật không
phản ánh một cách thụ động các quan hệ kinh tế, mà còn có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại đối với kinh tế. Điều đó được thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:
- Nếu pháp luật được xây dựng phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội thì
sẽ tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, đến cách tổ chức và vận hành toàn
bộ nền kinh tế cũng như cơ cấu bên trong của nền kinh tế một cách có hiệu quả...
- Nếu pháp luật được xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội
thì nó kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế hoặc một trong các yếu tố hợp
thành của hệ thống kinh tế...
2.2.1.2. Pháp luật và chính trị
Mối liên hệ giữa pháp luật và chính trị thể hiện tập trung mối liên hệ giữa
đường lối, chính sách của đảng cầm quyền với pháp luật của nhà nước. Đường lối
chính trị của đảng cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng, tuyên truyền, giáo
dục pháp luật. Pháp luật thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng thành ý chí
chung, ý chí của nhà nước. Ngoài ra, pháp luật còn chịu ảnh hưởng nhất định ở
đường lối chính trị của các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội.
2.2.1.3. Pháp luật và nhà nước
Pháp luật và nhà nước là hai bộ phận của kiến trúc thượng tầng, luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cả hai hiện tượng này đều chung nguồn gốc ra đời và phát
triển. Trong mối quan hệ này, nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính
trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở của pháp
luật. Còn pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và luôn
phản ánh quan điểm, đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước, bảo
đảm cho quyền lực đó được thực hiện trong xã hội. Với ý nghĩa đó, nhà nước không
thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật chỉ phát
sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước.
2.2.1.4. Pháp luật và các quy phạm xã hội khác
Pháp luật có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác. Trong lịch sử
hình thành và phát triển của mình, loài người đã dùng nhiều quy phạm xã hội để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Đó là các quy phạm đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm
của các tổ chức xã hội, quy phạm pháp luật, v.v...
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế đã
có không ít những quan niệm không đúng về vai trò của pháp luật hoặc là hạ thấp đến
mức quản lý xã hội không cần luật, hoặc là quá đề cao vai trò của nó. Đó là những
quan niệm phi lịch sử và sai lầm về khoa học. Ở Việt Nam, vai trò của pháp luật đã
được ghi nhận tại Điều 12 Hiến pháp 1992 là: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Vai trò to lớn của pháp
luật được thể hiện ở những khía cạnh: Vai trò của pháp luật đối với kinh tế; Vai trò
của pháp luật đối với xã hội; . Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị, Vai
trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng, trong đó vai trò của pháp luật đối với
kinh tế, xã hội được thể hiện cụ thể như sau:
Vai trò của pháp luật đối với kinh tế
Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lý bình
đẳng đối với chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các "khung" hay còn gọi là các
"hành lang pháp lý" để các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế hoạt động. Mặt khác, với
tư cách là chủ thể quản lý, nhà nước dựa vào các chuẩn mực pháp lý để điều khiển
hoạt động sản xuất – kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi trường
thuận lợi, tin cậy và chính thức cho sản xuất – kinh doanh hoạt động có hiệu quả.
Pháp luật xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia hoạt động kinh tế. Đồng thời, pháp luật củng cố và bảo vệ
những nguyên tắc vốn có của nền kinh tế thị trường như: tính quy định của lợi ích,
nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản xuất, bảo đảm tôn trọng sự cạnh tranh, cạnh
tranh lành mạnh, tính trách nhiệm cao của người sản xuất – kinh doanh... Ngoài ra,
pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế tốt nhất đối với các bên tham gia
hoạt động kinh tế trong trường hợp xảy ra tranh chấp kinh tế, vi phạm hợp đồng kinh
tế...
Vai trò của pháp luật đối với xã hội
Là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật trước hết là một
trong những yếu tố bảo đảm và bảo vệ sự ổn định trật tự của xã hội. Một mặt, pháp
luật ghi nhận và thể chế hóa quyền con người, quyền công dân và bảo đảm về mặt
pháp lý cho các quyền đó được thực hiện. Mặt khác, pháp luật trở thành phương tiện
để các thành viên của xã hội có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài
ra, các vấn đề như phúc lợi xã hội, an toàn tính mạng, tài sản, danh dự và nhân
phẩm, tự do, bình đẳng và công bằng... đều gắn liền với sự điều chỉnh của pháp luật.
Vì vậy, pháp luật là phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại và ổn định của xã
hội. Đồng thời, xã hội cũng là cơ sở cho sự tồn tại của pháp luật.

You might also like