You are on page 1of 9

Bài 4: BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

VÀ SỰ VẬN HÀNH BỘ MÁY Ở VIỆT NAM

Mỗi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển đều có bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
tương ứng. Sự phát triển, sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc khá nhiều vào bộ máy quản lý nhà nước
về kinh tế, bởi phần lớn các “trục trặc”, các khó khăn, yếu kém trong quản lý nói chung đều bắt nguồn từ
tính không hoàn thiện của bộ máy quản lý (1). Với nước ta, trong bối cảnh vừa tạo lập, xây dựng, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa vận hành nền kinh tế đó theo cơ chế thị trường thì
“tư duy và cách ứng xử” mới trong xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế một cách có cơ sở khoa
học, thiết thực, hiệu quả là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa to lớn trên nhiều phương diện.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1.1. Khái niệm bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế là một chỉnh thể các bộ phận trong cơ cấu tổ chức quyền lực
nhà nước, có chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau, có quan hệ, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau,
được bố trí thành cấp và khâu để thực hiện chức năng nhất định của quản lý nhà nước về kinh tế nhằm
đạt mục tiêu đã đặt ra.
Trong khái niệm bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trên đây, cần rõ những nội dung, yếu tố sau:
+ Chỉnh thể các bộ phận hợp thành bộ máy: Số lượng các bộ phận của bộ máy quản lý vừa đủ,
không thừa, không thiếu xét theo cả quan hệ dọc và quan hệ ngang.
+ Chức năng quản lý: Chức năng quản lý là những hoạt động tất yếu, nảy sinh và là kết quả của
phân công lao động trong quá trình quản lý, được xác định cho từng bộ phận của bộ máy quản lý nói
chung, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng.
+ Các quyền hạn, nhiệm vụ: Quyền hạn, nhiệm vụ quản lý được xác định tương ứng cho từng bộ
phận trong bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế.
Quyền hạn luôn gắn với mỗi chủ thể nhất định, có thể theo cấp, có thể theo khâu của bộ máy quản
lý nhà nước về kinh tế.
Quyền hạn của chủ thể quản lý là hệ thống các quy phạm pháp luật về hành vi tạo khả năng thực
hiện các chức năng, các nhiệm vụ quản lý đã được xác định.
Quyền hạn của chủ thể quản lý có liên quan chặt chẽ với trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ quản
lý được giao. Quyền hạn lớn mà trách nhiệm nhỏ dễ tạo khả năng cho bệnh độc đoán hành chính, duy ý
chí, chủ quan và những quyết định quản lý thiếu thận trọng. Ngược lại, nhiệm vụ to lớn với trách nhiệm
nặng nề, quan trọng mà quyền hạn nhỏ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của bộ máy quản lý.
Quyền hạn và nhiệm vụ mỗi chủ thể, mỗi bộ phận của bộ máy quản lý phải được phân định một
cách hợp lý theo trình độ khác nhau của các cấp quản lý.
+ Quan hệ ràng buộc, phụ thuộc nhau: Mỗi bộ phận có tính độc lập tương đối, nhưng không tách
rời, không đối lập nhau, ngược lại, là tiền đề cho nhau.
+ Cấp quản lý: Cấp quản lý thể hiện là quan hệ dọc, giữa cấp trên, cấp dưới. Mỗi cấp là một tập
hợp gồm nhiều bộ phận.
Quan hệ theo cấp là biểu hiện quan hệ giữa quyền lực và sự phục tùng, tuân thủ. Quan hệ cấp lấy
phục tùng làm tiền đề.
+ Khâu Quản lý: Khâu quản lý là tập hợp các bộ phận của cùng một cấp quản lý, các bộ phận là
ngang quyền, bình đẳng; do đó, quan hệ giữa các khâu là hợp tác với nhau trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được giao.
Quan hệ giữa các cấp, khâu của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế: phải đảm bảo vừa phục tùng,
tuân thủ, vừa hợp tác chặt chẽ trên cơ sở chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ. Ngược lại, hoặc là bộ máy quản

1
lý nhà nước về kinh tế bị rơi vào trạng thái rối loạn, hoặc chí ít sẽ không có hiệu quả, hiệu lực hạn chế,
cản trở tác động tích cực của bộ máy đối với mọi sự phát triển.
1.2 Đặc điểm của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
1.2.1 Đặc điểm chung của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
- Đặc điểm về kinh tế: Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế nắm và chi phối các nguồn lực kinh tế .
Các nguồn lực này bao gồm:
Nguồn lực tiền tệ, tài chính: Ngân sách nhà nước; giá trị các cổ phần của nhà nước tại các công
ty cổ phần trong và ngoài nước;...
Nguồn lực vật chất như thiết bị, máy móc, phương tiện...trong các doanh nghiệp nhà nước, dự
trữ quốc gia,...
Nguồn lực tài nguyên: Đất đai, rừng, biển, khoáng sản,...
Nói một cách khái quát, đây là bộ máy quản lý có sức mạnh vật chất to lớn.
- Đặc điểm về tổ chức: Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế thuộc “Kiến trúc thượng tầng”
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế là một phân hệ của hệ thống cơ quan nhà nước vừa thuộc
“Kiến trúc thượng tầng”, vừa có quyền lực, lại nắm thực lực to lớn. Do đó, nó tác động tới cơ sở hạ tầng
có thể theo nhiều hướng khác nhau với kết quả khác nhau.
- Đặc điểm về hoạt động: Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế hoạt động bằng quyền lực công,
thông qua quyền lực công
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật và bằng các văn bản qui phạm pháp luật, bằng thể
chế, chính sách có tính pháp lý với sức mạnh hiệu lực tương ứng. Quản lý nhà nước về kinh tế không phải
là ngoại lệ.
Điều đó đòi hỏi cơ quan quản lý có chức năng, thẩm quyền phải hoạt động dựa trên hệ thống pháp
luật, văn bản pháp lý, các chính sách...phù hợp, đúng đắn, được thực hiện nghiêm minh, đảm bảo quản lý
nhà nước nói chung, trong lĩnh vực kinh tế nói riêng.
- Tiềm ẩn xu hướng quan liêu hóa
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế do có quyền lực lớn, nắm thực lực lớn và sức mạnh chi phối
nên dễ có nguy cơ quan liêu hóa. Đặc biệt dễ xảy ra tình trạng quan liêu khi quyền lực tập trung cao độ,
thái quá ở cấp trên.
Tùy theo bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế và các nhà quản lý của bộ máy đó mà khối lượng
nguồn lực và sức mạnh chi phối các nguồn lực đó khác nhau. Về nguyên tắc, cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế cấp cao, cấp trên vừa có quyền lực lớn hơn, vừa nắm và chi phối nguồn lực lớn hơn, mạnh hơn.
1.2.2 Đặc điểm bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt Nam
- Thứ nhất, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế nằm trong bộ máy nhà nước nói chung: Ở cấp TW
có các ủy ban như ủy ban pháp luật, các ban kinh tế của Quốc hội, các bộ kinh tế; ở cấp địa phương có
ban kinh tế của Hội đồng nhân dân và các sở chuyên ngành kinh tế,...). Một số bộ hoặc tương đương
chuyên ngành kinh tế (ở TW), Sở hoặc tương đương chuyên ngành kinh tế (ở địa phương) có bộ máy độc
lập tương đối của nó, còn lại là các bộ phận thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô nằm trong bộ máy
quản lý của nhà nước. Đó là: các vụ tài chính của các bộ, ban, ngành ở cấp TW; Các phòng tài chính của
các sở ở địa phương (tỉnh, thành trực thuộc TW),...nằm trong bộ máy quản lý nhà nước chuyên ngành
tương ứng.
Thứ hai, dù cũng là ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng chỉ độc lập tương đối, tính
thống nhất trong điều hành bộ máy là phổ biến, cơ bản, thể hiện rõ Nhà nước ta là của dân, do dân, vì dân,
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt
Nam cũng như vậy.

2
Thứ ba, nền kinh tế nước ta dựa trên nền tảng sở hữu công như đất đai, rừng, mỏ, tài sản cố định,
các doanh nghiệp nhà nước,...Do đó bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế với tư cách đại diện chủ sở hữu
có quyền lực chi phối mạnh, khối lượng nguồn lực kinh tế to lớn của quốc gia, ngành, lãnh thổ, địa
phương. Nguy cơ thất thoát, lãng phí lớn là điều rất đáng chú trọng.
Vì vậy hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế quốc dân hoạt động đủ
mạnh, nghiêm minh, có hiệu lực, hiệu quả, khắc phục được tập trung quan liêu, lãng phí, tham ô, thất
thoát là tiền đề, điều kiện tồn tại, phát triển bền vững của từng đơn vị, từng ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
1.3 Yêu cầu cơ bản đối với bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
Một bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao phải đảm bảo yêu cầu
cơ bản sau:
- Thứ nhất, số cấp và khâu hợp lý
Số khâu, cấp không quá ít, vì khi khối lượng công việc lớn sẽ không dẫn tới tình trạng “quá tải”
ảnh hưởng tới kết quả, hiệu quả hoạt động của bộ máy.
Không quá nhiều cấp, khâu, bởi dễ dẫn tới lãng phí. Về mặt tổ chức, nhiều cấp, nhiều khâu dẫn tới
kém hiệu quả trong vận hành của bộ máy, bởi chi phí hoạt động lớn, thông tin dễ có nguy cơ sai lệch,
chậm trễ.
- Thứ hai, xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ mỗi cấp, khâu. Đảm bảo rõ quan hệ dọc
(theo cấp), quan hệ ngang (theo khâu) để vừa tránh trùng lặp, chồng chéo, tránh bỏ trống không có cấp,
khâu nào đảm nhận chức năng, nhiệm vụ quản lý nào đó của bộ máy. Một bộ máy quá nhiều cấp, khâu sẽ
là một khó khăn lớn trong việc vận hành cũng như trong xác định đúng đắn chức năng, thẩm quyền, nhiệm
vụ giữa chúng.
- Thứ ba, thiết thực, hiệu quả:
Yêu cầu này đặt ra trên cả hai mặt:
Một mặt, hiệu quả trong xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế: Chi phí kinh tế, thời gian
xây dựng hình thành bộ máy ít tốn kém và được thực tế xã hội – kinh tế chấp nhận.
Mặt khác, hiệu quả trong vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế: Chi phí hoạt động của
bộ máy ít nhưng kết quả đem lại là to lớn, kịp thời trên nhiều mặt.
Ở đây cần nhìn nhận hiệu quả cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; hiệu quả cả về đối nội, đối
ngoại, an ninh, quốc phòng; hiệu quả cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Thứ tư, bảo đảm đủ ổn định, linh hoạt cần thiết:
Nền kinh tế quốc dân luôn vận động, không ngừng biến đổi. Trong điều kiện khoa học, công nghệ
hiện đại, tác động mạnh mẽ, có sự biến đổi nền kinh tế ngày càng lớn cả về chiều rộng lẫn trình độ và cơ
cấu nền kinh tế. Vì vậy, bộ máy quản lý phải đủ ổn định là cần nhưng chưa đủ để đáp ứng những biến đổi
như trên. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế còn phải đảm bảo sự linh hoạt cần thiết để thích ứng và vận
hành hiệu quả phù hợp với điều kiện mới.
1.4 Vai trò, ý nghĩa của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế đúng đắn, khách quan có vai trò sau:
- Sử dụng hữu hiệu các nguồn lực cho phát triển. Thực tiễn có nhiều minh chứng đã cho thấy: Một số
quốc gia khó khăn về tự nhiên và môi trường, tài nguyên nghèo, nhưng có một bộ máy quản lý với đội ngũ
công chức giỏi giang, thông thạo và trong sạch đã góp phần quyết định sự phát triển của quốc gia đó. Ở
châu Á, Nhật Bản, Singapore là hai trong số điển hình trên thế giới có bộ máy quản lý tốt, hiệu quả.
- Duy trì, dẫn dắt các hoạt động kinh tế phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đảng cầm
quyền và của nhà nước.

3
Bộ máy quản lý của nhiều quốc gia thể hiện rất rõ điều này. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
của Việt Nam không phải là ngoại lệ, hơn nữa thể hiện rõ, đậm nét, bảo đảm dẫn dắt, định hướng phát
triển kinh tế, xã hội,... theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn.
- Bảo đảm các hoạt động kinh tế tuân thủ theo pháp luật, thiết thực, hiệu quả.
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, với chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của mình, ở bất kỳ cấp
nào đều có sứ mệnh định hướng, dẫn dắt các hoạt động kinh tế của các tổ chức kinh tế, xã hội, các cá nhân
bằng pháp luật, bằng các thể chế, chính sách, quy định có tính pháp lý trên cơ sở chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi cấp và các thông tin cơ bản, quan trọng. Điều đó cho phép quản lý nhà nước về
kinh tế đảm bảo cho các hoạt động kinh tế của các tổ chức, các đơn vị, thiết thực, hữu hiệu trên nhiều mặt,
cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn.
- Phối hợp cùng các ngành, lĩnh vực khác thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước
để ra trong từng thời kỳ nhất định.
Trong hệ thống kinh tế - xã hội, mỗi bộ, ngành có mục tiêu mang tính chuyên ngành riêng. Bộ máy
quản lý nhà nước về kinh tế cũng có mục tiêu của mình, nhưng bộ máy này có sứ mệnh thực hiện mục tiêu
chung là phát triển kinh tế - xã hội. Do đó nó có chức năng nhiệm vụ phối hợp cùng các bộ, ngành, lĩnh
vực khác nhau thực hiện nhiệm vụ của nhà nước đề ra cho mỗi thời kỳ nhất định.
- Thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại một cách thiết thực, hiệu quả. Một mặt có vai trò,
chức năng đối nội, mặt khác đại diện quốc gia, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò, chức năng
đối ngoại trên mặt trận kinh tế: Quan hệ và hợp tác kinh tế trên các lĩnh vực kinh tế khác nhau.
2. BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1 Khái lược lịch sử ra đời và phát triển của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của Việt Nam
2.2.1. Quá trình hình thành bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của Việt Nam
- Cách mạng tháng 8 thành công (1945), nhà nước kiểu mới đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời – Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Việt Nam. Bộ máy nhà nước nói chung, trong đó có bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế hình thành, hoạt động với mục tiêu vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Một số cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế được xác lập, hoạt động: Bộ Ngân khố, Bộ canh nông...Bộ máy quản lý kinh
tế hoạt động trong điều kiện chiến tranh, phục vụ sự nghiệp cách mạng, dân tộc, dân chủ.
- Đến 5/1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế được xác lập và
hoàn thiện phù hợp với nhiệm vụ chiến lược mới vừa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa
đấu tranh, chi viện giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Ở miền Bắc, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế thực hiện điều hành nền kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung cao độ bằng hệ thống mệnh lệnh hành chính, trực tiếp; quan hệ kinh tế bao cấp, xét
duyệt, ban phát, xin – cho.
Với đặc trưng và cơ chế quản lý đó, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế vừa cồng kềnh, nhiều tầng
nấc và kém hiệu quả là điều khó tránh khỏi.
- Từ 1976 đến trước 12/1986
Đất nước thống nhất (4/1975), Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV (1976 - 1980) đã chỉ
ra con đường xây dựng, phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên phạm vi cả nước. Đồng thời,
bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng được xác lập, hoàn thiện phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ mới: Xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đây là thời kỳ Đảng và nhà nước ta đang trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đổi mới nền kinh tế,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là chuyển từ nền kinh tế hiện vật, bao cấp, phi sản xuất hàng hóa
sang nền kinh tế hàng hóa xã hội chủ nghĩa , từ cơ chế quản lý tập trung cao độ bằng lệnh hành chính, tập
trung sang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế vì thế, không thể không đổi mới, hoàn thiện nhằm bảo đảm phù hợp
với nên kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế mới.

4
Do điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ quản lý nên việc tách, nhập, xây dựng hình thành bộ máy mới
của quản lý nhà nước về kinh tế là một tất yếu.
- Từ cuối 1986 đến nay
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra và xác lập mô hình nền kinh tế nước
ta: kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo “cơ chế thị
trường có sự quản lý nhà nước, bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác” (2). Đây là giai
đoạn chuyển đổi căn bản, triệt để về cơ chế quản lý kinh tế, quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, lấy luật
pháp làm căn cứ, cơ sở, đầu tiên trong hoạt động quản lý, khắc phục tình trạng tuyệt đối hóa kế hoạch hóa,
bắt đầu coi trọng đúng mức các chính sách kinh tế, công cụ kinh tế, coi trọng phương pháp kinh tế là chủ
yếu.
Với quan điểm đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
không ngừng được cải cách, hoàn thiện để phù hợp với mô hình nền kinh tế mới – kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.2 Khái quát hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
*) Về tổ chức
Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ
chức hành chính nhà nước, bao gồm:
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp TW có (i) Quốc hội, trong đó có các ủy ban liên
quan trực tiếp tới quản lý nhà nước về kinh tế như: Ủy ban kinh tế, ngân sách của Quốc hội; Ủy ban luật
pháp, ủy ban kinh tế đối ngoại,...(ii) Chính phủ, trong đó có các Bộ kinh tế thuộc chính phủ; các Bộ, ban,
ngành và tương đương thuộc chính phủ, (iii) Cơ quan Tư pháp, có Viện kiểm sát tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp địa phương (tỉnh thành trực thuộc TW), như Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; các sở và tương đương của Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế quận, huyện
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế phường, xã
*) Về hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta:
Những năm gần đây thực hiện chức năng quản lý mang tính tổ hợp, đồng thời xác lập vai trò đòn
xeo của khoa học, công nghệ trong quá trình phát triển đất nước, quá trình sáp nhập hoặc tách bộ máy
quản lý ở cấp trung ương đã được thực hiện. Như việc sáp nhập Bộ Công nghiệp với Bộ Thương mại
thành Bộ Công thương, làm cho quá trình sản xuất gắn với tiêu dùng, xuất khẩu với nhập khẩu của nền
kinh tế với kinh tế khu vực và thế giới trở nên thiết thực, hữu hiệu hơn. Tương tự, việc tách và xác lập Bộ
Khoa học, công nghệ ra khỏi Bộ Khoa học, Tài nguyên và Môi trường đã thực sự hiệu quả hơn đối với
quá trình phát triển cũng như bảo vệ môi trường và tài nguyên đất nước.
2.2 Phân cấp và vận hành bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt Nam
 Quan hệ giữa phân cấp với vận hành bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
- Phân cấp quản lý
Cũng như một số quốc gia trên thế giới, nhất là các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước
đây và đang trong quá trình chuyển đổi hiện nay, vấn đề phân cấp quản lý đặt ra ngày càng bức xúc. Điều
đó bắt nguồn từ quan niệm về mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, thống nhất chỉ huy điều
hành từ một trung tâm ở cấp cao – trung ương.
Tập trung cao độ cả về quyền lực điều hành quản lý và tập trung cao độ cả về nguồn lực của nền
kinh tế. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp trung ương trong nền kinh tế ấy vừa cồng kềnh, vừa xa
rời thực tế và đã rơi vào tình trạng quan liêu hóa. Cấp cơ sở bị động, ỷ lại, thụ động, thiếu sáng tạo. Nền

5
kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ chế kế hoạch hóa tập trung quá chi tiết, trở thành quan liêu hóa đã cản trở
sáng tạo của địa phương, của cơ sở, của các tổ chức kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế trước nhu cầu
bức bách nâng cao đời sống dân sinh.
Vì vậy phân cấp quản lý đã được đặt ra là một đòi hỏi tất yếu cả về tổ chức bộ máy, quyền lực và
sử dụng các nguồn lực.
- Nội dung phân cấp quản lý kinh tế
Nội dung cơ bản của phân cấp quản lý kinh tế nói chung, quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng ở
nước ta đã tiến hành:
Một là, phân cấp quyền hạn, nhiệm vụ cho bộ máy quản lý. Thực chất phân định quyền lực trong
quản lý kinh tế, phân định lại chức năng và thẩm quyền quản lý.
Hai là, phân cấp rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích. Thực chất là đảm bảo công bằng giữa nghĩa vụ
với lợi ích trong quản lý kinh tế, bảo đảm sự tương ứng giữa trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lực với
quyền hạn và lợi ích.
Phân cấp quản lý từ thực tế cho thấy luôn là vấn đề phức tạp, khó khăn bởi xu hướng muốn nắm
quyền lực và thụ hưởng nhiều lợi ích. Vì vậy phân cấp trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
phải quán triệt đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức bộ máy, trong vận hành bộ máy quản
lý nhà nước về kinh tế. Điều đó đòi hỏi phải bảo đảm đúng tập trung thống nhất, nghĩa là những vấn đề cơ
bản, then chốt, có tính chiến lược của cấp dưới do cấp trên (không phải cấp cao) quyết định.
- Phân cấp quản lý gắn với cải cách nền hành chính nhà nước:
Phân cấp và vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế có quan hệ biện chứng, chặt chẽ, là
hai mặt của một vấn đề: Bảo đảm bộ máy quản lý có hiệu lực mạnh, hiệu quả cao, thiết thực.
Phân cấp đúng đắn, thực sự thì bộ máy hợp lý, vận hành thông suốt đảm bảo hữu hiệu cả về luật
pháp, chính sách, hiệu quả kinh tế, xã hội. Ngược lại sẽ xảy ra tình trạng hoặc quan liêu, hoặc rối loạn, cản
trở, phi hiệu quả, giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước, đối với Đảng cầm quyền.
Điều kiện cần và đảm bảo phân cấp quản lý thực sự:
Các nội dung phân cấp phải bảo đảm có căn cứ khoa học, thực tiễn, được thể chế hóa thành các
quy định cụ thể, có cơ chế cũng như chế tài thực hiện và được pháp luật hóa.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BỘ MÁY
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1 Những vấn đề đặt ra đối với bộ máy QLNN về kinh tế ở Việt Nam
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề mới đặt ra hiện
nay và tương lai. Những vấn đề đó chia làm hai loại sau:
- Loại vấn đề thứ nhất: Quản lý nhà nước về kinh tế đối mặt với nền kinh tế mới và cơ chế quản lý
kinh tế mới đang trong quá trình xác lập, hoàn thiện.
Đó là đảm bảo vận hành nền kinh tế thị trường theo cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập và ngày
càng hiện đại. Cụ thể:
Về nền kinh tế: Đây là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Nền kinh
tế mới ở nước ta với tư cách đối tượng quản lý của nhà nước ta, vừa là kinh tế thị trường, vừa đảm bảo
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa tuân theo quy luật thị trường như cạnh tranh, quy luật cung, cầu,
giá cả thị trường, vừa đảm bảo phát triển gắn với tiến bộ, công bằng; bảo đảm tốt an sinh xã hội cho lực
lượng yếu thế trước thị trường. Tóm lại đó là nền kinh tế thị trường chưa có tiền lệ lịch sử mà Việt Nam
đang khai phá, xây dựng và phát triển nó.
Về vận hành nền kinh tế thị trường của Việt Nam: Đây cũng là điều còn nhiều mới mẻ, thậm chí
còn xa lạ, không thể điều hành nền kinh tế chỉ thuần túy bằng mệnh lệnh hành chính, duy ý chí như trước
đây mà phải vận hành theo quy luật thị trường,...hơn nữa phải phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta.

6
Mở cửa với khu vực và thế giới trên “sân chơi chung”, bảo đảm phù hợp luật pháp và thông lệ
quốc tế. Trong lĩnh vực thương mại phải cam kết theo quy định của WTO, như thuế xuất, nhập khẩu hàng
hóa, dịch vụ dần tới 0 – 5%.
Nền kinh tế tiến tới theo xu hướng hiện đại: Kinh tế mạng, kinh tế tri thức...đòi hỏi bộ máy quản lý
phải được hiện đại hóa về cơ sở vật chất với đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế đủ
năng lực, trình độ.
- Loại vấn đề thứ hai: Trực tiếp thuộc về bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Đó là:
+ Một, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế nước ta cần và phải bảo đảm có được một đội ngũ
công chức chuyên ngành kinh tế vừa “thạo việc” vừa “trong sạch”. Một bộ máy gồm những công chức có
chuyên môn giỏi giang, tinh thông nghề nghiệp, nhưng phải bảo đảm có phẩm chất đạo đức trong sáng,
lành mạnh.
+ Hai, phân định và bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng với quản lý của nhà nước và quyền
làm chủ của nhân dân. Đảng cầm quyền lãnh đạo chính quyền, không làm thay, không lạm dụng quyền
lãnh đạo; các cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan quản lý về kinh tế nói riêng thực thi sứ mệnh,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo đúng quy định của pháp luật; Nhân dân được đảm bảo,
được tạo điều kiện đúng đắn, đầy đủ để thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình trong sản xuất kinh
doanh trên mặt trận kinh tế, quản lý kinh tế.
3.2 Phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
Việt Nam hiện nay là nước đang phát triển, thành viên của WTO, đã và đang từng bước hoàn thiện
hệ thống các thể chế phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu tổng quát:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Quản lý kinh tế nói chung, bộ máy quản lý nhà
nước về kinh tế nói riêng ở nước ta không phải là điều xa lạ. Nhưng để phù hợp với vận hành nền kinh tế
thị trường, mở cửa, hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của nước ta có
nhiều vấn đề mới nảy sinh, đòi hỏi phải có nhận thức mới nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về
kinh tế.
3.2.1. Phương hướng cơ bản hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, phù hợp với xu hướng phát triển
của thế giới hiện đại: Phát triển bền vững, xây dựng và phát triển kinh tế tri thức, hội nhập, mở cửa với
khu vực và thế giới ngày càng đầy đủ.
Trong bối cảnh đó, cần và phải lựa chọn, xác định phương hướng hoàn thiện bộ máy QLNN về
kinh tế, sao cho thiết thực, cơ bản, lâu dài.
Phương hướng cơ bản gồm:
- Một, tiếp tục kiện toàn hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, đảm báo tinh gọn, đủ mạnh,
hiệu lực, hiệu quả, phù hợp yêu cầu vận hành nền kinh tế thị trường nước ta.
Đây là phương hướng cơ bản trong việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế và có tính dài
hạn ở nước ta. Yêu cầu đặt ra: bộ máy phải tinh, gọn tức đòi hỏi trình độ cao với cơ cấu bộ máy đủ gọn, từ
đó bộ máy với đủ mạnh, quản lý có hiệu lực và hiệu quả cao trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát triển.
Phương hướng trên đây phải đáp ứng: “Đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
nguồn lực kinh tế” (4) như Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ ra
- Hai, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng hiện đại hóa, quản lý đa ngành.
Đây là phương hướng đảm bảo tính hiện đại, tiên tiến của bộ máy.
Phương hướng cơ bản bày đòi hỏi phải thực hiện “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục
hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân” (5).

7
- Ba, đảm bảo trong sạch và lành mạnh hóa bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, chống tham ô, lãng
phí trong hoạt động quản lý kinh tế.
Với phương hướng này, một mặt cần “hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ, Chính quyền địa phương” (6), mặt khác phải “thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí” (7) mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định.
3.2.2. Giải pháp chủ yếu hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
- Một, tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan tới tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy
quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng (như Luật Tổ chức chính phủ, luật tổ chức HĐND, UBND các cấp;
các luật kinh tế liên quan). Bộ máy quản lý nói chung, quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng vừa phản ánh
sự vận động, phát triển của nền kinh tế, vừa thực hiện quản lý mang tính tổng hợp, chịu sự tác động của
nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau. Vì vậy, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước không chỉ đòi hỏi phải
hoàn thiện luật Tổ chức chính phủ, luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân mà còn phải hoàn
thiện hệ thống luật liên quan khác, như luật Ngân sách nhà nước, luật Thương mại, Luật cán bộ, công
chức,...
- Hai, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa các bộ phận của các cấp,
các khâu thuộc hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường nước ta.
Đây là vấn đề không mới mẻ, nhưng luôn là vấn đề còn nhiều trở ngại, khó khăn trong xây
dựng, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta. Để tháo gỡ, khắc phục hạn chế như đã
thường xảy ra trong thực tế vận hành bộ máy, về nguyên tắc, cần:
+ Xác định có căn cứ khoa học, đảm bảo đúng đắn chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ quản lý
tương ứng với trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của mỗi cấp, mỗi khâu, mỗi bộ phận trong bộ máy quản lý
đó bằng pháp luật, bằng quy định pháp lý chặt chẽ.
+ Xây dựng, xác định chế tài đảm bảo thực thi nghiêm minh trong hoạt động của bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế.
- Ba, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng hiện đại của bộ máy quản lý nhà nước về
kinh tế.
Việc xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo phù hợp với xu hướng phát triển ngày càng hiện đại của
nền kinh tế thị trường nước ta và kinh tế thị trường thế giới. Một mặt xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng mở, tránh tối đa tình trạng lạc hậu vô hình, tránh phải xây dựng
lại từ đầu trước sự tiến bộ không ngừng của công nghệ, mặt khác thực hiện khai thác một cách hiệu quả cơ
sở vật chất đó cho phát triển kinh tế, xã hội,...của nước ta.
- Bốn, xây dựng đội ngũ công chức quản lý kinh tế đảm bảo phẩm chất, đủ năng lực vận hành
có hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế theo yêu cầu kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế.
Từ đòi hỏi tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường hiện đại, của định hướng xã hội chủ
nghĩa nền kinh tế Việt Nam và từ thực trạng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta, cần
từng bước xây dựng, đảm bảo một đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế có tính chuyên nghiệp
cao. Ngắn hạn, tiến hành đào tạo lại, bổ sung kiến thức mới và cần thiết cho đội ngũ công chức đó. Dài
hạn, đào tạo cơ bản kiến thức hiện đại về chuyên ngành, kiến thức liên quan, đảm bảo phù hợp trong vận
hành nền kinh tế hiện đại, mở cửa, hội nhập quốc tế một cách chuyên nghiệp, “thạo việc” và “trong sạch”.
- Năm, xây dựng cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa các bộ phận trong hệ thống bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế của nước ta.
Từ thực tế vận hành bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta cho thấy hiệu lực, hiệu quả
quản lý kinh tế cả cấp kinh tế vĩ mô lẫn kinh tế vi mô, kinh tế ngành và lĩnh vực chưa cao có nguyên nhân
từ sự phối hợp chưa đúng đắn và chặt chẽ với nhau. Điều đó đã diễn ra ngay giữa một số bộ phận của

8
cùng một cấp trong bộ máy quản lý, giữa bộ phận (khâu) của bộ máy này với bộ phận (khâu) của bộ máy
quản lý liên quan, giữa bộ phận (khâu) cấp dưới với bộ phận (khâu) ở cấp trên.
Điều đó cần và phải sớm được khắc phục để bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế vận hành
một cách có hiệu quả, hiệu lực hơn.

CÂU HỎI:
1. Phân tích khái niệm bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế?
2. Phân tích hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta?
3. Phân tích phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế ở nước ta?

You might also like